Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

I. CUỘC ĐỜI

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765). Ông quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh ra ở Thăng Long. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó cũng là một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn học, rất sành thơ văn Nôm, thích hát xướng. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng ở ngôi tể tướng mười lăm năm. Mẹ ông là Trần Thị Tần, vợ thứ, người Bắc Ninh, có tài hát xướng. Những ngày thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng rồi mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mấy anh em ông pải sống nhờ người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, làm chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ chúa Trịnh. Lúc bấy giờ, triều đình Lê – Trịnh đã suy tàn. Năm Nguyễn Du mười lăm tuổi, Nguyễn Khản bị bắt giam. Năm mười chín tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường (tú tài), rồi làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. Lúc này Nguyễn Khản bị kiêu binh phá nhà, phải trốn chạy về quê ở Nghi Xuân.

Năm 1789, nhà Lê sụp đỗ, Nguyễn Du lánh về quê vợ, ở nhờ nhà người anh vợ là Tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn tại Thái Bình, bắt đầu cuộc sống "mười năm gió bụi" hết sức khổ cực, tủi nhục. Từ khi vợ mất, trở về quê Nghi Xuân (1796) cho đến lúc ra làm quan cho nhà Nguyễn, ông vẫn sống một cuộc đời nghèo túng. Có thể côi từ bé, lớn lên trong cảnh nhà Lê suy sụp và gia cảnh tan tác đã có ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của nhà thơ.

Nguyễn Du miễn cưỡng làm quan dưới triều Nguyễn, từng giữ chức Tri huyện, thăng Tri phủ, rồi làm Cai bạ Quảng Bình. Năm 1813, ông được thăng chức Học sĩ điện Cần chánh và được cử làm Chánh sứ đi tuế cống Trung quốc. Năm 1820, ông lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa, nhưng chưa kịp đi thì mắc bệnh dịch, không thuốc thang và mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức ngày 18 – 9 – 1820), thọ năm mươi lăm tuổi. Theo Đại Nam liệt truyện, Nguyễn Du là một người thanh liêm, sống thầm lặng, hết sức khinh bỉ bọn quan lại chỉ biết vinh thân phì da, không lo đến việc dân, việc nước.

Nguyễn Du đã sống một cuộc đời bi kịch. Xuất thân trong gia đình quý tộc giàu sang, thế mà cơn lốc lịch sử đã hất hết lầu son gác tía, đẩy ông vào cuộc sống lay lắt, lưu lạc, tha hương. Nhưng bi kịch lớn nhất của ông là từng khao khát một sự nghiệp vẫy vùng cho phỉ chí, mà rút cuộc phải chấp nhận cuộc đời triền miên buồn chán, không có một hoạt động say sưa và nhất quán vì lí tưởng nào cả. Nguyễn Du đã sống như một người dân thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu xa với mọi kiếp người bị đày đoạ. Nguyễn Du nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa giông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông hàm chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn thơ Việt Nam.

II. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC

1. Các tác phẩm văn học của Nguyễn Du


Nguyễn Du là tác giả có nhiều thành tựu kiệt xuất về văn chương, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển.

Về thơ chữ Hán, Nguyễn Du có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập làm lúc ông đang sống lẩn tránh ở quê vợ và quê nhà Nghi Xuân, Nam trung tạp ngâm là tập thơ sáng tác lúc ra làm quan với triều Nguyễn, Bắc hành tạp lục làm lúc phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Hoa, tổng cộng gồm 250 bài. Thơ chữ Hán có những kiệt tác như Đọc Tiểu Thanh kí, Bài ca những điều trông thấy (Sở kiến hành), Bài ca người gảy đàn đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca), Người hát rong ở Thái Bình (Thái Bình mại giả ca), Chống lại bài "Chiêu hồn" (Phản chiêu hồn),...

Với thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có hai kiệt tác Truyện Kiều Văn tế thập loại chúng sinh. Ngoài ra, ông còn có một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái trường Lưu và bài vè Thác lời trai phường nòn.

2. Nhà thơ có khuynh hướng hiện thực sâu sắc

Toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du dù rất đa dạng vẫn có một đặc điểm bao trùm là khuynh hướng hiện thực. Vượt lên tâm sự nhớ tiếc triều Lê, sự buồn chán, ý muốn tu Phật,... Nguyễn Du lúc nào cũng nghĩ về hiện thực cuộc sống với những vấn đề nhức nhối của nó.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn, đã ghi lại trung thành những năm tháng sống lay lắt, đói khổ, bệnh tật, những suy tư, tình cảm của ông trước thực tại lịch sử.

Có bài thơ ghi lại cảnh thiếu áo mặc:

"Lạnh sơ đã khổ vì không áo

Chày vải nhà ai chiều nện đưa"

(Đêm thu, bài II)

Có lần nhà thơ ốm ở Huế mà thương các con đói ở quê nhà:

"Gào rã non Hồng mười miệng đói

Ốm co thành Huế một thân trơ"

(Tình cờ làm thơ)

Có lúc nhà thơ mong trở về với tuổi thơ vô tư, thoát khỏi thực tại:

"Bạc đầu cơm áo luôn cùng quẫn

Sao được ngày xanh cứ hát tràn"

(Ngồi đêm)

Có khi ông muốn quên hết mọi thứ để sống chonthanh thản (Hành lạc từ) nhưng làm sao có thể quên đi thực tại khốc liệt ? Hính ảnh nhà thơ hiện ra trong các tập Thanh Hiên thi tập Nam trung tạp ngâm là một người ốm đau, đói rét, già yếu, nghèo khổ, tóc bạc, cô đơn,... phản ánh một cuộc d9i72 đầy những buồn đau và chán nản, tủi nhục.

Nhưng nhà thơ không nhắm mắt, buông xuôi mà bày tỏ thái độ mỉa mai và lên án xã hội bất công, đen tối. Trong tập Bắc hành tạp lục Nguyễn Du vạch ra sự đối lập gay gắt giữa người giàu, kẻ nghèo. Trong Bài ca những điều trông thấy Người hát rong ở Thái Bình viết khi đi sứ, ông miêu tả cảnh quan lại quyền quý cơm canh, thịt cá thừa mứa ăn không hết, đem đổ xuống sông, trong khi người nghèo đói ca hát đến sùi bọt mép chỉ được mấy đồng kẽm:

"Miệng sùi bọt trắng, tay rời liệt

Cất đàn thưa: Đến đây khúc hết

Trổ cả tâm lực một trống canh

Chỉ cho năm, sáu đồng tiền kiết !

...

Kìa chẳng thấy: lệ cung đốn cho đoàn đi sứ

Thuyền gạo đầy khoang, thuyền thịt ứ

Người đi ăn chán, thừa vứt đi

Cơm nguội lòng sông chìm trắng đổ"

(Người hát rong ở Thái Bình)

Tiêu biểu nhất cho tinh thần phản kháng hiện thực của Nguyễn Du là bài Chống lại bài "Chiêu hồn" làm trong lúc đi sứ Trung Quốc. Tương truyền, trung thần nước Sở là Khuất Nguyên bị gièm pha phải tự tử, Tống Ngọc xót thương làm bài Văn chiêu hồn gọi hồn ông trở về nước Sở. Nguyễn Du đối thoại với người xưa, làm tác phẩm Chống lại bài "Chiêu hồn" với lời lẽ thống thiết, bi phẫn:

"Hồn ơi! Hồn ơi, sao không về

Đông Tây Nam Bắc không nơi tựa

Lên trời xuống đất đều chẳng xong,

Về thành Yên, Sính làm chi nữa !

Thành quách y nguyên, việc đời khác,

Cát bụi lầm cả áo người.

Đi ra xe ngựa, về vênh váo,

Lên mặt Cao, Quỳ tán chuyện đời.

Không lộ vuốt nanh cùng nọc độc,

Mà xé thịt người nhai ngọt xớt.

Kìa hồn chẳng thấy: mấy trăm châu ở Hồ Nam

Chỉ có gầy nhom, không béo tốt !

Hồn ơi, vì cứ theo đường ấy

Sau Tam Hoàng thôi chẳng hợp thời !

Hãy sớm thu hồn về thái cực,

Chớ về đây nữa, người mỉa mai.

Hậu thế đều là bọn Thượng quan,

Mặt đất đều là sông Mịch La.

Cá rồng không nuốt, hùm sói nuốt,

Hồn ơi! Hồn ơi biết sao mà ?"

Đó cũng là thái độ quyết liệt của Nguyễn Du đối với hiện thực và thời đại của ông. Thái độ quyết liệt đó cũng thể hiện sâu sắc trong Truyện Kiều khi nhà thơ lên án sự tàn nhẫn, bạc ác của các thế lực đen tối mà ông gọi chung bằng cái tên "định mệnh".

3. Nhà thơ nhân đạo vĩ đại

Một điểm chung khác rất nổi bật trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du là sự quan tâm sâu sắc tới thân phận con người.

Chúng ta đã biết Truyện Kiều là khúc ca về tình yêu trong sáng, là giấc mơ tự do làm chủ cuộc đời, nhưng chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp. Trong thơ Nguyễn Du, người phụ nữ tài hoa bạc mệnh là hình ảnh tiêu biểu nhất cho những giá trị tốt đẹp, mong manh của con người bị huỷ hoại:

"Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"

Đó không chỉ là lời chung cho phụ nữ mà cũng là lời chung cho mọi kiếp người. Chính trong bài Đọc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du đã đồng nhất số phận mình với số phận người tài hoa bạc mệnh:

"Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang"

Đến Văn tế thập loại chúng sinh thì tình thương và lòng thông cảm của Nguyễn Du đã bao trùm hết mọi kiếp người. Từ kẻ tranh đoạt ngôi báu, kẻ quyền cao chức trọng đến cung phi, tướng sĩ, những người vào sông ra bể, những kẻ chết oan,... ông đều thương cảm. Nguyễn Du thương những trẻ em mất sớm:

"Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế vào ra

U ơ tiếng khóc thiết tha não lòng"

thương những người sa cơ lẫn vận khi thời thế đổi thay:

"Một phen thay đổi sơn hà

Tấm thân chiếc lá biết là về đâu"

Ông thương nhất những người phụ nữ, đặc biệt là những kẻ phải đem tài sắc mua vui cho thiên hạ.

Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du lấy sự khẳng định cuộc sống hạnh phúc trần gian làm nền tảng. Cứ mỗi lần miêu tả sự hội ngộ của nàng Kiều với Kim Trọng, Kiều với Thúc Sinh, Kiều với Từ Hải,... là một dịp để ngòi bút nhà thơ ngân lên những nhịp điệu đắm say. Kiều trao duyên của mình cho em gái là làm một việc nghĩa, nhưng nàng không cảm thấy hạnh phúc của người làm việc nghĩa. Kiều cũng có lần đi tu, nhưng xem đó như một sự từ bỏ tuổi xuân của mình ("Đã đem mình bỏ am mây"). Nguyễn Du nhìn nàng Kiều sau mười lăm năm lưu lạc vẫn là một người trinh trắng ("Như nàng lấy hiếu làm trinh") và gọi "tướng giặc" Từ Hải là "đấng anh hùng". Có thể nói, Nguyễn Du đã vượt qua những ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà nhà thơ đem lại cho văn học Việt Nam trong thời của ông.

4. Vị trí hàng đầu của Nguyễn Du trong lịch sử văn học dân tộc

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du không chỉ là những trang nhật kí ghi lại trung thực số phận và tâm trạng nhà thơ trong cơn bão táp của lịch sử mà còn thể hiện những suy nghĩ sâu sắc của ông về thời đại. Thơ Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa, xứng đáng là tác phẩm của một cây đại bút.

Về thơ Nôm, Nguyễn Du sử dụng tài tình hai thể thơ dân tộc đã có là lục bát và song thất lục bát mà ở thể nào cũng đạt đến trình độ mẫu mực cổ điển.

Trong thơ Nôm của mình, Nguyễn Du đã làm mới ngôn ngữ văn học tiếng Việt. Tỉ lệ từ Hán Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt của ông vừa bình dị dễ hiểu,vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hoá. Thơ ca Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học trung đại.

Trong nghệ thuật tự sự ở Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tổng hợp các thể loại văn học trước đó, đổi mới thể loại truyện Nôm, nâng tác phẩm lên hàng tiểu thuyết bằng thơ. Ở miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, sâu sắc, đổi mới điểm nhìn trần thuật từ bên trong, tăng cường chất thơ cho tự sự, làm cho Truyện Kiều trở thành một kiệt tác của văn học dân tộc.
(Sưu tầm tổng hợp)​
Thêm
517
0
0
Nếu như xem xét Kiều dưới góc độ là một cuốn tiểu thuyết viết bằng thơ thì quả thật truyện Kiều không có gì đáng để bàn đến. Cốt truyện thì vay mượn, tình tiết câu truyện thì đơn giản. Đọc Kiều thì phải coi cái tinh hoa của truyện Kiều nằm ở thơ chứ không nằm ở cốt truyện. Kiều hay bởi những câu thơ đầy cảm xúc diễn tả một cách tài hoa tâm trạng của con người, đặc biệt là cái cách cụ Nguyễn Du lột tả trạng thái cảm xúc của con người, nhất là qua những lần yêu của Kiều. Mỗi lần ở một lứa tuổi, một tình cảnh, Kiều lại yêu bằng những xúc cảm khác nhau. Nhiều người tự hỏi Ai mới là người Kiều yêu nhất.

Ta nhớ Tố Như đọc chậm lại Kiều
Đọc chậm từng vầng trăng, từng nỗi buồn ly biệt
Ta yêu Nguyễn có lúc như gió lùa nhanh ào ạt qua đèo
Không hương rừng nào ngăn lại kịp
Nhưng có lúc yêu như đêm mưa rét
Nghe nước nhỏ từng giọt con giọt một trước hiên nhà
Nhà thơ lớn ư? Là để cho nhân loại yêu mình bằng mọi cách
Khi thì nâng niu. Khi thì hạch sách
Khi giày vò mỗi chữ
Khi trân trọng ngắm từ xa
Nhà thơ vẫn vẹn nguyên qua trăm lần thử lửa
Yêu mà!


<Trích “Thơ bình phương - đời lập phương” – Chế Lan Viên>

mối tình cuối cùng với Từ Hải.png

(Ba lần Thúy Kiều yêu, ai mới là người nàng yêu nhất?)

Nếu nén tiểu thuyết lại ta sẽ có một truyện ngắn. Nếu nén truyện ngắn lại ta sẽ có thơ. Điều đó có nghĩa là: Thơ nhằm diễn tả sự dồn nén của cảm xúc của con người chứ không phải là để kể lại một quá trình. Đấy là nhiệm vụ của văn xuôi. Mà diễn tả những cung bậc cảm xúc của con người thì tôi nghĩ không thể có ai vượt qua được Kiều. Trong Truyện Kiều, mọi cung bậc cảm xúc, mọi trạng thái tình cảm của con người đều được Nguyễn Du đề cập đến một cách tinh tế đầy biểu cảm.

Trước tiên ta hãy nói đến tình yêu, một tình cảm không thể thiếu, mạnh mẽ đầy xúc cảm của con người. Kiều yêu tất cả ba lần và cả ba lần là rất khác nhau .

Ai cũng nghĩ rằng: Mối tình đầu là đẹp đẽ , thơ mộng và mạnh mẽ nhất nhưng tôi cho rằng họ đã nhầm. Có thể đẹp đẽ, có thể thơ mộng nhưng mạnh mẽ nhất thì không! Không tin xin mời họ đọc lại kiều . Với Kiều, mối tình cuối cùng với Từ Hải mới là mối tình đằm thắm và mạnh mẽ nhất. Khi đọc câu thơ:

“Xăm xăm rẽ lối vườn khuya một mình”

Chúng ta đã vội cho rằng Kiều phải dũng cảm lắm , mối tình này phải mãnh liệt lắm thì Kiều mới dám bước qua cái lễ giáo “Nam nữ thụ thụ bất thân” như thế. Xin hãy đọc câu

“Giữa vòng tên đá bời bời.
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.”


Hãy để ý đến hai từ “Bời bời”. Mấy ai có thể đứng khóc chồng giữa cảnh tên bay đạn lạc như vậy? Giữa một trận mưa tên, hình ảnh người đàn bà đứng khóc chồng gây cho chúng ta những cảm xúc gì? Nhưng hãy nghe đoạn Kiều khóc chồng ta mới thấy được cái tình yêu vừa mặn nồng, vừa son sắt, vừa mãnh liệt của Kiều đối với Từ Hải.

“Khóc rằng trí dũng có thừa.
Vì nghe lời thiếp nên cơ hội này.”


Ta phải hiểu sao về hai từ “Cơ hội” mà Nguyễn Du đã dùng ở đây? Chúng ta chỉ có thể hiểu rằng “ Chàng ơi! Chàng thừa trí dũng nhưng chỉ vì nghe lời thiếp mà bọn khốn nạn này mới có “ Cơ hội” giết chàng. Một tiếng khóc? Đúng rồi ! Nhưng còn hơn thế nữa đây là một tiếng chửi thẳng vào mặt lũ người chiến thắng. Cái gì cho Kiều cái dũng khí ấy? Bởi vì lúc này Kiều không thiết sống nữa.

“Mặt nào trông thấy nhau đây.
Thà liều sống chết một ngày với nhau
Dòng thu như dội cơn sầu.
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.”


Kiều tự sát! Nàng không tự sát vì mới tình đầu nhưng lại tự sát vì mối tình cuối cùng của cuộc đời mình.

Còn Từ Hải? Từ Hải chết đứng vì h.ận, mà người đầu tiên Từ hải hận chắc chắn phải chính là Kiều vì nàng chính là nguyên nhân của sự thảm bại này và sau đó mới là hận chính mình. Một sai lầm như của Kiều thì ta luôn nghĩ rằng không một ai có thể tha thứ. Nhưng chúng ta lại một lần nữa nhầm. Từ Hải đã tha thứ cho Kiều.

Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.

Nếu chỉ dịch lên phía trên một vài câu thôi ta sẽ thấy Nguyễn Du tả cái chết đứng của Từ Hải.

Trơ như đá, vững như đồng.
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.


Thế nhưng. “Nàng vừa phục xuống”, thì lập tức cái bức tượng đá không ai lay chuyển được ấy cũng đổ theo. Từ Hải đã tha thứ cho người vợ của mình. Thế mới biết, họ hiểu nhau, yêu thương nhau với một tình yêu vừa say đắm, vừa mãnh liệt. Họ có thể chết vì nhau và hơn thế! Họ sẵn sàng tha thứ cho nhau. Giữa chết và tha thứ bạn nghĩ cái nào khó khăn hơn? Tôi nghĩ với những người sống trong tận cùng đau khổ lựa chọn cái chết là một sự lựa chọn dễ dàng. Trên đời này liệu có tình yêu nào mãnh lệt hơn thế?

Giữa cái thời buổi mà “Gái ngoan chỉ có một chồng” thế mà Nguyễn Du dám để cho Kiều yêu những ba lần. Ba lần Kiều đều yêu chứ không phải chỉ là “Bị làm vợ”. Nhưng mỗi lần yêu, cái cung bậc cảm xúc trong kiều là khác hẳn. Cái tài của Nguyễn Du là nằm ở chỗ đó. Mối tình đầu với kim trọng là một tình yêu chỉ thuộc về cảm xúc. Nó đẹp, thơ mộng và sét đánh. Ngay từ cái nhìn đầu tiên họ đã “ Phải lòng” nhau. Cái câu “ Tình trong như đã, mặt ngoài còn e” kể cũng là hay rồi nhưng nó chưa phải là câu tuyệt đỉnh nhất để diễn tả một cảm xúc đột ngột dâng trào trong một mối tình sét đánh. Đấy phải là câu “ Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê” Chỉ có sáu từ nhưng câu thơ được ngắt làm ba nhịp như những đợt sóng nối tiếp nhau xô đẩy Kiều vào những trạng thái tình cảm trái ngược. Ai đã được sống trong tâm trạng này chưa? Chưa! Chỉ có Kiều mới được sống trong tâm trạng này vì nàng chính là con đẻ của cụ Nguyễn Du.

Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.

Tại sao lại là khách đà lên ngựa mà không phải là “ Người đà lên ngựa” ? Họ tình cờ gặp nhau trên đường, chẳng ai là chủ mà cũng chẳng ai là khách. Từ khách, có cái gì đó xa lạ,có khoảng cách còn tiếng “ người” lại có một cái gì gần gũi thân thiết vậy sao cụ Nguyễn du không dùng tiếng “ Người” mà lại đi dùng tiếng “Khách” ? Và đây chính là sự tuyệt đỉnh về diễn tả tâm lí của một thiên tài . Người “ Ghé theo” Là Kiều và nàng đang cố kéo mình ra khỏi “cơn mê”. Nàng đang tự lừa dối chính mình : “Thôi đi! anh ta chỉ là một người xa lạ, một người khách qua đường”. Lúc Kiều tự dối lòng mình chính là cái lúc Kiều hiểu mình rõ nhất:

Người mà đến thế thì thôi.
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
Người đâu gặp gỡ làm chi.
Trăm năm biết có duyên gì hay không?


Hình như có một chút gì như là linh cảm ở đây. Họ chưa nói với nhau một lời, kiều vẫn chỉ là trong cái “Cơn mê” của mình nhưng trong cái cơn mê ấy đã thấp thoáng một chút sợ hãi bên trong.

Ngày trước, đọc vội vàng của Nguyễn Bính.

Ai làm gió cả đắt cau.
Nửa đêm sương muối để trầu đổ non.


Tôi cứ tưởng rằng Nguyễn Bính là người đầu tiên phát hiện ra sự sợ hãi vô cớ là một sắc thái nữa của tình yêu. Nhưng hóa ra không phải. Nguyễn Du đã phát hiện ra điều này trước Nguyễn Bính hơn hai trăm năm. Có lẽ chính sự sợ hãi vô cớ này mới chính là nguyên nhân dẫn đến giấc mơ của Kiều. . Trong vô thức, cái nỗi sợ hãi vô cớ của tình yêu đã kết nối với hình ảnh đạm tiên lúc chiều và đưa nàng đến giấc mơ .

Thoắt đâu thấy một tiểu Kiều.
Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân.
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.


Ai bảo Hàn Mặc Tử là nhà thơ siêu thực đầu tiên của Việt Nam? Sai rồi! Nguyễn Du mới là nhà thơ siêu thực đầu tiên của mảnh đất này. Bốn câu thơ này chính là dạng thơ siêu thực đấy. Thơ siêu thực là thể thơ diễn tả những cái không có thực trong cuộc đời,nó chỉ có trong tâm thức của nhà thơ chính vì vậy chúng ta không thể hiểu nó bằng tư duy mà chúng ta chỉ có thể cảm nó. Chính vì vậy thơ siêu thực rất khó bình và khó thuộc. Nguyễn Du hơn họ Hàn chính là ở điểm này. Không có nhiều người nhận ra đây là bốn câu thơ siêu tực, người ta dễ dàng chấp nhận nó và thuộc nó cũng rất dễ dàng.

Nguyễn Du là bậc thầy về thơ. Với thơ thì đừng nói toẹt ra tất cả hãy giấu những cảm xúc ấy vào những hình tượng được đặt cạnh nhau để chúng tự nói lên điều muốn nói. Còn chúng ta, người đọc, lại phải rất tinh ý mới có thể khám phá ra những viên ngọc long lanh được dấu kín trong những thứ tưởng như rất bình thường. Mối tình Kim Kiều là một mối tình đẹp đầy cảm xúc nên dễ cảm, dễ viết và đã có rất nhiều người viết về mối tình này rồi nên tôi chỉ nói sơ qua và chỉ nói những điều chưa một ai viết đến

Mối tình thứ hai của Kiều ngược lại, lại hoàn toàn là lí trí , cuộc sống ở chốn lầu xanh, gặp biết bao kẻ như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, nàng đã mất hết lòng tin vào những gã đàn ông đang lân là ở chốn này và Thúc Sinh cũng không nằm ngoài cái cảm giác đó. Cho nên Kiều đã bảo với Thúc Sinh khi anh chàng ngỏ lời muốn lấy nàng làm vợ

Thiếp như hoa đã lìa cành.
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.



Rồi ra nhạt phấn phai hương.
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?


Kiều đã lường trước tất cả những điều sẽ đến với mình. Tuy không yêu Thúc Sinh nhưng với mong muốn thoát khỏi kiếp sống lầu xanh mà nàng đã nhận lời . Khi ấy, nàng hiểu rất rõ : Thúc Sinh chỉ là một cánh bèo để cho một cô gái sống dưới đáy của xã hội nhưng mong muốn thoát ra như kiều bấu vào. Một cánh bèo mong manh chở theo một hi vọng mong manh.

Nhưng rồi trong quá trình chung sống, tình yêu đã một lần nữa đâm chồi. Nhưng tình yêu nảy mầm từ những toan tính thì tất nhiên nó không thể thơ mộng và mãnh liệt. Mối tình của kiều với thúc sinh không có gì để nói. Nó nhạt nhẽo và vô vị . Nhưng nó là tình yêu, chúng ta không thể nói khác khi đọc câu thơ câu


Vầng trăng ai xẻ làm đôi.
Nửa in gối chiếc nửa soi dăm trường.


Dùng tình yêu sẻ đôi vầng trăng, để mỗi người mang theo một nửa của mính,người duy nhất làm được điều ấy là Nguyễn Du. Chỉ riêng điều ấy thôi đã là tuyệt vời lắm rồi nhưng hãy liên tưởng rộng ra hơn một chút , “ Nửa in gối chiếc” Nửa ấy là của ai? Của Kều chăng? Nhầm rồi! Nửa ấy là của Thúc Sinh đấy. “ Nửa soi dăm trường” là của ai? Của Kiều đấy. Mỗi người không mang theo một nửa vầng trăng của mình mà lại mang theo một nửa vầng trăng của người kia. Có câu thơ nào diễn tả tình yêu đẹp hơn thế? Say đắm hơn thế? Về mặt thơ mà nói đây là những vần thơ nói về tình yêu đẹp và hay nhất Việt Nam. Nhưng về truyện mà nói thì đây là một điều đáng tiếc của Nguyễn Du. Lẽ ra, một câu thơ hay như vậy phải dành cho mối tình của Thúy kiều với Kim Trọng hay của Thúy Kiều với Từ Hải thì hợp lí hơn.

Có lẽ mối tình đáng nói đến nhất lại là mối tình cuối cùng của Kiều. Mười năm lưu lạc trải qua bao tủi nhục, gặp bao nhiêu kẻ sở khanh, niềm tin vào đàn ông trong nàng đã chết hẳn. Ấy thế nhưng khi gặp Từ Hải thì.

Hai mắt cùng liếc , hai lòng cùng ưa.

Đọc câu này làm ta lại nhớ đến câu “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e” khi Thúy Kiều gặp Kim Trọng. Rõ ràng nàng Kiều lúc này đã khác hẳn với nàng Kiều của mười năm về trước. Một nàng Kiều dày dạn hơn, kinh nghiệm hơn. Từ “Liếc” đã bảo cho chúng ta điều đó. Ngày trước, Kiều quyến rũ đàn ông bởi cái nhan sắc chim sa cá lặn, bởi cái e ấp của người con gái trong trắng “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” Thì mười năm sau , còn hơn thế, Kiều quyến rũ đàn ông còn bởi sự tinh quái, lọc lõi về tâm lí đàn ông mà mười năm chốn lầu xanh đã dạy cho nàng.

Thưa rằng lượng cả bao dong.
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen


Đây không phải là kiểu tình yêu sét đánh như hồi Kiều gặp Kim Trọng. Kiều bị chinh cuốn hút bởi cái dung mạo của một kẻ anh hùng, “Vai năm tấc rộng , thân mười thước cao”. Nhưng trên hết Kiều bị sự tự tin một cách mạnh mẽ vào chính bản thân mình của Từ Hải chinh phục:

Lại đây xem lại cho gần.
Phỏng tin có được vài phần hay không?


Lại đây! Hãy nhìn mặt ta cho kĩ xem thử nàng có tin được ta chăng? Cách nói với một cô gái kiểu này chỉ có được ở một người đầy tài năng và người đó rất tự tin vào tài năng của mình. Một người biết mình nằm ở đâu trong cuộc đời này. Nhưng khi nghe Kiều đáp:

Tấn dương được thấy mây rồng có phen.

Nên nhớ đây là ý Kiều tán dương “Có khi người làm vua cũng nên” Làm vua ! Một việc thiên nan, vạn nan trong hàng trăm triệu con người chỉ một người có thể làm đuợc việc đó. Lời nói của Kiều lúc đó là không thật lòng mà nó chỉ phát ra theo một thói quen của những cô gái lầu xanh phải tán dương để đưa đẩy với khách hàng. Từ Hải biết rõ điều đó. Với một người bình thường, anh ta sẽ phải gạt đi ngay “Không thể có điều đó” hay “Cám ơn nàng đã quá đề cao ta” Nhưng Từ Hải không thế.

Khen cho con mắt tinh đời.
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.


Chỉ có những con người mang trong mình một hoài bão lớn, có một tài năng lớn nhưng trên hết người đó phải tự tin vào chính mình mới có thể nói như vậy với một cô gái mình yêu. Hãy quay lại đoạn Sở Khanh nói với Thúy Kiều để ta thấy rõ được cái khác nhau giữa một kẻ đê tiện và một người anh hùng.

Tức gan riêng giận trời già.
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng.
Thuyền quyên ví biết anh hùng.
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi.


Rất lên gân, nhưng là cái lên gân của một kẻ tầm thường mà chúng ta, những người đọc ai cũng có thể nhận ra nhưng còn Kiều thì không.

Hãy so sánh câu của Sở Khanh

Nàng đà biết đến ta chăng.
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi.


Và ngay sau đó, Sở Khanh lấp bể trầm luân bằng cách rủ Kiều đi trốn.

Và câu của Từ Hải

Một lời đã biết đến ta.
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau


Một người đàn ông như thế cô gái nào mà chẳng bị chinh phục.
Mối tình của một cặp trai tài gái sắc tất nhiên là nó sẽ đẹp và đẹp nhất trong các mối tình của Kiều:

Cùng nhau trông mặt cả cười.
Đan tay về chối đình mai tự tình.


Hãy để ý đến từ “Đan tay”. Đây là sự vui mừng của cả hai người . Sự khao khát của cả hai người. Và tình yêu đã làm cho một cô gái cả cuộc đời sống trong đau khổ lần đầu tiên biết cười.

<Nguyễn Thế Duyên>
Thêm
Ba lần Thúy Kiều yêu
  • Like
Reactions: Vanhoctre
1K
1
1

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top