Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
I. Mở bài:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- Và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Đặc biệt, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã giúp ta cảm nhận được bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du.

- Điều đó được thể hiện qua 8 câu thơ cuối.

II. Thân bài

1. Khái quát đoạn trích

- Sau khi biết mình rơi vào lầu xanh, Kiều thấy tủi nhục rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lãi đã vờ hứa đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới.

- Ở những câu thơ trước, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp nhưng hoang vu, vắng lặng thiếu hơi ấm của cuộc sống con người. Kiều cảm thấy cô đơn, buồn tủi nơi đất khách. Trái tim nàng hướng về những người thân yêu. Nhớ đến Kim Trọng ngày đêm trông ngóng, nàng đau khổ, dằn vặt vì đã phản bội lời thề năm xưa. Nàng thương cha mẹ tuổi già hiu quạnh, không người kề cận mà xót xa trong lòng.

- Đoạn thơ là tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đứng trên lầu cao Kiều nhìn ra bốn phía với hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Thế nhưng, nàng càng mong đợi, lại càng thấy xa vời, mờ mịt hơn. Bốn lần Kiều nhìn ra xa là bốn lần cảnh vật thay đổi. Mỗi bức tranh là mỗi bức tâm trạng, tất cả tạo nên lớp lớp sóng lòng đang trào dâng trong tâm hồn người con gái tha hương.

2. Phân tích 8 câu thơ

- Đoạn thơ chia ra làm bốn cặp lục bát, mở đầu mỗi cảnh là điệp từ “buồn trông” xuất hiện với âm hưởng trầm buồn, báo hiệu biết bao sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều.

* LĐ 1: Mở đầu đoạn thơ là bức tranh nơi cửa biển chiều hôm:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

- “cửa bể” gợi lên không gian mênh mông, rộng lớn đến rợn ngợp.

- “Chiều hôm” là chiều tà, thời gian ước lệ trong thơ ca trung đại gợi lên nỗi buồn man mác. Đây là thời điểm cuối ngày, khi mặt trời sắp tắt, mỗi người thường nhớ về gia đình và quê hương.

- Nguyễn Du khéo léo kết hợp thời gian, không gian ấy tạo nên khung cảnh đìu hiu làm nền cho sự xuất hiện của con thuyền.

- Hình ảnh con thuyền khiến ta liên tưởng đến những chuyến đi xa, trôi dạt giữa biển rộng sông dài.

- Không phải là đoàn thuyền tấp nập ra khơi mà là “thuyền ai”, nghĩa là một chiếc thuyền lẻ loi, chơi vơi giữa mênh mông sóng nước.

- Nguyễn Du đã sử dụng hai từ láy “thấp thoáng”, “xa xa” để nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, mờ ảo của con thuyền. Con thuyền ấy, cánh buồm ấy dẫu có đi xa nhất định sẽ có ngày cập bến. Còn Thúy Kiều thì trôi dạt lênh đênh không biết bao giờ mới được đoàn tụ gia đình. Như vậy hình ảnh con thuyền, cánh buồm là ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều xa nhà, xa quê. Nhìn vào cảnh vật ấy lòng Kiều cảm thấy nhớ nhà da diết với khát khao được đoàn tụ, sum họp gia đình.

* LĐ 2: Bức tranh thứ hai, Nguyễn Du khắc họa cảnh dòng nước với đóa hoa trôi. Cảnh vật được nhìn bằng ánh mắt sầu não đến ghê gớm, trước mắt nàng lại hiện lên cảnh tan tác, chia lìa:

“Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

- “Ngọn nước mới sa” gợi lên hình ảnh dòng nước đang cuồn cuộn đổ từ trên cao, tung bọt trắng dữ dội đang ập xuống.

- Giữa dòng nước đang chảy phía dưới chân Kiều, những cánh hoa đang xoay tròn rồi bị cuốn trôi đi.

- “Hoa” là biểu tượng cho phái đẹp những cũng rất mong manh, sớm nở tối tàn. Hoa chỉ đẹp khi ở trên cành, còn ở đây là hoa trôi một cách thụ động. Nếu sóng yên biển lặng thì hoa sống đời trôi nổi. Còn nếu gặp sóng to, gió lớn thì hoa sẽ bị vùi dập tan nát. “Hoa” chính là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều mong manh, trôi nổi giữa dòng đời vô định. Nếu như bị sóng gió vùi dập thì cuộc đời Kiều cũng tan nát như hoa.

- Từ láy “man mác” gợi tả sự chuyển động mềm mại, nhẹ nhàng, dập dờn của những cánh hoa.

- Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” cho thấy sự mất phương hướng, gợi một nỗi băn khoăn thấp thỏm của Thúy Kiều.

- Nguyễn Du đã kết hợp từ láy với câu hỏi tu từ để nhấn mạnh tâm trạng lo lắng của Kiều trước dòng đời đen bạc.

* LĐ 3: Nhìn về cửa bể, dòng nước không thấy chút niềm thân mật an ủi, Kiều trở về với đám cỏ đôi bờ:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

- Cảnh vật có màu sắc, có đường nét nhưng lại gợi lên âm hưởng buồn ảm đạm. Hình ảnh “cỏ” đã xuất hiện nhiều lần trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn đầy sức sống trong ngày hội xuân “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đâu còn nữa mà thay vào đó là màu của sự tàn tạ, héo úa.

- Từ láy “rầu rầu” vẽ nên cả một vùng cỏ cây tàn héo và gợi nỗi sầu thương cô lẻ.

- Tác giả sử dụng từ láy “xanh xanh” diễn tả màu xanh nhợt nhạt thiếu sức sống. Nhìn từ xa đến gần, từ chân mây đến mặt đất, tất cả không gian đều nhuốm một màu xanh rợn ngợp. Nhưng màu xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu. Với nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã dự cảm về tương lai của Kiều mờ mịt, đen tối.

- Màu cỏ héo úa như sắp tàn lụi như sắp từ biệt vũ trụ, kết thúc cuộc đời ngắn ngủi.

- Màu cỏ hay cũng chính là tâm hồn của Thúy Kiều đang héo úa, rệu rã trước cuộc đời. Phải chăng trong dòng nước mắt cô đơn và tủi cực mà cái nhìn của nàng chán chường, bế tắc, tuyệt vọng.

* LĐ 4: Đến bức tranh cuối cùng, một lần nữa nàng Kiều lắng lòng mình để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những thứ nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh khủng khiếp:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

- Hai câu thơ Nguyễn Du đã miêu tả bức tranh sóng gió biển khơi. Thiên nhiên ở đây không còn êm đềm, tĩnh lặng mà trở nên thật dữ dội.

+ Không phải gió thổi mà là “gió cuốn”- là gió lốc trong những ngày giông bão thổi mạnh, bốc lên cao, mù mịt, cuồn cuộn như 1 trận cuồng phong.

+ Không phải sóng xô, sóng vỗ mạn thuyền mà là “sóng kêu”. Tiếng sóng không còn ở nơi xa nữa mà tiến sát gần Kiều. Dường như xung quanh Kiều là những cơn sóng to, gió lớn như những tai họa sắp ập tới.

- Tác giả sử dụng các động từ mạnh “cuốn, kêu”, nghệ thuật đảo ngữ từ tượng thanh “ầm ầm” đưa lên đầu câu để nhấn mạnh sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên.

- Sóng ở đây có thể là sóng gió biển khơi hay chính là sóng gió cuộc đời đang bủa vây, vồ vập đến nàng. Thiên nhiên đang gào thét hay chính sự gào thét trong lòng Kiều. “Sóng và gió” là hình ảnh ẩn dụ về cuộc đời của Kiều sau này trắc trở, trầm

luân. Câu thơ giúp ta cảm nhận được nỗi sợ hãi, hoảng loạn của Kiều đến không còn sức sống.

- Mở đầu mỗi bức tranh là điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn cho đoạn thơ. “buồn trông” là vừa buồn vừa trông ra xa để trông chờ, mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn. Dường như mỗi lần Kiều trông ra xa là một lần Kiều thất vọng và thất vọng ấy ngày càng nặng nề hơn.

- Cảnh vật và tâm trạng trong bốn bức tranh đều có sự thay đổi theo trình tự tăng tiến. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm. Âm thanh từ tĩnh đến động. Nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều.

* LĐ chốt.

- Đoạn trích không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng nhân vật.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ, đảo ngữ, câu hỏi tu từ, từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm”, các động từ, tính từ giàu sức gợi hình biểu cảm.

- Qua những nghệ thuật đó, Nguyễn Du đã làm nổi bật bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật mong manh, dạt trôi, dữ dội. Lòng người chao đảo, nghiêng đổ cuối cùng hoàn toàn rơi vào bế tắc, tuyệt vọng đến tận cùng. Kiều bất lực, buông xuôi trước thực tại phũ phàng. Bởi thế, nàng ngây thơ mắc lừa Sở Khanh để rồi nàng bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc đời: “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”.

III. Kết bài

- Khép lại đoạn thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến tâm trạng cô đơn, buồn tủi, lo lắng, sợ hãi đến hoảng loạn của Thúy Kiều trước thiên nhiên rộng lớn.

- Ta còn ấn tượng bởi tấm lòng nhân đạo, cảm thương sâu sắc sắc mà Nguyễn Du dành cho người con gái hồng nhan bạc mệnh.

- Với đoạn trích này, Nguyễn Du đã khẳng định tài năng bậc thầy trong việc sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Có lẽ vì thế, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Thêm
79
0
0
1. MB:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Trong đó, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã giúp ta cảm nhận được cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều dành cho những người thân yêu.

2. TB:

* Khái quát chung:

- Đoạn trích nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc”, sau khi biết mình rơi vào lầu xanh, Kiều thấy tủi nhục rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lãi đã vờ hứa đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới.

- Với nghệ thuật miêu tả nội tâm, tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp nhưng hoang vu vắng lặng, tấm lòng Kiều tan nát, ngổn ngang trăm mối tơ vò. Kiều nhớ về Kim Trọng, nhớ về cha mẹ với những phẩm chất đáng tự hào.

* LĐ 1: Sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã miêu tả cảnh thiên nhiên lầu Ngưng Bích và tình cảnh của nàng Kiều.

- Mở đầu đoạn trích, nhà thơ viết:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

- “Khóa xuân” nghĩa là khóa kín tuổi thanh xuân.

- Từ “khóa xuân” thường được sử dụng để chỉ hoàn cảnh của những người con gái trong gia đình quyền quý thời xa xưa bị khóa kín tuổi xuân trong những khuôn khổ, phép tắc của gia đình và xã hội. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng từ “khóa xuân” với hàm ý mỉa mai để nói về cảnh ngộ xót xa, trớ trêu của Thúy Kiều.

- “Ngưng Bích” là nơi màu xanh đọng lại, ngôi lầu ngay cạnh bờ biển. Tên ngôi lầu gợi lên sự thơ mộng, lãng mạn nhưng lại là nơi giam lỏng Thúy Kiều. Còn gì đau đớn

hơn khi đang độ xuân sắc, căng tràn nhựa sống Kiều lại phải chịu cảnh giam giữ, mất tự do?

- Câu thơ khiến người đọc xót xa trước tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều: quá khứ gia biến, hiện tại mất tự do, tương lai mờ mịt đen tối.

- Những câu thơ tiếp, tác giả khắc họa bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích dưới con mắt đầy tâm trạng của Thúy Kiều:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

- Đứng trên lầu cao nàng đưa mắt nhìn cảnh vật. Nàng thấy dãy núi mờ xa, thấy vầng trăng khi tròn khi khuyết trên bầu trời.

- “non xa, trắng gần” có thể là cảnh thực cùng trong một vòm trời, mà cũng có thể là hình ảnh mang tính chất ước lệ để gợi sự mênh mông rợn ngợp của không gian. Hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mông trời nước đã diễn tả tình cảnh cô đơn của Thúy Kiều.

- Nàng chỉ biết bầu bạn với núi, với trăng. Song những người bạn vô tri, vô giác ấy cũng không thể nào san sẻ nỗi buồn đang chất chứa trong lòng Kiều.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

- Nguyễn Du sử dụng từ láy “bát ngát” diễn tả không gian rộng lớn, vô cùng, vô tận.

- “xa trông” gợi lên sự trông ngóng của Thúy Kiều để tìm bóng hình quen thuộc, để hi vọng về một tương lai phía trước.

- Nhưng cái mà Kiều nhìn thấy chỉ là “cát vàng, bụi hồng” nằm ngổn ngang. Cảnh vật ở đây có màu vàng của cát, có màu hồng của bụi, có đường nét, có hình khối nhưng thiếu âm thanh, thiếu hơi ấm của cuộc sống con người vì thế nó trở nên hoang vu, vắng lặng. Và cảnh vật ấy càng tô đậm sự cô đơn lẻ loi của nhân vật Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

- Nếu như hai câu thơ trên tả cảnh thì hai câu thơ dưới tả tình:

Bẽ bàng mấy sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

- Cái hay trong câu thơ là Nguyễn Du sử dụng từ láy, đảo ngữ “bẽ bàng” nghĩa là xấu hổ, tủi thẹn. Kiều vốn là tiểu thơ khuê các, lá ngọc cành vàng có ý thức về nhân cách và danh dự. Vậy mà giờ đây Kiều phải bán mình, bị rơi vào lầu xanh nhơ nhớp. Nghĩ đến hoàn cảnh ấy nàng vô cùng đau đớn, tủi nhục, buồn thương cho chính thân phận mình.

- “mây sớm đèn khuya” là hình ảnh gợi thời gian tuần hoàn khép kín, thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Sáng Kiều làm bạn với mây, tối làm bạn với đèn, nàng cứ thui thủi một mình, không người bầu bạn. Câu thơ đã nhấn mạnh nỗi cô đơn đến tột cùng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đất khách quê người.

- Cảnh buồn, tình buồn hòa nhập vào nhau thành nỗi buồn chất ngất trong lòng Kiều. Đặc sắc trong đoạn thơ là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình miêu tả thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng của con người. Đúng như Nguyễn Du đã viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

- Sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật tả cảnh, tả cảnh ngụ tình, các hình ảnh giàu sức gợi để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp đẽ, thơ mộng nhưng hoang vắng. Cảnh vật ấy càng tô đậm tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều với bao niềm tâm sự đau thương.

* LĐ 2: Tám câu thơ tiếp, Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho những người thân yêu.

- Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi, Kiều hướng về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những

lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ.

* Trước hết là nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng - mối tình đầu trong trắng, đẹp đẽ:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

+ Từ “tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.

+ “Người dưới nguyệt chén đồng” là hình ảnh hoán dụ để chỉ Kim Trọng, người cùng với Thúy Kiều nâng chén rượu thề nguyền dưới ánh trăng:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

- Vầng trăng xưa vẫn còn đó, lời thề xưa vẫn còn đó, vẫn khắc sâu trong trái tim hai người. Vậy mà giờ đây cuộc đời Kiều đã rẽ sang một hướng khác. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.

- Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, ngày đêm mong chờ tin tức của nàng nhưng tin tức ấy mong manh mờ ảo như sương khói mùa thu.

- Vừa hồi tưởng quá khứ vừa nhớ về Kim Trọng, nàng tự trách mình là một kẻ phụ tình, phản bội lời thề năm xưa. Câu thơ giúp ta cảm nhận được tâm trạng của Kiều đau đớn, dằn vặt như giằng xé tâm can.

- Càng nhớ Kim Trọng, càng nuối tiếc mối tình đầu, Kiều càng thấm thía tình cảnh của mình:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

- Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ biến thể “bên trời góc bể” để chỉ tình cảnh của Thúy Kiều trôi dạt nơi đất khách quê người, không biết đến bao giờ mới được đoàn tụ cùng gia đình.

- Từ láy “bơ vơ” như tô đậm thêm nỗi cô đơn lẻ loi của người con gái tha hương.

- Tấm thân trong trắng của Kiều đã bị hoen ố không thể nào gột rửa cho sạch khiến nàng cảm thấy áy náy, dày vò chính bản thân.

- Đặc sắc trong câu thơ là nghệ thuật ẩn dụ “tấm son” để chỉ tấm lòng thủy chung son sắt của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Dù cuộc đời có đổi thay, dù Kiều có bị sóng gió dập vùi thì tấm lòng của nàng không bao giờ thay đổi.

- Với những từ Hán Việt, nghệ thuật miêu tả nội tâm, Nguyễn Du khắc họa sinh động những tâm tư, tình cảm của Thúy Kiều về mối tình đầu dang dở. Nhớ về Kim Trọng rồi nàng lại nghĩ về tình cảnh của mình để rồi xót thương cho người mình yêu. Qua đó ta thấy tình cảm của Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng sâu sắc và mãnh liệt.

* Day dứt nhớ người yêu, Kiều lại thổn thức nhớ về cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

- Chỉ một từ “xót” cũng đủ để ta hiểu được nỗi lòng của Kiều khi hướng về cha mẹ. “Xót” là đau đớn, xót xa như sát muối vào lòng. Nỗi nhớ của tình máu mủ ruột rà khiến con người ta hao mòn cả hình hài cơ thể.

- “Người tựa cửa hôm mai” là hình ảnh hoán dụ để chỉ cha mẹ Thúy Kiều ở quê nhà. Cứ mỗi sáng, mỗi chiều cha mẹ lại tựa cửa trông xa thương nhớ, lo lắng, trông chờ tin tức của đứa con gái trong vô vọng. Nghĩ đến tình cảnh ấy Kiều cảm thấy vô cùng xót xa.

- Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” nói về đạo hiếu của những người làm con: Mùa hè quạt mát, mùa đông tạo hơi ấm cho cha mẹ nghỉ.

- Câu hỏi tu từ “những ai đó giờ?’” như xoáy sâu vào lòng người đọc, nhấn mạnh nỗi băn khoăn lo lắng của Kiều: Không biết ai sẽ là người thay mình chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ già?

- Hai câu thơ sau, Kiều suy nghĩ về bổn phận của đạo làm con:

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

- Điển tích “sân Lai, gốc tử” được vận dụng một cách khéo léo. Lão Lai Tử người nước Sở tuy già nhưng hàng ngày vẫn nhảy múa để mua vui cho cha mẹ. Ý thơ đã diễn tả tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.

- “nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ thời gian xa cách, sự tàn phá của thiên nhiên. Câu thơ cho ta thấy cha mẹ Kiều đã ngày một già yếu. Ở phương xa nàng luôn băn khoăn và tự trách mình không làm tròn chữ hiếu của đạo làm con.

- So với Kim Trọng và cha mẹ, Kiều là người đau khổ và đáng thương nhất: quá khứ gia biến, hiện tại bị chà đạp, mất tự do, tương lai thì mờ mịt. Nhưng nàng đã nén nỗi đau của mình để quan tâm, lo lắng cho những người thân yêu. Không chỉ thủy chung, hiếu thảo, nàng còn là người con gái giàu đức hi sinh. Ở cương vị nào Thúy Kiều đều tỏa sáng những phẩm chất tốt đẹp.

* Nhận xét về trình tự nỗi nhớ:

- Kiều đã từng cân nhắc “Bên tình, bên hiếu bên nào nặng hơn?” Để rồi nàng đưa ra quyết định “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha và em, gia đình Kiều đã tạm thời yên ổn. Nàng đã phần nào báo đền được chữ hiếu.

- Còn về phần Kim Trọng nàng cảm thấy có lỗi vì đã phụ tấm lòng của chàng Kim. Hơn nữa mỗi tình đầu lúc nào cũng nồng nàn cháy bỏng. Vì thế nàng đã nhớ về Kim Trọng trước, nhớ về cha mẹ sau. Trình tự ấy tưởng chừng vô lí nhưng lại rất có lí khi đặt vào hoàn cảnh của Thúy Kiều.

* LĐ chốt:

- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của Nguyễn Du là nghệ thuật tả cảnh, tả cảnh ngụ tình, miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm, thành ngữ, điển cố, điển tích; các biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ…

- Qua những nghệ thuật ấy Nguyễn Du đã tái hiện bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích, đồng thời giúp ta hiểu được những tâm sự của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở nơi đây.

3. KB:

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp nhưng hoang vu, vắng lặng thiếu âm thanh của sự sống.

- Ta còn nhớ đến nàng Kiều với cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi cùng tấm lòng thủy chung, hiếu thảo dành cho những người thân yêu.

- Nguyễn Du thấu hiểu và đồng cảm với tâm tư, tình cảm của nhân vật Thúy Kiều phải chăng đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm?
Thêm
179
0
0
1. Vị trí đoạn trích:

- Đoạn trích nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc”, sau khi biết mình rơi vào lầu xanh, Kiều thấy tủi nhục rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lãi đã vờ hứa đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới.

2. Các luận điểm chính:

+ Sáu câu đầu: Bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích và tình cảnh cô đơn, buồn tủi của Kiều

+ Tám câu tiếp: Nỗi nhớ của Kiều dành cho những người thân yêu.

+ Tám câu cuối: Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.

3. Nội dung: Đoạn trích miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo, vị tha của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

4. Nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình; sử dụng ngôn ngữ độc thoại, các từ láy giàu sức gợi hình, biểu cảm; điển cổ, điển tích; các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ, câu hỏi tu từ.
Thêm
59
0
0

CHỊ EM THÚY KIỀU​

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Đại thi hào Nguyễn Du

Vị trí đoạn trích: Chị em Thúy Kiều

Vị trí đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới thiệu gia đình Thúy Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.

Kết cấu đoạn trích: 4 phần

+ Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều
+ Bốn câu tiếp: Gợi tả về đẹp Thúy Vân
+ Mười hai câu còn lại: Gợi tả về đẹp Thúy Kiều
+Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em

Giá trị nội dung và nghệ thuật

Giá trị nội dung
“Chị em Thúy Kiều” là khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Kiều, ca ngợi về đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.

Giá trị nghệ thuật: Thúy Kiều, Thúy Vân và nhân vật chính diện, thuộc Kiều nhân vật lý tưởng trong Truyện Kiều. Để khắc họa vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tà chi tiết cụ thể mà chủ yếu là để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật hình ảnh Thúy Kiều.

Giải nghĩa từ ngữ

Tố Nga: chỉ người con gái đẹp

Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên đáng, thanh cao, trong trắng.

Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như trăng tròn; nét ngài nở nang: ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Tiếng Việt có câu “mắt phượng mày ngài”

Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về người phụ nữ)

Làn thu thủy: làn nước mùa thu, nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân.

Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì người ta bị xiêu, ngỏanh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả, ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
Thêm
575
0
4

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
So sánh đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” với trích đoạn trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ta càng thấy được sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Du.

– Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân kể...
 

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
  2. hưnga @ hưnga:
    cho em hỏi xu có những tác dụng gì ạ
Top