Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Giúp với ạ
Em cần tìm 1 mở bài chung bằng nhận định văn học có thể dùng cho tất cả bài văn nghị luận văn học của 12 không biết có ai có k ạ
Thêm
  • Like
Reactions: Song Ngư
79
1
1

Song Ngư

Thành Viên
2/10/23
3
3
3,000
Xu
32,846
Em dùng tiêu đề này không gợi cho người đọc tò mò/hứng thú để đọc. Ban đầu mình cũng không để ý nên giờ mới biết bạn cần giúp ^^ Lần sau thì tiêu đề CẦN PHẢI chi tiết, ngắn gọn thì mới dễ thu hút...
 
Kiểm tra giữa kì 2 là bài kiểm tra quan trọng chỉ sau kiểm tra cuối kì. Để chuẩn bị tốt cho bài kiểm tra này, cùng Triều Anh tự ôn tập đề bài sau:

Phần I: Đọc – hiểu (3 điểm)

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:


“Nhiều người cho rằng có tiền là có tất cả. Tiền bạc quả thật có sức mạnh lớn lao. Nhưng tiền bạc không phải là vạn năng.
Nó có thể mua được chiếu giường, nhưng không mua được giấc ngủ.
Nó có thể mua được châu ngọc, nhưng không mua được sắc đẹp
Nó có thể mua được giấy bút, nhưng không mua được ý thơ
Nó có thể mua được nhà cửa, nhưng không mua được gia đình
Nó có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được sự ngon miệng
Nó có thể mua được trò chơi, nhưng không mua được niềm vui
Nó có thể mua được xu nịnh, nhưng không mua được lòng trung thành
Nó có thể mua được cánh hẩu, nhưng không mua được tình bạn
Nó có thể mua được sự phục tùng, nhưng không mua được lòng kính trọng
Nó có thể mua được quyền thế, nhưng không mua được trí tuệ
Nó có thể mua được thể xác, nhưng không mua được tình yêu
Nó có thể mua được vũ khí, nhưng không mua được hòa bình.”
(Theo Thác-cơ-rê, dẫn theo Ngữ văn 11 Nâng cao, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr. 17)​

Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng thao tác lập luận nào?( 0,5 điểm)
Câu 2. Xác định biện pháp tu từ và nêu hiệu quả nghệ thuật của nó. ( 0,5 đ)
Câu 3. Hãy nêu cách hiểu của anh/ chị về một lí lẽ được nêu trong đoạn trích trên. (1,0 điểm)
Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với quan điểm “tiền bạc không phải là vạn năng” không? Vì sao? (1,0 điểm)

Phần II: Làm văn (7,0 điểm )

Câu 1. (2,0 điểm)


Từ nội dung của đoạn trích trên, anh/ chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vai trò và giá trị của đồng tiền đối với con người và xã hội.

Câu 2. (5,0 điểm)

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài miêu tả tâm lí nhân vật Mị sau khi bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí Pá Tra:
“Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa. Là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt”
Và ở đêm tình mùa xuân:
“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo, Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
(Trích Vợ chông APhủ - Tô Hoài)​
Anh/chị hãy phân tích hình ảnh Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này.
ĐÁP ÁN

I. PHẤN ĐỌC – HIỂU (3điểm)

Câu 1


Thao tác lập luận: Bác bỏ

Câu 2

- Phép điệp
- Tác dụng
+ Nhấn mạnh hai mặt của tiền bạc: mua được – không mua được.
+ Tạo nhịp điệu cho câu thơ.

Câu 3 Học sinh có thể chọn một lí lẽ được nêu trong đoạn trích và nêu lên cách hiểu của mình.

- Lí lẽ tiền bạc “có thể mua được chiếu giường, nhưng không mua được giấc ngủ”
- Cách hiểu:
“chiếu giường” là vật dụng (vật chất) để người ta nằm ngủ và người ta có thể dùng tiền để mua, nhưng “giấc ngủ” thì không dùng tiền để mua, bởi nhiều người mặc dù có, “chiếu giường” đầy đủ, sang trọng nhưng vẫn ” mất ngủ” vì buồn phiền, lo lắng, mệt mỏi (tinh thần).

Câu 4 HS có thể đồng tình hoặc phản đối (hoặc vừa đồng tình vừa phản đối) quan niệm “tiền bạc không phải là vạn năng”.

– Nếu đồng tình: Tiền bạc có thể mua được các giá trị về vật chất nhưng không mua được các giá trị tinh thần.
– Nếu phản đối: Nếu không có tiền thì ngay cả những nhu cầu vật chất tối thiểu con người cũng không thể chi trả.

II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)


* Giới thiệu vấn đề nghị luận - vai trò và giá trị của đồng tiền đối với con người và xã hội
* Giải thích:
- Đồng tiền là phương tiện trong trao đổi mua bán, giúp con người cải thiện đời sống vật chất...
* Bàn luận vấn đề:
- Đồng tiền có vai trò đối với cuộc sống của con người và xã hội
+ Mặt tốt của đồng tiền: giúp con người có thể thay đổi điều kiện sống của bản thân, giúp người sở hữu nó thực hiện nhiều dự định.(Dẫn chứng)
+ Mặt xấu của đồng tiền: biến con người trở thành "nô lệ" (Dẫn chứng) (Mở rộng )
- Ảnh hưởng của đồng tiền đối với con người và xã hội.​
+ Ảnh hưởng tích cực.
+ Ảnh hưởng tiêu cực.
- Cách sử dụng đồng tiền chuẩn mực, đem lại lợi ích thiết thực cho người dùng.
* Đánh giá chung: vai trò của đồng tiền đối với con người và xã hội.

Câu 2: ( 5 điểm )

a. Mở bài


- Giới thiệu nhà văn Tô Hoài (sở trường, phong cách).
- Giới thiệu chung về nhân vật Mị: Vẻ đẹp, tài năng, phẩm chất ở hai đoạn văn có trong đề bài.

b. Thân bài

*Chi tiết 1

- Vị trí: Nằm phần đấu tác phẩm, khi Mị về làm dâu gạt nợ vì món nợ từ đời bố mẹ Mị. Mị đã từng phản kháng nhưng ở lâu trong cái khồ Mị dường như mất hết ý niệm phản kháng.
- Khi về làm dâu gạt nợ, Mị chấp nhận làm con dâu “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, ý thức phản kháng bị vùi lấp đi.
- Nỗi khổ về thể xác: Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa…, mất hết ý niệm về thời gian, cuộc sống, Mị trở thành công cụ lao động.
- Nỗi khổ về tinh thần: Bị giam trong căn buồng tối mịt, chôn vùi tuổi trẻ, hạnh phúc…

* Chi tiết 2
- Vị trí: Nằm đoạn giữa tác phẩm- Khi đêm tình mùa xuân đến ngoại cảnh, tiếng sáo, hơi rượu làm sức sống tiềm tác của Mị trỗi dậy.
- Mị như người mộng dụ thoát ra khỏi hoàn cảnh để tìm lại chính mình; Lấy ống mỡ xắn một miếng thấp đèn lên cho căn buồng sáng như thắp sáng lại cuộc đời của mình.
- Mị muốn đi chơi: ý thức và khát vọng thức dậy.
=> Mị thức sự hồi sinh khát vọng được sống, hạnh phúc sau chuỗi ngày dài là lô lệ.

* Giá trị hai chi tiết
- Cho thấy một cô Mị khát vọng sống mãnh liệt.
- Góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: Phơi bày giá trị hiện thực xã hội miền núi lúc bấy giờ; bày tỏ niềm xót thương cảm thông cho cuộc đời những con người bất hạnh. Lên án những thế lực đã chà đạp lên quyền sống con người; Tin tưởng vào sức sống tiềm tàng trong mỗi con người luôn mãnh liệt.
- Nghệ thuật: Khắc họa tính cánh nhân vật, miêu tả tâm lí sâu sắc, xây dựng tình huống chi tiết đặc sắc.​
c. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp hình tượng nhân vật Mị qua 2 đoạn văn.
- Tác động của nhân vật Mị đối với người đọc.
...........................................​
Chúc các em học tốt!
Thêm
883
0
0
“Hương rừng Cà Mau” là tập truyện xuất sắc của nhà văn Sơn Nam. Hầu hết các truyện trong "Hương rừng Cà Mau" đều miêu tả chân thật và sinh động bức tranh thiên nhiên độc đáo của vùng đất mũi Cà Mau, những con người Nam Bộ cần cù, dũng cảm, tài trí, lạc quan, yêu đời. Và bao trùm lên trang viết là tấm lòng tha thiết yêu quê hương, đất nước, yêu nhân dân mình - phẩm chất tinh thần sâu sắc nhất của con người Việt Nam. Thấy được lối kể chuyện ngắn gọn, đậm chất huyền thoại. Ngôn ngữ văn xuôi mang sắc thái Nam Bộ. "Bắt sấu rừng U Minh" là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của nhà ăn Sơn Nam. Cùng tham khảo bài soạn dưới đây:

I. Tìm hiểu tác giả


- Tiểu sử: Tên thật Phạm Minh Tài, sinh năm 1926 tại Kiên Giang. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945 và hoạt động văn nghệ từ thời kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1975 ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Uỷ viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam.
- Tác phẩm: (SGK) Hương rừng Cà Mau (tạp truyện)

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Xuất xứ


Được rút ra từ tập "Hương rừng Cà Mau".

2. Bố cục

3 phần

- Phần1: Đầu đến "... ngoài Huế"
- Phần 2: "Sáng hôm sau... đi bộ về sau".
- Phần 3: Phần còn lại.

II. Đọc hiểu văn bản

a. Hình ảnh thiên nhiên và con người vùng đất U Minh Hạ


- Thiên nhiên vùng đất U Minh Hạ khá độc đáo và phong phú.
- Con người: họ là những con người gan góc mưu trí, cần cù và sức sống mãnh liệt, giàu tình nghĩa...

b. Nhân vật Năm Hên

- Tính cách và tài nghệ của Năm Hên gây ấn tượng sâu sắc với người đọc.
+ Là người giàu tình thương người, rất mộc mạc, khiêm nhường và cũng rất mưu trí, gan góc, can trường.
+ Là "người thợ già chuyên bắt cá sâu ở Kiên Giang đạo".
- Ý nghĩa bài hát của Năm Hên
+ Tưởng nhớ hương hồn những người dã bị cá sấu bắt, trong đó có người anh ruột của ông.
+ Bài hát gợi nhiều cảm nghĩ về một vùng đất khắc nghiệt..., đồng thời cũng cho ta thấy tấm lòng của Năm Hên.

c. Nghệ thuật

- Kể chuyện: mộc mạc, tự nhiên, gọn gàng, sáng rõ, chỉ cần một vài nét đơn sơ cảnh vật và con người hiện lên rõ nét.
- Sử dụng ngôn ngữ, mang đậm phong vị Nam Bộ.​
...................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
504
0
0
Nhân vật giao tiếp là bài học tiếng Việt quan trọng trong chương trình Ngữ văn 12. Ở tiết 1, học sinh đã nắm được các kiến thức cơ bản về nhân vật giao tiếp. Ở tiết 2, Cùng Triều Anh thực hiện các bài tập 1,2,3 sách giáo khoa.

Xem thêm
Nhân vật giao tiếp - tiết 1

III. Luyện tập

1. Bài tập 1


- Nhân vật giao tiếp:
+ Anh Mịch: Kẻ dưới - nạn nhân bị bắt đi xem đá bóng​
=>Lời nói: Van xin, nhún nhường.
+ Ông Lí: Bề trên - thừa lệnh quan bắt người đi xem đá bóng
=> Lời nói: Hách dịch, quát nạt

2. Bài tập 2

a. Nhân vật giao tiếp


- Viên đội xếp Tây
- Đám đông
- Quan toàn quyền Pháp

b. Mối quan hệ giữa đặc điểm vị thế xã hội, giới tính văn hoá của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của các nhân vật:

- Chú bé: trẻ con - chú ý đến cái mũ, nói rất ngộ nghĩnh.
- Chị con gái: phụ nữ - chú ý cách ăn mặc, khen với vẻ thích thú.
- Anh sinh viên: đang học nên chú ý đến việc diễn thuyết nói như một dự đoán chắc chắn.
- Bác culi xe: chú ý đôi ủng.
- Nhà nho: chú ý đến tướng mạo, nói bằng câu thành ngữ thâm nho.
=> Kết hợp với ngôn ngữ là những cử chỉ, điệu bộ, cách nói. Điểm chung: châm biếm, mỉa mai.

3. Bài tập 3

a. Quan hệ giữa bà lão - chị Dậu: quan hệ hàng xóm láng giềng, thân tình.
b. Sự tương tác về hành động nói giữa lượt lời của 2 nhân vật giao tiếp: đổi vai luân phiên lượt lời.
c. Nét văn hoá đáng tôn trọng qua lời nói, cách nói của các nhân vật: tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau.​
.................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
440
0
0
Một trong những bài học quan trọng giúp rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học là bài Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi. Cùng Triều Anh tham khảo bài soạn đầy đủ sau:

D868C17B-316C-4FB4-AF7B-1495A45929AB.jpeg


1. Tìm hiểu đề, lập dàn ý

a. Tìm hiểu đề: SGK

b. Lập dàn ý:

Đề 1:

* Mở bài
: Giới thiệu truyện ngắn.

* Thân bài:

- Đặc sắc của kết cấu truyện: Truyện gồm những cảnh khác nhau tưởng như rời rạc nhưng đều tập trung biểu hiện chủ đề: bọn quan lại cầm quyền cưỡng bức dân chúng, thực hiện ý đồ bịp bợm, đen tối.
- Mâu thuẫn và tính chất trào phúng của truyện: mâu thuẫn giữa tinh thần thể dục và cuộc sống khốn khổ, đói rách của nông dân.
- Ngôn ngữ truyện:
+ Ngôn ngữ người kể chuyện: rất ít lời...
+ Ngôn ngữ các nhân vật: tự nhiên, sinh động, thể hiện đúng thân phận và trình độ của họ (dẫn chứng:...)
- Giá trị hiện thực và ý nghĩa phê phán:
+ Nội dung truyện bắt nguồn từ hiện thực xã hội => Giá trị hiện thực sâu sắc
+ Châm biếm, phê phán bằng bút pháp trào phúng.

* Kết bài: Đóng góp của tác phẩm đối với VHHT phê phán, đối với nền VH:

Đề 2:

* Mở bài
: (xem trong SGK)

* Thân bài:

- Khác nhau về từ ngữ:
+ Nguyễn Tuân: sử dụng nhiều từ Hán Việt, từ cổ để dựng lại một vẻ đẹp xưa, một con người tài hoa, khí phách, thiên lương. (dẫn chứng)
+ Vũ Trọng Phụng: ngôn ngữ trào phúng: nhiều từ khẩu ngữ, nhiều cách chơi chữ...(dẫn chứng)
- Khác nhau về giọng văn:
+ “Chữ người tử tù”: cổ kính, trang trọng => ca ngợi, tôn vinh.
+ “Hạnh phúc của một tang gia”: mỉa mai, giễu cợt => phê phán tính chất giả dối, lố lăng đồi baị của xã hội.
- Giải thích: Việc dùng từ, chọn giọng văn phải phù hợp với chủ đề của truyện và thể hiện đúng tư tưởng, tình cảm của tác giả.
* Kết bài: Đánh giá chung

2. Đối tượng, nội dung của bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi.

* Ghi nhớ: (xem SGK)

* Cách lập dàn ý
Đảm bảo bố cục 3 phần:
- Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận.
- Thân bài: Mỗi ý kiến nhận xét về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của đoạn trích hay tác phẩm triển khai thành một luận điểm. Trong từng luận điểm sử dụng các luận cứ (lí lẽ và dẫn chứng) làm sáng tỏ.
- Kết bài: Đánh giá về ý nghĩa, vị trí, vai trò của tác phẩm trong sự nghiệp tác giả, trong giai đoạn văn học, đối với thời đại; vị trí, ý nghĩa của đoạn trích trong toàn tác phẩm, hoặc của vấn đề nghị luận.

* Lưu ý: Các bước tiến hành làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi

+ Đọc kĩ tác phẩm, đoạn trích, nắm chắc nội dung, cốt truyện, các nhân vật, các chi tiết tiêu biểu thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm.
+ Nêu nhận xét, đánh giá về tác phẩm, đoạn trích theo định hướng của đề hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của tác phẩm, đoạn trích.
+ Triển khai các luận cứ phù hợp.
+ Lựa chọn các thao tác lập luận: Ngoài các thao tác thường gặp như giải thích, phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận, … trong bài văn nghị luận về một tá phẩm, đoạn trích văn xuôi rất cần kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự (thuật kể tóm tắt nội dung, cốt truyện, nhân vật, chi tiết,…), miêu tả, thuyết minh.

3. Luyện tập

a. Xác định đề


Yêu cầu nghị luận một tác phẩm: đòn châm biếm đả kích trong truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc.

b. Các ý cần khai thác
- Sáng tạo tình huống: tình huống nhầm lẫn của đôi thanh niên Pháp.
- Tác dụng của tình huống: miêu tả chân dung Khải Định mà không cần y xuất hiện, từ đó làm rõ thực chất những ngày trên đất Pháp của vị vua An Nam này, đồng thời tố cáo cái gọi là “văn minh”, “khai hóa” của thực dân Pháp.​
.............................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
681
0
0
Một bài văn hay dùng làm tư liệu cho các học sinh ôn thi học sinh giỏi, ôn thi học kì 2, ôn thi tốt nghiệp. Cùng Triều Anh tham khảo bài văn nghị luận về hình ảnh người phụ nữ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Chiếc thuyền ngoài xa.

Viết bài văn nghị luận trình bày cảm nhận của anh/chị về hình ảnh người phụ nữ trong văn học Việt Nam qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu).

I. Dàn ý

1. Mở bài


Giới thiệu hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam qua các tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Chiếc thuyền ngoài xa.

2. Thân bài

- Hình ảnh nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.
- Hình ảnh nhân vật thị và nhân vật bà cụ tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
- Hình ảnh nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
- Điểm giống nhau của những người phụ nữ trong các truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Chiếc thuyền ngoài xa.

3. Kết bài

Khẳng định về hình ảnh người phụ nữ trong truyện ngắn của Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Minh Châu.

II. Bài làm của học sinh (st)

Có người đã từng nói rằng: “Tất cả mọi sự bí ẩn của thế gới này đều không thể sánh nổi với bí ẩn của người phụ nữ”. Quả thực, một nửa dân số trên thế giới là phụ nữ, họ đã trở thành một phần quan trọng và đã đi sâu vào từng trang giấy tạo thành những vần thơ mang một vẻ đẹp khác lạ. Trải qua nhiều thế kỉ, người phụ nữ dần trở nên có tiếng nói và được tôn vinh hơn. Nếu ở xã hội cũ, người phụ nữ luôn bị xem thường bởi những hủ tục hà khắc thì giờ đây, ở thời điểm hiện đại, ta dường như dễ bắt gặp được hình ảnh người phụ nữ được xã hội trân quý và tôn trọng hơn rất nhiều. Văn học là những gì xuất phát từ thực tế, lấy cảm hứng từ người thật việc thật và được cảm nhận qua “đôi mắt thơ” của tác giả, từ đó xây dựng nên những tác phẩm vừa mang giá trị nhân đạo, vừa ẩn chứa giá trị hiện thực. Khi nhắc đến những tác phẩm viết về đề tài người phụ nữ thì nền văn học Việt Nam vô cùng đa dạng, và có một số tác phẩm đã in sâu vào trong tư tưởng của người đọc, mà chỉ cần nhắc đến tên nhận vật thôi, ta cũng đủ biết họ là ai và xuất hiện trong những tác phẩm nào. Các nhân vật như Mị (Vợ chồng A Phủ - Tồ Hoài), Thị (Vợ nhặt – Kim Lân), và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) là những nhân vật bước ra từ tác phẩm văn chương nhưng có khả năng thể hiện được rõ hoàn cảnh, nỗi vất vả, và số phận người phụ phải trải qua trong xã hội.

Nhân vật Mị được tác giả Tô Hoài xây dựng dựa trên chuyện thật, việc thật và được viết thành tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đọc từng câu từng chữ mà nhà văn thể hiện, ta có thể thấy được nỗi vất vả mà Mị phải trải qua. Một cô gái xinh đẹp, tài giỏi nhưng phải làm dâu cho nhà Thống lí Pá Tra để trả món nợ mà cha mẹ Mị đã vay nhà Thống lí. Chính gia đình nhà Thống lí và những hũ tục hà khắc ngày xưa là cái còng vô hình, giam hãm cuộc đời và tuổi xuân của Mị trong quyền lực của cường quyền và thần quyền: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, đã có nhiều lần Mị đi đến quyết định ăn lá ngón tự tử nhưng rồi tấm lòng hiếu thảo dâng trào, thương cha, thương cho hoàn cảnh nghèo khổ của gia đình, Mị đành phải sống, sống như kiếp làm trâu, làm ngựa.

Mị sống trong danh phận làm dâu nhà Thống lí, nhưng đã bao giờ Mị thật sự hạnh phúc không ? Chưa, chưa bao giờ Mị sống đúng với danh phận và kiếp làm vợ của A Sử. Mị đau khổ, tuyệt vọng, nhiều đêm Mị khóc, những giọt nước mắt ấy như những tủi thân mà Mị phải chịu. Lần lần, qua mấy năm, Mị sống trong nỗi khổ, lâu dần cũng thành quen “bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, nhưng mà con trâu, con ngựa chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi, còn Mị sống trong cái nhà này chưa bao giờ được nghỉ ngơi, vùi vào việc làm cả đêm cả ngày. Và dẫu cho tết đến xuân về, khi trai gái trong làng được đi chơi xuân, nhưng Mị thì không, A Sử chẳng bao giờ cho Mị đi chơi tết, nhưng trong lòng Mị rất muốn được đi. “Mị trẻ lắm”. Và khi những tiếng sáo mời bạn đi chơi vang lên, Mị như nhớ về quá khứ vui vẻ, hồn nhiên của mình, Mị còn trẻ, Mị cũng muốn đi chơi: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa ở phía trong vách”. Chính những tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân ấy đã làm thay đổi tâm trạng của Mị, làm sống lại nỗi khát vọng tình yêu tự do và thanh xuân của Mị.

Nhưng chẳng điều gì là trọn vẹn cả, khi A Sử quay về, người đàn ông ấy như dập tắt những ánh sáng cuộc đời Mị, khiến Mị một lần nữa tin rằng cuộc đời của mình mãi u tối như chính căn phòng mà Mị đang ở. Chi tiết căn phòng tối là một chi tiết nhỏ nhưng qua đó ra thể thấy được rằng hình ảnh căn phòng tối đen ấy như cuộc đời của Mị vậy, mãi sẽ chẳng thắp sáng lên tia hi vọng. Một màu đen bao trùm lên cái buồng Mị nằm, kín mít, chỉ có chiếc cửa sổ nhỏ bằng cái bàn tay. Căn phòng tối, chật hẹp dường như đối lập hoàn toàn so với không gian rộng lớn, mênh mông của núi rừng bên ngoài. Nhìn vào căn phòng, chẳng ai nghĩ đó là nơi dành cho con dâu nhà Thống lí, thậm chí trông nó còn tệ hơn căn phòng của người ở. Nơi ấy như nhà tù, trói chặt cuộc sống của Mị vào kiếp làm người ở, cùng với đó là nỗi đau thân phận người phụ nữ chìm trong nỗi bế tắc cùng cực. Có thể thấy, từ sâu thẳm trong tiềm thức của Mị vẫn còn mong muốn sống một cuộc sống tự do, chỉ khi nghe tiếng sáo, Mị mới thật sự được sống lại chính mình, nhưng nỗi khát vọng mãnh liệt và hiện thực phũ phàng chính bi kịch ấy đã khiến cho sức sống của Mị càng thêm dâng trào, và dữ dội. Cuộc trỗi dậy tự phát của Mị trong đêm tình mùa xuân là tiền đề để tạo nên những đợt sóng ngầm ào ạt, mãnh liệt hơn.

Trong đêm mùa đông rét buốt của vùng núi Tây Bắc, Mị thức dậy để thổi lửa hơ tay. Những gì xảy ra xung quanh Mị đều biết nhưng không quan tâm, Mị biết rằng A Phủ đã phạm lỗi và đang bị trói đứng, nhưng Mị vẫn thản nhiên như không. Nhưng nhờ có ngọn lửa đêm ấy bùng sáng lên, Mị đã vô tình lé mắt thấy một dòng nước mắt đang lăn dài xuống hai hõm má của A Phủ. Chính giọt nước ấy, khung cảnh trói đứng ấy, đã làm cho Mị nhớ đến bản thân của nhiều năm trước cũng bị trói như thế. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, nhưng không lau được. Chính khoảnh khắc ấy, Mị đã xót xa cho A Phủ và đồng cảm với chính số phận của bản thân, Mị quyết định cắt dây trói để giải thoát cho A Phủ, như giải thoát cho chính mình, và cùng A Phủ rời khỏi sự giam cầm độc ác của gia đình ông Thống lí. Chính lần trỗi dậy này cho ta thấy hành động tự giác của Mị, tự giải cứu và tìm ra con đường sống cho chính mình. Mị đã vô cùng mạnh mẽ khi chạy theo A Phủ, có những hành động phản kháng lại bóng ma thần quyền và cường quyền , từ đó tự tìm kiếm được niềm tự do, hạnh phúc.

Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc có lẽ phần nào biết được rằng cuộc sống của phụ nữ vùng núi xưa phải trải qua muôn vàn những thử thách, bị dồn vào những khuôn khổ của cuộc sống, và họ không thể nào có được hạnh phúc giản đơn như họ mong muốn.

Và khi nạn đói năm 1945 diễn ra, ta một lần nữa chứng kiến được hoàn cảnh sống khắc nghiệt của con người, đặc biệt là cuộc sống của người phụ nữ lúc bấy giờ. Và tác phẩm “ Vợ nhặt” của Kim Lân như tái hiện lại tình thế lúc bấy giờ, sự đói khổ đã làm mờ đi lí trí. Thị trong tác phẩm là người phụ nữ đói nghèo, là “vợ nhặt” đúng nghĩa của Tràng. Khi nghe qua cái danh phận làm ta đủ cảm thấy sự rẻ rúng, tầm thường. nếu từ “vợ” có ý nghĩa cao cả, là một niềm hạnh phúc, tự hào, thì từ “nhặt” lại là hành động nhặt lại thứ gì đó bỏ đi. Chính cách dùng từ độc đáo này của tác giả, làm cho người đọc thấy rằng, con người đang chìm trong hoàn cảnh khốn khổ của những năm 1945. Từ những lời bông đùa, những lời trêu nghẹo đầu môi của Tràng, nào ngờ Thị lại theo Tràng về làm dâu. Thoạt nhìn, ta thấy đây là tình huống éo le, một câu chuyện độc đáo, bất ngờ, nhưng chính đây là mở đầu cho chuỗi những sự kiện diễn ra sau đó, mà khi đọc ta sẽ thầy rằng tác giả đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc vô cùng.

Thị - một nhân vật điển hình cho con người trong nạn đói, cái khổ cái nghèo toát lên con người Thị qua quần áo, ngoại hình, “ khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, áo quần rách như tổ đỉa, cái nón cà tàng che nửa khuôn mặt, cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”. Chính cái nghèo ấy đã làm thay đổi một con người từ vẻ đẹp bên ngoài lẫn đến tính cách bên trong, và vì thế mà khi nghe Tràng nói câu nói bông đùa “đằng ấy có về với tớ…cùng về”, thì Thị tức khắc đồng ý đi theo Tràng. Có lẽ, từ sâu trong tâm hồn của thị là mong muốn có một gia đình, một chỗ dựa và trên hết là bữa cơm không cần quá xa hoa nhưng hãy trọn vẹn, vì thế mà Thị chọn theo Tràng để tìm thấy hạnh phúc trong số phận bạc bẽo của mình.

Sau khi về làm vợ Tràng, thị dường như trở thành một con người hoàn toàn khác so với những gì mà Tràng được chứng kiến trước đó. Dường như khi có một gia đình, thị mới thực sự sống đúng với phẩm chất và con người của Thị. Thị khép nép, ngoan hiền và ý tứ hơn trước kia rất nhiều. Chính nạn đói đã làm cho con người vứt bỏ thể diện, để có thể kiếm được miếng ăn, con người chấp nhận đánh rơi liêm sĩ để được tồn tại. Nhưng thực tế, sâu trong thâm tâm, con người vẫn tồn tại những phẩm chất, một phần lương thiện, một phần đáng thương không gì có thể đánh mất. Cũng như thị vậy, vốn tính cách của nàng là một người phụ nữ khuôn phép, đúng mực nhưng hoàn cảnh cơ cực đã làm cho Thị mất dần đi những dáng vẻ ấy, biến Thị thành một con người bị hoàn cảnh chi phối.

Bên cạnh một nàng Thị vì cuộc sống nghèo khổ mà chấp nhận theo Tràng về làm vợ, thì trong tác phẩm “ Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng. Bà cụ mang một vẻ đẹp lương thiện, tấm lòng bao dung, đùm bọc người nghèo khổ với khát khao được hạnh phúcCũng như bao người dân lúc bấy giờ, cuộc sống của bà cụ Tứ cũng vất vả và đói khổ, nhưng trên hết bà cũng vẫn là một người mẹ hết mực thương yêu và lo lắng cho con cái. Cụ biết rằng cuộc sống đói khổ này khó khăn hơn những gì ta tưởng nên khi Thị theo Tràng ra mắt bà cụ, thì cụ đã hiểu rồi, cụ hiểu rằng chúng nó đã nên duyên vợ chồng, nhưng cụ thì vô cùng đau xót, “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà vừa thương con mình, vừa lo cho tương lai của nó, rồi bà lão nhìn thị và nghĩ: “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Đây vừa là nỗi lòng và tâm sự của người mẹ nhưng không tài nào có thể nói ra được. Bà nhìn đứa con dâu mới của bà, lòng đầy thương xót, bà cũng hiểu cho nỗi khổ tâm của Thị. Và bà chỉ mong vợ chồng chúng nó hạnh phúc: “vợ chồng chúng mày bảo ban nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?”. Sau tất cả, tình yêu thương của bà vẫn đong đầy, bà vẫn đọng viên và mong con cái của bà có thể vượt qua cái nghèo, sống cuộc sống tốt hơn bà.

Bà cụ Tứ trong câu chuyện là một người mẹ dạt dào tình yêu thương, thậm chí là người “ vợ nhặt” mà con trai dắt về bà cũng dành một phần tình cảm. Bà lạc quan và tin tưởng rằng tương lai phía trước luôn tốt đẹp và rực sáng hơn bây giờ. Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, ta thấy được hình ảnh của hai người phụ nữ cực khổ. Một bên là Thị - người con gái nghèo, luôn cố gắng tìm kiếm con đường hạnh phúc, một bên là bà cụ Tứ - với một trái tim hết lòng yêu thương con cái, và tấm lòng tương trợ những người dân nghèo trong cảnh nạn đói cơ cực. Cả hai nhân vật đều là những nạn nhân của nạn đói, nhưng họ vẫn sống, vẫn mạnh mẽ vượt qua những năm tháng khó khăn cực khổ, và luôn hướng đến những điều tích cực trong tương lai. Nhân vật thị và bà cụ đã đem đến những góc nhìn mới cho người đọc về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ.

Và khi đến với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, ta lại một lần nữa bắt gặp hình ảnh người phụ nữ vất vả, chịu thương chịu khó vì gia định, một lòng muốn giữ lửa cho hạnh phúc vợ chồng. Chiếc thuyền khi ở đằng xa mang một vẻ đẹp đơn giản nhưng hoàn mĩ, chiếc thuyền như hòa vào dòng nước tạo nên một bức tranh về thiên nhiên xinh đẹp. Nhưng đó cũng chỉ là hình ảnh ta bắt gặp khi ở đằng xa thôi, khi đến gần, câu chuyện ấy càng thay đổi.

Mở đầu cho tác phẩm là hình ảnh nhân vật Phùng cầm chiếc máy ảnh của mình và anh đang tìm kiếm một khung cảnh độc nhất, đẹp nhất và anh háo hức muốn có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý. Mà đối với phùng - nhà nghệ sĩ có đôi mắt "nhà nghề" nhìn thấy trước mắt là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ và anh nghĩ " có lẽ suốt cuộc đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi thấy được một cảnh "đắt" trời cho như vậy". Trước mắt anh là cảnh một con thuyền với “mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi". Và người nghệ sĩ không bao giờ được thoả mãn, luôn lấy nghệ thuật là điểm sáng để theo đuổi, chính vì thế mà nghệ sĩ nhiếp ảnh đã không muốn bỏ sót bất cứ hình ảnh đắt giá nào. Phùng đã bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh nhận ra những niềm vui và hạnh phúc ấy đến từ cái tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.

Nhưng hiện thực không phải những gì sẵn có và dễ tìm kiếm, mà nó còn chứa đựng những góc khuất, những bí ẩn chưa ai có thể khám phá. Từ xa, chiếc thuyền có lẽ được hoà vào với thiên nhiên, mang vẻ đẹp lãng mạn, nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ anh Phùng đang đứng. Bước xuống từ con thuyền là một người đàn ông và một người đàn bà. Người đàn bà mang vẻ ngoài thô kệch, xấu xí, mặt chất chứa đầy sự mệt mỏi bước ra khỏi con thuyền, theo sau là người chồng bạo lực, vũ phu, liên tiếp dùng thắt lưng đánh chị. Nhưng điều bất ngờ là chị không hề có một hành động phản kháng hay chống cự, dường như chị đã quá quen với cảnh tượng như vậy. Xót xa vô cùng, khi chứng kiến một người chồng đánh vợ, nhưng càng đau khổ hơn là người vợ hầu như chấp nhận những tổn thương ấy chỉ vì một lòng muốn giữ gìn tổ ấm nhỏ bé của mình. Bởi vì chị nghĩ rằng "... đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa... Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình ". Cái quan trọng trong cuộc đời là hạnh phúc, nên vợ nên chồng, cùng nhau xây dựng tổ ấm và nuôi nấng những đứa con. Và chị nghĩ đến cảnh một mình gồng gánh nuôi con, lo sợ sẽ không chu toàn được tất cả, chị cần một người đàn ông để có thể tin tưởng và dựa dẫm, vả lại "trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái vui vẻ, hoà thuận", chính những suy nghĩ như vậy, nên chị cố gắng sống trong cảnh đánh đập và không thề kêu than dẫu một lời.

Có thể thấy, trong cuộc sống luôn tồn tại những sự thật phũ phàng, bên cạnh mặt sáng tích cực, những điều mà con người luôn muốn phơi bày, thì đâu đó vẫn có những góc khuất của xã hội, những điều bí ẩn mà chưa ai khám phá được. Cùng một con thuyền nhưng ở mỗi thời điểm và góc độ sẽ nhìn thấy những diễn biến khác nhau. Nếu từ xa, ta thấy con thuyền tạo nên một bức tranh sống động, lãng mạn mà nhà nhiếp ảnh không hề muốn bỏ lỡ, thì khi thuyền đến gần, những câu chuyện trên con thuyền ấy được phơi bay, làm cho người đọc có những cảm xúc khác biệt. Và thông qua tác phẩm "chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu ta thấy được giá trị hiện thực mà nhà văn đã thể hiện, tác giả đã phơi bày cuộc sống khó khăn của người lao động cực khổ, miêu tả chân thực những nỗi khổ mà người đàn bà hàng chài phải trải qua. Người phụ nữ chấp nhận người chồng vũ phu, bạo lực và chính cái đói cái khổ đã khiến cho người phụ nữ hết sức cam chịu vượt qua nghịch cảnh của số phận, ánh lên tấm lòng nhân hậu, vị tha, cam chịu, chấp nhận đau thương để nuôi nấng con cái của mình.

Nhìn lại ba tác phẩm trên, các nhân vật như Mị, Thị, bà cụ Tứ, người đàn bà hàng chài, tuy có hoàn cảnh sống khác nhau, có những nội tâm riêng nhưng chung quy các nhân vật đều có điểm chung là khổ, cực, và phải chịu đựng những nỗi khắc nghiệt của cuộc sống. Ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ, trải qua khoảng thời gian dài bị giam cầm trong cường quyền và thần quyền, thì Mị cũng đã tự tay giải thoát cho bản thân, rời khỏi Hồng Ngài và đến với Cách mạng, tìm được con đường tự do và hạnh phúc của mình. Còn đối với các nhân vật như Thị và cụ Tứ cũng tìm ra cho mình những nhận thức mới, hướng sức sống mãnh liệt của mình đến với lá cờ đỏ của Tổ quốc đang bay phấp phới, và trao một niềm tin mãnh liệt đến tương lai, mong chờ điều tốt đẹp sẽ đến với cuộc sống. Tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu đã đi sâu vào đời tư nhân vật, tìm tòi và phát hiện ra vẻ đẹp của của lao động nghèo bình thường, và hình ảnh người đàn bà hàng chài đã gửi gắm một thông điệp cao cả đến với người đọc về phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ và tấm lòng bao dung, vị tha chấp nhận mọi sự tủi thân để giữ lấy hạnh phúc gia đình.

Và dẫu ở thời kỉ nào hay nơi nào thì người phụ nữ đều mang trong mình những tâm sự và nỗi khổ tâm, nỗi buồn thầm kín mà không ai có thể chạm đến song tất cả đều ánh lên vẻ đẹp của một tâm hồn cam chịu, vị tha, hướng đến hạnh phúc cuộc đời. Các tác phẩm như "Vợ nhặt", "Vợ chồng A Phủ", "Chiếc thuyền ngoài xa"..., đã phơi bày hiện thực xã hội với những tư tưởng tình cảm đầy ắp tính nhân văn, hướng con người đến với đấu tranh thân phận, tìm ra lối thoát cho chính mình.​
..............................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
723
0
0
I. Tìm hiểu chung.

1. Tác giả


- Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một tác giả đa tài nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất.

- Ông được coi là một hiện tượng văn học đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

2. Tác phẩm.

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch gây tiếng vang rất đặc biệt trên sân khấu nước nhà những năm đầu của công cuộc đổi mới. Ở vở kịch này, tác giả đã dựa vào một câu chuyện dân gian để xây dựng một tình huống kịch độc đáo: Trương Ba là một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con, quý cháu và giỏi cờ. Do thái độ làm việc tắc trách của hai vị quan trên Thiên đình là Nam Tào và Bắc Đẩu, ông đang khoẻ mạnh bỗng chết đột ngột. Vì quý trọng tài cờ của ông và cũng để sửa sai suất của Nam Tào và Bắc Đẩu, Đế Thích – một ông tiên cao cờ - đã xin để hoá phép cho hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt (vừa chết được một ngày). Mọi điều trớ trêu, bất hạnh xảy ra từ đó. Vì hồn Trương Ba phải núp trong thân xác anh hàng thịt mà sống, nên nó có nguy cơ bị thân xác lấn át. Hồn Trương Ba phải trải qua những cuộc đấu tranh gây gắt với chính thể xác mà nó trú ngụ vì thể xác đầy ham muốn bản năng, sau ba tháng nó trở nên xa lạ, đáng sợ trong con mắt những người ruột thịt, bạn bè và tự chán mình. Cuối cùng, hồn Trương Ba quyết định xin Đế Thích cho anh hàng thịt, cu Tị (bạn của cái Gái – cháu nội ông) được sống lại, còn bản thân ông thì chết hẳn (không nhập vào xác của ai nữa) để bảo toàn sự thanh sạch của mình.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, là một trong những vở kịch xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Tuy dựa vào cốt truyện dân gian nhưng nhà viết kịch đã có những thay đổi cơ bản về sự phát triển của cốt truyện. Nếu ở truyện dân gian, hồn Trương Ba sau khi nhập vào thân xác anh hàng thịt được sống bình thường, hạnh phúc thì trái lại, ở kịch bản này, Trương Ba luôn đau khổ, bị giày vò bởi tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Đây là một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc.

- Về cốt truyện, Hồn Trương Ba, da hàng thịt gồm bảy cảnh và đoạn kết, nội dung tóm tắt mỗi cảnh như sau:

+ Cảnh I: Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích trên Thiên đình. Nam Tào và Bắc Đẩu đang ngồi đánh dấu tên người phải chết trong ngày. Đế Thích tỏ ý tìm người cao cờ dưới hạ giới để cùng đánh cho vui. Vì vội đi ngay để dự tiệc nên Nam Tào gạch bừa phải tên Trương Ba.

+ Cảnh II: Trương Ba đang làm vườn và chuyện trò với vợ, con trai, con dâu và cháu gái nội thì Trưởng Hoạt đến rủ đánh cờ. Đế Thích xuất hiện giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Đế Thích cho Trương Ba một bó hương, bảo rằng: Nếu cần Đế Thích giúp gì thì thắp một nén; muốn lên Thiên đình gặp Đế Thích thì thắp ba nén. Sau đó, Trương Ba thấy trong người khó ở rồi chết.

+ Cảnh III: Cảnh Thiên đình. Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trương Ba lên (bà vô tình châm ba nén hương thắp cho chồng). Bà đòi trả mạng sống cho chồng. Nhân có anh hàng thịt vừa chết được một ngày, Nam Tào, Bắc Đẩu bèn cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt để sống lại.

+ Cảnh IV: Nhà người hàng thịt. Thân nhân người hàng thịt đang ngồi bên quan tài bỗng thấy anh hàng thịt đội nắp quan tài đứng dậy, đòi về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba đến người nhà hàng thịt xem phép màu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu mọi người hoảng sợ, hoang mang, ngỡ ngàng nhưng hồn Trương Ba nói được những điều chỉ ông Trương Ba xưa mới nói được nên Trưởng Hoạt nhận bạn, vợ Trương Ba nhận chồng. Hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt về nhà Trương Ba.

+ Cảnh V: Hồn Trương Ba và người vợ. Việc hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt đã gây ra bao nhiêu phiền toái không chỉ cho những người thân trong gia đình Trương Ba. Do anh con trai hối lộ nên lí trưởng phải xử đến hai lần buộc hồn Trương Ba ban ngày ở nhà Trương Ba, đêm phải về nhà anh hàng thịt, sau đó – nửa đêm mới được về nhà.

+ Cảnh VI: Nhà người hàng thịt. Trời đã về khuya. Sau khi giúp chị hàng thịt mổ lợn, chuẩn bị ra về thì chị ta mời hồn Trương Ba uống rượu, ở lại qua đêm. Hồn Trương Ba định xuôi theo nhưng đấu tranh được với bản thân, gỡ tay chị ta trở về nhà mình.

+ Cảnh VII: Nhà Trương Ba. Trong xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ và tự giày vò mình để đi đến quyết định cuối cùng.

+ Đoạn kết: Hồn Trương Ba nhập vào cây vườn trò chuyện với vợ. Cu Tị và cái Gái ăn na và trồng hạt “cho nó mọc thành cây mới” như ông Trương Ba khi còn sống vẫn khuyên dạy cháu.

- Đoạn trích được học trong SGK là đoạn cuối cùng của vở kịch, diễn tả sự đau khổ, dằn vặt đã phát triển đến đỉnh điểm đề từ đó đi tới quyết định cuối cùng rất cao thượng của hồn Trương Ba: khước từ cuộc sống không phải là mình dù sự sống muôn phần đáng quý.

3. Tóm tắt diễn biến của tình huống kịch trong đoạn trích

Đoạn trích thể hiện xung đột cơ bản của vở kịch (giữa linh hồn và thể xác) lên đến đỉnh điểm: Sau mấy tháng, hồn ông Trương Ba ngụ trong thân xác anh hàng thịt, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ đối với vợ, con, cháu của mình cũng như bạn bè. Hồn Trương Ba tự thấy chán chính mình. Tình trạng bi kịch này diễn biến qua các bước:

Hồn Trương Ba cảm thấy không thể tiếp tục sống trong tình trạng này nữa, muốn tách khỏi thân xác anh hàng thịt thô lỗ.

Cuộc đối thoại giữa hồn và xác càng khiến hồn Trương Ba đau khổ, tuyệt vọng vì phải chịu sự lấn lướt của thân xác.

Thái độ của những người thân trong gia đình chê trách, xa lánh khiến hồn Trương Ba càng hoang mang, bế tắc để sớm đi đến quyết định giải thoát.

Cuộc gặp gỡ với tiên Đế Thích và quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba là khước từ cuộc sống không phải là mình, chấm dứt tình trạng trớ trêu “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, trả lại thân xác cho anh hàng thịt, xin cho cu Tị được sống.

II. Đọc - hiểu văn bản.

1. Tình cảnh trớ trêu khi hồn Trương Ba ngụ trong thân xác anh hàng thịt


- Con người là một thực thể thống nhất có sự hài hoà giữa tâm hồn và thể xác. Tình huống bi kịch mà nhân vật hồn Trương Ba lâm vào đó là tâm hồn thanh cao của ông phải ẩn trong một thân xác phàm tục của anh hàng thịt. Đoạn trích dựng lên cuộc “đối thoại giữa hồn và xác” tưởng tượng có tính ẩn dụ là đoạn kịch sinh động giàu ý nghĩa triết lí. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt được miêu tả như là cuộc đấu tranh giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa phần bản năng và lí trí trong bản thể mỗi người. Cái “lí lẽ .. thật ti tiện” của xác anh hàng thịt ẩn chứa trong đó một “hạt nhân hợp lí”, một sự thực mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ hàm ý phê phán, đó là “trò chơi tâm hồn” của người đời: “Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết... Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản ... Tâm hồn là thứ lắm sỉ diện !”. tác giả còn mạnh dạn trong cả việc phê phán một quan niệm, một thái độ từng tồn tại trong một thời gian nhất định, cũng từ lời của nhân vật xác anh hàng thịt: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác...”.

Lưu Quang Vũ phê phán sự thoái hoá, tha hoá trong mỗi con người, thái độ thiếu quan tâm đến cuộc sống vật chất thường nhật, chính đáng của con người cũng là để nhằm khẳng định một quan niệm về bản lĩnh hài hoà, về nhu cầu chính đáng của con người trong cuộc sống bình thường.

- Cái “hạt nhân hợp lí” trong lí lẽ của anh hàng thịt mà hồn Trương Ba cho là “thật ti tiện”, trớ trêu thay, như đã nói trên, là tình huống bi kịch mà hồn Trương Ba đang gặp, đang lâm vào. Bởi linh hồn Trương Ba không ăn nhập với thể xác anh hàng thịt nên chỉ mới mấy tháng ngụ trong thân xác lạ mà hồn Trương Ba đã đổi khác. Ông không còn là “ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”, không “còn biết đến ai nữa” – như lời vợ ông trách móc. Cái Gái, cháu nội ông, cũng không còn nhận ra ông vì ông đã trở nên thô lỗ, phũ phàng lúc ông chiết cây cam, ‘bàn tay ... của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, “ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”. Ngay cả cô con dâu ngày trước vốn rất hiểu và thương ông cũng buộc lòng phải nói thật: “...làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia ?”. Chính bản thân hồn Trương Ba sau ba cuộc đối thoại với ba người thân (vợ, cháu nội, con dâu) hé lộ cho người đọc thấy sự quyết tâm của ông là: không khuất phục trước thể xác, không thể “tự đánh mất mình !”.

2. Hồn Trương Ba quyết định giải thoát mình khỏi tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”

- Hành động hồn Trương Ba “đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lấy một nén hương châm lửa, thắp lên”... là hành động đánh dấu một sự chuyển biến có tính bước ngoặt trong tu tưởng của nhân vật này, là đỉnh điểm của xung đột kịch đòi hỏi cần được giải quyết. Bởi thế các lời thoại với tiên Đế Thích vừa biểu lộ nhận thức thấm thía về tình trạng bi hài kịch, vừa chứng tỏ quyết tâm tự giải thoát của nhân vật hồn Trương Ba. Trong các lời thoại của nhân vật này, cần chú ý hai câu sau:

+ “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

+ “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết !”.

Đây cũng là đoạn kịch bộc lộ những quan niệm của Lưu Quang Vũ về sự sống và cái chết, những khao khát của nhà viết kịch để mỗi người được là mình trọn vẹn, được sống cuộc sống của con người với nghĩa đầy đủ nhất của từ này.

- Nhưng hồn Trương Ba đâu có được toại nguyện ngay. Tiên Đế Thích vốn yêu quý Trương Ba vì tài đánh cờ, vẫn muốn hồn Trương Ba “phải sống dù với bất cứ giá nào”. Nhân cái chết của cu Tị, tiên Đế Thích bèn nghĩ ra một cách sẽ cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Hồn Trương Ba lại đứng trước một thử thách – một sự lựa chọn cuối cùng trước lúc đối mặt với cái chết vĩnh viễn: nhập vào xác cu Tị, một cậu bé 10 tuổi, bạn của cái Gái – cháu nội ông, một đứa bé ngoan mà ông cũng rất yêu quý. Hồn Trương Ba quyết không để tiên Đế Thích tái diễn sai lầm một lần nữa. Ông nói với Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chấp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cho cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn...”.

Sự việc cu Tị chế dường như làm cho hành động kịch tiến triển nhanh hơn, đến chỗ “mở nút’. Quyết định dứt khoát qua hành động bẻ gãy cả bó nhang, xin tiên Đế Thích cho cu Tị sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lôgíc: nó được manh nha chuẩn bị từ khi nhân vật tự ý thức được tình trạng bi hài kịch của hoàn cảnh trớ trêu khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nó cần đưa ra giải pháp kịp thời do cái chết của cu Tị. Dựng tả quá trình hồn Trương Ba đi đến sự lựa chọn sáng suốt cuối cùng một cách tất yếu, hợp lí, tự nhiên như vậy, Lưu quang Vũ đã chứng tỏ cho người đọc thấy tài năng xử lí tình huống kịch của ông; đồng thời, giúp người đọc nhận thức được Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, có lòng tự trọng, đặc biệt ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

3. Ý nghĩa của đoạn kết:

Mặc dù giờ đây hồn Trương Ba không có thân xác trú ngụ, chỉ là bóng chập chờn mờ ảo, vô hình lại là lúc sự hiện diện của Trương Ba nhiều nhất, thường trực nhất. Tác giả đã tiếp tục khái quát triết lí nhân sinh:

- Ý nghĩa sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà ở chính sự hiện diện của ta trong suy nghĩ, nỗi nhớ của những người thương yêu.

- Vẻ đẹp tâm hồn có đời sống dài lâu và bất tử so với thể xác. Tâm hồn cao khiết của Trương Ba vẫn còn có mặt trong mỗi hoài niệm, mỗi cuộc đời đang sống.

4. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại


- Như đã nói, Lưu Quang Vũ sáng tác vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt theo hướng khai thác cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy nghĩ về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống đương thời. Nhưng tài năng sáng tạo của nhà viết kịch là ở chỗ đưa các nhân vật trong truyện dân gian ấy vào một tình huống bi hài kịch để chúng đối thoại với nhau, tự đấu tranh với mình và với hoàn cảnh để mỗi nhân vật bộc lộ đến tận cùng cách sống, quan niệm sống, qua đó, tác giả khẳng định khát vọng hoàn thiện nhân cách con người. Cảnh hồn Trương Ba tách khỏi thể xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn và xác, cảnh gặp tiên Đế Thích lần cuối để đi đến quyết định dứt khoát chấp nhận cái chết vĩnh viễn là những cảnh được Lưu Quang Vũ dụng công nghệ thuật để gửi gắm một triết lí sống sâu sắc về lẽ sống, về thân phận con người: Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được; nếu sống vay mượn, sống chấp vá thiếu nhân cách, tâm hồn nghèo nàn hoặc không có sự hài hoà giữa vẻ đẹp tâm hồn và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi; con người chỉ thật sự hạnh phúc, cuộng sống chỉ có giá trị khi họ được sống tự nhiên trong một thể thống nhất hài hoà.

- Qua đoạn trích này, người đọc nhận thấy hành động của nhân vật hồn Trương Ba hết sức phù hợp với hoàn cảnh trớ trêu mà ông ta đang lâm vào một cách bi hài kịch; lời nói của nhân vật này, độc thoại nội tâm (trong lớp đối thoại giữa hồn và xác) rất phù hợp với tính cách của nhân vật Trương Ba đã bị “biến dạng” sau một thời gian ngụ trong thân xác anh hàng thịt, đồng thời nó góp phần thúc đẩy bước phát triển của xung đột kịch đến chỗ cần giải quyết.

III. Ý nghĩa văn bản

Một trong những điều quý nhất của con người là được sống là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống trong sự hài hoà tự nhiên giữa thể xác và tinh thần.​
Thêm
1K
0
0
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả (1930 – 1989)

- Nguyễn Minh Châu là nhà văn lớn, có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Hành trình sáng tác có thể chia làm 2 giai đoạn:

+ Trước 1975, ông là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn; là nhà văn mải mê tìm kiếm những hạt ngọc long lanh ẩn giấu trong tâm hồn những con người bình thường.

+ Sau 1975 ngòi bút của ông chuyển sang cảm hứng thế sự với vấn đề đạo đức, triết lí nhân sinh.

- Ông thuộc trong số những “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

2. Xuất xứ

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Tác phẩm tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kì đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường.

3. Tóm tắt tác phẩm:

- Nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày phục kích, người nghệ sĩ đó đã chụp được cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.

- Khi chiếc thuyền vào bờ, anh kinh ngạc khi chứng kiến cảnh người chồng đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con muốn bảo vệ mẹ nên đánh trả cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp tục diễn ra và lần này người nghệ sĩ ấy ra tay can thiệp nhưng bị người đàn ông đánh cho bị thương và phải về trạm y tế huyện.

- Theo lời mời của chánh án Đẩu, người đàn bà đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Bà đã kể lại câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là cách lí giải cho sự từ chối trên.

- Rời vùng biển, nhiếp ảnh Phùng có một tấm ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn thì bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà ấy bước ra từ tấm ảnh.

II. Đọc – hiểu văn bản

1. Nội dung:

a. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

- Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng.


Nguyễn Minh Châu là một nghệ sĩ đã hành trình trọn đời trong nghiệp văn chương để đi tìm chất “ngọc” trong con người và thiên nhiên đất nước mình. Lần này, khi viết truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu như hoá thân vào nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng để săn tìm một vẻ đẹp biển cả buổi sáng có sương mù. Phùng đã phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định đưa vào tờ lịch tháng bảy cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh.

Sau gần một tuần lễ kiên nhẫn phục kích, kiên nhẫn chờ đợi, người nghệ sĩ bất ngờ được đất trời, biển cả, Tạo hoá đền đáp rất hậu. Một vẻ đẹp hiển hiện trước mắt Phùng khiến anh xúc động thốt lên trong xúc cảm thẩm mĩ mãnh liệt: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi thấy được một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh ấy lập tức “gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh hài lòng, sung sướng vì đã bất tử hoá một vẻ đẹp trời cho bằng những tấm ảnh của mình, ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhảy lên tàu hoả trở về.

Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh với sự hỗ trợ của máy móc hiện đại đã hoàn thành kiệt tác của mình. Nhưng nhà văn Nguyễn Minh Châu thì mới bắt đầu thảo bức tranh. Tạo hoá đã dâng sẵn một vẻ đẹp, lại như một thách thức ngòi bút của nhà văn: làm sao đây để trong văn có hoạ ? Nguyễn Minh Châu không hổ ngươi khi được tôn vinh là một cây bút đầy bản lĩnh và tài hoa. Nhà văn Nguyên Ngọc rất có lí khi nhận xét: Nguyễn Minh Châu “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”.

Nguyễn Minh Châu đã huy động đội quân từ ngữ phong phú của ông để vẽ lên bức tranh cảnh biển buổi sáng có sương mù. Câu chữ của Nguyễn Minh Châu như muốn ganh đua với vẻ đẹp của tạo hoá, biết khoe vẻ đẹp của đường nét, ánh sáng, màu sắc của thiên nhiên, biển cả cùng vẻ đẹp nhân sinh: “...trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích...”.

Niềm hạnh phúc chân chính của người nghệ sĩ là khám phá và sáng tạo, là rung cảm trước vẻ đẹp tuyệt mĩ. Trước vẻ đẹp ấy, người nghệ sĩ như bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ, thấy tâm hồn mình trong trẻo, thanh tân: “...tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào, [...] tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.

- Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí.

Trong thế giới mà chúng ta cảm giác được, không gì đẹp bằng con người, đó là nguyên lí cơ bản của Mĩ học. Bao nhiêu vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời biển cả...sẽ trở nên vô nghĩa nếu như không gắn nó với tình yêu và hạnh phúc của con người.

Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh tạo ra một phản cảm gay gắt, bất ngờ, trớ trêu đó là cái quái ác của nhân sinh. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã có những phút giây ngây ngất “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng suy ngẫm và rút ra kết luận đầy chất triết học: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Thì tiếp liền ngay sau đó, anh chứng kiến cảnh phi đạo lí, nỗi nhục nhã của những kiếp người lao động lam lũ trên biển cả: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu, nhẫn nhục; một gã đàn ông thô lỗ, dữ dằn, độc ác, coi việc hành hạ, đánh đập, nguyền rủa vợ như một phương cách để giải tỏ những uất ức, khổ đau, nhọc nhằn. Bức ảnh biển cả buổi sớm có sương thì đẹp như bức cổ hoạ bằng mực tàu, còn bức ảnh nhân sinh lại như một vết nhơ của cuộc sống, một nỗi sỉ nhục của nhân loại. Khi miêu tả cảnh đau lòng này, Nguyễn Minh Châu cũng phải đành lòng tước bỏ đi tất cả mọi trang sức của ngôn từ để gọi tên đúng sự việc, để miêu tả đúng con người với vóc dáng thân hình, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, tâm tính...

Người đàn bà hiện lên thật đau khổ, tội nghiệp. Thuở trẻ vốn đã kém nhan sắc, lớn lên lấy chồng nhà đông con, đời sống dân chày lam lũ khó nhọc làm cho người đàn bà trở nên tiều tuỵ, thô kệch. Bà “cao lớn”, “rỗ mặt”; “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới và dường như đang buồn ngủ”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”... Khi bước chân từ chiếc thuyền xuống, bà vừa sợ hải vừa cam chịu, nhẫn nhục, sẵn sàng chịu nhục mạ và hành hạ. Bà sợ tới mức định đưa tay lên gãi hay sửa lại mái tóc “nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Khi bị chồng đánh, bà “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Nhưng khi đứa con lao tới che chở cho bà, bà “mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Bà khóc gọi con, bà chấp tay vái lấy vái để và ôm lấy con, nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt trên mặt bà...

Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu không né tránh hiện thực phũ phàng. Ông đưa lên trang sách dáng hình, ngôn ngữ thô lỗ, cục cằn và hành động phi nhân tính của lão đàn ông. Đầu tiên là tiếng nói “chõ lên thuyền như quát” của lão: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mầy đi bây giờ”. Rồi lão xuất hiện với “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ, [...] hàng chân mài cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ...”. Lão hành hạ vợ theo bản năng của một con thú dữ lao vào cắn xé con mồi: lão “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ !”.

Trước khi làm nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã là người lính cầm súng vào sinh ra tử tiêu diệt lũ giặc dữ để giành lấy cuộc sống an lành cho người dân. Anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra ngăn chặn tội ác thì thằng Phác, con lão đàn ông nọ, đã lao tới để che chở cho người mẹ đáng thương của nó. Chỉ đến lần thứ hai khi phải chứng kiến cảnh đó, Phùng mới thể hiện bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Phùng xót xa, cay đắng nhận thấy những cái xấu xa, ngang trái, những bất công, những bi kịch trong gia đình người nông dân chài làm cho tấm ảnh mà anh chụp được kia như nhuốm màu đau thương, ghê sợ. Chao ôi ! Nghệ thuật không thể là màng sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai che lấp đi nỗi đau thương của kiếp người ! Trong chiếc thuyền ngoài xa có vẻ mơ mộng kia là bao kiếp lam lũ, lầm than, tội nghiệp ! Làm thế nào để giải thoát cho họ ? Khách quan hai sự phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã đặt ra một vấn đề nhân sinh – xã hội lớn lao và quan điểm nghệ thuật, tuy không mới, nhưng từ lâu đã bị anh em văn nghệ sĩ hoặc lãng quên, hoặc chỉ hiểu phiến diện theo kiểu “phải đạo”.

Æ Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lý, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong.

b. Câu chuyện của của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện.

- Thực chất câu chuyện của người đàn bà hàng chài là một thứ bi kịch gia đình, nó là mặt trái của bức ảnh về vẻ đẹp thanh bình của thuyền và biển một buổi sáng mờ sương. Đó là bức ảnh về sự thật cuộc đời, nó giúp những cựu chiến binh nay là nghệ sĩ như Phùng, là chánh án toà án huyện như Đẩu có thể nhìn nhận, phán quyết những điều tưởng như nghịch lí, phi lí. Bề ngoài người đời chỉ thấy có một người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, thường bị chồng hành hạ, đánh đập tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thế mà không đủ can đảm từ bỏ gã đàn ông vũ phu, phũ phàng ấy. Qua lời giãi bày của người đàn bà thì đó là tình thương vô bờ bến đối với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa [...] phải sống cho con chứ không thể cho mình...”

Những câu nói mộc mạc, chân tình của người đàn bà ấy có thể làm cảm động những người nhân hậu và làm chúng ta thấu suốt sự suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong đau khổ, đắng cay triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu được những niềm vui nhỏ nhoi “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”, “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn...”.

Qua câu chuyện của người đàn bà, Nguyễn Minh Châu muốn nói rằng không thể giản đơn, dễ dãi trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.

- Xoay quanh bi kịch gia đình ấy, tác giả tập trung làm nổi bật một số lượng nhân vật rất vừa phải: đó là người đàn bà, gã đàn ông vũ phu, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh,... nhưng cũng đủ làm nổi rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

+ Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là “người đàn bà” một cách phiếm định. Không phải là ông không đủ tài để đặt cho nhân vật một cái tên xứng đáng. Gọi tên nhân vật là “người đàn bà”, tác giả muốn nói hộ bao người đàn bà vô danh ở những vùng biển suốt một dải non sông bao nỗi niềm đau thương, bao nhiêu giọt nước mắt tủi hờn của người đàn bà mà đời không nhìn thấy. Người đàn bà trong truyện của Nguyễn Minh Châu trạc ngoài bốn mươi tuổi, thô kệch, rỗ mặt, xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, bà là hiện thân của đời người phụ nữ hàng chài lam lũ, khó nhọc khốn khổ. Thầm lặng chịu đòn chồng, bà ôm nỗi đau, nuốt giọt tủi, vùi nỗi xấu hổ, nhục nhã vào cõi sâu tâm hồn, chỉ đơn giản bởi cuộc mưu sinh trên biển cả, ngoài khơi xa lắm sóng gió, sẵn bão tố cần có người đàn ông khoẻ mạnh, thạo nghề; chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên: “...tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” – một tâm sự điển hình của phụ nữ lao động khắp mọi miền quê trên đất nước này đáng để chúng ta phải suy ngẫm.

+ Hoàn cảnh làm nảy sinh tính cách, đó là nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực được Nguyễn Minh Châu tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Cuộc sống nghèo khổ, chồng chất bao nhiêu cực nhọc, lam lũ đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” ngày xưa thành một người chồng độc ác vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào cảm thấy cuộc sống nặng như chì, thấy mình khổ quá là lão đánh vợ, đánh như thể để giải toả nỗi uất ức, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Đời vẫn chẳng thiếu gì những kẻ tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Lão đàn ông “tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ” vừa là kết quả đẽo gọt thô sơ của Tạo hoá vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, nặng nhọc, dữ dội, vừa là tội phạm gieo đau thương cho người thân của mình. Làm sao đây để cứu vớt những con người thô bạo ấy ?

+ Chớ để lòng trẻ thơ mang vết sẹo đau thương, người lớn đừng gieo vào những trái tim non dại những gai nhọn và nộc độc của tàn bạo, thô lỗ, hận thù. Đó là ý nghĩa nhân văn mà tác giả muốn nói khi xây dựng hai nhân vật trẻ thơ trong truyện này. Tận mắt chứng kiến bố hành hạ mẹ dã man, thằng em vì thương mẹ mà điên cuồng cầm dao lao vào bố; lòng cô bé tan nát nhưng đủ can đảm vật lộn để tước con dao trong tay đứa em, ngăn không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. Thằng Phác thương mẹ một cách bồng bột theo kiểu một cậu trai vùng biển chưa đủ khôn lớn, nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh của thằng Phác rất thật trong cuộc đời kia vẫn làm người ta cảm động bởi tình thương mẹ thấm thía và chân thành.

Phùng vốn là người lính của một thời đất nước rực lửa anh hùng. Người lính thuở ấy luôn là biểu tượng của tình yêu, niềm tự hào, ý chí và khát vọng của cả một dân tộc. Đã là người lính vào sinh ra tử, người ta không dễ đánh mất bản chất cao quý của người lính: căm ghét sự áp bức bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, vì lẽ công bằng. Sau này Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, sự hài hoà giữa chiến sĩ với nghệ sĩ tạo nên ở anh những phẩm chất cao quý. Nhạy cảm với cái đẹp, anh thật sự xúc động, sững sờ trước vẻ đẹp của con truyền trong màn sương mơ mộng của biển lúc sáng sớm. Nhưng ngay sau đó, khi chứng kiến bạo hành của cái ác, cái xấu, anh thật sự nổi giận. Từ chỗ “kinh ngạc”, “há mồm ra mà nhìn”, anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Đó là hành động của người lính cứu nạn, nhưng cũng nói được một ý nghĩa về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, nhưng sự thật ngoài cuộc đời thì lại rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời, vì con người. Trước khi là nghệ sĩ rung động trước cái đẹp hãy là một con người biết yêu, ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có cuộc sống xứng đáng với danh hiệu Con Người. Nghệ thuật và cuộc đời phải hoà hợp trong cái chân – thiện – mĩ.

c. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”:

- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh trắng đen, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” (đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật). Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra từ tấm ảnh” (đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời).

- Ý nghĩa: nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.

2. Đặc sắc về nghệ thuật:

- Tình huống truyện: Độc đáo của truyện Chiếc thuyền ngoài xa là tác giả đã tạo ra một tình huống nhận thức mang ý nghĩa khám phá, phát hiện cuộc sống. Sự việc chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ là sự kiện tạo ra bước ngoặt nhận thức và tình cảm, cảm xúc của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh. Lúc đầu, Phùng nhìn đời, nhìn người dưới con mắt và sự rung động của một nghệ sĩ đang say mê đi tìm cái đẹp và đắm đuối khi vẻ đẹp của con thuyền xuất hiện trong bầu sương sớm trên biển. Đó là giây phút thăng hoa, bay bổng của nghệ sĩ. Sau đó anh bàng hoàng, nghẹt thở trước cảnh bạo hành của người đàn ông đối với vợ, tiếp liền với cảnh hai đứa con phản ứng trước sự bạo hành của cha. Từ lúc đó, Phùng nhìn đời, nhìn người dưới con mắt khác. Anh hiểu rõ bản chất của bi kịch gia đình, hiểu sâu hơn tính cách của người đàn bà, hiểu chị em thằng Phác, hiểu thêm đồng đội cũ của mình là Đẩu và Phùng hiểu rõ bản thân mình hơn. Đến đây, tình huống truyện được đẩy lên cao trào giúp tác giả bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề và ý nghĩa của tác phẩm.

- Đặc sắc về ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật

+ Người kể chuyện là nhân vật Phùng. Tác giả đã nhập thân vào nhân vật này tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường được sức khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thực và giàu tính thuyết phục.

+ Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách từng người: giọng điệu lão đàn ông thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; lời nói của người đàn bà thật dịu dàng, độ lượng, xót xa khi thốt ra với con, thật đau đớn, xót xa và thấu hiểu lẽ đời khi nói về thân phận tủi buồn của mình; giọng của Đẩu khi nói ở toà án huyện rõ là giọng điệu, lời nói của người từng trải và tốt bụng,... Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế góp phần khắc sâu chủ đề, tư tưởng cho tác phẩm.

3. Ý nghĩa văn bản:

Chiếc thuyền ngoài xa thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời, vì cuộc đời; người nghệ sĩ phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện sâu sắc. Tác phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó.

Tóm lại, từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng. Cách khắc hoạ nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo đã góp phần làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm.​
Thêm
738
0
0
Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, các nhân vật giao tiếp giữ vai trò quan trọng nhất. Vậy những đặc điểm nào của nhân vật giao tiếp chi phối hoạt động giao tiếp? Nhân vật giao tiếp cần lựa chọn chiến lược giao tiếp như thế nào để đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp? Cùng Triều Anh tham khảo bài soạn hôm nay để giúp chúng ta hiểu thêm về điều đó.

17303295-4F16-4840-9362-5233ACD17795.jpeg

Vanhoctre.com

I. Phân tích các ngữ liệu

1. Ngữ liệu 1


a. Hoạt động giao tiếp trên có những nhân vật giao tiếp là: Tràng, mấy cô gái và "thị". Những nhân vật đó có đặc điểm:


- Về lứa tuổi: Họ đều là những người trẻ tuổi.
- Về giới tính: Tràng là nam, còn lại là nữ.
- Về tầng lớp xã hội: Họ đều là những người dân lao động nghèo đói.

b. Các nhân vật giao tiếp chuyển đổi vai người nói, vai người nghe và luân phiên lượt lời như sau:

- Lúc đầu: Hắn (Tràng) là người nói, mấy cô gái là người nghe.
- Tiếp theo: Mấy cô gái là người nói Tràng và "thị" là người nghe.
- Tiếp theo: "thị" là người nói, Tràng (là chủ yếu), và mấy cô gái là người nghe.
- Tiếp theo: Tràng là người nói, "thị" là người nghe,
- Cuối cùng: "thị" là người nói, Tràng là người nghe.

c. Các nhân vật giao tiếp trên bình đẳng về vị thế xã hội (họ đều là những người dân lao động cùng cảnh ngộ).

d. Khi bắt đầu cuộc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp trên có quan hệ hoàn toàn xa lạ.

e. Những đặc điểm về vị thế xã hội, quan hệ thân-sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,…chi phối lời nói của nhân vật khi giao tiếp.


Ban đầu chưa quen nên chỉ là trêu đùa thăm dò. Dần dần, khi đã quen học mạnh dạn hơn. Vì cùng lứa tuổi, bình đẳng về vị thế xã hội, lại cùng cảnh ngộ nên các nhân vật giao tiếp tỏ ra rất suồng sã.

2. Ngữ liệu 2

a. Các nhân vật giao tiếp trong đoạn văn: Bá Kiến, mấy bà vợ Bá Kiến, dân làng và Chí Phèo
.

Bá Kiến nói với một người nghe trong trường hợp quay sang nói vơi Chí Phèo. Còn lại, khi nói với mấy bà vợ, với dân làng, với Lí Cường, Bá Kiến nói cho nhiều người nghe (trong đó có cả Chỉ Phèo).

b. Vị thế xã hội của Bá Kiến với từng người nghe:

- Với mấy bà vợ - Bá Kiến là chồng (chủ gia đình) nên "quát".
- Với dân làng - Bá Kiến là cụ lớn, thuộc từng lớp trên lời nói có vẻ tôn trọng (các ông, các bà) nhưng thực chất là đuổi (về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?).
- Với Chí Phèo - Bá Kiến vừa là ông chủ cũ, vừa là kẻ đã đẩy Chí Phèo vào tù, kẻ mà lúc này Chí Phèo đến "ăn vạ". Bá Kiến vừa thăm dò, vừa dỗ dành, vừa có vẻ đề cao, coi trọng.
- Với Lí Cường - Bá Kiến là cha, cụ quát con những thực chất là để xoa dịu Chí Phèo.

c. Đối với Chí Phèo, Bá Kiến thực hiện nhiều chiến lược giao tiếp:

- Đuổi mọi người về để cô lập Chí Phèo.
- Dùng lời nói ngọt nhạt để vuốt ve, mơn trớn Chí Phèo.
- Nâng vị thế Chí Phèo lên ngang hàng mình để xoa dịu Chí.

d. Với chiến lược giao tiếp như trên, Bá Kiến đã đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp.

Những người nghe trong cuộc đối thoại với Bá Kiến đều răm rắp nghe theo lời Bá Kiến. Đến như Chí Phèo, hung hãn thế mà cuối cùng cũng bị khuất phục.

II. Nhận xét về nhân vật giao tiếp trong hoạt động giao tiếp

1. Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, các nhân vật giao tiếp xuất hiện trong vai người nói hoặc người nghe. Dạng nói, các nhân vật giao tiếp thường đổ vai luân phiên với nhau. Vai người nghe có thời gồm nhiều người, có trường hợp người nghe không hồi đáp người nói.

2. Quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp cùng với những đặc điểm khác biệt (tuổi, giới tính, ghề nghiệp, vốn sống, văn hoá, môi trường xã hội), chi phối lời nói (nội dung và hình thức ngôn ngữ).

3. Trong giao tiếp các nhân vật giao tiếp tuỳ ngữ cảnh mà lựa chọn chiến lược giao tiếp phù hợp để đạt được mục đích và hiệu quả.

III. Luyện tập

1. Bài tập 1


* Anh Mịch
- Vị thế xã hội: Kẻ dưới-nạn nhân bị bắt đi xem đá bóng.
- Lời nói: Van xin, nhún nhường (gọi ông, lạy).
* Ông Lí​
- Vị thế xã hội: Bề trên-thừa lệnh quan bắt người đi xem đá bóng.
- Lời nói: Hách dịch, quát nạt (xưng hô mày tao, quát, âu lệnh).

2. Bài tập 2:

* Đoạn trích gồm các nhân vật giao tiếp:
- Viên đội sếp Tây.
- Đám đông.
- Quan Toàn quyền Pháp.

* Mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế xã hội nghề nghiệp giới tính, văn hoá của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người:
- Chú bé: Trẻ con nên chú ý nên cái mũ, nói rất ngộ nghĩnh.
- Chị con gái: Phụ nữ nên chú ý đến cách ăn mặc (cái áo dài), khen với vẻ thích thú.
- Anh sinh viên: Đang học nên chú ý đến việc diễn thuyết, nói như một dự đoán chắc chắn.
- Bác cu li xe: Chú ý đôi ủng.
- Nhà nho: Dân lao động nên chú ý đến tướng mạo, nói bằng một câu thành ngữ thâm nho.

*Kết hợp với ngôn ngữ là những cử chỉ điệu bộ, cách nói. Điểm chung là châm biếm, mỉa mai.

3. Bài tập 3.

a. Quan hệ giữa bà lão hàng xóm và chị Dậu là quan hệ hàng xóm láng giềng thân tình => Chi phối lời nói và tính cách của hai người:
- Bà lão: bác trai, anh ấy …
- Chị Dậu: cảm ơn, nhà cháu, cụ…

b. Sự tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật giao tiếp: hai nhân vật đổi vai và luân phiên nhau.

c. Nét văn hoá đáng trân trọng qua lời nói, cách nói của các nhân vật: tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau.​
........................................................
CHÚC CÁC EM HỌC TỐT!
Thêm
Nhân vật giao tiếp - Ngữ văn 12, đầy đủ và chi tiết
404
0
0
Đọc truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mà không tìm hiểu về số phận và phẩm chất, tính cách của A Phủ quả là một thiếu sót lớn. Vì vậy, hãy cùng Triều Anh tham khảo bài văn phân tích nhân vật A Phủ sau đây:

05378A3B-7FC8-495D-8876-A08F5BF57205.jpeg


I. Dàn ý

1. Mở bài


- Tô Hoài là nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh, ông có sở trường về loại truyện phong tục và hồi kí.

- Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm là sự phản ánh nỗi khổ của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi đây.

- Ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc là s phận và tính cách của nhân vật A Phủ.

2. Thân bài

a. Luận điểm 1: Số phận, hoàn cảnh của A Phủ


- Tuổi thơ cơ cực, đau khổ, bất hạnh và đầy nước mắt: mồ côi cha mẹ, anh chị em chết vì bệnh đậu mùa, bị đem đi bán, sống tha hương...không có bà con thân thuộc, không họ hàng.
- Lớn lên phải chịu bao oan uất của cuộc đời.
+ Vì nghèo, không thân thích nên dù có bao nhiêu cô gái thầm ao ước mà không thể lấy nỗi vợ.
+ Vì đánh A Sử, kẻ gây rối trong đêm hội mà A Phủ bị đánh, bị phạt vạ, trở thành nô lệ không công cho nhà thống lí Pá Tra.
+ Vì để hổ ăn mất bò nên bị trói đứng cho đến chết.
=> A Phủ có số phận, hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương, nạn nhân của bọn chúa đất miền núi Tây Bắc.
b. Luận điểm 2: Tính cách, phẩm chất

- Cần cù, siêng năng, chăm chỉ, chịu khó, nghị lực, bản lĩnh, tự lập.
+ Biết đúc lưỡi cày, chăm chỉ, chịu khó, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo.
+ Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc nhà giàu.

- Khỏe mạnh, gan góc, dũng cảm, táo bạo.
+ Mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi lưu lạc đến Hồng Ngài.
+ Khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê.
+ Ném con quay rất to vào mặt A Sử.
+ A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp.
+ A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá.

- Có sức sống mãnh liệt để vùng lên chống số phận.
+ A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi.
+ A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
=> A Phủ có tính cách đặc biệt: dũng cảm, gan dạ, ngang tàng, không khiếp sợ trước sự cường quyền, bạo lực, yêu tự do và lao động, tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi Tây Bắc.

c. Luận điểm 3: Những đặc sắc về nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo (miêu tả theo trình tự thời gian, đan xen hồi ức một cách tự nhiên, có pha trộn quá khứ với hiện tại một cách ý nhị có khi vận dụng kĩ thuật đồng hiện của điện ảnh, khó phân biệt hình ảnh của quá khứ - hiện tại – tương lai).
- Nghệ thuật kể chuyện: Kể chuyện kết hợp nhiều điểm nhìn (bên ngoài, bên trong, xa, gần) dần dần khám phá thế giới nội tâm và tính cách của A Phủ một cách khéo léo.

3. Kết bài

- Khẳng định lại số phận và phẩm chất tốt đẹp của nhân vật A Phủ.
- Cuộc đời số phận, tính cách của A Phủ giúp người đọc có cái nhìn cảm thông cho người nông đan lao động nghèo miền núi Tây Bắc.

II. Bài văn tham khảo

Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, đặc biệt là hiểu biết về phong tục tạp quán và thiên nhiên Tây Bắc. Với lối trần thuật hóm hỉnh, tự nhiên, chân thật, Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng hình tượng những người nông dân có số phận bi đát trong truyện Vợ chồng A Phủ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này.

Tô Hoài đảo lộn một chút thời gian trần thuật để giúp người đọc có được một hình dung tương đối hoàn chỉnh về số phận của chàng trai nghèo mồ côi trên miền núi cao Tây Bắc. Mồ côi cha mẹ, không còn nơi nương tựa, A Phủ sớm có nghị lực và bản lĩnh tự lập: có người làng đói bụng bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ lúc ấy mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi cao và lưu lạc đến Hồng Ngài. Cuộc sống của A Phủ có chút gì hoang dã, anh được sống tự do, phóng túng. A Phủ trở thành chàng trai Mông khoẻ mạnh "chạy nhanh như ngựa" và giàu khả năng lao động "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". Thế nhưng A Phủ vẫn không thể lấy nổi vợ.

Cá tính gan góc của A Phủ không chỉ bộc lộ từ năm 10 tuổi khi bỏ trốn khỏi cánh đồng thấp mà còn thể hiện rất rõ qua cảnh đánh con quan. Vừa xuất hiện trong trang văn, A Phủ đã hấp dẫn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dự dội: “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. Những hành động ấy không những diễn tả A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác mà còn khắc hoạ thành công nét có tính gan góc dũng cảm của một nông dân dù nghèo nhưng không sợ cường quyền. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn dù biết rằng sẽ nhận lãnh một hậu quả bi đát. Những trận đòn roi của nhà thống lí cũng không khuất phục được một A Phủ gan góc. Anh bị người nhà thống lí bắt và bị đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù” thế nhưng vẫn cố gắng dùng hết sức bình sinh để không chạm tay vào các đồng bạc ép vay của thống lí. Và tất nhiên anh cũng biết hành động ấy cũng chỉ bằng thừa.

Cuộc đời của chàng trai yêu tự do đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ từ ngày đó. Thế nhưng A Phủ vẫn là chàng trai của tự do theo cách của anh. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt hơn. Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết huống chi là việc bị trói.

Bị trói đứng nhiều ngày, bị bỏ đói bỏ khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, không một tiếng kêu than. Bằng long ham sống mãnh liệt, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc không phải vì tuyệt vọng. Thiết nghĩ đó là giọt nước mắt của một con người vừa nhận ra sự trớ trêu của số phận, nhận ra tội ác của bọn thống trị, nhận ra lòng ham sống của bản thân. Khi được Mị cắt dây trói, dù bản thân đã không còn sức để đứng dậy nhưng A Phủ không khuất phục trước số phận. Một A Phủ với sức mạnh, lòng ham sống mãnh liệt đã bức phá, đã vùng bước đi về phía trước, hướng về tương lai, bỏ lại sau lưng là ngôi nhà của cha con thống lí. Bỏ lại sau lưng số phận bi thảm của cuộc đời một người ở khổ sai.

Có thể nói, Tô Hoài chính là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nhà văn đã sắc sảo miêu tả diễn biến tâm lí của A Phủ một cách sắc sảo. Chỉ bằng một vài từ ngữ, một vài hình ảnh, nhà văn đã xuất sắc diễn tả chân thật diễn biến nội tâm như con sống ngầm của A Phủ - không gợn sóng nhưng vẫn âm ỉ vỗ vào bờ. Một thành công nữa của Tô Hoài là đã kể câu chuyện về cuộc đời của A Phủ bằng một cách kể tự nhiên mà vô cùng hấp dẫn. Bằng việc kết hợp nhiều điểm nhìn nhà văn giúp người đọc dần dần khám phá thế giới nội tâm và tính cách của A Phủ một cách khéo léo.

Qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã khắc hoạ thành công cuộc đời của chàng trai nghèo miền núi Tây Bắc. Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công bởi vẻ đẹp trong tính cách tâm hồn qua những hành động cụ thể. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng được thể hiện rõ ràng. Từ đó giúp người đọc có cái nhìn cảm thông sâu sắc với người nông dân nghèo miền núi Tây Bắc đương thời.
Thêm
Cảm nhận về nhân vật A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
658
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top