Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
" Khó khăn rồi sẽ qua đi. Giống như cơn mưa ngoài cửa sổ, có tầm tã cỡ nào rồi cuối cùng cũng sẽ trời quang mây tạnh. "
[ Bảy Năm Vẫn Ngoảnh Về Phương Bắc - Ân Tầm ]

☘" Khi người ta thích một bài hát, một bộ phim hay một cuốn tiểu thuyết, nhất định sẽ tự tìm thấy hình ảnh của chính mình trong đó. "
[ Ai Hiểu Được Lòng Em ]

☘" Trên thế giới này có vô số kiểu tương lai, nhưng hiện tại thì chỉ có một. Không nắm giữ được hiện tại, tương lai có ý nghĩa gì. "
[ Sói Và Dương Cầm ]

☘" Một buổi sáng, có bao nhiêu người nhận thức được rằng mình thật là may mắn được thức dậy, được trời đất ban cho cả thị giác, xúc giác, thính giác và cả cảm giác? Có bao nhiêu người tạm quên được mọi lo toan để hưởng thụ cảnh tượng diệu kỳ này? Chúng ta phải thấy rằng, sự mất ý thức lớn nhất của con người chính là sự mất ý thức về cuộc sống của chính mình."
[ Nếu Em Không Phải Là Một Giấc Mơ ]

☘" Cũng phải, người ta phải luôn nếm trải cái không hạnh phúc, thì mới hiểu thế nào là hạnh phúc. "
[ Hóa Ra Anh Vẫn Ở Đây ]

☘" Đã từng khao khát một đời thanh thản, dễ chịu, từng theo đuổi cuộc sống ấm áp, song, suốt một đời người, ai có thể bình an đến già?”
[ Cho Ai Sánh Cùng Đất Trời ]

☘" Con người ai chả có số mệnh nhưng sợ hãi một tương lai chưa xảy ra mà quên mất đi hiện tại cần phải sống chẳng phải là một sự hèn nhát hay sao? "
[ Gu Family Book – Cửu Gia Thư ]

☘" Có mắt mà không nhìn thấy vẻ đẹp, có tai mà không thấy điều hay, có trái tim mà không thấy chân lý, chưa cảm kích thì chưa thể cháy hết mình."
[ Totto Chan Bên Cửa Sổ ]

☘"Hãy sống để không bao giờ phải nuối tiếc vì những ước mơ bạn không dám thực hiện, những cơ hội bạn không dám nắm lấy, tình yêu bạn không dám công nhận, yêu thương bạn không dám cho đi, hay tha thứ bạn không dám nhận về."
[ Sống và Khát Vọng – Trần Đăng Khoa ]

☘"Những thứ đẹp nhất trên thế giới không thể thấy và chạm vào được, chúng chỉ được cảm nhận bằng trái tim. "
[ Hoàng Tử Bé ]

☘"Khó khăn sẽ tạo nên hoặc hủy hoại con người. "
[ Cuốn Theo Chiều Gió ]


(st)
Thêm
253
3
1
Nhắc đến những nhân vật nữ “chán chồng” trong các tác phẩm văn học kinh điển, không thể bỏ qua hai cái tên lớn: ANNA KARENINA của Lev Tolstoy và BÀ BOVARY của Gustave Flaubert. Và với hai "bà" này, đáp án đúng là C.

Anna là một mệnh phụ phu nhân thuộc tầng lớp thượng lưu vốn quen sống hưởng thụ và giả tạo. Nàng xinh đẹp, thông minh, và trái tim khao khát tự do, hạnh phúc, nhưng lại có một cuộc hôn nhân sắp đặt với một người chồng cứng nhắc vô cảm. Trong xã hội của Anna Karenina, người ta dần coi ngoại tình như là một xu hướng của giới sang chảnh, cặp bồ công khai, sống trụy lạc như để khỏa lấp cuộc sống vương giả nhưng rỗng tuếch bê tha. Anna cũng ngã vào một mối tình như thế.

Emma Bovary xuất thân là một thiếu nữ nông thôn được học trong tu viện và đọc rất nhiều tiểu thuyết tình cảm. Với ước mong được làm vai nữ chính trong tiểu thuyết lãng mạn, được yêu thương bởi một người chồng tài năng, giàu có, hào hoa phong nhã, chí lớn, danh vọng đầy mình, luôn cùng nàng nói về những chủ đề bay bổng diễm lệ, nàng nhanh chóng chán ngán người chồng bác sĩ tầm thường nhạt nhẽo và tìm thú vui trong những cuộc tình.

Cuộc ngoại tình của cả Anna lẫn Emma đều kết thúc trong đau khổ. Nhân tình của Anna là một công tử bột được xã hội thượng lưu nuông chiều, và chính Anna cũng không đủ dũng cảm dứt bỏ địa vị, đặc ân của tầng lớp mình. Với Emma, nỗi đau lớn nhất đến từ sự vỡ mộng. Những cuộc tình dan díu nhanh chóng kết thúc trong sự chán nản và suy sụp về kinh tế khiến Emma tuyệt vọng phải tìm đến cái chết.

Thông qua hai cuộc đời bi kịch, cả Lev Tolstoy lẫn Gustave Flaubert đã khắc họa những người phụ nữ với khát khao hạnh phúc chính đáng, nhưng lại chọn cách đi trái với đạo đức xã hội, sống ích kỷ, phụ thuộc vào của cải vật chất, để rồi chịu kết cục bi thảm.

Nguồn: Nhã Nam
Thêm
346
2
0
Lê Lựu tự nhận mình là lão nông Khoái Châu. Ông tự hào về điều đó. Với bộ răng đen như cải mả, tóc tai bù xù, lối đi đứng thô vụng, Lê Lựu mang tác phong và dáng vẻ rành rành một lão nông không thể che giấu. Và ông cũng không muốn che giấu. Giữa thành phố hoa lệ như Moscow, Paris hay New York…lão nông ấy vẫn hỏi nhân viên khách sạn chỗ nào có điếu cày, ngô luộc. Con người ấy, dẫu khoác lên người comple Anh, giày Ý, nước hoa Pháp cũng không thay màu được.

Lê Lựu gặp Trần Đăng Khoa bên Liên Xô. Hỏi điếu cày, chè tươi, khoai lang đều không có. Ông bảo: Không có điếu cày, ngô luộc, chè xanh mà các bố sống sót qua được 7 năm ở đây. Con cũng đến lạy các bố.

Với phần lớn chúng ta, việc sinh hoạt theo Tây không quá khó, thậm chí còn là niềm thích thú. Riêng với lão nông Lê Lựu, sống phải ép mình theo sinh hoạt và ăn uống kiểu Tây, ông thà chết ngay còn hơn.

Đời cũng như văn. Tuy Lê Lựu, một nhà văn quân đội (ăn lương nhà nước) nhưng không ngậm miệng ăn tiền. Ông không thể che giấu nổi tiếng nói lương tâm và suy tư trăn trở trước nỗi thăng trầm đẩy bi kịch của thời đại.

Khác lối đi an toàn của Nguyễn Khải, Khuất Quang Thụy và Chu Lai, Lê Lựu không mất công ca ngợi Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, nhân dân hăng say chiến đấu – sản xuất. Người ta ca ngợi mãi rồi. Mình ca ngợi thêm làm gì? Lê Lựu là một trong số ít nhà văn (ăn lương Đảng) dám mô tả những góc khuất trong tâm hồn con người thời đại.

Thời đại mà chỉ một câu văn sơ ý cũng có thể bóc lịch mọt gông. Thời đại mà nỗi sợ hãi bao trùm tất cả, từ đứa bé đến ông lão gần đất xa trời. Từ lãnh tụ cao nhất đến một công chức quèn đều lo âu phấp phỏm.

Sợ gì?

Có trời mới biết! Vòng kim cô cứ lơ lửng trên đầu mọi cá nhân, mọi số phận. Chỉ cần ai khẽ niệm chú là vòng xiết lại. Bài niệm chú Kim Cô của Ngộ Không thì chỉ ba người thuộc (Như Lai Phật Tổ, Quan Thế Âm Bồ Tát và Đường Tam Tạng) còn chú Kim Cô của thời đại Lê Lựu thì ai cũng thuộc. Câu chú ấy là PHẢN ĐẢNG, CƠ HỘI, XÉT LẠI, CÁ NHÂN CHỦ NGHĨA, TIỂU TƯ SẢN. Khổ là câu thần chú đã bị công khai đến mức đứa trẻ 10 tuổi cũng thuộc nằm lòng.

Ở cái thời đại như thế, ông dám nói lên tiếng nói lương tâm chân thực và góc cạnh thì chứng tỏ hai điều. Một, tấm lòng dũng cảm, khí độ sỹ phu Hà Bắc của ông vẫn nóng và rạo rực. Hai, tài văn của ông không tệ. Chỉ dùng một chữ sai, ông có thể bung – toang tay trắng trong nháy mắt. Viết văn như thế, người viết còn khéo hơn cả bọn bịt mắt phi đao, xiếc đi dây mà bên dưới toàn mũi đao chia chỉa, ngọn hoắt. Chỉ sơ ý mất thăng bằng, thân thể sẽ bị ngàn dao xuyên nát ngực.

Thời Xa Vắng đem lại tên tuổi lừng lẫy cho Lê Lựu. Tuy nhiên, so với nhà khác, văn ấy cũng không quá sắc sảo. Truyện ấy cũng không quá đặc biệt. Vậy tại sao Thời Xa Văng lại là quả bom tấn của đời Lê Lựu?

Đem cái tâm trạng bây giờ, bất cứ ai đọc Lê Lựu sẽ không mấy ai vỗ đùi hào hứng nữa. Vì sao vậy? Vì chúng ta đã đọc những tác giả hải ngoại, hoặc những tác giả gần đây. Với ta bây giờ, li rượu Lê Lưu bày bán có độ cồn chưa mạnh. Chúng ta thì đã nghiện rượu hơn, sốc hơn. Nhưng Lê Lựu đâu bày rượu bán cho chúng ta? Cũng chẳng mong đắt hàng lúc ấy và bây giờ. Ông chỉ viết ra nỗi lòng trăn trở của ông, một cây bút có lương tâm trong sáng và lòng tự trọng lớn.

Tuy nhiên xét cho kĩ, một tác phẩm, một nhà văn phải đặt và khung cảnh ra đời của nó. Thời Xa Vắng, do đó, là một dấu ấn đặc biệt trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Vì trước đó, chưa có (công bố) một tác phẩm nào mô tả nội tâm phức tạp và đáng thương của con người XHCN như Thời Xa Vắng. Nhất là cha đẻ của nó lại là một sỹ quan quân đội.

Lê Lựu khá giỏi tiếng Anh. Trước cả Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu đại diện cho giới văn sĩ Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên sau bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ. Đó là lợi thế đặc biệt của bất kì ai lúc đó nếu giỏi tiếng Anh. Khi về nước, đài báo xúm đen xúm đỏ phỏng vấn, ông cảm thấy sao về chuyến đi này.
Lê Lựu nói:

- Các anh cứ tưởng tượng chuyện hai nhà ở gần nhau có mấy năm xích mích. Đã đến lúc cả hai đều muốn làm lành nhưng chẳng ai dám lên tiếng trước vì sợ mất sĩ diện. Bèn nghĩ ra kế hiểm, lùa mấy con gà con chó sang nhà nhau rồi nói với qua bờ tường: Này, anh ơi, có thấy con chó nhà tôi chạy qua bên đấy không. Anh kia nói, có có. Thế là hai bên giao tiếp thân thiện trở lại. Chuyến đi của tôi cũng đóng vai trò của con gà con chó ấy thôi.

Trả lời ứng khẩu sắc sảo và hóm hỉnh, Lê Lựu là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam được săn lùng như hoa hậu. Các bài phát biểu của ông, những đoạn trả lời phỏng vấn đều được sao ra băng cassette để bán như băng đĩa nhạc lậu. Đến nay, chưa nhà văn nào có cái vinh dự ấy.

Lê Lựu chơi rất thân với Trần Đăng Khoa. Với anh Khoa, Lê Lựu vừa là đồng hương vừa là bậc đàn anh. Nhưng căn bản hơn cả, hai người ấy đều mang chất lão nông. Trần Đăng Khoa có pha chút quan khí, không phải lúc nào cũng tiêu sái hồn nhiên. Bởi thế, Trần Đăng Khoa, dù nói năng lấp lửng khắp nơi, trước mặt Lê Lựu, luôn tỏ ra kính ngưỡng và chân thành, không dám dùng một li giáo điều, sách vở. Lê Lựu biết tỏng anh Khoa. Lê Lựu lại là hạng người mục hạ vô nhân, tiếu ngạo giang hồ. Anh Khoa, dính vào chức sắc, nể nang đàn anh là phải.

KẾT LUẬN

Trong tôi, Lê Lựu không phải cây bút sắc sảo xuất chúng nhưng ông là nhà văn tiêu biểu cho tinh thần sỹ phu Bắc Hà uy vũ bất năng khuất, bần tiện bất năng di. Muốn thấy cái tài, cái khí độ dũng cảm của Thời Xa Vắng, ta phải đặt nó vào bối cảnh lúc nó ra đời.

Cổ nhân trước khi chết, thường hỏi bọn gia nhân xem chân tay còn nguyên không, mắt mũi còn nguyên không. Hàm ý là, qua bao sóng gió, ta có bị nhục hình và phạm tội gì không. Nếu chân bị chặt (do phạm pháp) sẽ là nỗi nhục cho tổ tông. Ai còn nguyên vẹn thì có thể yên lòng nhắm mắt. Năm nay 82 tuổi, qua bao phen giỡn sóng bạc đầu, xỉa răng cọp dữ, Lê Lưu hẳn yên lòng về với tổ tiên. Chẳng những chân tay mặt mũi, mà danh dự và tiết tháo của ngài vẫn sáng trong như ngọc giữa cánh đồng Khoái Châu lộng gió.

Nguồn: Sang Đỗ
Thêm
  • Like
Reactions: Hoa Phù Sa
241
1
0
Mục đích của văn chương không phải để phản ánh hiện thực, cũng không phải là để chiêm nghiệm hiện thực, mà nó phải là tấm gương phản chiếu thời đại, phản chiếu theo đặc tính của văn chương. Đó là độ sâu của những tấm gương nghệ thuật. Đừng bắt nó phải như thật.

Chất lượng nghệ thuật


Từ xưa, trong cuộc sống, ông cha ta đã coi trọng chất lượng, thể hiện qua các câu tục ngữ: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, “Một nghề chín, hơn chín mười nghề”… Nghệ thuật là cái đẹp, là tinh túy của cuộc sống, nên nó càng đòi hỏi chất lượng cao. Giở lại một cuốn “Sổ tay văn học” thời mình còn là sinh viên, tôi ghi ở trang đầu câu nói của một danh nhân nước ngoài: “Văn học xuất phát từ những định luật của vô cùng. Chỉ một mình nó không công nhận cái chết”. Ôi, đúng là một thời bồng bột khi đứng ở ngưỡng cửa của văn chương nên thích những lời to tát. Chẳng có gì xuất phát từ định luật của vô cùng cả, mà chỉ có những lĩnh vực đi từ sự vật sự việc cụ thể để đến với vô cùng mà thôi! Và chẳng có một lĩnh vực nào tự nó đã bất tử, mà sự bất tử có ở tất cả các lĩnh vực, khi nó đạt đến đỉnh cao của vô cùng. Văn chương nghệ thuật là một lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng của cuộc sống, nó cũng mang đầy đủ những đặc điểm như mọi lĩnh vực khác.

Kho tàng văn chương dân gianvăn chương bác học của dân tộc, mà chúng ta biết được còn lại không quá đồ sộ thì chắc chắn thời gian đã xóa đi một số lượng ít nhất phải gấp hàng mấy chục lần như thế. Hơn trăm bài thơ của phong trào Thơ Mới còn lại trong Thi nhân Việt Nam, sau khi Hoài Thanh và Hoài Chân đã loại đi một vạn bài mà các ông được đọc. Tức là lịch sử văn chương chỉ giữ lại khoảng 1% số sáng tác mà thôi. Biết được điều này, các nhà văn nhà thơ sẽ cẩn trọng và nghiêm túc hơn trong quá trình sáng tác của mình, làm sao phải có được những sáng tác hay, những tác phẩm có chất lượng. Còn làm thế nào để có được tác phẩm hay, thì nhiều nhà thơ, nhà văn nói rằng câu hỏi ấy không thể trả lời được. Riêng nhà văn Đình Kính tác giả của tiểu thuyết Sóng chìm thì trả lời rằng, đó là: Tài năng, tài năng và tài năng. Thực ra, hai cách trả lời đó cũng chỉ là một, và đều còn là một sự bí ẩn. Nhưng danh nhân Trương Triều (đời Thanh – Trung Quốc) là tác giả của tập cách ngôn U mộng ảnh nổi tiếng, viết một câu mà tôi cho là chân lý: “Văn chương tuyệt đỉnh cổ kim đều được viết bằng máu và nước mắt”. Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Nhật ký trong tù… có thể là minh chứng.

Lịch sử văn chương nhân loại từ cổ chí kim rất ít tác giả để lại cho đời được một khối lượng đồ sộ tác phẩm có giá trị cao. Họa chăng chỉ là những thiên tài! Mà thiên tài thì phải hàng trăm năm mới có. Tầm cỡ như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, thì đất nước hơn một tỉ dân như Trung Quốc, mấy chục năm nay nào có được ai? Ở Việt Nam, thì tầm cỡ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du… mười thế kỷ văn chương bác học, cố tính cũng chỉ được mươi người. Còn phần lớn là các tác giả có số lượng sáng tác đồ sộ, nhưng chất lượng thì cũng chỉ có được một hai tác phẩm, cũng là quý lắm rồi. Tâm trạng hoảng hốt của thi sĩ Xuân Diệu khi tuổi đã cao nhìn lại những sáng tác của mình, không biết có gì còn lại với đời là một tâm trạng thực, cũng đáng trân trọng. Đó là một người tinh tường và biết sợ. Khi còn ở thời kỳ sáng tác sung sức, thi sĩ cũng đã phải thốt lên: “Thơ ơi, quặng thải bao lần/ Biết bao giờ mới ra vần kim cương!”. Một tài năng lớn như Xuân Diệu, một tài năng mà khi ông ra đi, báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam đã viết: “Một cây lớn nằm xuống, cả khoảng rừng trống vắng” mà vẫn còn trăn trở đến như thế về chất lượng nghệ thuật, thật đáng là bài học cho mỗi người cầm bút.
Vì thế, những sáng tác văn chương nghệ thuật hay là rất hiếm và rất quý. Một bài thơ hay có thể đánh đổ hàng vạn bài, vì nếu tác phẩm không hay thì chẳng là gì cả. Đây phải là điều tâm niệm của mỗi người cầm bút. Làm sao để cả đời có thể viết được một tác phẩm hay. Mỗi tác phẩm hay là một hạt kim cương, mỗi nhà văn có một tác phẩm hay thì nền văn chương nước nhà sẽ có một kho kim cương đồ sộ. Nhưng những viên kim cương có hình dáng và màu sắc rất khác nhau. Có khi là một khối trong suốt như Truyện Kiều, có khi lại là những hạt vụn lẻ tưởng gần với hoang dã như những bài thơ của Hồ Xuân Hương, có khi chỉ vài ba hạt thăm thẳm như “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến, hoặc những chùm hạt có màu sắc khác nhau được gom lại trong Thi nhân Việt Nam… Có điều, không ai có thể cố tình sản xuất mà thành kim cương cả. Kim cương đó là những hạt tự nhiên, do sự kết tinh của những chất đặc biệt trong một hoàn cảnh và điều kiện đặc biệt. Nhưng khi biết được hoàn cảnh và điều kiện có thể nảy sinh kim cương, thì ta có thể tạo dựng điều kiện, hoàn cảnh và chờ đón. Điều kiện và hoàn cảnh thuận tiện càng dồi dào thì khả năng nảy sinh kim cương sẽ càng cao.

Tác phẩm đỉnh cao ư? Nó chỉ có thể ra đời theo đúng quy luật đó. Vì vậy, muốn có được những tác phẩm đỉnh cao thì phải tạo dựng môi trường cho nó xuất hiện, chứ đừng dông dài những chuyện không đâu.

Quyền năng của nghệ thuật


Kỷ niệm 100 năm sinh nhà phê bình văn học Hoài Thanh, nhiều người một lần nữa khẳng định Hoài Thanh là “người đi tìm cái đẹp”. Chính Hoài Thanh cũng đã tâm sự điều này, khi ông bỏ qua việc phê phán những câu thơ, những bài thơ dở. Thực ra thì không phải chỉ trong việc phê bình, mà ngay cả trong sáng tác, xu hướng chính vẫn là ca ngợi cái hay, khẳng định cái đẹp. Dẫu có là hiện thực phê phán thì mục đích của nó vẫn là để ca ngợi con người và cuộc sống.

Miêu tả nàng Kiều đẹp về cả hình thức và tâm hồn, với một tài năng đặc biệt, Nguyễn Du đã tạo cho nàng sức sống đến ngày nay. Thì không có nghĩa là trong cuộc đời ông không gặp người phụ nữ nào xấu cả. Chính Nguyễn Du đã phải sống cuộc đời, mười năm gió bụi, bao nhiêu nhiễu nhương trong buổi loạn ly, biết bao sự nhốn nháo của buổi đầu thị trường tư bản, nàng Kiều phải hai lần vào lầu xanh, thì còn điều gì mà Nguyễn Du không thấy? Nhưng để thể hiện cái đẹp thì phải làm mờ những cái xấu đi. Nói cách khác, trong khi tập trung mọi ánh sáng, màu sắc để làm rực rỡ nàng Kiều, trong tâm trí thi hào vẫn thoáng thấy sự đối lập, sự tương phản với hình bóng những người phụ nữ xấu. Không có những hình bóng tương phản thì Nguyễn Du không thể miêu tả được nàng Kiều đẹp đến thế.

Tương tự, trong tác phẩm hiện thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930-1945 của văn chương nước nhà, nhà văn Ngô Tất Tố đã miêu tả chị Dậu đặc trưng cho lòng chung thủy, đã ném nắm giấy bạc hơn chục đồng trả tên quan phủ để giữ phẩm tiết, trong khi chị bán cái Tý và ổ chó cho vợ chồng Nghị Quế để lấy tiền nộp sưu cho chồng chỉ được hai đồng bạc. Thì không có nghĩa, nhà văn Ngô Tất Tố không biết gì về những cô gái làm tiền dễ dãi thời ấy. Căm tức cái xấu, phê phán xã hội thối nát là một thái độ rất đáng trân trọng. Nhưng vượt lên trên sự căm giận, tố cáo để khẳng định cái tốt đẹp phải đứng ở mức cao hơn. Ở điểm này, trước đây tôi đã không đồng tình với Trần Đăng Khoa khi anh phê phán chị Dậu bán con trong tác phẩm Chân dung và đối thoại của anh, lúc sách mới xuất bản lần đầu. Ngô Tất Tố còn có cách nào khác là để cho chị Dậu bán con? Mà đây là một thực tế diễn ra ở không ít gia đình trong những năm tháng ấy. Dẫu phải bán con nhưng con vẫn sống, còn hơn là để cả nhà cùng chết. Đấy là tầm tư tưởng cao của Ngô Tất Tố, ông phải vượt lên rất nhiều điều để khẳng định cái đẹp. Và tư tưởng ấy đã vượt qua được thời gian sóng gió đến nay.

Thế thì khi miêu tả thể hiện cái xấu, nhà văn có thấy những điều tốt đẹp không? Có chứ. Phía sau của nhân vật bao giờ cũng có bóng dáng của hàng loạt những con người khác, cả những người xấu và người đẹp. Nếu nhà văn miêu tả những nhân vật và sự việc tốt đẹp, thì bóng dáng những người tốt đẹp ở phía sau sẽ tô đậm thêm cho vẻ đẹp ấy, còn những người xấu sự việc xấu sẽ làm những bóng tối tương phản để nhân vật và sự việc tốt đẹp nổi bật hẳn lên. Trong tâm hồn nhà văn không bao giờ đơn thuần một loại cảm xúc. Tuy nhiên không phải các loại cảm xúc đều dạt dào mức độ đồng đều, nó đậm nhạt, gần xa, ẩn hiện một cách rất phù hợp và nghệ thuật. Khi nhà thơ nhà văn nào có được độ sâu cảm xúc này thì câu thơ, trang văn mới có được sức nặng mà mưa gió thời gian không thể cuốn đi trong tâm trí người đọc.

Phía sau nàng Kiều có hàng trăm hàng nghìn bóng dáng những người phụ nữ đủ các loại. Nàng Kiều trở về cùng chúng ta ngày nay là mang theo cả những bóng dáng ấy, cả xã hội và thời đại của nàng, chứ đâu phải chỉ có một mình nàng. Vì thế thi sĩ Chế Lan Viên mới viết:

Nguyễn Du có nói về cô Kiều e lệ nép vào hoa buổi ấy
Thì cũng để cho ta yêu người con gái đẹp thời nay

…….

Câu thơ ư, là một cách truyền lửa qua muôn đời
Ai hơi đâu truyền đuốc tắt mà chơi.

Càng nghĩ, tôi lại càng thấy sự cao siêu của nghệ thuật mà mình không thể nào chạm tới được. Và thấy quyền năng của nghệ thuật thật vô cùng, nó lớn gấp vạn lần quyền lực. Quyền lực chỉ có thể chinh phục được một bộ phận nào đó trước mắt. Còn quyền năng thì mới chinh phục được tất cả mọi người từ đời này qua đời khác.

Độ nông sâu của nghệ thuật

Độ nông sâu trong cuộc sống tôi cũng thấy cha ông ta nói đến nhiều. Nội dung của nó tất nhiên là để hướng tới độ sâu, mà như bây giờ chúng ta thường gọi là chất lượng cuộc sống. Độ nông sâu của cuộc sống không phải là sự đầy đủ hay thiếu thốn, nhiều hay ít, cao hay thấp, đa dạng hay đơn điệu… mà độ nông sâu có ý nghĩa triết học, sâu sắc và hướng tới chân lý. Còn gì sâu hơn lời dạy của ông cha ta đối với mỗi con người: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Vâng, tu tại gia mới là khó nhất, chứ vào chùa thì chỉ việc ăn chay niệm Phật, gõ mõ tụng kinh, sẽ dễ hơn tu tại gia nhiều. Đó là một thái độ sống cao nhất, có trách nhiệm với mọi người, với cuộc đời. Ông cha ta còn dạy cả thái độ ứng xử của người quân tử, vẫn với lời khuyên nhập thế, giống như khuyên tất cả mọi người ở câu trên: “Ẩn giữa núi rừng chỉ là tiểu ẩn, ẩn giữa triều đình mới là đại ẩn”. Bởi trốn đời, thì còn làm gì được cho đời, mà phải ở giữa cuộc đời, ở trung tâm cuộc đời mới có thể có thời cơ cứu nhân độ thế. Cũng từ dòng ý nghĩ cao sâu ấy mà đại thi hào Nguyễn Du đã viết: “Tài tri vô tự thị chân kinh” (Kinh không còn chữ mới là chân kinh)…

Ở điểm này, ứng vào thế giới văn chương nghệ thuật, Tố Như tiên sinh đã chạm tới độ sâu sắc nhất. Ở phía Tây bán cầu, đại văn hào nước Anh Sếchxpia, qua lời hoàng tử Hămlét trong vở kịch cùng tên, đã nói: “Chữ, chữ, toàn là chữ…”. Vâng, văn chương nghệ thuật phải không còn chữ thì mới là văn chương. Nhưng làm thế nào để cho chữ biến đi thì không phải là chuyện dễ. Muốn làm cho chữ biến đi phải làm cho chữ lung linh, chữ có hồn chứ không phải là làm xiếc chữ nhào lộn, lật ngược. Làm xiếc chữ nhào lộn thì chữ không biến đi mà nó thành những chữ kỳ quái, chữ ma, dị hình dị tướng. Theo tôi, muốn làm cho chữ biến đi thì tất cả phụ thuộc vào tài năng. Danh họa Picátsô (Tây Ban Nha) chỉ ký họa chim hòa bình bằng một nét bút mà có giá trị hơn nhiều những bức phù điêu hoành tráng cùng đề tài. “Chim hòa bình” của Picátsô đã bay từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, nó không còn là chữ, là màu nữa.

Thực ra thì các vĩ nhân cổ kim Đông Tây cũng đều thống nhất với nhau thôi. Thời hiện đại, thi sĩ Chế Lan Viên cũng viết:

Chỗ này sâu ư? Không, chỉ là nước đục ngầu
Chỗ này cạn ư? Không, chính vì nước trong nên ta nhìn thấy đáy
Chỗ sâu cạn trong thơ là thế đấy!

Một thời các nhà sáng tác và phê bình văn chương đã trao đổi và tranh luận mục đích của văn chương là phản ánh hiện thực hay chiêm nghiệm hiện thực? Thực ra thì mục đích của văn chương không phải để phản ánh hiện thực, cũng không phải là để chiêm nghiệm hiện thực, mà nó phải là tấm gương phản chiếu thời đại, mà là phản chiếu theo đặc tính của văn chương. Đó là độ sâu của những tấm gương nghệ thuật. Đừng bắt nó phải như thật. Còn tất nhiên nó phải đẹp. Đẹp nhưng không phải do tô điểm. Những tác phẩm đạt đến mức là tấm gương phản chiếu thời đại không nhất thiết phải là những tiểu thuyết có dung lượng đồ sộ, mà là những tác phẩm mang tâm hồn điển hình của thời đại ấy, dưới một hình thức nghệ thuật đặc sắc. Như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Điêu tàn (Chế Lan Viên), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh), Thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Tố Hữu…

Còn các nhà phê bình văn chương nghệ thuật cũng vậy. Từ xưa, ở lĩnh vực này, các danh nhân đã chỉ ra: “Đọc bằng mắt thì văn chương chỉ thấm vào da thịt; đọc bằng tâm thì văn chương thấm vào gan ruột; đọc bằng thần thì văn chương thấm vào cốt tủy”. Có thể thấy, nhiều bài đọc sách tràn lan trên các báo chỉ là những bài đọc bằng mắt. Nó ở độ nông nhất của phê bình. Những bài phê bình ở các chuyên mục “Tác phẩm và dư luận” của một số tờ báo, tạp chí chuyên ngành văn chương, có nhiều bài đọc bằng tâm. Còn những bài phê bình đọc bằng thần thì tôi thấy rất hiếm. Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh chính là những bài đọc bằng thần vậy.

Thực ra, trong một nền văn chương cũng không có được nhiều tác phẩm là “tấm gương phản chiếu thời đại” và cũng không có được mấy tác phẩm phê bình đạt đến mức “đọc bằng thần”. Đó là những tác phẩm đạt độ sâu nhất của nghệ thuật. Nhưng làm sao để sáng tác và phê bình có được những tác phẩm như thế luôn là đích hướng tới. Thế kỷ XX, ở Việt Nam, những tác phẩm văn chương đạt ở mức là “tấm gương phản chiếu thời đại” chỉ có độ vài ba chục tác phẩm. Còn tác phẩm phê bình đạt ở mức “đọc bằng thần” thì ngoài Thi nhân Việt Nam, tôi chưa thấy có tác phẩm thứ hai.

--------
Theo Văn chương – Thời cuộc – Dư luận
Thêm
219
0
0
WJvo3yMg.jpg

Ai đó đã từng nói, văn chương thực chất là nhịp cầu nối những tâm hồn. Văn chương quý ở những tiếng đồng vọng tha thiêt, sâu lắng giữa người viết và độc giả, thậm chí giữa những người cũng chung nghiệp nghiên bút với nhau. Đến với địa hạt văn chương Việt Nam, ta bắt gặp ngay tiếng nói tri âm của Thanh Thảo dành cho Lorca qua tác phẩm 'Đàn ghita của Lorca" - một trong những thi phẩm xuất sắc của văn học thời kì văn học đổi mới.

Nối tiếp tiếng nói tri âm vượt biên giới và thời gian của Tố Hữu với Nguyễn Du, Thanh Thảo - một nhà thơ của thời kì đổi mới cũng bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc với thi hào người Tây Ban Nha Garcia Lorca. Thanh Thảo từng tâm sự rằng ông rất ngưỡng mộ Lorca, rằng cuộc đời và sáng tác của người nghệ sĩ tài năng này đã gây cho ông nhiều xúc cảm và ấn tượng. Bởi vậy, "Đàn ghita của Lorca" chính là tiếng nói tri âm mà Thanh Thảo cất lên để ngưỡng vọng, tưởng nhớ về người nghệ sĩ thiên tài của Tây Ban Nha và nhân loại.
Nhà thơ tri âm sâu sắc với ước nguyện của Lorca khi ông rút một câu thơ trong bài "Ghi nhớ" của đại thi hào làm lời đề từ: "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn". Đó là sự tôn vinh đối với người nghệ sĩ đã tạo dựng một thành trì nghệ thuật cho Tây Ban Nha, cũng là người mong muốn tiêu hủy đi những sáng tác của mình để mở đường cho thế hệ sau - một khát khao cao thượng, đáng khâm phục.

Hiểu về cuộc đời Lorca, Thanh Thảo ngưỡng vọng chân dung và bản lĩnh người - thơ của nghệ sĩ thiên tài. Ông là một chiến sĩ của tự do và cái đẹp, một nghệ sĩ du ca lãng tử hào hoa với tâm hồn phóng khoáng, có khao khát cách tân nghệ thuật và bảo vệ cho chế độ dân chủ. Song, người nghệ - chiến sĩ ấy lại rất cô đơn:

Những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

Lila lila lila

Đi lang thang về miền đơn độc

Với vầng trăng chếnh choáng

Trên yên ngựa mỏi mòn.

Câu thơ đã mở ra một không gian Tây Ban Nha tuyệt đẹp với những giá trị truyền thống. Đó là màu đỏ gắt của lễ hội bò tót, là âm thanh lila lila quen thuộc của nhạc cụ dân gian - đàn ghita. Nhưng lời thơ cũng đồng thời gợi ra sự vắng vẻ, gay gắt của tình hình chiến sự của các chế độ đối lập nhau nơi mảnh đất quen thuộc này. Và trên cái nền cảnh ấy, Lorca xuất hiện đầy hiên ngang với lý tưởng cao đẹp nhưng cũng cô độc vô cùng. Từ giai điệu lila lila, dường như ta thấy Lorca đang ôm cây đàn để chơi những khúc đàn tự do mà ông hằng mong muốn thực hiện. Đó là đem nghệ thuật để đấu tranh cho lẽ phải, cho sự tự do của dân tộc. Nhưng ba câu thơ sau phần nhiều là các từ láy gợi tả trạng thái lẻ loi, một mình và mỏi mệt rệu rã: lang thang, đơn độc, chếnh choáng,... làm nổi bật hình ảnh người nghệ sĩ. Anh ta đi vô định, lang thang không điểm đến một mình, chậm rãi. Hình ảnh "vầng trăng chếnh choáng" có thể hiểu là trăng phủ xuống con đường một lớp sáng mờ ảo, nhưng cũng có thể là cái đẹp, là nghệ thuật khiến người thi sĩ say đắm, theo đuổi. Nhưng Lorca lại thấy cái "mỏi mòn", cái rệu rã của thể xác và có lẽ của cả tâm hồn một kẻ độc hành trên cả chặng đường nghệ thuật và chặng đường đấu tranh cho tự do. Phải thấu hiểu, đồng cảm đến sâu sắc, Thanh Thảo mới viết thấm thía đến thế về nỗi cô đơn thầm kín bên trong một con người lúc nào cũng cháy bừng ngọn lửa đấu tranh cho công lí và sự cách tân.

Từ đó, Thanh Thảo không khỏi phẫn uất trước cái chết bi thương của Lorca. Lời thơ ông đột ngột chuyển thành những câu thơ ngắn như một sự biểu hiện của trạng thái bất ngờ, bàng hoàng về thảm kịch với người nghệ sĩ xảy ra quá đỗi đột ngột:

" Tây Ban Nha

Hát nghêu ngao

Bỗng kinh hoàng

Áo choàng bê bết đỏ"​

"Tây Ban Nha" là phép hoán dụ cho Lorca - một người con của đất nước đang hát bài ca hòa bình. Ông hát "nghêu ngao", ngẫu hứng và hồn nhiên, tưởng như tình yêu của tự do trong trái tim Lorca cứ tự nhiên mà vang lên thành lời ca vậy. Nhưng Thanh Thảo xót xa thay khi cái chết đến không dự báo trước với Lorca. Câu thơ tiếp theo làm gãy mạch, chuyển hướng từ cái đẹp sang cái bi, từ sự sống đã thành cái chết. Lorca chỉ còn hiện lên qua hình ảnh áo choàng bê bết đỏ. Ở đây có hai màu đó đan xen vào nhau. Đỏ của sắc áo truyền thống và đỏ của máu và cái chết ghê sợ. Màu máu phủ lên màu đỏ của áo choàng khiến ta không chỉ hình dung ra cái chết đau đớn của Lorca mà còn cảm nhận được cái chết đang đến gần hơn với sự tự do của dân tộc Tây Ban Nha, khi người nghệ sĩ lớn đấu tranh cho nó đã không còn.

Đau đớn vô cùng trước hiện thực ấy, Thanh Thảo như nhìn thấy cả tiếng ghita đang vỡ thành hình, thành mảnh, thành thanh âm ngắt quãng giống như chính người nghệ sĩ Lorca cũng đang đau đơn với cái chết của thân xác:

" Tiếng ghita nâu

Bầu trời cô gái ấy

Tiếng ghita lá xanh biết mấy

Tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan

Tiếng ghita ròng ròng

Máu chảy

Khổ thơ đã phục dựng lại cái chết của Lorca bằng hình âm nhạc. Tiếng ghita trở thành hồn nhà thơ, trở thành sinh mệnh của người nghệ sĩ. Bằng việc đặt "tiếng ghita" với danh từ và tính từ: bầu trời, cô gái, lá xanh, tròn bọt nước, Thanh Thảo gợi ra nhiều trường liên tưởng về hình ảnh tiếng ghita. Tiếng đàn mang màu nâu mặt đất của mảnh đất Tây Ban Nha, là nước da ngăm tuyệt đẹp của những cô gái Digan quyến rũ. Và vì thế nó là thanh âm của tình yêu. Đó còn là màu xanh của sự sống, là khúc nhạc ca ngợi cho sức trẻ và tình yêu cuộc sống như cành lá non xanh. Nhưng tiếng đàn, đau đớn thay cũng là "bọt nước vỡ tan", một cái đẹp thanh khiết, trong trẻo nhưng bởi vậy rất mong manh và dễ dàng tan đi, biến mất. Để rồi "tiếng ghita ròng róng/máu chảy". Nhà thơ để câu thơ cuối cùng chỉ có hai chữ "máu chảy" như một cách hiện hữu đầy ấn tượng những giọt máu không ngừng rơi, không ngừng đau đớn. Điệp từ "tiếng ghita" lặp lại với những câu thơ ngắn, dồn dập, day dứt tựa như tâm trang thổn thức đau đớn của Thanh Thảo trước cái chết của Lorca - cái chết của nghệ sĩ thiên tài.

Nhưng càng xót thương, Thanh Thảo càng tin tưởng vào sự bất tử của Lorca và nghệ thuật của ông với cuộc đời:

" không ai chôn cất tiếng đàn

Tiếng đàn như cỏ mọc hoang"

Tin vào nghệ thuật chân chính của Lorca, Thanh Thảo đã dành cho nghệ sĩ Tây Ban Nha những vần thơ đẹp nhất. Tiếng đàn của Lorca hóa bất tử khi được ví von như loài cỏ dại kiên cường sống ở mọi địa hình. Không ai chôn cất tiếng đàn, không thể chôn cất tiếng đàn vì nó là nghệ thuật đích thực được sáng tác bởi người nghệ sĩ đích thực. Do đó nó sống mãi dù cho thời gian có băng hoại hay sự giết chóc bởi súng đạn của kẻ thù. Cái đẹp và nhân cách con người, cái đẹp của sự sáng tạo nghệ thuật chân chính sẽ sống bất diệt, trường tồn qua năm tháng và ngày càng khẳng định được sức giá trị của nó. Là một nhà thơ, Thanh Thảo thấu hiểu điều đó, những qua số phận cùng sức sống mãnh liệt của nghệ thuật Lorca, ông càng thấm thía hơn điều tất yếu ấy. Và đó cũng là con đường mà Thanh Thảo hằng theo đuổi.

Có những con người không biết mặt nhưng tường tỏ nỗi lòng nhau, có những kẻ đi đau với nỗi đau của người khác. Thanh Thảo và Lorca là những con người như thế - người nghệ sĩ có mối dây liên kết là tiếng vọng tri âm qua văn chương. Lorca dẫu phải từ giã cõi đời với những dở dang của hoài bão cùng những đớn đau của cái chết thương tâm, nhưng vẫn là một tượng đài đẹp trong lòng Thanh Thảo và người đọc muôn đời. Bởi cái đẹp thì luôn luôn bất tử.

Tiếng nói tri âm của Thanh Thảo được truyền tải qua thể thơ tự do mang phong cách tượng trưng siêu thực. Nhà thơ sáng tạo những hình ảnh thơ theo lối lạ hóa, xóa bỏ những liên từ và dấu câu, không viết hoa những chữ cái đầu. Điều đó tạo nên cấu trúc ngữ pháp độc đáo, nhịp điệu bất thường, cùng những hình ảnh giàu liên tưởng về tiếng đàn. Tất cả những nét đẹp ấy hội tụ lại làm nên một bài thơ kiệt tác, vừa lấp lánh cái đẹp của hình thức, vừa chan chữa tình cảm của tiếng nói tri âm vang vọng. Và đó chính là lí do khiến cho tác phẩm của Thanh Thảo sống mãi trong lòng người đọc mỗi khi nhắc đến hai chữ tri âm trong văn học.
Thêm
tiếng nói tri âm trong "Đàn ghita của Lorca"
2K
2
1
Văn học phản ánh đầy đủ và chân thực cuộc sống. Nhờ đọc các tác phẩm văn học, người đời nay hiểu rõ và cảm thông với người đời xưa. Cùng Triều Anh tham khảo bài viết sau để hiểu rõ hơn con người Việt Nam giai đoạn 1945 - 1957.

A6E71DD0-27A5-41DC-9F07-8E75A6F07CCE.jpeg
Ảnh sưu tầm

Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang mới đối với đất nước và con người Việt Nam, chấm dứt ngàn năm chế độ phong kiến, hơn tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp, để bắt đầu một thời đại mới – thời đại độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì gian khổ nhưng cũng rất hào hùng. Mọi đổi thay ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam những sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người.

Nếu con người trong văn học Việt Nam chặng 1945 – 1954 là “con người tập thể”, “thức tỉnh về sức mạnh của cộng đồng”, “tham dự vào các biến cố lịch sử, gánh vác cuộc kháng chiến qua các tổ chức, các đoàn thể của mình”, “ít có những dằn vặt, suy tư, giằng xé nội tâm”, “dứt khoát, toàn tâm vì sự nghiệp chung, hòa mình trong tập thể”; nếu con người trong văn học Việt Nam chặng 1955 – 1964 là “con người trong sự thống nhất riêng – chung”, “nhìn nhận giải pháp duy nhất để giải quyết các số phận cá nhân và khát vọng hạnh phúc của con người là sự hòa nhập với tập thể, cách mạng và cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa”; thì con người trong văn học Việt Nam chặng 1965 – 1975 là mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta tuy vô cùng ác liệt, dữ dội nhưng đã khơi dậy được sức sống tiềm tàng, ý chí đấu tranh, tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam. Tất cả kề vai, sát cánh để phục vụ tiền tuyến, hướng đến chiến thắng. Văn học chặng này đã nhanh chóng “nhập cuộc”, khai thác và thể hiện con người “trên phương diện con người chính trị, con người công dân, nhưng mỗi cá nhân như là biểu hiện tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, thậm chí của thời đại, của nhân loại”. Những nét chính trong quan niệm về con người của toàn bộ giai đoạn văn học cách mạng 1945 – 1975 có thể được khái quát ở các phương diện cơ bản như sau:

1. Quan niệm con người tập thể, đại chúng.

Trong quan điểm chỉ đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đối với giới văn nghệ sĩ cách mạng, ý thức:
“Viết cho ai? – Viết cho đại đa số; công nông binh.
Viết để làm gì? – Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng” đã trở thành ý thức bao trùm trong toàn bộ sáng tác của văn học 1945 - 1975.

Điều này có cơ sở lí luận và thực tiễn rõ ràng. Cách mạng và kháng chiến phải dựa hẳn vào công nông và trước hết nhằm giải phóng công nông. Cho nên văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu tất phải hướng về công nông binh. Đây là đối tượng phản ánh, là công chúng văn học, là lực lượng sáng tác. Đó là phương hướng cơ bản xác định nội dung và hình thức của văn học giai đoạn 1945-1975.

Quan điểm văn nghệ này của Đảng cũng được các nhà văn chấp nhận một cách tự giác. Bởi vì họ là những trí thức yêu nước. Họ không thể không cảm phục nhân dân lao động là lực lượng chủ yếu làm nên cuộc Cánh mạng tháng Tám và sau đó gánh cả cuộc kháng chiến trên đôi vai lực lưỡng của mình. Trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, văn sĩ Độ đã “ngã ngửa người ra” trước vai trò vĩ đại của người nông dân như thế, không phải ngẫu nhiên mà tác phẩm này đã được coi là bản tuyên ngôn nghệ thuật chung của cả một thế hệ nhà văn đi theo cách mạng và kháng chiến. Có thể nói, giác ngộ về vai trò vĩ đại của quần chúng nhân dân lao động, “quy phục” công nông một cách – hoàn toàn tự giác và đầy vui sướng là đặc điểm tâm lý chung của giới trí thức văn nghệ sĩ yêu nước sau Cách mạng tháng Tám và trong chiến tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt là những năm tháng chống Pháp.

Trước sự nghiệp to lớn của Cách mạng, trước vai trò vĩ đại của nhân dân lao động, họ cảm thấy chính trị, phục vụ công nông binh, dù chỉ làm “anh tuyên truyền nhãi nhép” (Nam Cao) nhưng có ích cho kháng chiến, đấy là niềm vinh dự lớn cho những Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nam Cao v.v… họ sẵn sàng từ bỏ nghiệp văn chương cũ như những “đứa con hoang”, thậm chí những “đứa con tội lỗi” để “lột xác” và làm lại cuộc đời nghệ thuật mới của mình vì kháng chiến, vì đại chúng công nông. Họ hăng hái đi tực tế sản xuất và chiến đấu sát cách với công nông binh để “Cách mạng hoá tư tưởng, quần chúng hoá sinh hoạt”. Đến khi phong trào giảm tô và cải cách ruộng đất được phát động thì tinh thần hướng về công nông lại càng sôi nổi hơn nữa. Tình giai cấp giữa những người nghèo khổ là tình cảm đẹp nhất, cao cả nhất. Con người trong sạch nhất, đang tin cậy nhất và vì thế cũng đáng tự nào nhất là con người xuất thân từ bần cố nông và giai cấp vô sản.

Trên cơ sở tư tưởng hướng về quần chúng, văn học đã hình thành quan niệm nghệ thuật về con người tập thể, con người cộng đồng, theo GS Nguyễn Đăng Mạnh, quan niệm này được thể hiện với hai dạng chủ yếu: Một là, phê phán cách nhìn có định kiến sai trái đối với quần chúng bằng cách, hoặc đối lập những nhân vật có quan điểm khác nhau và đề cao quan điểm đúng (Đôi mắt của Nam Cao), hoặc mô tả sự chuyển biến của một nhân vật nào đấy từ chỗ hiểu sai mà xem thường quần chúng, đến chỗ hiểu đúng và khâm phục (nhiều truyện ngắn của Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường, Hoa và thép của Bùi Hiển, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu v.v…). Hai là, trực tiếp ca ngợi quần chúng, hoặc bằng cách xây dựng hình tượng đám đông sôi động của công nhân, nông dân, bộ đội, dân công… đầy khí thế và sức mạnh (Kí sự của Trần Đăng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Đuốc dân công tiếp vận của Nguyễn Tuân, Xung kích, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Cửa biển của Nguyên Hồng, Bão biển của Chu Văn, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Đêm liên hoan của Hoàng Cầm, Ta đi tới, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, Đường ra mặt trận của Chính Hữu v.v…); hoặc xây dựng những nhân vật anh hùng kết tinh những phẩm chất cao đẹp của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc (Đất nước đứng lên, Rừng xà nu của Nguyên Ngọc; Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi; Hòn đất của Anh Đức; Sống như Anh của Trần Đình Văn…; Hồ Chí Minh, Sáng tháng năm, Bác ơi!, Theo chân Bác, Người con gái Việt Nam, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt v.v… của Tố Hữu v.v…).

Nhìn vào các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện nay, quan niệm con người tập thể, con người cộng đồng đã tạo nên kiểu nhân vật điển hình cho tập thể: điển hình trong lao động sản xuất (anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, ông lái đò Lai Châu trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân…) và điển hình trong chiến đấu hi sinh (người lính Tây Tiến trong Tây Tiến của Quang Dũng, Đồng chí của Chính Hữu; nhân vật trữ tình mình và ta trong Việt Bắc của Tố Hữu, anh và em trong Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm; Việt và Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi; Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành; Nho, Thao, Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê…). Những nhân vật này đều mang những phẩm chất đại diện cho tập thể, cộng đồng; mang tiếng nói yêu nước, ngợi ca cách mạng, Tổ quốc, chủ nghĩa xã hội chung của thời đại. Những tâm trạng của con người cũng được điển hình hóa: “yêu, căm, chiến, lạc” là những cảm xúc phổ biến mà hầu hết các tác phẩm văn học cách mạng đều thể hiện trong giai đoạn này.

Chịu sự chi phối của quan niệm con người tập thể, con người cộng đồng, văn học cách mạng viết về quần chúng không thể không gắn với công lao của Cách mạng. Một chủ đề phổ biến khác của văn học 1945-1975 là khẳng định sự đổi đời của nhân dân nhờ Cách mạng. Ấy là sự đổi đời từ thân phận nô lệ cực khổ trở thành người làm chủ, người tự do. Cũng là sự phục sinh về tinh thần, từ chỗ mê muội, thậm chí lạc đường (do xã hội cũ hoặc tác động của địch) đến chỗ được giải phóng về tư tưởng, được thanh thoát về tâm hồn (Làng, Vợ nhặt của Kim Lân, Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Đứa con nuôi, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Xoè của Nguyễn Tuân, Anh Keng của Nguyễn Kiên, Bão biển của Chu Văn v.v…).

Văn học chân chính không thể tạo ra được bằng sự áp đặt từ bên ngoài của một đường lối văn nghệ nào, cũng không thể được tao ra bằng sự gắng sức của lý trí đơn thuần. Đó là vấn đề tình cảm, cảm xúc, vấn đề cảm hứng nghệ thuật. Đường lối văn nghệ phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu hướng về công nông binh, do phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với bản chất yêu nước của văn nghệ sĩ, phù hợp với trình độ ý thức và tâm lý của họ trong hoàn cảnh đặc biệt của hai cuộc kháng chiến, nên đã tạo được nguồn cảm hứng nghệ thuật thực sự của những người cầm bút trong sáng tác.

Đại chúng công nông binh, như đã nói không phải chỉ là đối tượng phản ánh, ngợi ca của văn học mà còn là nguồn cung cấp lực lượng sáng tác cho nó. Đảng rất chú ý phát động phong trào văn nghệ quần chúng để từ đấy phát hiện và bồi dưỡng những cây bút nổi lên từ các phong trào ấy, đặc biệt là trong quân đội. Văn học viết cho đại chúng tất nhiên phải dễ hiểu và được quần chúng đông đảo ưa thích. Lối viết gọi là “biểu tượng hai mặt” có ẩn dấu nhiều nghĩa hoặc nghĩa không rõ ràng thường bị “uốn nắn”, thậm chí bị coi là thiếu tính Đảng (tác phẩm có tính Đảng chủ đề phải rõ ràng). Tiểu thuyết chỉ viết về hiện thực dưới hình thức của bản thân hiện thực. Truyện người thật việc thật chép theo lời tự thuật của các anh hùng chiến sĩ thi đua, có một thời rất được khuyến khích và đánh giá cao. Thơ không vần của Nguyễn Đình Thi bị phê phán. Lối văn Nguyễn Tuân bị coi là thiếu trong sáng. Hoài Thanh phê phán hàng loạt những thứ gọi là “rơi rớt tiểu tư sản” trong văn học kháng chiến: buồn rớt một rớt, ngắm rớt, nhắm rớt, “Yêng hùng” “rớt…”.

Nhiều nhà thơ tìm về kho tàng văn học dân gian. Lưu Trọng Lư, Trần Hữu Thung tìm đến thể hát dặm Nghệ Tĩnh, Thanh Tịnh soạn những bài độc tấu phát huy điệu nói lối vui nhộn của hề chèo. Tố Hữu chú ý phát huy các thể điệu dân ca và những thủ pháp nghệ thuật của ca dao truyền thống… Xuân Diệu ra sức học tập cao dao, dân ca, đề cao thơ của bần cố nông phát hiện trong cải cách ruộng đất, thơ “báng súng” của binh nhất, binh nhì… Ông viết: “Muốn làm được thơ khá, thiết tưởng nên bắt đầu làm được ca dao khá. Vì thơ của ta phải hay trên cơ sở quần chúng”. (Phê bình giới thiệu thơ v.v…).

2. Quan niệm con người sử thi.

2.1. Kiểu con người anh hùng.

Cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt đã đặt mỗi người Việt Nam bình thường ở vào tình huống không thể không trở thành anh hùng – “Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt – Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”. Đồng thời, mỗi con người, một cách tự nhiên đều cảm thấy hết sức gắn bó với cộng đồng và có ý thức nhân danh cộng đồng mà suy nghĩ và hành động. Tổ quốc còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ, ngục tù? Câu hỏi ấy khiến mỗi người Việt Nam
chân chính tự nguyện dẹp đi tất cả mọi lợi ích cá nhân, cá thể, hy sinh tất cả, kể cả tính mệnh của mình:​
Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…

(Chế Lan Viên)​

Ra đời và phát triển trong không khí lịch sử đó, văn học giai đoạn 1945 – 1975 là văn học của những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của nó là những con người đại diện cho giai cấp dân tộc, thời đại và kết tinh một cách chói lọi những phẩm chất cai quý của cộng đồng.

Tố Hữu nhìn chị Trần Thị Lý không phải là một cá nhân mà là một con người của dân tộc và nhân loại, với “trái tím vĩ đại không phải “đập cho em” mà cho “lẽ phải trên đời, cho quê hương em, cho Tổ quốc, loài người”. Nhà thơ không gọi nhân vật của mình là Trần Thị Lý mà là “Người con gái Việt Nam”. Những mẹ Tơm, mẹ Suốt, bà bầm, bà bủ trong thơ Tố Hữu đều là những bà mẹ Việt Nam anh hùng, trung hậu, bất khuất, đảm đang. Những em bé liên lạc như Lượm “Vụt qua mặt trận – Đạn bay vèo vèo – Thư đề thượng khẩn – Sợ chi hiểm nghèo”, như em Hòa: “Tuổi mười bốn những ước ao – Buổi đầu cầm súng biết bao là mừng – Mẹ ơi súng đẹp quá chừng – Con đi đánh giặc mẹ đừng lo chi” cũng là những anh hùng thiếu niên, như nhà thơ đã khẳng định:​

“Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hóa những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí”.

(Ê-mi-ly, con)​
Đặc biệt là các anh chiến sĩ, người lính trong thơ Tố Hữu:​
“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa đạn
Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn”

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)​

Trong quan niệm về con người sử thi, cái cá nhân, cái riêng tư cơ hồ mất vị trí trong cảm quan thẩm mỹ – cái thời mà Chế Lan Viên gọi là “Những năm toàn đất nước có một tâm hồn, có chung khuôn mặt”, nhà thơ cũng nhìn Tổ quốc mình không phải bằng con mắt cá nhân mà bằng con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa”, nghĩa là con mắt của lịch sử dân tộc. Lê Anh Xuân thì hình dung anh giải phóng quân hy sinh trên sân bay Tân Sơn Nhất như một tượng đài hùng vĩ hiện lên trên cái nền bát ngát của không gian Tổ quốc và thời gian những thế kỷ. Người chiến sĩ ấy là ai? Không cần biết. Anh không để lại tên tuổi địa chỉ gì hết. Vì anh là biểu tượng của giải phóng quân, hơn nữa là “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” để cho “Tổ Quốc bay lên bát ngát màu xanh” (Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân). Những anh Núp của Nguyên Ngọc, chị Út Tịch của Nguyễn Thi, ông Tám Xẻo Đước của Anh Đức, bà mẹ đào hầm của Dương Hương Ly… đâu phải chỉ là những cá nhân. Đó là Đất nước đứng lên, là những Người mẹ cầm súng, là Cô gái mở đường, là sự vùng dậy của Đất, là sức mạnh vô tận của Đất quê ta mênh mông…

Các nhà lý luận thường nói đến khoảng cách sử thi giữa nhà văn và nhân vật anh hùng. Do khoảng cách ấy, giọng văn sử thi thường trang nghiêm và thiên về ngợi ca với thái độ chiêm ngưỡng đầy cảm phục và hình ảnh sử thi thì thiên về vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng. Những hình ảnh như “Áo bào thay chiếu anh về đất – Sông Mã gầm lên khúc độc hành” (Tây Tiến – Quang Dũng), hình ảnh “lửa cháy khắp rừng, cả rừng Xô Man ào ào rung động” (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành), … đều là những hình ảnh mang đậm màu sắc sử thi. Hình ảnh những chàng trai rời thủ đô lên chiến khu Việt Bắc được Chính Hữu miêu tả trong Ngày về thật lớn lao, đẹp đẽ:​

Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm.
(Biệt đô thành – Chính Hữu)
“Chào anh du kích đất Cam
Đẹp như pho tượng Đam San thuở nào
Ngực anh đỏ tựa đồng thau
Vui tình đồng chí, trắng phau răng cười
AK nòng thép xanh ngời
Hôn anh một cái hỡi người bạn thân.

(Tố Hữu)​

Kiểu con người anh hùng trở thành hình tượng chính trong quan niệm con người sử thi của văn học 45-75. Hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng, tập thể buôn làng Xô Man trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là hình hình tượng tiêu biểu. Hình tượng người lính Tây Tiến đã được xây dựng với những phẩm chất của người anh hùng thời đại chống Pháp: vượt lên mọi khó khăn gian khổ của những chặng đường hành quân với đủ mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ, với những thiếu thốn, bệnh tật hoành hành. Tất cả đều hướng về chiến trường, với ý nguyện: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, chấp nhận những hi sinh mất mát, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở trước.

Hình tượng tập thể anh hùng được xây dựng tròn Rừng xà nu lại là hình tượng tiêu biểu của con người sử thi thời đại chống Mĩ cứu nước. Đó là những thế hệ già trẻ nối tiếp nhau, người trước ngã xuống, người sau tiếp tục đứng lên chống Mĩ bảo vệ buôn làng. Từ cụ Mết, đến anh Xút, bà Nhan, đến Tnú, Mai, Dít, đến bé Heng, … tất cả đã tạo nên một dòng suối cách mạng không ngừng. Thế hệ sau cứng cáp, bản lĩnh và đi xa hơn thế hệ trước. Lời đúc kết cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” là chân lí cách mạng của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên và của cả dân tộc ta thời chống Mĩ.

Những truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước 1975 đã phản ánh rất rõ hình tượng con người sử thi. Với quan niệm con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ở thời kì trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên những hình mẫu nhân vật mang đậm cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước hết là con người có lí tưởng sống cao đẹp, ý thức được tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Cô giáo Thùy trong Cửa sông (1966) đã “dành một phần nhỏ thì giờ biên thư cho các học sinh của mình hiện đang ở các đơn vị bộ đội” vì đã tự coi mình như “một người con gái ở hậu phương có nhiệm vụ đem đến cho họ những lời động viên, có nhiệm vụ săn sóc các chiến sĩ ngoài mặt trận”. Thùy luôn cố gắng “tìm cách không tách mình ra khỏi cái guồng máy sinh hoạt chung của nhân dân đang hối hả chuyển sang thời chiến” bởi như thế là ích kỉ, là coi trọng hạnh phúc cá nhân.

Những người lính trong Dấu chân người lính (1972) đều xác định được trách nhiệm cao cả của thế hệ mình trước tiếng gọi thiêng liêng của non sông. Khuê, chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đoàn 5, rất quen thuộc, gắn bó với những khu rừng ngày đêm dội vang những trận bom, những cuộc chuyển quân trong tầm súng của địch. Khung cảnh bề bộn, dựng lửa của chiến trường “trước đây vài tháng, khi anh còn mài gót giày trên những chặng đường đi dài dằng dặc của núi Trường Sơn, anh như đã trông thấy, hình như nó đang vẫy gọi, đang giục giã anh và đồng đội của anh bằng tất cả sức mạnh quyến rũ không thể nào lường được”. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu thường được đặt trong những hoàn cảnh thử thách ngặt nghèo, trước những tình huống phải lựa chọn giữa sống và chết để “càng làm kiên định ý chí cách mạng và bộc lộ sáng chói chủ nghĩa anh hùng” (Nguyễn Văn Long). Nguyệt, cô gái đi nhờ xe trong Mảnh trăng cuối rừng (1970), đã để cả quần áo “nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời vào một gốc cây”, đã nấp ở mé ngoài để che chở cho Lãm vì “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó!”, đã bình tĩnh, rành rọt chỉ đường cho Lãm và khi bị thương vẫn tươi tỉnh, xinh đẹp. Nhận được lệnh xuất kích, từ chính ủy Kinh đến những người lính thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5 (Dấu chân người lính) đều náo nức xen lẫn hồi hộp. Họ mang súng và một số cơ đạn, dây lưng to thắt rất chặt, mặt nghiêm trang, chuyện trò ít đi, ai nấy đều nghĩ đến cuộc chiến đấu mở màn sắp tới với quyết tâm “làm sao cho đơn vị mình đánh thắng trận đầu, nhất thiết phải đánh thắng giòn giã trận đầu”.

Là con người của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 đã kết tinh được phẩm chất của con người Việt Nam, tiêu biểu cho vẻ đẹp cộng đồng. Trong tiểu thuyết Cửa sông, người đọc cảm phục Bân có tình đồng chí gắn bó, keo sơn – anh thầm hứa với lòng mình, nhất định sẽ trả thù cho Ái, sẽ sống xứng đáng với sự hi sinh của Ái; thương mến sự lạc quan, vui tươi của Tốt – cô hát nhiều, cười nhiều trước hôm đi dân công mở đường đợt sáu tháng tận miền tây khu Bốn. Chính Thùy cũng đã từng nghĩ: “mỗi tấc đất làng Kiều, mỗi con người quen biết mà mình từng chung sống, từng dạy dỗ con cái họ đều có một cuộc đời gắn liền với lịch sử đất nước đầy thử thách, mỗi người đều mang trong lòng bao điều tốt đẹp mà mình có thể học hỏi, có thể khám phá suốt đời”. Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), như mọi cô gái Việt Nam khác, có một tình yêu thủy chung, một niềm tin mãnh liệt. Sống giữa sự tàn phá của chiến tranh, bao năm cô vẫn chờ đợi người con trai chưa hề gặp mặt, chưa hứa hẹn một điều gì, bởi vì trong lòng cô “cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn vẫn không phai nhạt, không hề đứt”. Chỉ là câu nói đùa nhưng người đọc thấy được cách Nguyệt hành xử rất phù hợp với truyền thống đạo lí của dân tộc, sống có trước có sau, trọn vẹn nghĩa tình: “Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư”.

Trong giai đoạn văn học này, khuynh hướng sử thi không chỉ thể hiện ở những thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, ký sự, truyện ký hay những bản trường ca. Nó chi phối đến cả những bài thơ trữ tình ngắn, thậm chí nhiều bài thơ tứ tuyệt:​

Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.

(Hồ Chí Minh)

O du kích nhỏ giương cao súng
Thắng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu.

(Tố Hữu)​

Nói như thế không có nghĩa là văn học giai đoạn 1945 – 1975 hoàn toàn không có giọng văn nào khác. Đôi lúc cũng thấy có xen vào một vài giọng điệu khác như giọng đùa cợt, suồng sã hay châm biếm mỉa mai… Nhưng những giọng điệu ấy nếu không ném vào những nhân vật phản diện thì không bao giờ chiếm ưu thế và bị phê bình uốn nắn…

2.2. Kiểu con người lạc quan, lãng mạn

Quan niệm con người sử thi đi liền với cảm hứng lãng mạn. Hai đặc điểm này hòa quyện với nhau tạo nên kiểu con người lạc quan. Ba mươi năm chiến tranh giải phóng dân tộc hướng về lý tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, cả dân tộc chủ yếu sống với tâm lý lãng mạn – một chủ nghĩa lãng mạn thấm nhuần tinh thần chiến thắng và chủ nghĩa anh hùng. Không có lòng yêu nước thiết tha và lòng tin chắc chắn ở tương lai đầy ánh sáng của chiến thắng và cuộc sống ấm no hạnh phúc thì làm sao có đủ sức mạnh tinh thần vượt qua mọi thiếu thốn gian khổ, mọi thử thách nặng nền của chiến tranh:​

Củ khoai củ sắn thay cơm,
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Hớp ngụm nước suối trong đỡ khát,
Trông trời cao mà mát tâm can…

(Tố Hữu)​

Đấy là những năm tháng con người tuy đứng trong gian khổ tột cùng nhưng tâm hồn chủ yếu sống với niềm tin vui ấm áp của tình đồng chí, của tình dân nghĩa Đảng và trong ánh sáng rực rỡ của lý tưởng, của tương lai. Chủ nghĩa lạc quan ấy không phải không có cơ sở thực tế. Bởi dân tộc ta vừa phải trải qua một quá khứ vô cùng khủng khiếp: chế độ thuộc địa Pháp và Phát xít Nhật hết sức tàn bạo đã dẫn tới nạn đói khủng khiếp giết chết hơn hai triệu người trong vài ba tháng. Cách mạng tháng Tám đã cứu dân tộc ta ra khỏi những ngày khủng khiếp đó mà nói như Nam Cao “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình” (Đôi Mắt). Sau chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng, công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội bước đầu, nhờ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, quả có làm cho đất nước thay da đổi thịt. Ngày xưa nhà tranh vách đất là đặc trưng của làng quê ta:​

Mái tranh ơi hỡi mái tranh
Trải bao mưa nắng mà thành quê hương.

(Trần Đăng Khoa)​

Ngày nay khắp nơi mọc lên nhà gạch, mái ngói (gọi là phong trào “ngói hoá”) tạo nên tứ thơ đầy tinh thần lãng mạn của Xuân Diệu: bài Ngói mới. Còn Huy Cận, vốn xưa là một hồn thơ ảo não nhất trong phong trào Thơ mới, nay nhìn đâu cũng thấy Trời mỗi ngày lại sáng và Đất nở hoa. Ở Chế Lan Viên, Ánh sáng và phù sa là hình ảnh đất nước mà cũng là hình ảnh tâm hồn nhà thơ được hồi sinh và thanh xuân hoá.

Nhìn sang các nước bạn thì Liên Xô, Trung Quốc v.v… là những thiên đường đối với một đất nước còn quá đỗi nghèo nàn và lạc hậu như nước ta. Đó là chủ nghĩa xã hội, tương lai chắc chắn sẽ thành hiện thực trên đất nước mình (Với Lênin, Đường sang nước bạn của Tố Hữu, Lại thấy thần tiên đất nở hoa của Huy Cận, Năm mơi năm Liên bang Xô Viết của Xuân Diệu v.v…)
Nhìn thực tế dưới ánh sáng của một tương lai như thế, tự nhiên thấy thực tế đẹp hơn, sáng hơn gấp ngàn lần:​

Năm năm mới bấy nhiêu ngày Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều…
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấp áp làng quê
Chiêm mùa cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn
Màu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe đất chuyển thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu cho người…

Phải nói rằng, những điều Tố Hữu diễn tả đều là sự thật cả. Có điều sự thật ấy đã được nhân lên với kích thước cao rộng bát ngát của tương lai mà nhà thơ gọi là “gió ngày mai” và “hồn thời đại”. Và chủ nghĩa lạc quan cũng được nhân lên với kích thước ấy:​

Xuân ơi xuân, em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội

(Tố Hữu)

Muốn trùm hạnh phúc dưới trời xanh
Có lẽ lòng tôi cũng hoá thành
Ngói mới

(Xuân Diệu)​

Cảm hứng lãng mạn không chỉ sôi nổi trong thơ mà cả trong văn xuôi. Từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến bút ký, tuỳ bút (và cả kịch bản sân khấu) đều rất giàu chất thơ. Và hướng vận động của cốt truyên, của số phận nhân vật, của dòng cảm nghĩ của tác giả hầu như đều đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện đại tới tương lai đầy hứa hẹn. Niềm tin ở tương lai là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn khiến dân tộc ta có thể vượt lên trên mọi thử thách, tạo nên những chiến công phi thường:​

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!

(Tố Hữu)​
Tin chắc ở tương lai và sống với tương lai, con người đã đi vào chiến trường, đi vào bom đạn vui như trẩy hội:​

Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Sung sướng bao nhiêu, tôi là đồng đội
Của những người đi, vô tận, hôm nay

(Chính Hữu)

Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây

(Phạm Tiến Duật)

Ta qua sông qua suối
Ta qua núi qua đèo
Lòng ta vui như hội
Như cờ bay gió reo

(Tố Hữu)​

Những cuộc chia li tiễn người thân ra chiến trường không mang màu sắc ảm đạm, mà ngược lại, mang màu hồng của ánh sáng tương lai:​

Đó là cuộc chia li chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông

(Nguyễn Mỹ)​
..................................
Triều Anh sưu tầm
Thêm
Con người Việt Nam qua văn học 1945 -1975
868
4
4

QuangNhat

Thành Viên
15/7/22
175
217
43,000
Xu
1,103,427
Cảm ơn bạn đã dày công sưu tầm. Nhưng cho mình góp 1 ý nhỏ là có vài ba từ trích dẫn không đúng so với câu thơ gốc: "đến ong dại" chứ không phải "ông dại", và "gan không núng" chứ không phải "gan...
 
View previous replies…
Thơ văn yêu nước chống Pháp ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX phát triển mạnh mẽ. Trong dòng chủ lưu ấy, thơ ca trào phúng trở thành khuynh hướng sáng tác được nhiều tác giả Nam Bộ lúc bấy giờ lựa chọn. Cùng Triều Anh tham khảo bài viết sau để hiểu rõ hơn về đối tượng của văn học trào phúng Nam Bộ cuối thế kỉ XIX.
150753F0-C9F2-4F53-B15E-8B434D26CF40.jpeg

Ảnh sưu tầm​

Xem thêm
Sự hình thành và phát triển của thơ trào phúng Việt Nam thời trung đại
Hiểu về thơ trào phúng
Các công trình nghiên cứu văn học trào phúng cuối thế kỉ XIX

Cuối thế kỷ XIX nhân dân cả nước và nhân dân Nam Bộ bước vào cuộc chiến một mất một còn với bọn thực dân Pháp xâm lược. Trong giai đoạn này, điều mọi người quan tâm nhiều nhất là tìm cách đưa nước nhà thoát khỏi cảnh ngoại xâm. Tất nhiên, tầng lớp nhà nho cũng không ngoại lệ. Họ bằng nhiều cách khác nhau đã đứng hẳn về phía nhân dân mà chống giặc. Vì nhiều lí do, có người tham gia trực tiếp đánh Pháp cùng với nghĩa quân như Nguyễn Hữu Huân. Có người không trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu nhưng cũng tham gia vào việc nghị bàn cách đánh giặc như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị,...Người thì ẩn nhẫn chờ thời. Nhìn chung, các nhà nho yêu nước dù có hành động như thế nào trước thời cuộc thì qua thơ văn họ đều thể hiện thái độ bất hợp tác, chống đối ra mặt với bọn thực dân cướp nước. Vì vậy, giai đoạn này, thơ trào phúng Nam Bộ phát triển mạnh mẽ. Hầu hết các bài thơ đã phản ánh tình hình chính sự lúc bấy giờ. Những âm mưu chính trị, những trò hề cải cách dân chủ của bọn thực dân nham hiểm được các nhà thơ trào phúng kịp thời phản ánh. Điều đó, đã kịp vạch trần bản chất bịp bợm, phi chính nghĩa của thực dân Pháp đối với nước ta.

Một trong những nhà thơ sớm vạch rõ bộ mặt bọn thực dân Pháp phải kể đến Bùi Hữu Nghĩa. Nhà thơ đã không thể chịu đựng được thảm cảnh nước mất nhà tan, người người oán than, ly hận, ông viết:​

Ai khiến thằng Tây tới vậy cà?
Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba
(...) Nam Kỳ chi thiếu người trung nghĩa
Báo quốc cần vương dễ một ta?

(Ai xui Tây đến, Bùi Hữu Nghĩa)​

Bằng câu hỏi quen thuộc hay dùng của người Nam Bộ Ai khiến thằng Tây tới vậy cà?, Bùi Hữu Nghĩa đã gang thép gọi thẳng thực dân Pháp là “thằng Tây”. Trong phương ngữ Nam Bộ, những đối tượng bị gọi là “thằng” bao gồm: thằng nhỏ, thằng hèn, thằng ăn cắp, thằng ngu, thằng quỷ...Bất kỳ danh từ nào được kết hợp với từ “thằng” thì theo cách hiểu của người Nam Bộ đều là hạng người không có vị thế hoặc thấp hèn không ra gì hoặc là kẻ ác, kẻ xấu. Hiểu thế mới thấy rằng, một vị thủ khoa nổi tiếng hay chữ, suốt đời tận tụy đền ơn vua trả nợ nước, bất bình trước tội ác của giặc Pháp mà dùng cả từ “thằng” trong thơ. Thế nhưng, nhờ sử dụng từ “thằng” đúng vị trí, câu thơ trở nên đẹp hơn bao giờ hết. Nó thể hiện rõ khí tiết, thái độ căm ghét và miệt thị của Bùi Hữu Nghĩa đối với bọn Tây. Chẳng những thế, bài thơ còn thể hiện khá rõ quyết tâm chống Pháp của thủ khoa Nghĩa bằng một lời đe dọa đanh thép: Không riêng gì ta, đất Nam Kỳ có biết bao người trung nghĩa sẽ đứng lên “báo quốc cần vương”, hãy đợi mà xem kết cuộc. Tương truyền, vì thấy bài thơ thể hiện rõ thái độ chống đối, mỉa mai của nhân dân Nam Bộ đối với giặc Pháp nên đã có người dịch từ chữ Nôm sang tiếng Pháp. Bài thơ đã làm cho kẻ thù phải e dè trước thái độ quyết tâm chống giặc của nhân dân ta.

Không thua gì thái độ của Bùi Hữu Nghĩa đối với giặc Pháp, Phan Văn Trị cũng đã phản ánh thực trạng nước ta bị thực dân Pháp chiếm đóng. Chúng làm ra bộ mặt “từ bi” bằng giọng điệu xảo quyệt muốn khai sáng dân trí nước Việt. Thế nhưng bọn thực dân Pháp nhanh chóng lộ rõ nguyên hình là những kẻ cướp nước, tàn bạo thẳng tay đàn áp đồng bào ta. Bất bình trước hành động gây tội ác của thực dân Pháp, Phan Văn Trị viết:​

Nêu danh lăm dựng giữa hồng hoang
Chỉ sợ thằng Tây việc dấy càn
Lấn đất tội kia đà khó thứ
Trái trời án nọ chẳng còn oan

(Họa bài Tự thuật 4 của Tôn Thọ Tường)​

Giống như Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị cũng cho thực dân Pháp thấy lá gan to của mình khi gọi chúng là “thằng Tây”. Đối với thực dân Pháp, Phan Văn Trị chẳng biết sợ là gì. Ông thẳng thắn phê phán việc “thằng Tây” cướp đất là một việc làm càn, không thuận theo ý trời lòng dân. Vì xưa nay, việc xâm chiếm đất đai vương thổ là việc làm bất chính, phi nghĩa. Đó là hành động của kẻ mọi rợ, gian tà. Vì thế, việc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, gieo rắc bao đau thương mất mát trên quê hương xứ xở của ta là việc làm “khó thứ”. Với tội danh cướp nước, làm trái với đạo trời, chúng cần phải bị nghiêm trị. Đọc hai câu thơ, người đọc mường tượng hình ảnh của cụ Phan đang oai nghiêm, dõng dạc hô to bản án tử hình. Phía dưới công đường chính là hình ảnh của bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai đang khúm núm run sợ. Chưa dừng lại ở đó, bài thơ còn thể hiện rõ tấm lòng địch khái của Phan Văn Trị đối với sự nghiệp cứu nước của dân tộc: Tấm lòng địch khái thề sông núi/ Tấc dạ cần vương hẹn đá vàng.

Nguyễn Đình Chiểu, lá cờ đầu của phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Bộ lúc bấy giờ cũng đã khảng khái viết lên những vần thơ chính nghĩa:​

(...) Bờ cõi mấy năm từng dọn vén
Râu rìa một lũ tới xông pha
Nằm cao dầu chẳng kiên thần miễu
Ăn bậy sao không sợ chủ nhà?

(Con dê)​

Bài thơ lấy đề tài vịnh vật. Con dê, con vật nuôi gần gũi với người nông dân Nam Bộ. Đây là loài vật nuôi hiền lành, không phá hoại mùa màn. Thế nhưng Nguyễn Đình Chiểu lại cố tình miêu tả con dê thật dị biệt. Từ hình dáng đến thói quen kiếm ăn đều khác xa với con dê của nông dân. Nhà thơ viết: Râu rìa một lũ tới xông pha. Đọc xong câu thơ, người đọc thấy dê mà lại có “râu rìa”. Một lũ dê, con nào cũng có “râu rìa” như thế thì rõ ràng Nguyễn Đình Chiểu đang mượn hình ảnh con dê để nói đến đối tượng khác - bọn thực dân Pháp. Bởi hình dáng của lũ người Tây khác biệt rất lớn với người Việt. Đặc điểm dễ nhận ra bọn thực dân Pháp đó là, kẻ nào người nấy đều có “râu rìa”. Vậy, tả dê mà dùng “Râu rìa một lũ tới xông pha” thì ai ai cũng biết cụ Đồ Chiểu đang chửi xéo bọn Tây. Ông xem việc Pháp đến chiếm đất đai của người Việt là hành động phá hoại, không khác gì loài thú chẳng có trí óc, chẳng biết nghĩ suy. Vì thế, Nguyễn Đình Chiểu lớn tiếng quát mắng lũ dê hoang là Ăn bậy sao không sợ chủ nhà?. Câu thơ còn là lời đe dọa lũ phá hoại dám xông pha vào vườn vào nhà người khác. Hành động không được phép này trước sau cũng bị đền tội dưới “lưỡi gươm người Hứa Chử”. Lúc đó xem các ngươi còn dám giẫm đạp lên vườn nhà người khác hay không.

Cập nhật ngay những chủ trương, chính sách của thực dân Pháp, Hồ Bửu Ngoạn cũng có lời đáp trả về lệnh treo cờ của bọn thực dân:​

Lịnh làng rao bảo dám làm ngơ
Xóm dưới đầu trên cắm rặt cờ
Mới tốt khoe màu xanh trắng đỏ
Cũ lâu xuống sắc lấm lem dơ...

(Lịnh treo cờ).​

Theo chủ trương của Pháp, chúng bắt mỗi nhà trong làng đều phải treo cờ Pháp quốc. Vì vậy, không ai dám làm trái lệnh truyền. Hồ Bửu Ngoạn đã nói về lệnh treo cờ vô cớ ấy bằng một giọng mỉa mai. Cách kể Xóm dưới đầu trên cắm rặt cờ tưởng chỉ là câu kể bình thường về việc hưởng ứng treo cờ. Vậy nhưng, bằng cách chơi chữ của người Nam Bộ, Hồ Bửu Ngoạn không dùng “rợp cờ” mà dùng phương ngữ để tả là “rặt cờ”. Cách nói này đã tạo ra một tràn cười vui tươi khi hiểu ra ý lái. Cũng từ việc dùng “rặt cờ” thay cho “rợp cờ”, tác giả mở đầu cho cuộc đấu trí với đầy đủ những lí lẽ thuyết phục, mục đích là hạ bệ việc treo cờ, hạ bệ chủ trương của Pháp, hạ bệ thực dân Pháp ngay trên sắc lệnh mà chúng ban ra. Hơn thế, câu thơ cuối những tưởng là lời nhiệt thành của tác giả lo lắng cho cờ bị bẩn khi treo lâu ngày. Thế nhưng lại ẩn chứa lời châm biếm mỉa mai về một sắc lệnh kì quặc, vô cớ, không có mục đích rõ ràng, giống như một trò lố của thực dân Pháp. Vì vậy, có thể nói rằng, bài thơ là lời châm biếm nhắn gửi xa xôi, tác giả trút hết nỗi căm phẫn chất chứa trong lòng vì nỗi phải “treo cờ”.

Và đây là toàn cảnh Nam Kỳ khi thực dân Pháp sang xâm lược:​

Từ Bến Thành trải qua Chợ Sỏi, mùi tinh chiên loạn xị biết bao nhiêu
Nơi Chợ Lớn trải đến Cầu Thương, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm!
Cầu Bà Nghè cùng nơi Chợ Quán, quỷ tham tàn đắc ý vinh râu
Chùa Cẩm Thảo trải tới Cây Mai, Phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng
Nơi nơi nổi xóm mới nhà Tây Chốn chốn lập đồn canh, ụ súng
Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô, thân thể đều khô
Bát ngát nhẽ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng người đời cũng rụng
Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không
Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống rỗng
Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nghĩa dân biết dựa vào đâu
Thân liều thác, thác vậy cùng vua, xương nghĩa sĩ chất đà đầy đống.

Dù không phải thơ thất ngôn, nhưng chúng tôi cũng xin trích một đoạn ngắn trong bài Gia Định thất thủ phú bởi giá trị tố cáo của tác phẩm rất cao. Phan Văn Trị đã căm phẫn đến tím ruột bầm gan mà gọi thẳng thực dân Pháp là “loài tinh chiên”, “quân mọi rợ”, “quỷ hung tàn đắc ý vinh râu”. Dù thơ Phan Văn Trị dùng ít mỹ từ, nhưng ở Gia Định thất thủ phú, nhà thơ đã cố tình đem hết những từ ngữ khó nghe nhất để nói về quân cướp nước. Cách nói ấy đã vạch rõ bản chất tàn bạo, xấu xa của bọn thực dân xâm lược. Sau khi thực dân Pháp chiếm đóng Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ, ngoài việc xây dựng “xóm mới nhà Tây” và “lập đồn canh, ụ súng” thì chúng còn gây ra biết bao tan thương cho nhân dân Nam Bộ. Phan Văn Trị thẳng thắn và lớn tiếng tố cáo tội ác của bọn thực dân bằng các cụm từ giàu hình ảnh như: “cỏ khô thân thể đều khô”, “hoa trái rụng người đời cũng rụng”, “ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không”, “trận gió quét cửa nhà trống rỗng”. Khắp các tỉnh ở Nam Kỳ, từ Bến Thành, chợ Sỏi, chợ Lớn, chợ Quán, chùa Cẩm Thảo, chùa Cây Mai, làng Gò Vấp, thôn Vườn Trầu, Gò Đen, Rạch Kiến, Rạch Lá, Gò Công đâu đâu cũng đầy tiếng kêu oán thán. Với hình ảnh “xương nghĩa sĩ chất đầy nên đống”, Phan Văn Trị chẳng những vạch trần tội ác của thực dân trong việc càn quét giết chết những người yêu nước thương nòi của ta mà còn thể hiện rõ quyết tâm chống giặc đến cùng của nhân dân Nam Bộ.

Có thể nói, nhằm làm lung lạc tinh thần và ý chí đấu tranh chống giặc của nhân dân Nam Bộ, thực dân Pháp trơ tráo thực hiện nhiều cải cách, những chính sách hà khắc và vô lí, ép dân ta vào bước đường cùng. Chẳng những thế, lũ cướp nước đã biến bọn tay sai hám danh hám lợi và bọn quan lại triều đình phong kiến nhu nhược yếu hèn thành những con rối phục vụ đắc lực cho bọn chúng. Tất cả những hành động gian manh, xảo quyệt của bọn Pháp đều không qua được con mắt tinh đời của các nhà thơ trào phúng Nam Bộ. Bằng tác phẩm thơ của mình, họ đã dùng tiếng cười châm biếm đả kích vạch trần dã tâm tàn độc, hung ác, mưu mô, gian xảo của bọn thực dân. Hành động cướp nước và hành động giết chết nhiều người dân vô tội của giặc Pháp đã trở thành tiêu điểm cho các nhà nho yêu nước Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà (Nguyễn Đình Chiểu) một cách mạnh mẽ. Nói cách khác, cùng với thơ văn yêu nước, thơ trào phúng ở Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình trong việc đả kích không khoan nhượng lũ giặc ngoại xâm.​

.........................................
Triều Anh
Thêm
Thực dân pháp - đối tượng trào phúng chủ yếu của thơ ca nửa cuối thế kỉ XIX
557
3
2

QuangNhat

Thành Viên
15/7/22
175
217
43,000
Xu
1,103,427
Tôi nghĩ rằng những bài viết dạng này không chỉ bồi dưỡng kiến thức văn học, mà còn giúp các bạn học sinh bổ túc thêm kiến thức lịch sử. Như thế là VHT đã đem đến cho forum này một "giá trị gia...
 
  • Like
Reactions: Triều Anh

Triều Anh

Người yêu của văn chương ❤️
Thành viên BQT
3/12/22
606
440
63,000
Sóc Trăng
Xu
6,078,826
Tôi nghĩ rằng những bài viết dạng này không chỉ bồi dưỡng kiến thức văn học, mà còn giúp các bạn học sinh bổ túc thêm kiến thức lịch sử. Như thế là VHT đã đem đến cho forum này một "giá trị gia tăng" đáng kể.
QuangNhatEm cảm ơn anh rất nhiều ạ!
 
“Viếng bạn” là một bài thơ kiệm lời nhưng nhiều ý. Bài thơ ngắn ngủi đã cùng một lúc và rất tự nhiên vừa diễn tả được lòng căm thù quân địch sâu sắc, vừa biểu hiện được tình đồng đội, đồng chí và tình quân dân mặn nồng, thiêng liêng.

Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh!

Tên nó là đế quốc?
Tên nó là thực dân?
Nó là thằng thổ phỉ?
Hay là đứa Việt gian?

Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt

Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán

Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.

[Hoàng Lộc]
Hoàng Lộc sinh tháng 2-1922 ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Hoàng Lộc vốn là học sinh Trường Bưởi (Hà Nội), sau lên chiến khu gia nhập bộ đội, làm phóng viên của Báo Xông Pha, tờ báo của Vệ quốc quân khu 12 (bộ đội Hà Nội) đóng ở Bắc Giang. Khi Chiến dịch Thu Đông năm 1947 diễn ra, Hoàng Lộc tình nguyện đi mặt trận, cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với những người lính chiến. Bài thơ “Viếng bạn” được viết trong dịp đó.
Viếng bạn.png

(Viếng bạn của Hoàng Lộc- Tìm thấy vẻ đẹp trong nỗi đau đớn, xót xa)

Trước khi qua đời, Hoàng Lộc đã để lại một bài thơ giờ đây đã trở nên quen thuộc với bạn đọc chúng ta - bài "Viếng bạn". Cùng với nhiều tác phẩm như "Nhớ" của Hồng Nguyên, Đồng chí của Chính Hữu... "Viếng bạn" của Hoàng Lộc đã phần nào thể hiện được một loại tình cảm mới mẻ mà thiêng liêng: Tình đồng đội cách mạng.

Thời trước, người ta quen viếng cha, viếng mẹ, viếng tổ tiên... giờ Hoàng Lộc viếng bạn. Trước đó vào thời 30 -45, người ta thường khóc chàng, khóc nàng, khóc người tình, giờ Hoàng Lộc khóc đồng đội của mình. Trước tổn thất mất mát ta xót thương và luyến tiếc. Ta còn căm phẫn nữa nếu cái chết có kẻ chủ tâm gây ra. Quy luật tình cảm là vậy : yêu thương bao giờ cũng đi liền với căm ghét. Xuân Diệu viết rất đúng rằng: Yêu với căm hai đợt sóng ào ào, Vỗ bên mình vọng mãi tới trăng sao. Tình cảm bộc lộ trong "Viếng bạn" không ra ngoài cái chung này. Khổ đầu của bài thơ trĩu nặng xót đau :

Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ

“Hôm qua” cùng sống kề vai sát cánh chiến đấu vì mục đích chung, “hôm nay” kẻ mất người còn, không xót xa sao được ! Cái chết đến đường đột quá, nên nỗi đau càng trăm lần, càng ngàn lần tăng lên. Nỗi xót thương cố ghìm nén lại để bật lên thành tiếng thét oán hờn đối với những kẻ gây ra cái chết đau đớn ấy ở khổ thơ kế theo :

Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhắm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh !

Xét về ý nghĩa biểu đạt thì hai câu : Đứa nào bắn anh đóSúng nào nhắm trúng anh không khác biệt nhau mấy. Tuy nhiên, ý nghĩa biểu cảm thì lại được nâng cao thêm khiến người đọc không thể dửng dưng, không thể nín lặng. Kẻ thù phải được nêu đích danh, phải được chỉ mặt, phải được gọi tên, có thế mới đáp ứng được đòi hỏi khẩn thiết, da diết và chính đáng của tình cảm. Mức độ xót thương và căm thù được diễn tả một cách bình dị, tự nhiên nhưng không thua kém bất cứ trường hợp nào xảy ra trong đời sống, và trong văn chương là vì thế ! Có điều, chất tình cảm của bài thơ đã nhiều phần đổi khác. Kẻ thù gieo rắc tội lỗi đâu phải là một người hay một nhóm người :

Tên nó là đế quốc
Tên nó là thực dân
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa Việt gian ?

Có thể hiểu kẻ thù là bất cứ loại người nào trong đó. Lại cũng có thể hiểu tất cả bọn chúng là kẻ thù, vì lẽ, trong thực tế, sự tồn tại của chúng nào có tách rời nhau. Kẻ thù đã không phải của một người hoặc một nhóm người thì cái chết cũng không phải vì một người hoặc nhóm người nào đấy. Người vừa nằm xuống đã không tiếc máu xương chiến đấu và hy sinh vì lẽ tồn vong của đất nước này, của sự nghiệp này. Cái chết của một người để bảo vệ sự sống của muôn người. Ý nghĩa của sự hy sinh ngời ngời sáng tỏ. Đó là lý do khiến người viết trĩu nặng xót đau mà không rơi vào ủy mị, yếu mềm. Câu thơ ngũ ngôn chắc khoẻ giúp nhà thơ tìm được hình thức thích hợp cho sự biểu lộ tình cảm của mình. Đó là lẽ tồn tại của khổ thơ cuối mà suy cho cùng cũng là lẽ tồn tại của cả bài thơ :

Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung

Từ cái “tôi” nhỏ bé riêng rẽ đã chuyển thành “chúng tôi” rộng lớn. Sự trả thù thật đích đáng, triệt để và hợp đạo lý. Thế giả định đã trở thành thế khẳng định chắc chắn, dứt khoát. Bài thơ viết về cái chết, về những giọt nước mắt mà không làm người đọc yếu lòng. Cái ch.ết vì cách mạng quả đã góp phần nâng bài thơ lên một tầm cao mới. Nhà thơ Xuân Diệu có lần kể rằng: Vào năm 1948, ở huyện Hạ Hòa, Phú Thọ, Tố Hữu có đọc bài "Viếng bạn" cho ông nghe. Nghe xong, Xuân Diệu đánh giá bài thơ không có gì cuốn hút, độc đáo cả. Vì sao? Xuân Diệu thành thật tâm sự : “Kháng chiến chống Pháp đã hai năm mà cái “gu” cái khẩu vị thơ của tôi vẫn chưa thay đổi được là mấy. Vẫn như mơ màng tìm kiếm những sáng loáng bóng lộn thơm phức ở đâu đâu”. Cũng theo Xuân Diệu, về sau ông “dần dần chuyển cách thức ăn nếm của của mình” thì lại thấy "Viếng bạn" lại là một bài thơ hay. Vậy có gì đáng nói về cái hay của bài thơ? Theo tôi, trước hết bài thơ có vẻ đẹp của sự bình dị, trong sáng. Để diễn tả một tâm trạng tương tự, không ít người đã tìm đến những câu thơ sau :

Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt

Nỗi đau đớn xót xa cố ghìm lại qua những biểu hiện bên ngoài để day dứt, để nhức nhối sâu thẳm tự bên trong. Câu thơ như tự nhiên thốt ra từ cõi lòng người viết để mãi rung động người đọc chúng ta.

Đi liền với vẻ đẹp giản dị trong sáng là sức mạnh của tiếng nói thống thiết từ nỗi lòng chân thực. Dễ nhận ra đặc điểm này qua từng câu thơ và cả bài thơ. Thì ra sự chân tình, chân thành bao giờ cũng là con đường ngắn nhất đi đến sự giao hoà, sự cảm thông thật sự và bền lâu. Hãy đọc lại những dòng thơ tưởng chỉ kể lể sau đây để tiếp cận với một trong sự thách đố không dễ gì vượt qua của thơ hay :

Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán.

Viếng bạn thật xứng đáng là tấm bia kỷ niệm bằng thơ đặt trước anh linh của những người đã ngã xuống cho cuộc sống của chúng ta hôm nay và tương lai muôn đời của con cháu mai sau.

<Phạm Quang Trung>​

Nguyễn Đình San cũng có bài viết về Viếng bạn đăng trên CAND như sau:

Bài thơ được bắt đầu một cách thật tự nhiên bằng việc nhắc lại một sự kiện cuối cùng trước khi bạn ngã xuống. Cái khoảng cách giữa “hôm qua” và “hôm nay” chỉ là 24 tiếng đồng hồ mà ở đây đã là một khoảng cách không thể tưởng tượng được giữa cõi sống và cõi chết.
Theo lối diễn tả thông thường, để phụ họa cho nỗi tiếc thương của người còn sống, thiên nhiên hay được “huy động” để sụt sùi, than khóc cùng con người. Người bạn còn lại chỉ lặng lẽ chặt một cành cây để “đắp cho người dưới mộ”. Cành cây phủ ở trên mộ, che cho ngôi mộ, sao lại “đắp cho người dưới mộ” được? Nhưng có lẽ không ai bắt bẻ, chất vấn về câu thơ đột xuất này, chính vì nó đã là hợp lý nhất.

Bài thơ chỉ là “Viếng bạn”, chỉ là vài phút mặc niệm bên nấm mồ của bạn, chỉ vẻn vẹn có 6 khổ thơ 5 chữ, không có điều kiện miêu tả cụ thể cái chết của bạn mà sao người đọc hình dung rất rõ cái tư thế lúc chết cùng cả cuộc đời chiến đấu trước đó của người liệt sĩ, phải chăng vì nhờ có những câu ít có vẻ là thơ: Đứa nào bắn anh đó/ Súng nào nhằm trúng anh/ Khôn thiêng xin chỉ mặt/ Gọi tên nó ra anh!/ Tên nó là đế quốc/ Tên nó là thực dân/ Nó là thằng thổ phỉ/ Hay là đứa Việt gian?
Trong một khúc hát có những chỗ tình cảm trào dâng nhất hoặc lắng đọng nhất, ấy là chỗ “cao trào”. Trong khúc “Viếng bạn” này, có thể xem cao trào ở chỗ: Khóc anh không nước mắt/ mà lòng đau như thắt/ Gọi anh chửa thành lời/ mà hàm răng dính chặt.

Ai đã từng nếm trải đau khổ mới thấy chí lý một điều: đau khổ đến mức không kêu than, cặp mắt cứ ráo hoảnh không một giọt lệ, lúc ấy đau khổ mới đến độ tột cùng. Nhưng có lẽ cái ấn tượng mạnh nhất đến với người đọc ở mấy câu thơ trên là nhờ tác giả đã bắt gặp được một cái âm khép “ắt”, lại là âm trắc để gieo vần ở khổ thơ thứ tư. Càng đau khổ càng ái ngại hơn khi ở nơi đây, không thể có những phương tiện bình thường nhất để khâm liệm, để chôn xác bạn, chỉ có một tấm chăn, có lẽ tấm chăn này đã nhiều dịp ủ ấm hai người, nhất lại là “của đồng bào Cửa Ngăn”. Người còn sống đã gửi theo vong linh người đã khuất vật kỷ niệm cuối cùng ấp ủ tình quân dân và tình đồng chí. Nếu cả bài thơ là màu sắc u buồn, ngậm ngùi, tưởng niệm thì đến đây đã ít nhiều được sáng lên bởi một lời khấn thờ thiết tha mà cụ thể. Hẹn “mai mốt” nhưng âm điệu của bốn câu thơ cuối cùng cho ta cảm giác như tiếng súng trả thù của người bạn còn sống đã vang lên.

“Viếng bạn” là một bài thơ kiệm lời nhưng nhiều ý. Bài thơ ngắn ngủi đã cùng một lúc và rất tự nhiên vừa diễn tả được lòng căm thù quân địch sâu sắc, vừa biểu hiện được tình đồng đội, đồng chí và tình quân dân mặn nồng, thiêng liêng. Giọng thơ thâm trầm, lắng đọng phù hợp với cảnh ngộ nhưng không bi lụy, não nề.

Một bài thơ gọn gàng, hàm xúc. Không ai nghĩ tác giả làm thơ mà chỉ thấy anh thương bạn, nhớ bạn bởi vì mọi lời lẽ chỉ là những ngôn ngữ bình dị nhất. Thế mới biết, muốn hình ảnh, âm thanh, muốn nhịp điệu, tiết tấu điệu nghệ sao chăng nữa cũng không thể thay thế tình người để quyết định sức sống lâu bền của một bài thơ. “Viếng bạn” cũng là một trong số những bài thơ hay xuất hiện trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thật cảm động, bài thơ ra đời chẳng được bao lâu thì chính tác giả của nó đã hy sinh trong một chuyến đi công tác. Và đã có người viếng anh khi anh ngã xuống cũng như anh từng viếng đồng đội trong bài thơ.

Đến hôm nay đọc lại “Viếng bạn” ta như thấy vẫn còn nguyên vẹn không khí và cảm xúc của cả đối tượng lẫn chủ thể sáng tạo. Người đọc không mấy nghĩ bài thơ nói đến chủ đề liệt sĩ, chỉ thấy một tấm lòng, tình cảm thật lớn lao, sâu nặng mà giản dị của những người lính chung một chiến hào – những người đã có công lớn làm nên ngày hôm nay.
Thêm
Viếng bạn của Hoàng Lộc- Tìm thấy vẻ đẹp trong nỗi đau đớn, xót xa
742
2
2
1.Chao ôi! Ðối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương..."

2.“Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”

3. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”

4. "Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng..."

5."Yên thân như vậy để làm gì? Làm để có ăn, ăn để sống, sống để đợi chết.. cả cuộc đời chỉ thu gọn vào bằng ấy việc thôi ư? Và có sung sướng gì cái kẻ suốt đời chỉ biết chúi mũi vào cái cối xay bột, chẳng bao giờ dám nhìn xa hơn một chút, thu hẹp cuộc sống và sự hiểu biết của mình vào trong cái phạm vi nhỏ hẹp của mảnh đất con con của mình!...”

6.“Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển tận độ những khả năng của loài người chứa đựng trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại chút gì cho nhân loại"

7.“Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất...”

8. "....Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nhữ“…trước khi nghĩ đến việc đặt những cái hôn lên cái miệng hoa của người yêu, cũng nên nghĩ đến việc đổ cơm vào đấy đã.”

9. "Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình...Nó làm cho người gần người hơn.''
10. "Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất..."
11."Tôi sẽ chẳng bao giờ thèm đả động đến cái tôi – cái tôi là cái đáng ghét. Vẫn biết nhiều bạn đồng nghiệp khả kính của tôi không nghĩ thế. Suốt đời họ, họ chỉ toàn nói về họ. Họ phân tích tâm hồn họ. Mà họ làm thế nhất định không phải vô ích. Nhưng họ khác, mà tôi khác..."

12."Sự đời không thể mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên bên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi anh để lại. Một bàn tay bạn bè sẽ nắm lấy bàn tay chúng và dắt chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn..."


1674138619410.png
Thêm
DANH NGÔN HAY CỦA NHÀ VĂN NAM CAO
339
2
1

Triều Anh

Người yêu của văn chương ❤️
Thành viên BQT
3/12/22
606
440
63,000
Sóc Trăng
Xu
6,078,826
Các trích dẫn rất tiêu biểu và phù hợp. Nếu Trần Thuỳ ghi rõ nguồn thì sẽ tiện hơn cho việc vận dụng vào bài viết. Cảm ơn bạn đã chia sẻ ❤️
 
B7020025-DD9E-4778-9279-3B89252B13F4.jpeg
Ảnh: Nhạc sĩ Văn Cao (sưu tầm)

Văn Cao là một nghệ sĩ thiên tài. Ông sáng tác thành công ở cả lĩnh vực âm nhạc, hội họa và thơ.Trong suốt cuộc đời của mình, Văn Cao sáng tác không nhiều.Trừ các tác phẩm nhạc, ít ai biết được rằng thơ và họa của Văn Cao đã để lại những ấn tượng đặc biệt cho người đọc. Có dịp đọc tập thơ duy nhất của Văn Cao, độc giả sẽ không khỏi buông tiếng thở dài ái ngại cho cuộc đời một người nghệ sĩ tài hoa.

“Lá” được xuất bản năm 1988, in tại nhà xuất bản Tác Phẩm Mới. Tập thơ chỉ có 28 bài - ngắn có, dài có - ghi lại hành trình của cuộc đời người nghệ sĩ với những chiêm nghiệm nhân sinh, những thâm trầm, u buồn …Ấn tượng nhất có thể kể đến tác phẩm “Giấc mơ”.

“Dưới mái nhà

Một người đang ngủ

Với giấc mơ của những vì sao

Những vì sao đang kể chuyện

Giấc mơ của mái nhà

Giấc mơ của một người đang ngủ.”


Bài thơ “Giấc mơ” được tác giả Văn Cao sáng tác vào 5-1-1972. Đây là giai đoạn sống gió chưa qua trong cuộc đời người nghệ sĩ đa tài. Lần đầu đọc bài thơ, chắc nhiều người cùng chung cảm nhận giống tôi: Văn Cao mơ nhiều quá! Bởi chỉ với 32 chữ, từ “giấc mơ” đã lặp lại 3 lần. Vậy giấc mơ là gì? Giấc mơ đơn giản chỉ là trạng thái ngủ mơ của một người. Khi ngủ mơ, con người có thể trải nghiệm một hoặc một vài sự viêc ít khi diễn ra trong thực tế. Hay đơn thuần giấc mơ chỉ là những hình ảnh phản chiếu ảo tưởng của con người. Đôi khi, có những “giấc mơ tỉnh táo”, người nằm mơ ý thức được mình đang mơ và có thể làm thay đổi được thực tại giấc mơ. Trường hợp này thường gặp ở những giấc mơ của các nghệ sĩ thiên tài. Nếu thế, người đọc có thể nghĩ “Giấc mơ” là một bài thơ ghi lại quá trình ngủ mơ của tác giả Văn Cao. Trong giấc mơ của mình, nhà thơ đã thấy một người đang ngủ dưới mái nhà với giấc mơ của những vì sao – những vì sao kể chuyện giấc mơ của mái nhà và giấc mơ của người đang ngủ.

Thật ấn tượng. Con người thường hay kể về giấc mơ đêm qua của mình. Thông thường họ mơ thấy mình xây nhà, cưới vợ, sinh con hoặc một vài việc linh tinh thường nhật khác. Thế nhưng “Giấc mơ” của Văn Cao lại khác biệt. Khác biệt ở tính chất của giấc mơ – có nhiều giấc mơ của nhiều đối tượng hoặc cùng một đối tượng trong cùng một giấc mơ. Thật thú vị, nhan đề là “Giấc mơ”, Văn Cao kể về những giấc mơ trong một giấc mơ. Bài thơ, theo tôi nghĩ, đã không còn là thơ nữa, thơ đã là họa mất rồi. Bằng tài năng của mình cùng với chất liệu vô cùng đặc biệt, Văn Cao đã vẽ thành một bức tranh siêu thực như những giấc mơ chỉ với 32 từ. Nói cách khác, Văn Cao vẽ tranh bằng thơ.

“Bức tranh - bài thơ” của Văn Cao hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh của một khung cảnh lãng mạn nên thơ. Một người đang ngủ dưới mái nhà; bên ngoài, bầu trời hàng ngàn ngôi sao lấp lánh. Hoăc ít nhất, những ngôi sao lấp lánh trên cao kia đang trong tâm trí của người đang ngủ.

“ Dưới mái nhà

Một người đang ngủ

Với giấc mơ của những vì sao”


Vấn đề đặt ra ở đây là người ngủ đang mơ giấc mơ về “những vì sao” hay mang theo “giấc mơ của những vì sao” vào giấc ngủ? Cụm từ “những vì sao” gợi nghĩ đến bầu trời cao rộng với nhiều ngôi sao lấp lánh. Những ngôi sao ấy phải chăng chính là Văn Cao và những nghệ sĩ đa tài như ông? Vậy ra “giấc mơ của những vì sao” chính là giấc mơ của những nghệ sĩ tài năng – những ngôi sao sáng trên bầu trời văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Như thế “giấc mơ của những vì sao” - giấc mơ chân chính của người nghệ sĩ, luôn hiện hữu và thường trực trong những giấc ngủ của Văn Cao.

Thế nhưng điều đặc biệt về giấc mơ của nhạc sĩ họa sĩ nhà thơ Văn Cao – người đang kể về giấc mơ của chính mình; đồng thời cũng là người đang ngủ dưới mái nhà - lại chính là câu chuyện mà “những vì sao” đang kể:

“Những vì sao đang kể chuyện

Giấc mơ của mái nhà

Giấc mơ của một người đang ngủ.”


Bài thơ tưởng như phi lí đến mức siêu thực vì “những vì sao” trong giấc mơ của người đang ngủ lại đang kể chuyện “giấc mơ của một người đang ngủ”. Cái gam màu (giấc mơ) rối mắt đến rối trí người đọc đến nỗi các màu sắc khác, các từ ngữ khác như mờ đi. Lúc ấy hiện lên trên bức tranh thơ chỉ còn là đường nét vẽ về giấc mơ. Nhìn kĩ bạn thấy được gì? Một “giấc mơ” lớn (nhan đề), bao trùm lên những “giấc mơ” khác theo cấu trúc bắc cầu, điệp vòng:

Giấc mơ (của người đang ngủ) = giấc mơ của những vì sao

Với tính chất bắc cầu, giấc mơ của người đang kể cũng là giấc mơ của người đang ngủ. Mà giấc mơ của người đang ngủ cũng lại chính là giấc mơ của những vì sao. Hóa ra chủ thể của tổng thể các giấc mơ là một. Chủ thể ấy chính là Văn Cao. Trong các giấc mơ của mình, Văn Cao đã tự chia tách mình ra thành những bản ngã khác nhau. Có một Văn Cao bằng xương bằng thịt sống giữa cuộc đời (người đang ngủ). Văn Cao ấy vì cuộc sống mưu sinh mà phải “viết vội” (Nam Cao), thậm chí ông đã phải “giết chết chính mình”.

“Giữa sự sống và sự chết

Tôi chọn sự sống

Để bảo vệ sự sống

Tôi chọn sự chết.”

(Chọn, 26.8.1957)

Văn Cao đã chọn “chết” để vẽ tranh ngay cả trên một bao diêm làm sinh kế. Và lẽ thường khi con người ta đối mặt với hiện thực tàn khốc, cùng cực,… người ta thường hay mơ. Khi màn đêm buông xuống là lúc Văn Cao ngủ mơ và thoát ra khỏi thực tại cuộc sống bế tắc. Lúc này “giấc mơ tỉnh táo” của Văn Cao đã “chọn sự sống”. Thế nên “những vì sao” (tài năng âm nhạc, thơ ca, hội họa) xuất hiện trong giấc mơ của “người đang ngủ” rất có thể là Văn Cao – con người nghệ thuật tách vỏ từ cõi chết để hồi sinh. Vì vậy ngay trong giấc mơ của một Văn Cao khắc khoải vì nghèo khó đang nằm ngủ mơ kia, một Văn Cao đa tài với những khát khao táo bạo về nghệ thuật, về tự do sáng tạo nghệ thuật, về những cách tân nghệ thuật đang kể chuyện về giấc mơ của mái nhà, kể chuyện về giấc mơ của một người đang ngủ. Nói cách khác, Văn Cao (con người nghệ thuật) đang kể chuyện cho một Văn Cao – con người của cuộc sống thường nhật hàng ngày. Vậy trong câu chuyện kể ấy, “mái nhà” mơ gì? “người đang ngủ” mơ gì? Có phải đang mơ về:

“Những mái nhà ủ những cánh chim đêm

Ủ những giấc mơ dưới trời sao lồng lộng”

(Năm buổi sáng không có trong sự thật)

Các giấc mơ cứ như bám chặt lấy ông. À không, phải là Văn Cao đang bám riếc vào giấc mơ. Bởi mơ không phải là đời. Mơ đẹp hơn nhiều so với đời thật. Vì vậy hiện thực trong giấc mơ đã giúp “người đang ngủ” (Văn Cao của đói nghèo, tù túng) có thể vượt qua những nhọc nhằn, cơ cực trong cuộc sống mưu sinh. Vượt qua cơn lốc xoáy “Văn nhân Giai phẩm” kéo dài 30 năm không dứt. Ông mơ một ngày mở mắt ra là “bầu trời sao lồng lộng”. Mơ một ngày, mái nhà - vòm trời trên cao, đủ rộng và đủ cao để “những vì sao” có thể tự do tỏa sáng theo cách riêng nhất của mỗi vì sao.

“Giấc mơ” không tầm thường của một người phi thường. Đó cũng là một trong những tác phẩm thơ đặc sắc của Văn Cao. Bài thơ “Giấc mơ” với sáu dòng thơ ngắn, câu chữ không bóng bẫy, hạn chế tối đa những âm thanh, tiết kiệm tối đa về mặt ngôn từ nhưng đã mở toan tất cả cánh cổng của tư duy. Đọc bài thơ, người đọc thật sự đã lạc vào mê cung của những tầng nghĩa được xếp chồng lên nhau như các mặt của trò chơi xúc xắc. Phải chăng “Giấc mơ” chính là minh chứng cho lối tư duy nghệ thuật đầy sáng tạo của Văn Cao? Và nếu thế, có thể khẳng định rằng, bài thơ “Giấc mơ” chính là tác phẩm điển hình trong cách tân nghệ thuật thơ mà Văn Cao là người khởi xướng. Bạn nghĩ gì về điều này?
………………………
Triều Anh​
Thêm
"Giấc mơ" của Văn Cao - một góc nhìn
439
2
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
  2. hưnga @ hưnga:
    cho em hỏi xu có những tác dụng gì ạ
Top