Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
"Thượng Kinh kí sự" là một tập kí xuất sắc của Lê Hữu Trác. Trong đó nổi bật là đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" mang đậm giá trị hiện thực sâu sắc. Để hiểu hơn về đoạn trích cùng mình phân tích ý nghĩa và giá trị văn bản "Vào phủ chúa Trịnh" của Lê Hữu Trác nhé!

5955


Phân tích ý nghĩa và giá trị văn bản “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác
  • Mở bài:
Lê Hữu Trác (1724 – 1791) là một danh y, không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách, mở trường dạy nghề thuốc để truyền bá y học. Tuy là người tinh thông y học, dịch lý, văn chương, nhưng ông được biết đến nhiều hơn với vai trò lang y bốc thuốc cứu người. Văn bản "Vào Phủ chúa Trịnh" trích trong tập "Thượng Kinh kí sự", một tập kí xuất sắc của Lê Hữu Trác.
  • Thân bài:
Đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường danh lợi.

* Sự cao sang, quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà chúa

- Quang cảnh nghiêm mật và xa hoa, tráng lệ trong phủ chúa:

+ Phủ chúa là nơi hết sức nghiêm mật, canh phòng chặt chẽ. Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với “những dãy hành lang quanh co nố nhau liên tiếp”. Ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”. Vườn hoa trong phủ chúa “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”… “Đến nội cung thế tử phải qua năm, sáu lần trướng gấm, trong có ghế rồng sơn son thiếp vàng, màn che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”…
+ Phủ chứa được trang hoàng hết sức xa hoa, tráng lệ. Bên trong phủ là những “đại đường”, “gác tía”, với võng điều, đồ nghi trượng sơn son thiếp vàng và “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
+ Mọi thứ đều làm rất công phu, nhiều công sức. Một gác điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.
+ Đến cả vật dụng ăn uống cũng hết sức quý giá, tất cả đều là mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ.
+ Quang cảnh ở phủ chúa cực kỳ tráng lệ, lộng lẫy, không đâu sánh bằng.

- Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa.
+ Khi tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh chúa thì có “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường”. Trong phủ chúa “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Lời lẽ nhắc đến chúa Trịnh và thế tử đều phải cung kính, lễ độ, bằng các mĩ từ: “Thánh thượng”, “hầu mạch Đông cung thế tử”… Tuyệt đối không nhắc đến từ thuốc vì đó là một tù cấm kị. Số là ở đây kiêng danh từ “thuốc” và thường gọi thuốc là “trà” vì thái tử bệnh rất nặng
+ Chúa Trịnh luôn luôn có “phi tần chầu chực” xung quanh. Nội cung trang nghiêm đến nổi tác giả phải “nín thở đứng chờ ở xa”, “khúm núm đến trước sập xem mạch”.
+ Thế tử có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có “mấy người hầu đứng hai bên”…

=> Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh với nhiều lễ nghi, khuôn phép, cách nói năng, người hầu kẻ hạ,…Phủ chúa là nơi quyền uy tối thượng, uy thế lấn lướt cả cung vua.

* Thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ của Lê Hữu Trác:

- Đứng trước cảnh phủ chúa xa hoa lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ, tác gải nhận xét “bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”, “Cả trời Nam sang nhất là đây”. Đường vào nội cung thế tử được tác giả cảm nhận “ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”. Nói về bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét “vì thế tử ở trong chốn màn the trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.
- Ông dửng dưng trước những quyến rũ vật chất, không đồng tình trước cuộc sống no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và không khí tự do.
- Tâm trạng khi kê đơn cho thế tử: Lúc đầu, có ý định chữa bệnh cầm chừng để tránh bị công danh rang buộc. Sau đó vì chữ trung, trách nhiệm, vì lương y nên ông thẳng thắng đưa ra cách chữa đúng bệnh, kiên trì giải thích, dù khác ý với các quan thái y.

=> Vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Lê Hữu Trác: một thầy thuốc giỏi, bản lĩnh, giàu kinh nghiệm, ý đức cao, xem thường danh lợi, quyền quý, yêu tự do và nếp sống thanh đạm.

  • Kết bài:
Lê Hữu Trác tỏ ra có tài quan sát tinh tế, sâu sắc vô cùng trong bài kí Vào phủ chúa Trịnh. Dường như ông tường tận tất cả trong phủ chúa chỉ sau một chuyện đi. Ngòi bút ghi chép cũng hết sức tài tình, chi tiết, chân thực, sắc sảo, lối kể hấp dẫn hài hước. Bài kí kết hợp giữa văn xuôi và thơ làm tăng chất trữ tình cho tác phẩm, góp phần thể hiện kính đáo của người viết.

Xem thêm tại: https://forum.vanhoctre.com/forums/vao-phu-chua-trinh-le-huu-trac.293/
Thêm
Phân tích ý nghĩa và giá trị văn bản “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác
561
0
0
Hôm nay, mình trở lại để tiếp tục giúp đỡ các bạn trong việc soạn bài một cách đầy đủ nhất trước khi đến lớp. Mời các bạn cùng tham khảo soạn văn "Vào phủ chúa Trịnh" - Lê Hữu Trác nhé!


Tóm tắt
Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.

Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến không có dịp): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.
- Phần 2 (tiếp đến phòng chè ngồi): Thực trạng trong phủ chúa, hình ảnh Trịnh Cán ốm yếu.
- Phần 3 (còn lại): Tâm trạng, cảm nghĩ của Lê Hữu Trác

Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

* Quang cảnh trong phủ Chúa

- Phải đi qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang dài quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có lính canh gác, ai muốn vào phải có thẻ.
- Vườn hoa trong phủ Chúa cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa cỏ thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương
- Bên trong phủ là nhà Đại đường, Quyển bổng, Gác tía với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.
- Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng chén bạc
- Đến nội cung phải đi qua 5, 6 lần trướng gấm
- Phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son, nệm gấm mà che

⇒ Quang cảnh ở phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng

* Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa

- Khi đi thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường
- Trong phủ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi
- Lời lẽ nhắc đến thế tử đều hết mực cung kính, lễ độ tránh phạm úy.
- Chúa Trịnh luôn cho phi tần chầu chực xung quanh. Tác giả không được thấy mặt Chúa
- Thế tử bệnh có 7, 8 người thầy thuốc túc trực, phục dịch
- Tác giả phải quỳ lạy 4 lần lúc đến và 4 lần lúc về

⇒ Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép, cách nói năng, người hầu kẻ hạ cho thấy sự cao sang, quyền uy, cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.

* Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống trong phủ

- Lê Hữu Trác mặc dù khen cái đẹp, cái sang nơi phủ Chúa những tác giả tỏ vẻ dửng dưng trước những thứ vật chất xa hoa và không đồng tình với cuộc sống quá xa xỉ, thừa thãi, hưởng lạc nhưng thiếu khí trời và tự do như ở trong phủ Chúa

Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chi tiết được cho là đắt nhất

- “Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Khi đi đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít.
- Qua chi tiết ấy cho thấy cuộc sống ăn chơi hưởng lạc trong phủ Chúa. Thế tử được mọi người chăm sóc, hầu cận đến phát bệnh. Không gian ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí trong phủ Chúa.

Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

- Cách chẩn đoán bệnh của Lê Hữu Trác cho thấy ông là một người thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm
- Ông là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
- Đặc biệt ông còn có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị

Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bút pháp đặc sắc trong truyện

- Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy
- Tả cảnh sinh động
- Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc

Luyện tập (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)
So sánh hai đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Lê Hữu Trác) với “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)

* Giống nhau: Đều phán ánh hiện thực cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh

* Khác nhau:

- Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hổ

+ Phản ánh sự nhũng nhiễu của quan lại đối với nhân dân
+ Các sự kiện được kể một cách tản mạn, ghép nối
+ Thể hiện thái độ phê phán gay gắt của tác giả đối với Chúa và quan lại

- Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác

+ Ghi chép sự việc theo trình tự thời gian một cách tỉ mỉ và trung thực
+ Thể hiện thái độ phê phán một cách kín đáo
+ Thể hiện thái độ dửng dưng, coi thường vinh hoa phú quý và tấm lòng y đức của Lê Hữu Trác

Xem thêm tại: https://forum.vanhoctre.com/forums/vao-phu-chua-trinh-le-huu-trac.293/
Thêm
Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu Trác
506
0
0
Bài trắc nghiệm này là những câu hỏi về vấn đề chính nhất của bài học tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh" - Lê Hữu Trác. Nếu làm đúng 16 câu trắc nghiệm này, các bạn học sinh có thể nói là mình đã nắm chắc bài học này rồi.

NỘI DUNG TRẮC NGHIỆM​

Câu 1: Quê hương của Lê Hữu Trác

A. Huyện Đường Hào - Hải Dương
B. Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
C. Huyện Mĩ Lộc - Nam Định
D. Huyện Gia Lâm - Hà Nội

Câu 2: Năm sinh và năm mất của tác giả là

A. 1524 - 1691
B. 1624 - 1719
C. 1720 - 1791
D. 1824 - 1891

Câu 3: Đoạn trích thuộc thể loại văn học nào?

A. Kí
B. Chiếu
C. Tùy bút
D. Tiểu thuyết chương hồi

Câu 4: Tên hiệu của tác giả Lê Hữu Trác là

A. Tuệ Tĩnh
B. Bạch Vân cư sĩ
C. La Sơn phu tử
D. Hải Thượng Lãn Ông.

Câu 5: Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Tráo vào phủ chúa Trịnh để chữa bệnh cho ai?

A. Trịnh Doanh
B. Trịnh Cán
C. Trịnh Sâm
D. Trịnh Tông

Câu 6: Câu nào sau đây là lời nhận xét của Lê Hữu Trác về nguyên nhân bệnh của thế tử?

A. Do thế tử đam mê tửu sắc quá mức.
B. Do thế tử u uất vì tình duyên trắc trở.
C. Là vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi.
D. Do thế tử u uất vì chưa được truyền ngôi.

Câu 7: Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” có nói đến việc Lê Hữu Trác biết rõ nguyên nhân, luận giải hợp lí, thuyết phục và có cách chữa đúng bệnh cho thế tử Cán. Tuy nhiên, ông sợ chữa có hiệu quả ngay. Lê Hữu Trác có suy nghĩ đó là vì:

A. Ông cô kéo dài thời gian vì quyến luyến nơi quyền quý.
B. Cố kéo dài thời gian để được trả công nhiều hơn.
C. Vì ông quá yêu thương thế tử Cán, nên không nỡ rời xa.
D. Vì ông sợ chữa hiệu quả nhanh, được chúa yêu và tin dùng, bị công danh trói buộc.

Câu 8: Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trích từ tác phẩm nào sau đây?

A. Vũ trung tuỳ bút
B. Vân Đài loại ngừ
C. Bạch Vân am tập.
D. Thượng kinh kí sự.

Câu 9: Tác giả có thái độ như thế nào trước cuộc sống xa hoa và hưởng lạc nơi nhà chúa?

A. Cảm thấy thích thú với cuộc sống xa hoa hưởng lạc nơi đây
B. Cảm thấy bức xúc, căm phẫn trước cuộc sống quá tiện nghi, sang trọng của những người quyền uy.
C. tỏ rõ sự dưng dưng, không đồng tính với cuộc sống quá tiện nghi, quá sang trọng như vậy.
D. Tác giả buồn rầu, thất vọng với cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa

Câu 10: Mục đích của Lê Hữu Trác khi vào phủ chúa Trịnh là

A. Đi thi.
B. Vua mời vào nghị sự.
C. Chừa bệnh cho thế tử.
D. Nhận chức quan.

Câu 11: Lê Hữu Trác nối danh với nghề nào dưới đây?

A. Hoạ sĩ
B. Viết văn
C. Dạy học về thuốc
D. Nghề y, viết sách và dạy về thuốc.

Câu 12: Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, có lời nhận xét của Lê Hữu Trác về nguyên nhân bệnh của thế tử Cán: “Là vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá âm nên tạng phủ yếu đi”. Câu này có nghĩa là gì?

A. Thương cảm cho cảnh ngộ của thế tử.
B. Lo lắng cho thế tử.
C. Mỉa mai, phê phán lối sống “ngồi mát ăn bát vàng”.
D. Bộc lộ tình yêu thương thế tử Cán.

Câu 13: Tâm trạng của Lê Hữu Trác ở phần cuối tác phẩm “Thượng kinh kí sự” như thế nào?

A. Lo lắng cho cuộc sống của nhân dân ở kinh đô còn nhiều khốn khổ.
B. Tâm trạng đau xót vì chứng kiến cảnh quan lại ăn chơi xa xỉ, còn nhân dân thì lầm than.
C. Tâm trạng sung sướng vì được trở về quê nhà với đời sống tự do, được tiếp tục nghề y của mình.
D. Tâm trạng nuối tiếc vì rời xa chốn kinh thành phồn hoa.

Câu 14: Tác phẩm “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác phản ánh xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn nào sau đây?

A. Đau thế kỉ XVII
B. Cuối thế kỉ XVII
C. Nửa đầu thế kỉ XVIII
D. Nửa cuối thế kỉ XIII

Câu 15: Điểm nổi bật về giá trị nghệ thuật trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác là:

A. Sự quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực và sắc sảo.
B. Sử dụng nhiều hình ảnh có tính cường điệu để miêu tả sự xa hoa trong phủ chúa.
C. Tình huống truyện bất ngờ, li kì.
D. Ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh và biểu cảm.

Câu 16: Ý nào sau đây chưa chính xác về nội dung của đoạn trích

A. Miêu tả cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh và tầng lớp quan lại thực dân.
B. Thể hiện thái độ thờ ơ, dửng dưng thậm chí là châm biếm, mỉa mai của tác giả với cuộc sống sa hoa, giàu sang quyền quý trong phủ Chúa.
C. Người thầy thuốc chọn cách chữa bệnh cầm chừng, vô thưởng vô phạt để không vướng vào vòng danh lợi.
D. Cuộc sống ăn chơi, trụy lạc, sa đọa dẫn tới bện tật của cha con chúa Trịnh Sâm, Trịnh Cán


Đáp án: 1A, 2C, 3A, 4D, 5B, 6C, 7D, 8D,9C, 10C, 11D, 12C, 13B, 14C, 15A, 16B

Xem thêm bài viết liên quan:
Soạn hay nhất văn bản Vào phủ chúa Trịnh
Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong đoạn trích Vào phủ chúa trịnh
Phân tích chi tiết đắt giá làm nổi bật giá trị hiện thực trong tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh"
Thêm
487
0
0
Các danh nhân xưa, luôn có những giai thoại truyền lại khiến người sau tò mò, Lê Hữu Trác - một danh y của nước Việt, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm nghiên cứu y khoa, lời răn y đức có giá trị to lớn cả trong ngành Y, Sử, Văn học. Bài viết này sẽ đem tới cho bạn đọc về giai thoại tình yêu lỡ làng của Lê Hữu Trác, để xem cổ nhân, danh nhân có khác chúng ta - những người thường không?

GIAI THOẠI VỀ LÊ HỮU TRÁC - GIAI THOẠI TÌNH YÊU​

Từ bài thơ cảm động của danh y Lê Hữu Trác:

Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa
Kim nhật tương khan khổ tự ta
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ
Song mâu xuân tận hiện hình hoa
Thử sinh nguyện tác càn huynh muội
Tái thế ưng đồ tốn thất gia
Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã
Túng thiên như thử nại chi hà?


(Vì vô tâm thành chuyện làm lầm lỡ cho người. Ngày nay nhìn nhau đắng cay than thở. Một nụ cười bao tình cảm, lệ tuôn chảy. Hai tròng mắt đã hết xuân bỗng hiện hình hoa. Kiếp này nguyện làm anh em kết nghĩa. Kiếp sau xin sẽ thành vợ chồng. Ta không phụ người mà người phụ ta. Nếu phỏng như thế thì làm thế nào đây?).

Hai câu luận tha thiết nhất trong bài thơ, có người dịch như sau:

“Kiếp này nguyện kết em anh
Mộng chung chăn gối xin dành kiếp sau”


Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Ông đã để lại cho hậu thế một di sản vô giá về y đức, y lý, y thuật, dược, di dưỡng. Đồng thời, ông cũng để lại cho đời một mối tình tuyệt đẹp của thời trai trẻ. Chuyện tình duyên của vị danh y có ngoại hiệu Hải Thượng Lãn Ông này được chính ông kể trong cuốn Thượng kinh ký sự (Kể chuyện lên kinh đô chữa bệnh trong phủ Chúa Trịnh) tóm tắt như sau: Hồi nhỏ gia đình Lê Hữu Trác có dạm hỏi một cô gái - là con quan Thừa tự Tham chánh ở Sơn Nam - cho ông cưới làm vợ. Đã làm lễ vấn danh và ăn hỏi rồi, nhưng có việc trở ngại, khiến ông phải từ hôn, và về ở luôn Hương Sơn - Hà Tĩnh. Sáu năm sau, ông lên kinh thì nghe tin vị quan trên đã qua đời, còn cô gái đau khổ kia đã thề suốt đời không lấy ai nữa... Trong thời gian ở Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh, tình cờ ông gặp lại người cũ, mà giờ đây đã thành một bà sư già, khổ sở và cô độc. Ông có ý muốn rước bà về ngôi chùa do anh ông xây dựng ở quê, nhưng bà đã sụt sùi từ chối, chỉ mong nhờ ông một việc là: Nghe nói trong Nghệ An có nhiều cỗ áo quan tốt, muốn nhờ người cũ mua cho một cỗ để chuẩn bị cho ngày xuất thế... (dẫn lại theo Wikipedia online).

Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen “hiểu sâu y lý” ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài.

Thời gian ở kinh đô, ông nhiều lần xin về thăm cố hương ở Hải Dương, nhưng mãi đến tháng 9-1782, chúa Trịnh mới cho phép ông về. Sau hơn 40 năm xa cách, được trở về mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”, ông đã thực sự bồi hồi. Đặc biệt hơn, lần về lại này ông đã xúc động khi biết rằng, người con gái năm xưa mình đã từ hôn vẫn còn đây, vẫn nồng nàn chung thủy bằng cách xuống tóc đi tu, nguyện một đời nhớ thương người chồng chưa cưới đã vì nước, vì trăm họ mà lãng quên mình.

Câu chuyện tình cảm với người con gái quê xưa ở chốn cũ có lẽ sẽ không được vị danh y lỗi lạc này nhớ đến bởi lúc nào ông cũng bận bịu giữa hàng tá công việc. Thứ nữa, người con gái ấy tuy đã hứa hôn với ông nhưng trước lúc về quê mẹ ở ẩn cách 40 năm về trước, mặc dù ngày ấy ông rất yêu thương nhưng biết chắc về quê sẽ khó có ngày tái ngộ nên đã tạ tội với cô gái và hai gia đình để xin được từ hôn. Chuyện xưa và người xưa những tưởng đã vùi chôn vào năm tháng thì bất ngờ, mọi chuyện được gợi nhắc và sống dậy khi ông trở lại kinh thành chữa bệnh cho chúa Trịnh và câu chuyện “thượng kinh ký sự” của vị đại thần y lần này không đơn thuần chỉ là chữa bệnh, đó còn là cuộc trở về quê cũ, thăm lại người xưa để tạ lỗi với hương xưa, người đã vì ông mà để lỡ mất một thời hương sắc thanh xuân.

Chuyện bắt đầu trong “Thượng kinh ký sự”, một ngày nọ có hai lão ni cô đến chỗ Hải Thượng Lãn Ông và cho biết, ở chùa Huê Cầu đang đúc chuông lớn nhưng công quả chưa thành nên họ lên kinh thành để quyên góp ủng hộ. Thậm chí, một trong hai vị ni cô để tạo lòng tin với ông còn tiết lộ, bà chính là con gái của quan tả thừa ty tỉnh Sơn Nam, quê ở Huê Cầu. Nghe nói đến quan tả thừa ty tỉnh Sơn Nam, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bất chợt giật mình, bởi ngày xưa chính ông đã đem lòng yêu thương rồi cầu hôn, đã nộp lễ vấn danh và lễ hỏi với cô con gái rượu của vị quan này. Có điều, sau đó lưu lạc nhau nên hai người đã không đến được với nhau. Sau đó thì ông về Hà Tĩnh lấy vợ, sinh con và cũng nghĩ đơn giản là người xưa cũng đã yên bề gia thất với một công tử hào hoa nào đó nên đã cố tình lãng quên.

Văn học trẻ tổng hợp

Xem thêm : Các bài viết về tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu Trác
Thêm
523
0
0
Bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những chi tiết đặc sắc đó để làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh". Đây là câu hỏi mở rộng của câu 4 trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 mà các em đã soạn.

Tóm tắt ý chính cần thể hiện

Ký sự là một thể của ký thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện, hay kể lại một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Trong đoạn trích, tác giả đã thể hiện khả năng quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động. Lối kể khéo léo ,lôi cuốn bằng những sự việc chi tiết đặc sắc. Có sự đan xen với tác phẩm thi ca làm tăng chất trữ tình của tác phẩm.

Giọng điệu: kể chuyện khách quan, pha chút hài hước, tạo được sự thú vị cho người đọc: nín thở đứng chờ, bị sóc một mẻ, một chỗ tối om không có cửa ngõ gì cả… Giọng kể của ông rất tự nhiên xen kẽ giữa lời kể và lời bình, tác giả chú ý nhiều đến tả cảnh, đến tường thuật sự việc.

Về nhân vật, ngoài những người mang họ Trịnh, các nhân vật khác, tuy quyền hành và phận sự khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ cùng dựa dẫm, nịnh bợ nhà chúa nhằm củng cố địa vị cá nhân. Các quan ngự y ngày đêm chầu chực để liệu phương thuốc chạy chữa cho Trịnh Cán, nhưng lại sợ trách nhiệm, chỉ theo ý của quan Chánh đường để ra toa. Ngay cả quan Chánh đường cũng không khá hơn, ông hoàn toàn đặt mọi hi vọng vào thế tử ốm yếu, bệnh hoạn.

Xem thêm: Dàn ý phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh"
Soạn hay nhất bài Vào phủ chúa Trịnh
Top 14 bài mẫu phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh"

Bài làm đầy đủ

Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quí tộc, giỏi binh thư,võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian,ông nhận thấy xã hội thối nát,cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí,y thuật.

Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43(1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán.Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút. Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao . Đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11-Nâng cao,tập 1(Nxb.Giáo dục,H,2007) thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.

Như ta biết: kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại,viết về người thật,việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như : bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí,nhật kí, …Trong số đó kí sự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc- câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực,tinh tường của nhà văn trước sự việc.

Đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.

Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian .Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương,gấp gáp của nhân vật: “ Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa . Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” . ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh,với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,không một chi tiết thừa .Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức .Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.

Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “ Tôi” trong tác phẩm này. Trước mắt ta : hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật,việc thật .

Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật. Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đãcó cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu .

Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn,tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con,con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.

Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…..tôi chạy ra…” , “người đầy tớ nói…..tôi bèn” , “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ,khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lô gíc nhân quả của sự kiện, hành động .Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.

Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền ,tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.

Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi” .Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.

Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ- không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau,ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít,danh hoa đua thắm,gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được son son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ…. Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng,có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm ,xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…

Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh .Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh ,ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.

Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ,sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng,tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.

Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh .Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau .

Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.

“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh,chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.

Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp . Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này . Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .

Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã không ngần ngại để cái “Tôi”đóng một vai trò quan trọng". “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí,người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch . Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm : “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.
Thêm
734
0
0
Văn học trẻ tổng hợp 14 mẫu phân tích giá trị hiện thực đoạn trích vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác hay nhất, đầy đủ nhất để các em học sinh có nguồn tư liệu tham khảo đầy đủ nhất

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác 1

Thời xưa những người tài giỏi thì thường chúa ghét vòng danh lợi họ chỉ giúp vua một thời gian rồi về ở ẩn với nhân dân giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao"


Có thể nói rằng sự lánh đục tìm trong ấy là cách xuất xử của biết bao nhiêu bậc nho sĩ, người tài. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn. Tác phẩm tiêu biểu của ông được nhiều người biết đến là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Trong tác phẩm này Lê Hữu Trác đã phê phán những thói ăn chơi xã đọa của bậc vua chúa. Nơi đây không khác gì cho những bậc thánh ở.

Đoạn trích được rút trong tập thượng kinh kí sự, là một quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu sự phát triển của văn học ( Văn xuôi tiếng Việt, thể ký). Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn.

Vào phủ chúa trịnh ghi lại thời điểm: Sau khi ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này.

Nhà văn đi vào chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán và thu vào mắt mình cái quang cảnh và cung cách trong phủ chúa Trịnh.

Trước hết là quang cảnh trong phủ chúa Trịnh, thu vào mắt tác giả là những quang cảnh của cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm. quả thật đây là một nơi sang trọng bậc nhất thiên hạ. Vào phủ chúa phải trải qua biết bao nhiêu là cửa sự trang nghiêm nơi đây thật sự khiến cho người ta rụt rè chân bước " Hậu mã quân thúc trực" để cho chúa sai việc. Bên trong cửa phủ thì có những "đại đường", "quyền bổng", "gác tía" với kiệu son, võng nghi lộng lẫy. tất cả mọi thứ đều được mạ vàng. Từ những chiếc cột cho đến những mâm bát chén cũng đều như được dát vàng. Ở đây ta thấy được những cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Không hiểu tại sao sống trong cảnh giàu sang vinh hoa ấy mà Trịnh Cán lại có thể bị bệnh cơ chứ.

Cái sự sang trọng ấy được nhà văn miêu tả và nhận xét là "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy". Đến nội cung của Thế tử thì phải qua biết mấy lần trướng gấm. Trong căn phòng của thế tử cũng có nhiều thứ rất sang trọng mà người đời mấy ai được xem qua. Nào là trướng là gấm rồi lại đến những sập cũng sơn son thiếp vàng, ghế rồng hương hoa bay ngào ngạt. Có thể nói đây chính là thiên đường trên mặt đất không đâu sánh bằng cái vẻ nguy nga lộng lẫy ấy. Thật sự là khiến cho người ta đau lòng vì khi nhân dân thì đang khổ sở với cuộc sống thì chúa cái người mà đứng ra cai quản lại có thể ăn chơi xa đọa trước những vất vả của nhân dân như vậy. Thử hỏi rằng triều đại ấy cái trị được bao nhiêu lâu, ngồi mát ăn bát vàng không lo cho dân chúng thì liệu có bền được không?.

Không chỉ quang cảnh mà đến cung cách trong cung cũng được nhà văn chú ý miêu tả. nào là "đầy tớ chạy trước hết đường", rồi lại đến "người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi". Quả thật đây đúng là một chốn lao xao mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói. Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính, lễ độ. Riêng chúa Trịnh lúc nào cũng có những cung tần mĩ nữ xung quanh để hầu hạ. Chúa giống như những bậc thánh khiến cho nhà văn cũng không được gặp mặt chúa mà chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho thế tử Trịnh Cán mà thôi. Khi xem bệnh xong thì không được trao đổi với chúa mà phải viết giấy khai đưa lên. Còn riêng phần thế tử thì khi bị bệnh lại có rất nhiều tầm bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Không những thế nếu muốn khám bệnh cho thế tử thì những ngự y kể cả đã già lắm rồi cũng phải quỳ lạy dưới một đứa trẻ con. Không chỉ vậy mà người gọi chúa Trịnh là thánh thượng, các chữ "thánh" ấy phải chăng chúa Trịnh đang quá lạm dụng quyền hành của mình.

Trước những quang cảnh và cung cách trong phủ chúa ấy khiến cho tác giả thể hiện quan điểm của mình. Tác giả dửng dưng trước những quyến rũ của giàu sang phú quý bởi vì nó được xây đắp bởi xương máu của nhân dân làm ra. Và tác giả dùng những câu văn thể hiện sự không đồng tình của cảnh sống xa hoa nơi đây. Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy : Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy. Thế tử Trịnh Cán bị bệnh là do nơi đây quá đầy đủ khiến cho con người không thể khỏe mạnh bình thường được. Khi các ngự y không đồng tình với đơn thuốc mà tác giả kê thì ông đã nhất quyết bảo vệ đơn thuốc ấy. Chính vì thế mà các ngự y khác phải khâm phục trước kiến thức và tài năng của nhà văn.

Qua đây ta thấy Lê Hữu Trác đã phơi vẽ những gì có trong phủ chúa Trịnh. Dường như ta cảm nhận được rõ cuộc sống xa hoa ở đây cũng như cung cách của con người trong phủ chúa. Thế nhưng có ai biết rằng sự xa hoa ấy là chính nhân dân khổ cực bị chúa bóc lột đến tận xương hay không. Thế mà chúa vẫn sống đàng hoàng như thế quả thật không chấp nhận được.

Xem thêm: Dàn ý phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
Soạn hay nhất văn bản "Vào phủ chúa Trịnh"

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 2
Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn ông, quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc huyện Yên Mỹ, tĩnh Hưng Yên ông là một danh y lừng lẫy trong lịch sử y học Việt Nam. Ý nguyện lớn nhất của ông là đem tài năng và tâm huyết của mình để cứu người, giúp đời. Danh lợi, phú quý không thể làm cho ông xa rời lí tưởng cao đẹp đó. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển, biên soạn trong gần 40 năm, là một công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất thời trung đại ở nước ta.

Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa phong kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình.

Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có của phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương... Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!

Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm "Hậu mã quân túc trực". Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.

Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn: Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy... Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chỉ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.

Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái quát qua mấy câu thơ tức cảnh:

Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt,
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.


Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa Ịại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên trong đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ ... Không một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ còn đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa không còn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên ở khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn về bản chất của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạnlộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.

Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có giá trị hiện thực sắc sảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cái sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tôi xem mạch Đông cung cho thật kĩ.

Qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung thế tử được tác giả miêu tả khá kĩ, người đọc cứ thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó: ... thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. Vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức. Quả là chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm nay đã già cỗi, lạc hậu và khó bề cứu chữa.

Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kĩ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe chỉ để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.

Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khai của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên...

Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hoà hoãn cho thế tử vì sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết định lánh xa vòng danh lợi của ông trong hoàn cảnh ấy là vô cùng đúng đắn.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của mình. Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng chỉ là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.

Xem thêm: Tất tần tật về tác giả, tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh" - Lê Hữu Trác

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 3
Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quí tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật.

Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút

Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao. Đoạn “Vào phủ chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11- Nâng cao, tập 1 (Nxb Giáo dục, 2007) thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.

Như ta biết: kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như: bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí, …Trong số đó kí sự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc - câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc.

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.

Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian.

Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật:

“Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa. Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….”.

Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa.

Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.

Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “tôi” trong tác phẩm này.

Trước mắt ta: hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật, việc thật .

Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật.

Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu.

Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.

Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…..tôi chạy ra…”, “người đầy tớ nói…..tôi bèn”, “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lô gíc nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.

Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.

Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.

Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ - không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ…. Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…

Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh. Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.

Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ, sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng, tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.

Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau .

Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật, đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.

“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.

Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.

Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám.

Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã không ngần ngại để cái “tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình, phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.


Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 4
Chúng ta thường biết đến Hải Thượng Lãn Ông là một người thầy thuốc thế nhưng ông còn là một nhà văn nữa. Cuộc đời ông sáng tác không nhiều nhưng đã để lại những tác phẩm có giá trị và giàu ý nghĩa. Tiêu biểu đó là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Có thể nói qua tác phầm ấy giá trị hiện thực được thể hiện rất rõ.

Trước hết vào phủ chúa Trịnh được xảy ra trong hoàn cảnh triều đình chúa Trịnh Sâm vời Lê Hữu Trác vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Mặc dù bản thân không muốn những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa. Và những hiện thực nơi đây được nhìn qua con mắt của ông khiến cho chúng ta thấy được cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào.

Hiện thực phủ chúa được tác giả miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cách thức trong cung nữa. Mọi thứ nơi đây hiện lên thật sự rất cụ thể.

Trước hết là quang cảnh nơi đây, bước chân vào phủ chúa tác giả không hết khen ngợi bởi sự xa hoa sang trọng nơi đây. Nào là những cây cối mà chưa thấy ở đâu, những cây cối ấy toàn những của quý, cây quý cả. Quý như thế mà trong phủ chúa lại có rất nhiều rất um tùm nữa. Phải nói qua đây ta thấy cuộc sống nơi đầy giàu sang phú quý. Không chỉ có những loại cây quý hiếm để làm cảnh đẹp nơi đây thêm phần sang trọng mà phủ chúa còn có những loài chim cũng quý nữa. Nào là danh hoa đua thắm nào là chim kêu véo von. Có thể nói mới đặt chân vào phủ chúa mà tác giả đã vẽ lên những hiện thực nơi phủ chúa sang trọng với những loại cây, loài chim quý hiếm. Đó hẳn là người giàu sang lắm mới có thể trồng những danh hoa kia trong nhà.

Không những thế càng đi sâu vào trong phủ thì Lê hữu Trác càng vẽ lên khung cảnh chúa với sự xa hoa mỹ lệ. Tác giả thấy nhưng không ham muốn danh lợi, đặc biệt ông cũng thể hiện thái độ không thích sống một cuộc sống tiện nghi quá như thế. Phải chăng chính vì tiện nghi quá cho nên thế tử kia mới mắc bệnh tật. Khung cảnh phủ chúa được tiếp tục thể hiện qua những đại đường, quyền bổng. Ở đây người ta thấy được những màu vàng chói lọi. Có thể nói màu vàng thể hiện sự giàu sang phú quý và chính vì thế mà trong phủ chúa những vật từ nhỏ cho đến lớn đều được sơn son thếp vàng. Cuộc sống vua chúa nơi đây quả thật chẳng khác nào thiên đường mà nhiều người muốn. Từ những cây cột ở đại đường đều được sơn thếp sơn vàng. Hay là những đũa chén, mâm ăn cơm, những vật dụng tưởng chừng nhỏ bé bình thường ấy cũng được mạ vàng. Nếu như có những mâm vàng chén bạc quý giá thì người ta chỉ để làm vật quý giá trưng bày mà thôi thế mà ở đây là một vật dụng để ăn cơm. Có được một thứ mạ vàng hay bằng vàng là một sự quý giá lắm rồi thế mà ở đây từ vật to đến vật lớn đều là vàng cả. Cuộc sống hiện lên thật sự đầy đủ và giàu sang.

Không những thế cung cách trong cung cũng phần nào thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm này. Để vào được trong cung thì phải qua nhiều lần bẩm báo trong phủ thì mới được vào. Những thứ của chúa thì gọi là thánh giống như là nhà vua vậy. Lê Hữu Trác vào cung vì có thánh chỉ cũng cần phải qua nhiều cửa mới đến nơi. Mọi người ở đây cung kính với chúa. Riêng bản thân chúa Trịnh Sâm thì có biết bao nhiêu là cung tần mĩ nữ vây quanh mình để chờ được hầu hạ ngài. Có thể nói cuộc sống ấy đúng là cách sống của những bậc vua chúa. Tuy nhiên sống như thế thì lấy tiền ở đâu ra?.

Không những thế khi vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán thì dù chỉ mà một đứa trẻ trong cung vậy thôi nhưng những người ngự y dù đã rất già cũng phải vái lạy thái tử rồi mới được bắt mạch kê đơn. Căn phòng ấy cũng khá lộng lẫy, thái tử thì ở sau những bức chướng gấm quý giá như để che chở lấy tấm thân gọi là ngọc ngà kia. Những ngự y túc trực quanh đó và cuối cùng Lê hữu Trác đã tìm ra phương thuốc để chữa bệnh cho Trịnh Cán.

Trước những sự phản đối của đa số những thầy thuốc trong cung Lê Hữu Trác vẫn thể hiện sự uyên thâm của bản thân mình khiến cho những ngự y kia phải khâm phục.

Qua đây ta thấy rõ ràng cuộc sống ăn chơi xa hoa nơi phủ chúa. Trả lời cho câu hỏi vậy những cây cối um tùm danh hoa đua thắm kia là ở đâu ra?, tiền đâu mà có thể có cuộc sống ăn chơi như thế?. Có thể khẳng định tiền chính là những cống nộp của nhân dân. Trong tình hình đất nước chia làm hai như thế những chúa Trịnh không lo cuộc sống cho dân, trị được nước và đi vào lòng dân chúng mà ở đây chúa lại có cuộc sống chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Qua đây ta thấy được hiện thực đất nước ta trong những năm ấy, trong khi nhân dân sống một cách khổ cực thì chúa lại có một cuộc sống không ai sánh bằng.

Như vậy qua đoạn trích vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác chúng ta thấy tác phẩm này thấm nhuần giá trị hiện thực của xã hội Việt nam những năm ấy. Cuộc sống vua chúa ăn chơi, xa đọa hưởng lạc thú mà quên đi nhiệm vụ trị an đất nước của mình.

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 5
“Vào phủ chúa Trịnh” được trích từ “Thượng kinh kí sự” của tác giả Lê Hữu Trác. Qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, con mắt quan sát tinh tường tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực cuộc sống trong phủ chúa. Qua đó toát lên giá trị hiện thực, phê phán sâu sắc của tác phẩm.

Trước hết đó là bức tranh về cuộc sống đầy xa hoa nơi phủ chúa. Khi được triệu vào kinh thành để khám bệnh cho Thế tử, Lê Hữu Trác – “vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết” vậy mà ông cũng phải kinh ngạc khi đứng trước khung cảnh phủ chúa: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của chúa thực chẳng khác người thường”.

Cảnh vật trong phủ chúa hết sức lạ lẫm, những cái cây lạ lùng những hòn đá kì lạ phô ra trước mắt tác giả. Trong phủ chúa đâu đâu cũng thấy cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, từng cơn gió thoang thoảng đưa hương. Thực “cả trời Nam sang nhất là đây”. Cách bài trí, trang trí trong phủ hết sức tráng lệ, cầu kì: “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Khung cảnh cực kì sa hoa, lộng lẫy mà không ở đâu có thể sánh nổi. Nhưng đằng sau khung cảnh ấy tác giả cũng ngầm báo hiệu một điều chẳng lành ở phía trước, bởi khi cuộc sống trong phủ chúa còn xa hoa hơn nơi ở của vua thì hẳn triều đại đó đã có nhiều biến động, chúa tiếm quyền vua. Qua đó tác giả kín đáo phê phán lối sống xa hoa, trụy lạc của phủ chúa Trịnh.

Bên cạnh đó, khi miêu tả khung cảnh giàu sang, phú quý này tác giả còn ngầm báo hiệu sự suy vong và bị tiêu diệt tất yếu. Cuối tác phẩm, khi Lê Hữu Trác đã về đến Hương Sơn thì nghe tin nhà quan chánh đường bị hại, bấy giờ ông có viết: “Tôi nghe chuyện than rằng: - Giàu sang như mây nổi, những nơi đàn sáo lâu đài trước đây bỗng chốc thành gò hoang cồn vắng. Lại mừng thầm rằng mình đã ẩn thân nơi núi rừng, chẳng đoái hoài gì tới chuyện công danh thành đạt….”. Như vậy việc miêu tả kĩ lưỡng khung cảnh quyền quý, cao sang nơi phủ chúa ở trích đoạn này chính là bước đệm để tác giả nên lên triết lí ở cuối bài: “giàu sang như mây nổi” chẳng mấy chốc rồi cũng gặp cảnh bại vong.

Không chỉ miêu tả khung cảnh quyền quý, xa hoa, tác giả còn cho thấy cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Vào phủ chúa, có tên đầy tớ chạy phía trước thét đường, cáng chạy như ngựa lồng, cho thấy nhịp độ hết sức nhanh chóng, khẩn trương. Đến phủ chúa để đi tới nơi khám bệnh cho thế tử phải đi qua nhiều lần cửa, mỗi lần cửa cần phải có thẻ mới được đi tiếp. Các danh y chữa bệnh cho thế tử đều là những người tài giỏi, nổi tiếng ở sáu cung, hai viện ngày đêm túc trực, chờ sẵn để chữa bệnh cho thế tử. Thủ tục rườm rà, nghiêm ngặt, phải hết sức kính cẩn: Thế tử bị bệnh có đến 7,8 thầy thuốc phục dịch. Khi vào xem bệnh, tác giả - một cụ già - phải quỳ lạy thế tử - một đứa trẻ. Muốn xem thân hình của thế tử phải có một viên quan nội thành đến xin phép được cởi áo cho thế tử. Khám xong phải lạy 4 lạy mới được ra về. Trước khi được vào khám bệnh cho thế tử, Lê Hữu Trác đã được ngự bữa cơm sáng với: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại già” cuộc sống xa hoa quyền quý choán đầy phủ chúa từ nơi ở, vật dụng, quang cảnh cho đến đồ ăn thức uống. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống xa hoa và sự lộng quyền của nhà chúa.

Đặc biệt, ngòi bút hiện thực của tác giả còn được thể hiện trong việc miêu tả các chi tiết liên quan đến thế tử. Thế tử ngồi trên sập chỉ độ năm sáu tuổi, nhưng Lê Hữu Trác – một người già cả, phải lạy bốn lạy trước cậu bé này và còn được thế tử cười khen: “Ông này lạy khéo!”. Ngoài ra tác giả còn miêu tả hết sức kĩ lưỡng về thế tử mặc áo lụa đỏ, ngồi trong căn phòng tối om không có cửa ngõ, phải qua năm sáu lần trướng gấm mới xuất hiện thế tử. Nơi ở của thế tử đều được sơn son thếp vàng, trên ghế bày đệm gấm, đây đều là những vật dụng đắt tiền. Qua ánh nến mờ ảo, Lê Hữu Trác nhận thấy “màu mặt phấn và màu áo đỏ”. Nơi ở của thế tử hết sức ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí và đây chính là nguyên nhân khiến thể trạng thêm phần ốm yếu. Một đứa bé đang độ tuổi ăn, tuổi chơi, đáng nhẽ phải được chạy nhảy chơi đùa cùng chúng bạn, được hòa cùng thiên nhiên để phát triển một cách khỏe mạnh, thì thế tử Cán lại bị giam hãm, cầm tù nơi lầu son, gác tía với trướng rủ màn che thiếu sinh khí, ngột ngạt, chính cảnh tù túng đó đã khiến bệnh của thế tử ngày một nặng hơn: “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mồm, thương tổn quá mức”. Chỉ bằng một vài nét phác họa, những câu miêu tả khách quan tác giả đã cho thấy hình ảnh thế tử Cán gầy gò, ốm yếu cả về cở thể lẫn ý chí, nghị lực.

Để miêu tả hiện thực trong phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đã vận dụng khả năng quan sát tinh tường, khung cảnh bài trí trong phủ chúa được miêu tả chi tiết kĩ lưỡng: quang cảnh thiên nhiên, sự vật, cung cách sinh hoạt, thế tử Cán. Không chỉ vậy sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, cùng những câu nhận xét, bình luận đã phô bày rõ hơn sự xa hoa trong phủ chúa. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai một cách nhẹ nhàng thể hiện thái độ của tác giả trước lối sống quyền quý đó.

Dù chỉ là một trích đoạn vô cùng ngắn ngủi, nhưng với ngòi bút tài hoa của Lê Hữu Trác đã phô bày một cách chân thực và đầy đủ nhất hiện thực cuộc sống trong phủ chúa, cũng là hiện thức xã hội lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy là lời phê phán với lối sống xa hoa, hưởng lạc, đồng thời cũng dự báo về sự suy vong tất yếu của nơi đây.

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 6
Nhà văn Stanhdal đã từng viết: “Văn chương là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội”. Văn chương mang sứ mệnh của mình là phản ánh hiện thực “nhà văn là thư kí trung thành của thời đại”. Cũng giống như các thể loại văn học khác, thể kí đã ghi chép trung thực lại bối cảnh một thời đại của dân tộc. Thể kí trưởng thành thực sự có những nét phát triển mới ở thế kỉ XVIII với tác phẩm “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác. Tác phẩm viết về những điều mà tác giả được chứng kiến khi trên đường vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tiêu biểu là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần đầu mang giá trị hiện thực sâu sắc phản ánh và phê phán cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ chúa đồng thời thể hiện cái nhìn và thái độ sống của tác giả.

Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực xã hội, con người được nhà văn phản ánh trong tác phẩm, tùy vào ý đồ sáng tạo của cá nhân tác giả mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc ít nhiều bị khúc xạ đi bởi lăng kính tâm hồn của nhà văn. Cùng với giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm văn học, lưu danh muôn thuở tên tuổi của nhà văn chân chính.

Lê Hữu Trác vốn là một con người “lánh đục về trong” giữa thời buổi loạn lạc, sống trong một thời đại mục nát ông không màng danh lợi trở về quê ngoại Hương Sơn (Hà Tĩnh) để chữa bệnh và mở lớp dạy nghề thuốc. Vì tài năng y thuật nổi tiếng mà ông được mời vào phủ chúa Trịnh chữa bệnh cho Thế tử.

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một bức tranh hiện thực về cuộc sống sang trọng, quyền uy ở Trịnh phủ với quang cảnh lộng lẫy, xa hoa được tác giả miêu tả chi tiết, tỉ mỉ. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Một khung cảnh nên thơ chữ tình, làm say đắm lòng người. Lê Hữu Trác phải thật là con người có một tâm hồn tinh tế mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp như tiên cảnh nơi đây. Cùng với đó là một cái nhìn bao quát của “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Một cung điện nguy nga, tráng lệ hiện ra trước mắt với sự giàu sang của vua chúa khác hẳn với người thường. Qua mấy lần của mới đến cái điếm trong ấy có những cây, những hòn đá lạ rồi cột và bao lơn lượn vòng với kiểu cách rất là xinh đẹp. Tác giả vốn là con nhà quan sinh trưởng ở chốn phồn hoa đô hội nhưng đây là lần đầu tiên được vào phủ Chúa nên rất ngỡ ngàng, ngạc nhiên có rất nhiều thứ chưa từng thấy.

Màu sắc chủ đạo là màu đỏ và vàng son rực rỡ càng điểm tô thêm sự giàu sang nơi Trịnh phủ. Ấy là”Cái nhà cao và rộng”, “Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng”, “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy” rồi cả “những cái cột đều sơn son thếp vàng”…Không chỉ vậy mâm cơm của người nhà giàu là “mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Tất cả những điều đó đều được lấy từ mồ hôi, công sức, xương máu của nhân dân. Những người dân lam lũ phải bươn trải, phải bỏ mạng để xây dựng nên công trình kiến trúc đồ sộ, làm nên sự xa hoa của cuộc sống nơi đây. Chính vua chúa quan lại, cường quyền đã bóc lột, đã cướp đi thành quả lao động của những dân đen lầm than. Dù không giết người trực tiếp nhưng cũng chẳng khác gì việc làm của giặc Minh ngày ấy:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”


Cứ ngỡ rằng cuộc sống sung túc thì mọi thứ đều tốt đẹp nhưng không khí nơi đây lại không hề được trong lành, dù có mùi hương ngào ngạt ấy thế mà lại tù đọng, ngột ngạt vô cùng. Chính điều đó là nguyên nhân khiến cho Thế tử_con trời mà mắc bệnh mãi không khỏi. “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng yếu đi.” Một con người sống trong nhung trong lụa, ăn sơn hào hải vị mà không vận động không bệnh ắt cũng phải có bệnh. Đây là căn bệnh của người nhà giàu. Tác giả thật tinh tường khi đã sớm nhận ra cái “khiếm khuyết” ở một nơi tưởng chừng như hoàn hảo nhất của “Cả trời Nam sang nhất là đây”.

Cuộc sống cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa cũng chẳng khác gì hoàng cung, mọi thứ đều đi theo một trật trự, quy củ phép tắc nghiêm ngặt. “Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi.Vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ”, “Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt’ là vậy. Điều đó cho thấy quyền uy của chúa thật to lớn. Muốn gặp được thế thử đâu phải dễ dàng phải đi qua năm, sáu lần chướng gấm, phải lạy bốn lạy mới được lui ra. Những luật lệ sinh hoạt nơi đây làm cho tác giả dường như có phần rụt rè, e ngại mất tự nhiên khi thì chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu”, khi thì “nín thở” rồi lại “khúm núm”.

Vì những lẽ ấy lại thêm chẳng màng danh lợi mà cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra cam go ở khoảnh khắc kê đơn thuốc. Nếu chữa khỏi ngay thì phải ở lại mà không thể về núi nhưng chẳng thể vì mong muốn cá nhân mà quên đi chữ “Trung” của người làm phận bề tôi, chữ “Đức”của người nghề thầy thuốc một lòng vì việc cứu chữa bệnh không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, người tốt hay kẻ xấu

“Thiện tâm cốt ở cứu người
Sơ tâm nào có mong cầu chi đâu”.

Bức tranh hiện thực cuộc sống xa hoa nơi Trịnh phủ đã được Lê Hữu Trác khắc họa thật chân thực, rõ nét qua từng chi tiết miêu tả. Tác giả lựa chọn, tổ chức, sắp xếp các sự kiện, nhân vật theo tuyến tính thời gian, không gian theo từng bước và cái nhìn, sự quan sát tinh tế của mình. Sử dụng ngôi kể thứ nhất nhân vật xưng tôi cùng với những câu văn linh hoạt làm cho hiện thực càng trở nên thực hơn và thu hút, lôi cuốn người đọc. Nếu như bút pháp đặc trưng của văn học trung đại là miêu tả ước lệ tượng trưng, khuôn mẫu quy phạm thì trong đoạn trích tác giả đã thực hiện “giải quy phạm” không còn những công thức nghiêm ngặt mà trở về với cuộc sống hiện thực với những điều tai nghe mắt thấy.

“Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”


Bọn vua chúa phong kiến đa số đều là những tên cướp ngày. Chúng cướp của, cướp sức, cướp công, cướp chí của nhân dân ta một cách trắng trợn bằng những thủ đoạn công khai để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống.

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” mang giá trị hiện thực sâu sắc một mặt phê phán lối sống xa hoa, giàu sang với quyền uy tột bậc nơi Trịnh phủ, một mặt đồng cảm thương xót cho số phận và cuộc sống của những người dân nghèo. Qua đó cũng cho thấy nhân cách cao thượng, tấm lòng y đức và lối sống thanh cao của Lê Hữu Trác là tấm gương sáng cho ngành y bác sĩ, xứng đáng là ông tổ của nghề thuốc được người đời sau nhắc đến với một lòng thành kính nhất.


Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 7
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ với danh tiếng của một danh y lỗi lạc, nhân từ và một ẩn sĩ thanh cao, cứng cỏi mà còn là tác giả của cuốn "Thượng kinh kí sự" nổi tiếng. Đầu năm 1782, do danh tiếng y thuật vang xa, ông được lệnh triệu ra kinh đô để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Nhờ những tư liệu, ghi chép trong chuyến đi, ông đã hoàn thành tác phẩm "Thượng kinh kí sự" với giá trị hiện thực sâu sắc. "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong những trích đoạn đặc sắc thể hiện rõ điều này bằng việc lên án, tố cáo cuộc sống xa hoa, quang cảnh lộng lẫy cùng những tầng lớp vua quan trong bộ máy xã hội phong kiến.

Trước hết, dưới con mắt tỉnh táo, tinh tế của một ẩn sĩ, tác giả Lê Hữu Trác đã ghi lại và phản ánh trong tác phẩm của mình đời sống xa hoa, giả dối và đầy thị phi của tầng lớp vua quan thông qua những chi tiết về quang cảnh xa hoa, lộng lẫy trong các dinh thự và phủ các. Đó là vườn hoa với "cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương", đó là những nhà "Đại đường", "Quyển bồng", "Gác tía" với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy" cùng "mâm vàng, chén bạc" được dùng lúc tiếp khách ăn uống. Tất cả khung cảnh vàng son lộng lẫy xa hoa của phủ chúa đã được phóng chiếu qua đôi mắt và sự quan sát, tinh tế và tỉ mỉ của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực của tác phẩm còn được tạo nên thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Ngay từ lúc tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh chúa thì điều này đã được làm nổi bật: "có tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường" và "cáng chạy như ngựa lồng". Khi đặt chân vào phủ chúa, tác giả quan sát thấy cảnh tượng "người giữa cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi". Quang cảnh đó đã khiến cho tác giả không khỏi ngạc nhiên:

"Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây"


Câu thơ của tác giả đã minh chứng rõ thêm về quyền uy nơi phủ chúa. Chính ông cũng đã bộc bạch trước cảnh xa hoa đó rằng: "Mình vốn cũng là con em nhà quan, sinh trưởng nơi phồn hoa, khắp chốn trong cấm thành, chỗ nào cũng từng quen thuộc, duy có quang cảnh phủ chúa thì chỉ được nghe nói tới mà thôi. Nay được đến đây, mới biết hết là sự giàu sang của vua chúa, quả là không ai sánh kịp". Những câu thơ hay lời bình luận của tác giả cũng đã làm nổi bật giá trị về mặt thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Đó là sự xuất hiện của thời gian tâm lí. Bên cạnh thời gian vật lí là những con số về ngày giờ, năm tháng và niên hiệu, tác giả còn dành ra những khoảng không để chiêm nghiệm về các sự kiện đã diễn ra, khiến cho mỗi một sự miêu tả trong tác phẩm đều chứa đựng những suy nghĩ và cảm xúc của tác phẩm.

Bằng ngòi bút chân thực và sắc nét, trong đoạn trích này, tác giả còn gián tiếp lên án và tố cáo đời sống xa hoa, bệnh hoạn của giới quý tộc, quan lại đương thời. "Bệnh" của Trịnh Cán đã được ông nhận xét như sau: "là do sinh trưởng ở nơi màn the trướng gấm, ấm nó quá sức, tạng phủ kém yếu, lại thêm bị ốm lâu nên tinh huyết hao kiệt,...". Chúa Cán vốn là trẻ con hồn nhiên nghiễm nhiên trở thành nạn nhân của sự sung túc, thừa thãi và dưỡng dục sai lầm. Trước những căn bệnh như thế này, việc cứu chữa sẽ được các ngự y tiến hành như thế nào? Tác giả lại tiếp tục khéo léo lên án đám thầy thuốc Bắc Hà với căn bệnh ngu dốt, nhưng ảo tưởng, tham lam và nhỏ nhen. Đó là đám "y lại" chuyên đố kị, dèm pha lẫn nhau, không vì đạo làm thuốc mà vì danh lợi. Bằng những nét bút miêu tả khá tự nhiên, chân thực, Hải Thượng Lãn Ông đã bắt mạch, lên đơn những căn bệnh của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Bên ngoài lớp vỏ bọc hoàn hảo của quang cảnh xa hoa lộng lẫy và cung cách sinh hoạt đầy quyền uy, hòa nhoáng và thịnh trị là những mầm bệnh đang phát tác, thể hiện sự mục rỗng và báo hiệu sự khủng hoảng tất yếu của chế độ xã hội phong kiến đương thời.

Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh" đã làm nên tính chân thực của "Thượng kinh kí sự" qua bút pháp kí sự vô cùng đặc sắc của tác giả. Đó là sự kết hợp thành công của đôi mắt quan sát tỉ mỉ cùng ngòi bút ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất để tạo nên cái thần của cảnh và vật thấm đẫm trong từng con chữ và xuyên suốt trang văn.

Thông qua giá trị hiện thực của tác phẩm, độc giả còn thấy được giá trị nhân đạo ẩn chứa một cách sâu sắc. Bằng sự quan sát và ghi chép về quang cảnh xa hoa lộng lẫy, tác giả đã gián tiếp thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với cuộc sống cơ cực, lầm than của nhân dân. Bức tranh về xã hội phong kiến đã được phác họa trong sự đối lập giữa đời sống của tầng lớp quan lại và cuộc sống của những người dân. Thông qua tác phẩm này, chúng ta càng thấm thía hơn nữa câu ca quen thuộc của người xưa về sự tàn bạo và trắng trợn trong lối sống của đại đa số tầng lớp quan lại:

"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".



Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 8
"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".


Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác, một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.

Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa phòng kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.

Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có của phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!

Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng "tôi" . Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.

Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm "Hậu mã quân túc trực". Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lặ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.

Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn:

Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đổ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chỉ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.

Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái quát qua mấy câu thơ tức cảnh:

Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.


Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên trong đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ … Không một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ còn đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa không còn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên ở khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn về bản chất của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạn lộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.

Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có giá trị hiện thực sắc sảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cái sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ.

Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tôi xem mạch Đông cung cho thật kĩ:

Qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung thế tử được tác giả miêu tả khá kĩ, người đọc cứ thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó: … thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khỉ đã hao mòn, thương tổn quá mức. Quả là chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm nay đã già cỗi, lạc hậu và khó bề cứu chữa.

Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kĩ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe ch? để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.

Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khải của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy( bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên…

Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hoà hoãn cho thế tử vì sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết định lánh xa vòng danh lợi của ông trong hoàn cảnh ấy là vô cùng đúng đắn.

Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở "Đông cung". Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp . Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này . Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .

Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã không ngần ngại để cái "Tôi" đóng một vai trò quan trọng. "Vào phủ chúa Trịnh" thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí,người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: "Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn".

"Vào phủ chúa Trịnh" trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh,chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của mình. Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng cho là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 9
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác ngoài việc là một thầy thuốc nổi tiếng với tác phẩm Hải Thượng y tông tâm lĩnh, thì bản thân ông cũng là một người có tài văn chương, với những đóng góp đáng ghi nhận trong nền văn học Việt Nam. Một trong những cuốn nổi tiếng nhất trong bộ sách trên của ông đó là Thượng kinh ký sự. Ở đó ta sẽ có cơ hội được nhìn lại lịch sử Việt Nam thế kỷ 18, một thời kỳ mà ở đó có sự phân tranh gay gắt giữa vua Lê và chúa Trịnh. Người ta ví rằng một triều đình có hai hoàng cung cùng song song tồn tại, điều đó đã đẩy cuộc sống nhân dân vào cảnh khốn cùng. Ta sẽ được tìm hiểu về một trong hai hoàng cung quyền uy, xa hoa tột bậc đó, chính là phủ chúa Trịnh qua lời của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.

Lê Hữu Trác (1724-1791), hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Trấn Hải Dương (Hưng Yên), quê mẹ ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông vừa là một danh y lỗi lạc, vừa là một nhà văn tài hoa. Tác phẩm của ông chỉ có một bộ duy nhất là Hải Thượng y tông tâm lĩnh, rất đồ sộ, là tâm huyết của cả cuộc đời ông viết trong gần 40 năm trời bền bỉ.


Thượng kinh ký sự là quyển vĩ của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, viết nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, cuốn sách chính là kết quả của chuyến đi này.

Bằng những quan sát rất tinh tế của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện một cách rất sinh động bức tranh hiện thực nơi phủ chúa Trịnh. Ông tự đặt mình vào vị trí của một vi thầy thuốc nhà quê, một người dân lao động lần đầu tiên được bước chân vào phủ Chúa, để diện kiến bề trên, để thực sự thấy được cái cuộc sống xa hoa tột độ của giai cấp thống trị thời bấy giờ là như thế nào. Đây thật sự là cái nhìn của một bậc trí thức lương tâm và trung thực. Tác giả quan sát sự vật theo trình tự không gian và thời gian, đi từ ngoài vào trong. Trước hết ấn tượng đầu tiên của Lê Hữu Trác là cảnh vật tươi đẹp nơi phủ Chúa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đưa thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”, rồi thì quang cảnh rộng lớn, đẹp mắt, “những dãy hành lang quanh co nối tiếp”, cảnh người qua lại nhộn nhịp “như mắc cửi”. Chỉ mới bấy nhiêu thôi đã khiến cho Lê Hữu Trác, vốn lớn lên trong nhung gấm, giàu sang cũng phải mở rộng tầm mắt mà âm thầm cảm thán “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác người thường!”. Trong đôi mắt của một thầy thuốc quê mùa, phủ Chúa thực chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh, “ngư phủ đào nguyên” cả, thực tươi đẹp không kể xiết.

Thế rồi khi bước vào nội cung, Lê Hữu Trác mới biết được cái cung cấm giàu sang nghiêm ngặt đến như thế nào. Khắp nơi nơi là đình đài, lầu các cao rộng, cảnh cung cấm được sơn son thếp vàng tỉ mỉ, rực rỡ, chưa kể những đồ vật bày biện bên trong toàn là những thứ “nhân gian chưa từng thấy”. Rồi thì không khí ngào ngạt các mùi hương thơm của nến, của hoa nhưng lại mang đến cảm giác tù đọng, ngột ngạt vô cùng, thứ nhất là vì cái không khí thâm nghiêm, thứ hai là vì cái vẻ tráng lệ xa hoa phi thực quá mức, khiến cho mọi thứ không còn giữ được vẻ đẹp tự tại ban đầu. Như vậy, qua đôi mắt quan sát tinh tường của Lê Hữu Trác ta đã thấy quang cảnh phủ Chúa hiện lên một cách chân thực và sinh động. Đó là một nơi xa hoa, tráng lệ, rực rỡ, không một nơi nào có thể sánh bằng, tuy nhiên cái đẹp vượt quá mức thường khiến cho cuộc sống vương giả trở nên ngột ngạt, tù hãm, dường như mất đi cái phần sinh khí tự nhiên của sự sống.

Đó là về cảnh sắc, về cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa ta lại càng thấy được cái mức độ xa xỉ tột cùng của đấng bề trên lúc bấy giờ. Một mâm cơm để mời các ngự y mà cái chén cái bát nào cũng bằng vàng, bằng bạc, đồ ăn thì toàn của ngon vật lạ, Lê Hữu Trác thầm nghĩ “bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Rồi thì đường vào phòng bệnh của thế tử tuyệt nhiên chẳng có một cái cửa nào, mà được phủ bởi năm sáu lần trướng gấm, cách biệt với bên ngoài. Trong phòng chỉ có một thế tử cùng với chúa vậy mà một đám người hầu, rồi lại một đám cung nhân chầu trực dù chẳng mấy khi có việc cần. Cũng chính cái lối sống, sung sướng xa hoa tột độ, nhưng ngột ngạt tù túng ấy đã khiến một đứa trẻ mới năm sáu tuổi mắc bệnh nặng. Lúc này đây màn che trướng phủ, sơn hào hải vị, lụa là gấm vóc lại cũng đang khiến con người ta trở nên bệnh tật, thế mới có câu cái gì quá cũng không tốt, là vậy.

Rồi thì căn nguyên bệnh tật của thế tử cũng là lời sâu xa của Lê Hữu Trác về tình hình đất nước lúc bấy giờ, “nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”, khó có thể chữa chạy. Ông đắn đo rất nhiều trong lúc chữa bệnh cho thế tử, không phải là không chữa được mà cốt là ông sợ mình bị giữ chân, bị cuốn vào cái vòng danh lợi luẩn quẩn không thể thoát thân được. Cuối cùng, ông kê một phương thuốc hòa hoãn cho thế tử, bệnh sẽ khỏi nhưng lại không hết ngay và ông có thể an tâm rút về núi tiếp tục hành nghề mà không phải hổ thẹn với ơn nghĩa quốc gia bao đời.

Đoạn trích có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh cái lối sống xa xỉ, hoang dâm vô đạo của phủ Chúa, chèn ép nhân dân bởi sưu cao thuế nặng, chỉ vì phục vụ cho cuộc sống xa hoa tột bậc của chúng, để nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng hay. Lúc này đây cảnh cung cấm tráng lệ nơi phủ Chúa chính là nỗi đau của của nhân dân, là cái xiềng xích đang ngày đêm đang áp lên đôi vai gầy của những người dân cùng khổ. Đồng thời đoạn trích cũng là tấm lòng coi thường danh vọng của Lê Hữu Trác, vị danh y ấy chỉ yêu tha thiết cái cảnh thanh bình, tự do nơi quê nhà, được hành y cứu người. Còn cái cuộc sống tuy xa hoa, sung sướng kia tuy hào nhoáng như rốt cục cũng phải chịu luồn cúi, khuôn phép thì có hay ho gì đâu.

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 10
Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, đoạn trích Vào phủ chúa trịnh giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua Lê chúa,Trịnh mà cho tới nay toàn bộ di tích này hầu như đã biến mất…

Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quí tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật.

Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.

Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11-Nâng cao, tập 1(Nxb.Giáo dục, H, 2007) thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.

Như ta biết: kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại,viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như: bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí, …Trong số đó kí sự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc- câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực,tinh tường của nhà văn trước sự việc.

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.

Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian.

Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương,gấp gáp của nhân vật:

“Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa. Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” .

Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh,với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa.

Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức.Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.

Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “Tôi” trong tác phẩm này.

Trước mắt ta: hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật,việc thật.

Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật.

Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu. Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.

Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…..tôi chạy ra…”, “người đầy tớ nói…..tôi bèn”, “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ,khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lô gíc nhân quả của sự kiện, hành động.

Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.

Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.

Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”.

Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ. Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ- không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau,ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ.

Trong vườn, chim kêu ríu rít,danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ…. Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…

Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh.

Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh ,ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai. Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ,sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng,tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.

Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh.

Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau. Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.

“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.

Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.

Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám. Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã không ngần ngại để cái “Tôi”đóng một vai trò quan trọng.

“Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.


Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 11
Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) là một danh y có tâm huyết và đức độ. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trong “Thượng kinh kí sự” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực.

Đầu tiên là quang cảnh trong phủ chúa. Từ khi bước chân vào phủ chúa, Lê Hữu Trác đã bắt đầu quan sát thật tỉ mỉ. Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Rồi khi vào bên trong, tác giả lại càng bất ngờ bởi sự xa hoa hơn cả bên ngoài. “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.”

Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại còn khiến ta thêm ngạc nhiên hơn nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên. Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ được làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới. Trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép.

Khi khắc họa cuộc sống nơi phủ cháu như vậy, đặt trong sự so sánh với cảnh ngộ lầm than của nhân dân ngoài kia. Nhà văn còn muốn qua đó tố cáo xã hội phong kiến mục rỗng đã đẩy cuộc sống của nhân dân vào khổ cực.

Tóm lại, “Vào phủ Chúa Trịnh” là một bức tranh hiện thực sắc nét về sinh hoạt của vua chúa thời xưa. Cụ thể là những uy quyền và cuộc sống xa hoa của chúa. Qua đoạn trích, chúng ta cũng thấy được bức chân dung tự họa của tác giả. Đó là một con người trung thực, một danh y có tài và thờ ơ với vinh hoa phú quý, một lòng lo cho nhân dân xã tắc.


Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 12

Không chỉ là một danh y lỗi lạc của đất nước thế kỉ XVIII và mãi mãi muôn đời sau, Lê Hữu Trác còn là một thi nhân, một văn nhân tài ba của nền văn học Việt Nam đến tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông, thế kí văn học nước nhà mới thực sự ra đời. Thượng kinh ki sự là một tác phẩm kí độc đáo, mang giá trị hiện thực sâu sắc. Ta có thể cảm nhận giá trị ấy qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của tác phẩm.

Lê Hữu Trác sinh năm 1724, mất năm 1791, nghĩa là cuộc đời ông nằm trọn trong thời kì lịch sử nhiều biến động thăng trầm nhất của lịch sử nước nhà: thời kì các tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh tranh giành quyền lực, nhân dân cực khổ trăm bề, khởi nghĩa nông dân bùng nổ dữ dội,… Đặc biệt, sự xa hoa, trụy lạc, chuyên quyền nơi phủ chúa Trịnh càng khiến bức tranh lịch sử vốn đã đẫm màu đau thương nay lại thêm phần tối đen, xám xịt.

Là một danh y tài năng nức tiếng xa gần, Hải Thượng Lãn Ông đã được mời vào cung chữa bệnh cho thế tử nơi phủ chúa Trinh – chữa thứ bệnh con nhà giàu, vì dư ăn thừa mặc mà mắc phải. Sự thực ấy đặt vào hoàn cảnh dân chúng lầm than cơ cực, bị bóc lột đến tận xương tủy chỉ khiến người ta thấy đau đớn, chua xót và bất bình. Nhân chuyến lên kinh – một lần mà nhớ mãi, và cảm thán mà Lãn Ông đã viết Thượng kinh kí sự ghi lại những điều tai nghe mắt thấy và những suy nghĩ cảm xúc của mình nơi sang nhất trời Nam.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại ngày đầu Lê Hữu Trác được triệu vào phủ chúa. Qua miêu tả cảnh vật và cung cách sinh hoạt chốn quyền uy lừng lẫy, đoạn trích đã thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc.

Cảnh vật phủ chúa là điều đầu tiên tác giả cảm nhận được. Nó là dấu hiệu đầu tiên đánh dấu sự khác biệt nơi đế đô hoa lệ và chốn dân gian cát bụi. Vạn vật mới đẹp đẽ, xinh xắn, lộng lẫy làm sao! “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Nhưng đó không phải thứ cây cối hoang dại bụi bờ, không phải giống chim sâu, chim sẻ,… Đó đều là giống cỏ lạ chim quý “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, tất thảy đều “thật là xinh đẹp”. Chưa hết. Thành quách nơi này mới thực lầu son gác tía. Kiểu cách xây dựng thật công phu “Mấy lần cửa” tiếp nhau, “những dây hành lang quanh co nối tiếp”. Nó tạo nên những phủ chúa cao rộng, lộng lẫy, nguy nga “cái nhà lớn thật là cao và rộng”, “sập sơn son thếp vàng. Cảnh vật ấy khiến tác giả không cầm lòng được phải ngợi ca:

Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu hiên ngọc, bóng mai ánh vào
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.


Đây thực là nơi “Cả trời Nam sang nhất là đây”!

Đáng lưu ý là ở tâm sự của tác giả: Ông từng là kẻ xuất thân cao quý, chốn phồn hoa đi lại cũng nhiều, “sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết”; vậy mà chốn phủ chúa này đã khiến ông phải choáng ngợp, trầm trồ “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” Lê Hữu Trác tự thấy mình như kẻ “quê mùa” lần đầu đến nơi “cung cấm”, như chàng “ngư phủ” gặp chốn “đào nguyên”. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản ánh một sự thực lịch sử: trong cuộc tranh giành quyền lực lịch sử, nhà Trịnh đang giành thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong khi phủ chúa lộng lẫy, xa hoa, cung vua chẳng khác nào một cái nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.

Còn nhớ trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã có lần ngậm ngùi “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chôn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Như vậy hỏi sao chốn đây không thơm lừng hoa thơm cỏ lạ cho được? Cảnh vật nơi này, bên cạnh vẻ đẹp của chốn non Bồng nước Nhược, nó còn phản ánh một sự thực là lòng tham vô đáy, sự ích kỉ hẹp hòi của phường quan chúa. Cũng trong Vũ trung tùy bút, một sự thực đất nước khi đó được phản ánh thật đau lòng. Nhân dân phải “chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm”, nhiều nơi "ruộng đất hầu thành rừng rậm”. Tình cảnh ấy tất yếu dẫn đến thảm cảnh “Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn”. Thậm chí, có bậc nho sinh trên đường đi ghé vào một hàng cơm, khi ăn thì thấy “trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như hình bán nguyệt (…) thấy có con rận chết ở trên mặt bát mới biết là thịt người…”. Chao ôi! Vậy mà phủ chúa vẫn rộn ràng, bình yên như thế, có ai lắng nghe thấy tiếng khóc hờ của những oan hồn thảm khốc chốn dân gian?

Đồng điệu với cảnh vật chốn này nhưng thêm ngàn lần tương phản với đời sống nhân dân trăm họ là những con người nơi phủ chúa và cung cách sinh hoạt cầu kì, kiểu cách, xa hoa, bệnh hoạn của họ.

Không phải vô tình Lê Hữu Trác tả kĩ mọi sự việc mắt thấy tai nghe đến thế. Phải trách những sự ấy quá lạ lẫm, đặc biệt, nó khác với lẽ thường vốn có.

Tác phong làm việc của họ thật khó hiểu! Đi đón một danh y chữa trị cho bậc vua chúa, họ “gõ cửa rất gấp” “vừa nói vừa thở hổn hển” vào “buổi sáng tinh mơ”. Thời gian ấy, cách gọi cửa ấy khiến ta ngỡ tình trạng người bệnh đà nguy kịch lắm. Đó là chưa nhắc đến cách vội vã khi đi đường của họ “cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Thân già, phận thấp, tác giả đành cam lòng chứ còn biết làm sao?!

Nhưng thật bất ngờ! Vào đến phủ chúa, ta không khỏi kinh ngạc. Những tưởng nó thê lương, đau đớn vì sắp mất đi một người thân (gọi, “mời” thầy thuốc vội vã đến thế kia mà?) nhưng không, vội và, “hổn hển” là ai kia, là lũ lính hầu, bọn “đầy tớ” “giữ cửa”, “vệ sĩ”,… chứ không phải bậc quan, bậc chúa. Trước khi vào hầu mạch cho thế tử, Hải Thượng Lãn Ông phải “đi qua mấy lần cửa”, qua “những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau”, rồi lại “qua mấy lần cửa” (có lẽ vì nhiều cửa quá không thê nhớ hết, đếm hết), đến điếm “Hậu mà quân túc trực”, tiếp tục “đến một cái cửa lớn” “qua dãy hành lang phía tây đến một cái nhà lớn thật cao và rộng”, lại “qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng”,… Theo bước chân Quan Chánh đường ta tưởng như tác giả đang đi vào một mê cung chứ đâu phải nơi người ở. Chúng còn kiểu cách đến mức đặt tên cho mỗi nơi, mỗi chốn: nhà “Đại đường”, nhà “Quyển bồng”, “Gác tía”, riêng vì kiêng chữ “thuốc” nên Gác tía còn được gọi là “phòng trà”. Đi qua những nơi ấy nhưng vẫn chưa được gặp được người cần gặp. Phủ chúa cao rộng sâu và xa quá, có lè vì vậy mà tiếng khóc muôn dân không vang tới, nó chặn kín con đường họ Trịnh về với cái Nhân, cái Thiện của con người. Đến “phòng trà” mới biết còn “bảy, tám người” ngự y cũng đang túc trực. Vậy mới biết, cách sinh hoạt của phủ chúa cầu kì, rườm rà, câu nệ vô cùng. Chỉ vì một người mà làm khổ đến bao người. Từ một ông thầy thuốc “quèn” phải dậy từ tinh mơ, “chịu xóc một mẻ, khổ không nói hết”, phải đi bộ qua quãng đường lê thê những lính canh, lính kiểm đến những ngự y phải túc trực hàng ngày, hao tốn thì giờ nơi đây. Trong khi ấy dân gian vẫn rên xiết, khổ đau. Chưa hết, vượt một quãng đường khó khăn, dài dặc như vậy đến, chỉ vì quanh thế tử khi ấy có “Thánh thượng” cùng các phi tần đang ở xung quanh, họ lại phải quay trở lại điếm Hậu mã! Việc ăn uống nơi này xa hoa vô cùng “mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ”. Thật cơm nhà giàu đổ cho chó để chốn dân gian người chết đói vô cùng! Sau bao nhiêu chờ đợi, cuối cùng người đọc cũng được tiếp kiến mặt rồng.

Bên ngoài khung cảnh xinh đẹp rộn rã là thế nhưng nơi vua nằm chúa ở lại “tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”. Không gian ấy giống như một cái hang, ẩn chứa nhiều khuất tất, lạ lùng. Thứ ánh sáng duy nhất tác giả thấy được là ánh sáng của nến sáp, từ đây ánh mặt trời không chiếu tới. Điều đó hàm một ý rất tinh: Mặt trời mang sự sống cho muôn loài nhưng rõ ràng kẻ trong này không được thần Dương ban ánh sáng, không được ban phúc lành, tất sẽ ốm đau bệnh hoạn. Điều đó được chứng minh ngay bởi dáng vẻ thân hình của thế tử “ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi (…) tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò”. Tình cảnh ấy thật thảm thương. Đứa trẻ thiếu ăn thiếu mặc gầy gò ốm yếu đã đành, nay chỉ vì dư ăn dư mặc mà ốm yếu thì thật mỉa mai đau xót. Nhìn con người ấy mặc thế tử ấy hỏi sao đảm đương được việc triều chính, gánh sao cho được sơn hà? Lối sinh hoạt nơi phủ chúa xa hoa, nghi thức mà ám muội, bệnh hoạn quá mức.

Qua miêu tả đời sống nơi phủ chúa, Lè Hữu Trác hàm một ý phê phán nhẹ nhàng lối sống xa hoa, cầu kì nơi phủ chúa. Đặt đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung vào hoàn cảnh lịch sử ta mới thấy hết giá trị hiện thực của ngòi bút Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm đã tố cáo sự ích kỉ, chuyên quyền của phủ chúa, đời sống nơi này chính là nguyên nhân gây nên mọi tai vạ đau thương cho đất nước.

Lê Hữu Trác bằng Thượng kinh ki sự đà chứng minh bản thân ông không chỉ là một người thầy thuốc có tài mà còn là một ngòi bút có tâm, có tấm lòng nhân ái, vì dân mà trách kẻ có tội. Thượng kinh kí sự đã ghi danh thêm tên tuổi một văn nhân có tài vào lịch sử văn học nước nhà.

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 13

Chúng ta không chỉ biết đến Lê Hữu Trác không chỉ là một nhà nghiên cứu y học nổi tiếng mà chúng ta còn biết đến ông với tư cách là một vị quan triều đình giỏi binh thư võ lược và là một nhà văn tài ba. Ông có biệt danh là Hải thượng lãn ông. Các tác phẩm của ông mang đậm màu sắc của y học nhưng đồng thời nó cũng mang những giá trị văn học tiêu biểu. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào phủ chúa Trịnh không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.

Tác phẩm viết theo thể kí sự. Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung đại. Tác phẩm kí thường có cốt truyện là sự thực cuộc sống. Người viết kí trung thành với sự thật, khai thác sự thật theo quan điểm cá nhân. Kí là thể văn xuôi tự sự có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự thực lịch sử và cảm xúc của người viết.Đoạn trích được viết bằng chữ Hán miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp là Lê Hữu Trác được chúa Trịnh sâm triệu về kinh đô chữa bệnh cho chúa và thế tứ Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của tác giả.


Đoạn văn đầu tiên tác giả miêu tả lên một bức tranh quang cảnh bên ngoài phủ chúa Trịnh. Quang cảnh ấy được tác giả đi miêu tả từ bao quát đến cụ thể từ ngoài vào trong. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Và cứ thế hình ảnh phủ chúa Trịnh hiện lên qua cái nhìn của tác giả thật sa hoa,tráng lệ. Nào là ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian. Rồi lại đến những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác già cũng nghĩ mình đang ở trong mơ. Tác giả cứ ngẫm mình như một tên nhà quê nghèo nàn lạc hậu lạc vào một chốn bồng lai tiên cảnh như thế này. Vốn không màng đến danh lợi nhưng tác giả vẫn không thể không thốt lên lời khen cho vẻ đẹp nơi đây. Đến hậu hậu mã thì lại càng đẹp hơn nào là cột và bao lươn lượn vàng, nào là nhà đại đường cũng vàng nôt, tất cả các cột đều vàng hết, nhìn vừa trang trọng cổ kính lại vừa đẹp nên thơ. Vào nội cung cảnh càng xa hoa tráng lệ: trường gấm, màn là, xập vàng, ghế rồng, hương hoa ngào ngạt...tất thảy những thứ ấy làm cho phủ chúa thêm lung linh huyên ảo biết bao nhiêu. Tác giả ngẫu hứng làm nên mấy câu thơ về phủ chúa Trịnh:

"Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây...
... Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào."


Chính vì những sang giàu như thế mà nhân dân phải cực khổ biết bao nhiêu. Điều đã cho thấy chúa Trịnh Sâm không hề mảy may đến cuộc sống của nhân dân chỉ biết bóc lột họ để xây nên nhưng thành quách cột vàng đẹp như thế này. Cây cối chim kêu, cột vàng... mọi thứ ấy không biết là bao nhiêu mỗ hôi nước mắt của nhân dân. Những cung cách trong cung cũng cho thấy phủ chúa là nới tôn kính vô cùng, những người lính ở đó mỗi người một việc, lời lẽ thì hết sức cung kính. Thế tử chỉ là một đứa bé sáu tuổi nhưng muốn thế tử cởi áo để khám bệnh thì ngự y phải lạy bốn cái mới được khám. Đến khi tác giả được mời cơm thì than ôi toàn những món của ngon vật lạ.

Có thể thấy chúa trịnh là nơi rất uy nga lộng lấy nhưng tác giả cũng phê phán thói sóng quá giàu sang, quá đầy đủ tiện nghi mà thiếu đi sinh khí tự do. Chính đó là nguyên nhân gây ra bệnh của thế tử.

Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ... nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi và diệt vong. Ông hiểu rõ căn bệnh thế tử nhưng sợ chữa khỏi ngay sẽ bị giữ lại bên chúa, bị công danh trói buộc, thế nhưng nếu chữa bện cầm chừng cho thái tử thì lại không đúng với lương tâm của người thầy thuốc vì thế cho nên ông quyết định chữa bệnh cho thế tử. Mặc cho những ý kiến khác của các ngự y ông vân quyết giữ vững lập trường của mình.

Đoạn trích đã vẽ nên bức tranh sinh động, đầy tính hiện thực về cuộc sống xa hoa, uy quyền của chúa Trịnh qua đó bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của tác giả. Qua đó ta càng thấy lối sống xa hoa của những bậc vua chúa ngày xưa và thêm kính trọng người thầy thuốc, nhà kí sự tài ba Hãi Thượng Lãn Ông.

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 14

Khen thay cho nền văn học Việt Nam khi có nhiều tác giả làm việc ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng lại để lại những tác phẩm có giá trị văn học vô giá. Như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với bài Hịch Tướng sĩ; Trương Hán Siêu với Bạch Đằng gian phúc; và giờ đây là tác phẩm của một danh y tài cao đức trọng bậc nhất trong nền Y học cổ truyền Việt Nam. Ông chính là Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác. Và tác phẩm của ông chính xác mang tên là Thượng kinh ký sự, với đoạn trích tiêu biểu Vào phủ chúa Trịnh.

Đây là bộ ký nổi tiếng nhất trong cuộc đời viết sách thiên về văn học của Lê Hữu Trác. Câu chuyện được “ký sự” lại khi tác giả vào tham khám chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Và ở đây, ông đã hoàn toàn mắt thấy tai nghe, chứng kiến lối sống xa hoa, phù phiếm trong phủ chúa. Đồng thời qua đó, thể hiện rõ nhân cách và tâm hồn cao đẹp của vi lương y tài giỏi.

Thân bài
  • Luận cứ 1: Quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa
Đoạn trích vào đề với phần vào cửa vô cùng phức tạp, và không dễ dàng. Tác giả Hữu Trác miêu tả “người truyền mệnh dẫn tôi đi qua mấy lần cửa” với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi. Không những thế, “vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ”. Người nườm nượp đi lại như có hội. Trong khi đó khung cảnh thiên nhiên bao quanh thì cây cối um tùm, hoa đua nhau nở khoe sắc, chim kêu ríu rít, ong bướm dập dờn, gió đưa thoang thoảng mùi hương thơm ngát…. Một cảnh tượng thật tráng lê và hoành tráng, đầy quyền uy.

Hơn thế, trong khuôn viên luôn có đội “Hậu mã quân túc trực” để bất kỳ khi nào chúa Trịnh cần việc gì, đều sai phái đi truyền lệnh. Làm bài phân tích Vào phủ chúa Trịnh chúng ta đã phần nào tưởng tượng được rõ nét không gian của phủ Chúa một thời. Tiếp tục ký sự, tác giả lại liên tiếp dùng những từ và hình ảnh như “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía”, “mâm vàng, chén bạc” với kiệu son võng điều, được sơn son thếp vàng. Toàn bộ đấy là những vật dụng mà cả đời tác giả chưa từng thấy bao giờ. Phủ chúa hào hoa, giàu có đến nỗi, tác giả đã chậc lưỡi, trộm nghĩ: “Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe thấy thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực hẳn khác người”.
  • Luận cứ 2: Lối sinh hoạt
Lần đầu vào phủ Chúa, tác giả Lê Hữu Trác như đến một thế giới hoàn toàn khác. Từ cảnh vật bao quanh, đồ vật, món ăn đều khác lạ, không giống người thường. Đặc biệt, lối sinh hoạt ở phủ toát lên vẻ quyền uy, lễ nghi, khuôn phép vô cùng hà khắc. Điều đó được thể hiện ngay từ cảnh đầu tiên khi cụ Hữu Trác được cáng vào phủ “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Ai nấy bận rộn với công việc và dường như chẳng thấy ai nói với nhau câu nào ngoài mấy lời truyền lệnh. Hơn nữa, khi nhắc đến chúa và thế tử, tất cả đều sử dụng ngôn từ vô cùng trịnh thượng với cung cách hết sức cung kính như “thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà”…

Phân tích Vào phủ chúa Trịnh độc giả không khỏi ấn tượng với cảnh chúa Trịnh luôn có các phi tần hầu chực xung quanh. Y hệt cảnh trong phim vhua chúa ngyaf xưa của cô trang hay kiếm hiệp Tung Quốc. Không những chúa kẻ khỏe mạnh đã lắm người hầu, đến thế tử bị bệnh, cũng đã có 7,8 lương y của 6 cung hai viện đã đứng chầu hai bên từ lâu.

Có lẽ đây là lần đầu tiên, Lê Hữu Trác đi khám bệnh mà không thấy mặt bệnh nhân. Tác giả chỉ làm theo mệnh lệnh của quan Chánh đường. Đã thế, trước khi vào bắt bệnh cho con chúa, tác giả còn phải lạy bốn lạy. Nếu Lê Hữu Trác muốn xem toàn thân của thế tử thì viên quan nội thần phải đến xin phép. Được thì mới làm không thì khỏi. Thật là một lối sinh hoạt lạ lùng, nhưng bộc lộ cho ta thấy một lễ nghi, lề lối nghiêm khắc, tác phong có trên có dưới của phủ Chúa. Tuy nhiên, với lối miêu tả này, chúng ta cũng có thể nhận thấy, tác giả không đồng tình với cuộc sống hưởng thụ, xa hoa đến cực điểm của nhà chúa. Trong khi dân đen vẫn bao kẻ lầm than.

  • Luận cứ 3: Tài năng, y đức của tác giả
Sau khi bắt mạch và kiểm tra toàn thân thế tử, tác giả nhận ra bệnh của thế tử là bệnh nhà giàu. Ông bảo: “đó là vì thế tử ở trong chốn màn the, trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Nói ra điều này, đồng nghĩa với việc tác giả không hề đồng tình với cuộc sống quá sướng về vật chất mà lại thiếu tự do và khí trời của thế tử. Khi đã bắt được bệnh, bỗng nhiên Lê Hữu Trác lại đắn đo suy nghĩ. Chưa bao giờ, ông chữa cho bệnh nhân mà lại phải cân nhắc việc kê đơn như lần này.

Không phải vì ông kém cỏi mà vì “Bệnh này mà không bổ thì không được. Nhưng sợ rằng mình không ở lâu, nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó rang buộc, không làm sao về núi được nữa”. Lúc này, cái tâm y đức của ông trổi dậy, có sự giằng co và mâu thuẫn. Ông hiểu bệnh và chắc chắn chữa được. Tuy nhiên ông là người không hám danh, nếu chữa cho thế tử khỏi bệnh, ắt hẳn ông phải ở lại phủ Chúa.

Điều ông hoàn toàn không muốn. Nhưng nếu “dùng phương thuốc hòa hoãn” thì lại trái với lương tâm, sợ phụ lòng ông cha, tiên tổ. Giằng co giữa cái tôi của cá nhân và bản ngã của người thầy thuốc, cuối cùng phẩm chất của lương y đã thắng. Ông đã kê một đơn thuốc phù hợp cho thế tử một cách tỉ mỉ, chi tiết. Qua phân đoạn này, ta càng khẳng định được y đức thánh thiện, đáng học tập muôn đời của danh y Lê Hữu Trác.
  • Luận cứ 4: Bút pháp nghệ thuật đặc sắc
Càng phân tích Vào phủ chúa Trịnh ta càng thấy như đang xem một bộ phim cổ trang của Việt Nam. Dưới ngòi bút ký chân thực, tỉ mỉ từng đường nét của tác giả, bộ phim ấy thấy hấp dẫn và sinh động trong từng khung cảnh.

Cách dẫn dắt câu chuyện, với ngôn ngữ cổ đại cũng vô cùng độc đáo, nhờ đó mà độc giả cứ bị lôi cuốn vào câu chuyện không dứt. Hơn nữa, những kiến thức y học uyên thâm giúp độc giả thấy được tầm quan trọng của việc hít khí trời và cái đối nghèo. Thế nên ngày nay người ta mới hay có câu: “Vượt nghèo không khó, chỉ có vượt sướng mới không dễ chút nào”.

Kết bài
Phân tích Vào phủ chúa Trịnh, tác giả đã lột tả, phơi bày đời sống xa hoa và cung các quyền lực của phủ chúa. Lối sống xa xỉ ấy không được Lê Hữu Trác khen ngợi với thái độ ngưỡng mộ, mà ông chê trách, thấy xấu hổ trước cảnh tráng lệ đó. Ông ngấm ngầm lên án sự tham lam, bóc lột dân đến tận xương tủy của phủ chúa. Trong khi bao người còn đói rét, không có cái để ăn thì phù chúa lại thừa thãi, sướng hết chỗ để sướng.

Bên cạnh đó, đoạn trích theo phong cách ký sự đã giúp người đọc hiểu thêm về một giai đoạn trong lịch sử dân tộc.

------------------------------

Trên đây là 14 mẫu phân tích hay nhất - Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác, mong rằng qua đây các bạn có thêm tài liệu để tham khảo hữu ích và học tập tốt.
Thêm
422
0
0
2 dàn ý cho đề bài phân tích giá trị hiện thực của đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh"

Dàn ý 1 - Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác
I. Mở bài: Giới thiệu đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

II. Thân bài: Cảm nghĩ giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh"

1. Bức tranh hiện thực của phủ chúa Trịnh

a. Quang cảnh phủ chúa Trịnh

- Một nơi vô cùng xa hoa, tráng lệ và thâm nghiêm
- Màu sắc chủ đạo của phủ là đỏ và vàng
- Không khí ngột ngạt

=> Tác giả miêu tả rất chi tiết và sắc sảo

b. Cuộc sống và sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh:

- Nơi nhiều nguyên tắc, luật lệ
- Cuộc sống xa hoa nhưng thiếu đi sinh khí
- Thể hiện sự lộng quyền của chúa Trịnh

2. Thái độ của tác giả đối với cung cảnh và cách sinh hoạt nơi phủ chúa

- Tác giả không đồng tình với cuộc sống xa xỉ và xa hoa của chúa Trịnh
- Lê Hữu Trác dửng dưng trước những quyến rũ lợi danh tại phủ chúa
- Cuộc đấu tranh nội tâm của tác giả

III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về giá trị hiện thực của đoạn trích

- Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh thể hiện rất sâu sắc và chân thật về quang cảnh và cuộc sống trong phủ chúa Trịnh, một cuộc sống xa hoa nhưng thiếu sinh khí và ngột ngạt.

Xem thêm: Soạn ngắn nhất bài Vào phủ chúa Trịnh
Soạn hay nhất bài Vào phủ chúa Trịnh
14 mẫu phân tích giá trị hiện thực trong đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh"

Dàn ý 2- bài nghị luận về giá trị hiện thực trong tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” – Lê Hữu Trác
1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích tiêu biểu Vào phủ chúa Trịnh

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

2.1. Giá trị hiện thực là gì?

- Hiện thực: Sự thật đời sống
- Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học: sự phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực, rõ nét, tạo nên ý nghĩa cho tác phẩm
- Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đoạn trích mang giá trị hiện thực rõ nét bởi Thượng kinh kí sự được viết theo thể kí với đặc điểm ghi chép câu chuyện, sự kiện có thật tương đối hoàn chỉnh mà tác giả trực tiếp chứng kiến

2.2 Giá trị hiện thực được biểu hiện trong đoạn trích

a. Phản ánh bức tranh hiện thực về quang cảnh nơi phủ chúa

- Vào phủ phải trải qua nhiều cửa gác, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau

+ Vườn hoa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”
+ Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh

- Trong phủ:

+ Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy
+ Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc

- Nội cung thế tử:

+ Phải qua năm sáu lần trướng gấm
+ Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”

=> Quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng sa hoa, giàu sang và thâm nghiêm, đây là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước

b. Phản ánh hiện thực cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa

Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa với rất nhiều những nhiều lễ nghi, khuôn phép, đầy quyền uy, sa hoa nhưng thiếu sinh khí cúng được tác giả phản ánh chân thực:

- Phủ chúa là nơi sa hoa, thâm nghiêm và cũng là nơi đầy uy quyền: Tiếng quát tháo, truyền lệnh, quy tắc lễ nghi được thực hiện nghiêm ngặt:

+ Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”
+ Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép
+ Lắm kẻ hầu người hạ: ChúaTrịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, Thế tử bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên

- Phủ chúa là nơi thiếu sinh khí:

+ Sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người: Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”
+ Phản ánh sự thật vị chú nhỏ Trịnh Cán sống trong sự sa hoa nhưng điều cơ bản nhất lại thiếu, đó là sức sống

=> Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa được tác giả khắc họa chân thực phù hợp với cung cách sinh hoạt của vua chúa thời kì bấy giờ, đồng thời cho thấy được uy quyền và sự lộng hành của chúa Trịnh lấn át cả cung vua

=> Phản ánh sự lộng hành của chúa Trịnh

2.3. Nét nghệ thuật thể hiện thành công giá trị hiện thực của đoạn trích

- Thể kí: ghi chép sự thật
- Ghi chép tỉ mỉ, chi tiết, chân thực sự việc
- Kết hợp ghi chép sự việc một cách chính xác với bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc

3. Kết bài

- Khái quát và mở rộng vấn đề

Xem thêm Phân tích ngắn nhất tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh
Thêm
506
0
0
Tìm hiểu vắn tắt tác giả Lê Hữu Trác, tác phẩm Thượng kinh kí sự, soạn bài, luyện tập đầy đủ, chi tiết nhất cho các em học sinh tham khảo

1. Tác giả Lê Hữu Trác

- Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Hưng Yên, quê mẹ ở Hà Tĩnh.

- Ông là một danh y đồng thời là nhà văn nhà thơ lớn.

- Ông là tác giả của bộ sách y học nổi tiếng “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”.

2. Tác phẩm Thượng kinh ký sự

- Thượng kinh ký sự là tập nhật kí bằng chữ Hán, in ở cuối bộ “Y tông tâm lĩnh”, được viết bằng chữ Hán.

- Thể loại: Vào phủ chúa Trịnh thuộc thể loại Kí sự.

- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm được trích từ quyển Thượng kinh kí sự nói về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn và phủ Chúa để bắt mạch kê đơn cho Thế tử Trịnh Cán.

- Nội dung chính: miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua những điều mắt thấy tai nghe, nhân dịp Lê Hữu Trác được chúa Trịnh Sâm triệu về kinh đô chữa bệnh cho chúa và thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của tác giả.

3. Tóm tắt văn bản Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự)

Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.

4. Bố cục văn bản

- Phần 1 (từ đầu đến không có dịp): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.

- Phần 2 (tiếp đến phòng chè ngồi): Thực trạng trong phủ chúa, hình ảnh Trịnh Cán ốm yếu.

- Phần 3 (còn lại): Tâm trạng, cảm nghĩ của Lê Hữu Trác

Xem thêm: Soạn ngắn nhất văn bản Vào phủ chúa Trịnh
Tổng hợp các bài viết về tác giả, tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh hay nhất
5. Trả lời câu hỏi – bài soạn

Câu 1 (trang 9 sgk
Ngữ văn 11 Tập 1):

* Quang cảnh trong phủ Chúa


- Phải đi qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang dài quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có lính canh gác, ai muốn vào phải có thẻ.

- Vườn hoa trong phủ Chúa cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa cỏ thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương

- Bên trong phủ là nhà Đại đường, Quyển bổng, Gác tía với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.

- Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng chén bạc

- Đến nội cung phải đi qua 5, 6 lần trướng gấm

- Phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son, nệm gấm mà che

⇒ Quang cảnh ở phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng

* Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa

- Khi đi thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường

- Trong phủ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi

- Lời lẽ nhắc đến thế tử đều hết mực cung kính, lễ độ tránh phạm úy.

- Chúa Trịnh luôn cho phi tần chầu chực xung quanh. Tác giả không được thấy mặt Chúa

- Thế tử bệnh có 7, 8 người thầy thuốc túc trực, phục dịch

- Tác giả phải quỳ lạy 4 lần lúc đến và 4 lần lúc về

⇒ Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép, cách nói năng, người hầu kẻ hạ cho thấy sự cao sang, quyền uy, cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.

* Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống trong phủ

- Lê Hữu Trác mặc dù khen cái đẹp, cái sang nơi phủ Chúa những tác giả tỏ vẻ dửng dưng trước những thứ vật chất xa hoa và không đồng tình với cuộc sống quá xa xỉ, thừa thãi, hưởng lạc nhưng thiếu khí trời và tự do như ở trong phủ Chúa

Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chi tiết được cho là đắt nhất

- “Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Khi đi đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít.

- Qua chi tiết ấy cho thấy cuộc sống ăn chơi hưởng lạc trong phủ Chúa. Thế tử được mọi người chăm sóc, hầu cận đến phát bệnh. Không gian ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí trong phủ Chúa.

Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

- Cách chẩn đoán bệnh của Lê Hữu Trác cho thấy ông là một người thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm

- Ông là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ

- Đặc biệt ông còn có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị

Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bút pháp đặc sắc trong truyện

- Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy

- Tả cảnh sinh động

- Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc

Luyện tập (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

So sánh hai đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Lê Hữu Trác) với “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)

* Giống nhau: Đều phán ánh hiện thực cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh

* Khác nhau:

- Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hổ

+ Phản ánh sự nhũng nhiễu của quan lại đối với nhân dân

+ Các sự kiện được kể một cách tản mạn, ghép nối

+ Thể hiện thái độ phê phán gay gắt của tác giả đối với Chúa và quan lại

- Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác

+ Ghi chép sự việc theo trình tự thời gian một cách tỉ mỉ và trung thực

+ Thể hiện thái độ phê phán một cách kín đáo

+ Thể hiện thái độ dửng dưng, coi thường vinh hóa phú quý và tấm lòng y đức của Lê Hữu Trác

Xem thêm: Kiến thức cơ bản tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh
Thêm
458
0
0
Tiểu Sử , Sự nghiệp, danh xưng Hải Thượng lãn ông, giai thoại về Lê Hữu Trác, di sản Y học của danh y Lê Hữu Trác - tác giả "Vào phủ chúa Trịnh" (skg 11)

1. Tiểu sử Lê Hữu Trác

Danh y Lê Hữu Trác (1720 – 1791) là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên, huyện Yên Mỹ). Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 (tức năm Canh Ngọ). Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân (theo “Hải Dương phong vật chí”) nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông.

Danh xưng Hải Thượng lãn ông

Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông (có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng) là sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ (Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng), còn chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này. Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động vì nạn tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến dưới thời Vua Lê - Chúa Trịnh. Ông thấu hiểu nỗi cơ hàn của người dân lao động nghèo khổ trong cảnh giặc dã, đói rét bệnh tật. Với chí khí của “trai thời loạn” Ông cũng muốn bứt mình ra khỏi “chốn thư song” để “hẹn hò bay nhảy, giao du khắp chốn để tìm bạn đồng tâm” Ông đã từng học binh thư, luyện võ, đăng lính. Thuộc dòng dõi trâm anh nên ông được cử làm tướng cầm quân đánh giặc” Mưu tính việc quân cơ tới đâu thắng tới đó” lập được nhiều chiến công. Thống soái của Chúa Trịnh nể tài ông, bao phen tiến cử, nhưng chán ghét cảnh binh đao, ông tìm mọi cách để từ chối và nhân lúc người anh mất, ông lấy cớ” Trên thì mẹ già đã bảy tuần, dưới gối còn vài ba cháu côi cút” bèn dứt khoát cởi tên cởi giáp” trở về quê nuôi mẹ dạy cháu và học nghề thuốc. Lúc này ông đã ngoài 30 tuổi. Trong khi các nhà nho trong đời chỉ dùi mài kinh sử để làm bước thang danh vọng thì đối với ông” Trường đời danh lợi đã gửi cho nước trôi mây nổi từ lâu. Quay về Hương Sơn làm nhà dưới rừng quyết chí học tập nghề y” Rồi ông được thầy thuốc Trần Độc (làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An) chữa bệnh và dạy cho nghề thuốc.

Xem thêm: Tác giả Lê Hữu Trác (tóm tắt ngắn nhất về Lê Hữu Trác)
Tổng hợp các bài viết về tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh"

2. Danh y Lê Hữu Trác và di sản Y học

Cuộc đời và con đường đến với Y học


Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy. Gia đình ông vốn nổi tiếng bởi truyền thống đỗ đạt khoa bảng, rất nhiều người làm quan to trong triều đình. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê.

Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý. Tuy nhiên, không lâu sau đó vào năm ông 19 tuổi, cha ông mất (năm 1739) nên phải về nhà chịu tang, vừa lo kế nghiệp gia đình vừa lo hậu sự cho cha.

Một năm sau đó (tức 1740), giữa thời buổi loạn lạc, Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn tranh giành quyền lực, muôn dân lầm than, bạo loạn xảy ra khắp nơi ông đã quyết định gác lại sách vở, luyện tập võ thuật và binh thư, xung phong vào quân ngũ. Chỉ ít lâu sau, ông nhanh chóng nhận ra đây không phải là lẽ sống mà mình theo đuổi nên dù đã được đề bạt nhiều lần, ông kiên quyết từ chối. Cho tới năm 1746, sau khi người anh cả mất tại quê mẹ là huyện Hương Sơn, Nghệ An (nay là Hà Tĩnh) ông đã viện cớ xin rời khỏi quân ngũ về chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi.

Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương (nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An). Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm.

Trong suốt 1 năm chữa bệnh tại đây, Lê Hữu Trác thường hay nghiên cứu sách y học “Phùng thị cẩm nang” của Trung Hoa. Với trí thông minh và khả năng hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhanh chóng nắm bắt được chân lý trong sách và nhen nhóm đam mê học về y thuật. Trần Độc nhận thấy sự tinh thông và quyết tâm của ông, nên bày tỏ mong muốn truyền nghề.

Ở tuổi 30, danh y Lê Hữu Trác trở lại quê mẹ ở Hương Sơn, khước từ lời mời của chúa Trịnh quyết ở lại đây chuyên tâm chữa bệnh cứu người, lấy tên Hải Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên tại đây neo người bầu bạn, lại không có nhiều thầy giỏi để ông học hỏi, Lê Hữu Trác quyết định lên kinh đô học tập, mong tìm kiếm thêm kiến thức y học mênh mông.

Sau khoảng thời gian học tập, ông trở lại quê mẹ để chữa bệnh cứu người. Với tài năng học rộng, chẩn bệnh giỏi, bốc thuốc hay, lại không màng tới tiền tài danh lợi, ông đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người dân. Có người bệnh nhiều năm không khỏi ông cũng chữa được. Chỉ qua một thập kỷ miệt mài cống hiến, tên tuổi của ông nhanh chóng vang danh khắp vùng Hương Sơn và đến tận kinh thành.

Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ. Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính. Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” (nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù). Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức.

Năm 1782, khi đã 62 tuổi, ông nhận lệnh Chúa Trịnh hồi kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Vốn được lòng Trịnh Sâm, ông bị không ít ngự y trong thành ghen ghét. Hải Thượng Lãn Ông vốn không hề nảy sinh thù ghét, chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và mau chóng thoát khỏi chốn kinh thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê.

Y đức

Nói đến Hải Thượng Lãn Ông trước hết là nói đến y đức. Như chúng ta biết từ sau Cách mạng Pháp năm 1789, một trong những việc làm đầu tiên của trí thức tiến bộ là năm 1792, phục hồi chủ nghĩa nhân văn Hippocrate. Họ bắt buộc sinh viên Đại học y khoa ra ngành nghề phải giơ tay trước mặt các thầy, đọc lên “lời thề Hippocrate” (Serment d’Hippocrate), hứa sẽ trong sạch, tuân theo suốt đời, bằng không sẽ đáng cho đồng nghiệp khinh bỉ, người đời nguyền rủa. Ai ai cũng biết là từ ấy đến nay, lời thề đó được lấy làm cơ sở cho y đức mà bác sĩ phải thuộc lòng. Một tạp chí y khoa Pháp Concours Médical, khi nghiên cứu những điểm của Hải Thượng Lãn Ông từng nêu lên trong “Y huấn cách ngôn”, đã khẳng định ở “Y huấn” ngoài những điểm giống như “Lời thề Hippocrate”, còn có phần đầy đủ hơn để đi sâu vào lòng người.

Khái niệm y đức của Hải Thượng Lãn Ông thật giản dị: "Đã hiến thân cho nghề thuốc thì phải biết quên mình để dồn hết tâm lực vào trước thuật, trước là cứu người, sau là đúc kết để dựng nên ngọn cờ đỏ thắm giữa y trường". Ngay từ ngày ấy ông đã rất "hiện đại", nói như ngôn ngữ ngày nay là chữa bệnh và nghiên cứu khoa học!. Rộng hơn, ông phân tích mối quan hệ thầy thuốc – người bệnh "Thầy thuốc là người có nhiệm vụ bảo vệ sinh mệnh người ta. Lẽ sống chết, điều phúc họa đều ở trong tay mình xoay chuyển, lẽ nào người có trí tuệ không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm hồn không thoáng đạt, trí quả cảm không thận trọng mà dám theo đòi bắt chước học nghề y".

Trong mọi nghề khác, học là thành tài song trong ngành y, sự học chỉ là một phần và điều làm nên tên tuổi, tài năng là tự tu dưỡng với 8 chữ răn mình: Nhân - Minh - Đức - Trí - Thành - Lượng - Khiêm - Cần (tức là lòng yêu thương, sự sáng suốt, đức độ lòng tốt thiện, hiểu biết, thành thực rộng lượng, khiêm tốn, cần cù), đồng thời ông cũng đề ra 8 tội cần phải tránh: một là “lười biếng”, hai là “ tham”, ba là “bất nhân” bốn là “bủn xỉn”, năm là “lừa dối”, sáu là “hẹp hòi”, bảy là “thất đức”, tám là “dốt nát” . Y học mang trong nó những thiên chức cao cả nhưng y học cũng là một nghề và người hành nghề thì cũng là những con người cụ thể. Vì thế, từ thực tế, ông kịch liệt phê phán những người lợi dụng ngành y để mưu lợi "hoặc bắt bí người ta trong đêm mưa gió khó khăn... bệnh dễ thì kêu là bệnh khó, bệnh khó thì dọa là bệnh chết, dối mình, dối người để mưu cầu lợi cho mình. “Đối với kẻ giàu sang thì sốt sắng để mong được lợi, đối với người nghèo khó thì lạnh nhạt, thờ ơ..." Tấm lòng ngay thẳng, chí khí thanh cao không luồn cúi công danh phú quý, nịnh hót kẻ giàu sang luôn luôn được coi trọng. “Ngay cả khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi chớ có mưu cầu quà cáp, vì nhận quà của người ta thường sinh ra nể nang huống hồ đối với kẻ giàu sang tính khí thất thường, mình cầu cạnh dễ bị khinh rẻ”. Trong quan hệ với phụ nữ, Hải Thượng rất nghiêm túc, tế nhị tôn trọng và tràn lòng nhân ái. Điều khuyên thứ ba của Y huấn là: “Đối với đàn bà, con gái, goá phụ, ni cô, phải có người nhà đi theo bên cạnh mới bước vào buồng mà khám bệnh; để tránh mọi sự nghi ngờ, dù cho là con hát, gái điếm cũng vậy, phải đứng đắn xem họ như người tử tế, chớ nên đùa cợt mà mang tiếng bất chính”.

Con người thầy thuốc là vậy mà con người xã hội trong ông cũng là tấm gương lớn về nhân cách. Hải Thượng Lãn Ông là hiện thân của tấm lòng cương trực, chí khí thanh cao, không màng công danh phú quý, không nịnh hót kẻ giàu sang. Khi ông 62 tuổi, vào năm Cảnh Hưng 43 (1782), ông nhận được lệnh chúa Trịnh triệu về kinh xem mạch kê đơn cho Thế tử Trịnh Cán. Việc trên đòi đâu dám chống và từ quê mẹ, ông thượng kinh. Chúa Trịnh Sâm gặp ông, tiếp một buổi khen "hiểu sâu y lý", ban thưởng cho ông 20 suất lính hầu và bổng lộc ngang với chức quan Kiểm soát bộ hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn Ông, không chịu chữa theo đơn của ông nên Thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi. Thế nhưng với dân, với đồng nghiệp, với học trò, Hải Thượng Lãn Ông lại là một con người khác. Ông là một tấm gương mẫu mực cho thuật xử thế: "Khi gặp người cùng nghề cần khiêm tốn, hòa nhã, cẩn thận, chớ nên coi rẻ khinh thường, đối với người cao tuổi thì nên cung kính; đối với người có học thì nên tôn thờ như bậc thầy; đối với người cao ngạo thì nên nhún nhường; đối với người non nớt thì nên dìu dắt; giữ lòng như vậy là điều phúc lớn".

Di sản Y học

Trong lịch sử y học Việt Nam, ông là người đặt nền móng xây dựng y thuật với cuốn Y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển đề cập từ nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa, thương khoa, truyền nhiễm, cấp cứu đến y đức, vệ sinh phòng bệnh, phương pháp nuôi dưỡng, thậm chí cả chế biến các món ăn dưỡng bệnh. Có thể nói Y tông tâm lĩnh là tinh hoa của y học nhân loại và y dược cổ truyền Việt Nam. Để có được di sản cụ thể này, từ việc kê đơn bốc thuốc, thăm khám bệnh hàng ngày, ông đặc biệt chăm chỉ ghi chép để tổng kết, đối chiếu, so sánh và từ đó tổng kết thành bài học lớn. Đặc biệt ông đã chép một quyển “Âm án”, là những sai lầm thất bại trong thời gian hành nghề y để cho đời sau thấy đó mà tránh. Ông nói “Nghề thuốc là nhân thuật, thầy thuốc phải lấy việc giúp người là việc hay. Cứu được một mạng thì hoa chân múa tay để biểu dương cho người biết; lỡ có thất bại thì lại giấu im đi, ít có người không dấu cái điều xấu của mình mà dám đem sự thực nói với người khác. Riêng tôi dám nói là thoát khỏi cái thói đó chăng”. Y thuật của ông có giá trị lâu dài bởi ông chịu nghe đồng nghiệp, kể cả học trò và tiếp thu kinh nghiệm của người xưa một cách có chọn lọc, linh hoạt, sáng tạo, không hề rập khuôn máy móc. Từ đó ông có quan điểm về nhận định bệnh tật và phương pháp điều trị sáng tạo phù hợp với đặc điểm phong thổ, khí hậu và đặc điểm của con người Việt Nam.

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Tuy nhiên, nhà văn cũng như thầy thuốc, đều thuộc khái niệm “nghề lao động trí óc tự do”, làm kỹ sư cho tâm hồn và kỹ sư cho thân thể, nên chắc có nhiều điểm tương đồng về đạo đức hành nghề. Năm 1783, ông viết xong tập Thượng kinh ký sự bằng chữ Hán tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và Chúa Trịnh Sâm. Tập ký ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá gồm vỏn vẹn 29 bài thơ, hầu hết là thơ 8 câu. Thơ Hải Thượng toàn thuộc loại “tức cảnh sinh tình”, phảng phất mùi đường thi. Nhưng không phải với giọng chán đời, cô đơn, mà là lời lẽ của một người nhập thế, lo cho đời, cho người, tìm thú vui trong hành động . Tiếng thơ trung thực từ cõi lòng là Tình, nhưng cũng là quan niệm riêng về cuộc sống, là nhân sinh quan, dù là người thời xưa hay thi sĩ thời nay.

-Việc chi mà phải nện chày?
Lòng thanh niềm tục là tiêu lòng tà

- Hết mình chữa trị cho người ta
Ngoài ra tất cả đều là mây trôi!

-Học y mấy chục năm trời
Đông qua hạ lại chẳng rời sách hay
Công danh là bệnh khó thay
Giữ mình đạo đức ngày ngày khoẻ vui.

-Mình đã hại người, chẳng hiểu ra!
Nhìn nhau càng thấy bao xót ra,
Tuy cười tình bạn mà rơi lệ,
Hai mắt xuân tàn vẫn thấy hoa!
Cuộc sống anh em xin kết nghĩa,
Kiếp sau mong ước được chung nhà.
Ta không phụ bạc mà thành phụ
Ai biết làm sao xin giúp ta!

Cả cuộc đời của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là cả một tấm gương sáng chói về tinh thần trách nhiệm cao cả trong nghề nghiệp, lòng nhẫn nại đức hy sinh và lòng thương yêu người bệnh vô bờ bến. Đương thời Chúa Trịnh ban ân tứ cùng dụ rằng “Lê Hữu Trác là một người siêu thoát trên tất cả mọi điều tục lụy ta cũng không muốn làm phật ý người”. Người đời sau suy tôn ông bằng danh hiệu cao quý “ Đại Y Tôn Việt Nam”. Ông thật xứng đáng là người đã “ dựng ngọn cờ đỏ thắm” trong nền Y học nước nhà.
Danh y Lê Hữu Trác chính là người thầy vĩ đại truyền cảm hứng không nhỏ tới các thế hệ trong tương lai. Đồng thời để lại kho tàng y học vô giá, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của y học nước nhà. Mong rằng qua bài viết trên đây, bạn đọc đã có thêm những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của vị Thánh Y này.
Thêm
1K
0
0
Kiến thức cơ bản Vào phủ chúa Trịnh (Lê Hữu Trác): Thời xưa những người tài giỏi thì thường không thích vòng danh lợi. Họ chỉ giúp vua một thời gian rồi về ở ẩn với nhân dân giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao"

Có thể nói rằng sự lánh đục tìm trong ấy là cách xuất xử của biết bao nhiêu bậc nho sĩ, người tài. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn. Tác phẩm tiêu biểu của ông được nhiều người biết đến là đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự). Trong đoạn trích này Lê Hữu Trác đã phê phán những thói ăn chơi sa đọa của bậc vua chúa. Nơi đây không khác gì cho những bậc thánh ở.

Ở bài viết này, người viết trình bày: Tìm hiểu chung về tác giả Lê Hữu Trác, Tìm hiểu về tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh (Thể loại, bố cục, tóm tắt, hoàn cảnh sáng tác) và phân tích Vào phủ chúa Trịnh… (Gọi chung là kiến thức cơ bản Vào phủ chúa Trịnh).

5527

Kiến thức cơ bản Vào phủ chúa Trịnh (Lê Hữu Trác)​

I. Tìm hiểu chung về tác giả Lê Hữu Trác

1. Tiểu sử

- Lê Hữu Trác (1724 – 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên).

- Lê Hữu Trác là một thầy thuốc nổi tiếng, đồng thời cũng là một tác giả văn học có một số sáng tác đáng chú ý.

- Lê Hữu Trác là một trí thức, ông không ra làm quan, cũng không sống thuần túy cuộc sống của nhà ẩn sĩ mà chọn con đường chữa bệnh cứu người.

2. Tác phẩm của Lê Hữu Trác:

- Bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh (Những lĩnh hội tâm huyết trong ngành y của Hải Thượng) gồm 66 quyển, được biên soạn trong gần bốn mươi năm. Hải Thượng y tông tâm lĩnh chẳng những có giá trị hết sức to lớn về y học mà còn có giá trị văn học.

- Thượng kinh kí sự là quyển cuối cùng (quyển vĩ) trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh. Tác phẩm ghi lại cảnh vật, con người mà tác giả tận mắt chứng kiến từ khi được triệu về kinh chửa bệnh cho thế tử Trịnh Cán (ngày 12 tháng Giêng năm Nhâm Dần 1782) đến khi xong việc về lại quê nhà ở Hương Sơn (ngày 2 tháng 11).

Trên đây là phần giới thiệu tác giả Lê Hữu Trác (Tiểu sử và các tác phẩm chính của Lê Hữu Trác). Ở phần tiếp theo, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về văn bản Vào phủ chúa Trịnh (Thể loại, Hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt, bố cục, nội dung và nghệ thuật của văn bản Vào phủ chúa Trịnh)

II. Tìm hiểu chung về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

1.Thể loại

Thượng kinh kí sự thuộc thể loại kí sự, ghi chép sự việc là chính. Tuy nhiên, tác phẩm có những đoạn miêu tả cảnh, người và sự việc, những đoạn văn ghi lời bình luận hay cảm tưởng, lại còn cả những bài thơ xen kẽ, khiến cho nó vừa có chất tự sự, kể chuyện, lại có chất trữ tình.

2. Hoàn cảnh sáng tác

- Tác phẩm được trích từ quyển Thượng kinh kí sự nói về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn và phủ Chúa để bắt mạch kê đơn cho Thế tử Trịnh Cán.

3. Tóm tắt

Sáng sớm tinh mơ ngày 1/2 tôi được lệnh là có thánh chỉ triệu tập về phủ chầu ngay lập tức. Tôi nhanh chóng chuẩn bị mũ áo chỉnh tề rồi được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Đi vào cửa sau vào phủ, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Vốn là con quan tôi thực không lạ với chốn phồn hoa nhưng khi bước chân vào phủ thì quả mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác dường nào. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài miên man tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều là những cổ vật quý giá chưa từng nhìn thấy, được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được hầu hạ bữa sáng với mâm vàng, sơn hào hải vị. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tôi thấy bệnh thế tử là do nằm trong chốn màn che trướng rủ, ăn quá no, mặc quá ấm, lười vận động nên phủ tạng yếu đi, bệnh phát đã lâu... Sau một hồi suy nghĩ: sợ danh lợi ràng buộc không về núi được nhưng nghĩ lại còn chịu ơn nước nên cuối cùng đã kê đơn theo đúng bệnh. Sau đó tôi từ giã, lên cáng trở về kinh Trung Kiền để chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong kinh cũng đến thăm hỏi.

4. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến để tôi xem mạch Đông cung cho thật kĩ): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.

- Phần 2 (còn lại): Quá trình bắt mạch kê đơn và suy nghĩ của tác giả.

III. Phân tích Vào phủ chúa Trịnh (Lê Hữu Trác)

1. Quang cảnh phủ chúa Trịnh


Cảnh trong phủ chúa có mấy yếu tố: nhà cửa và kiến trúc; các nhân vật, hoạt động.

- Quang cảnh nơi phủ chúa cực kì sang trọng, lỗng lẫy không đâu sánh bằng:

+ giàu từ nơi ở: qua nhiều lầu cửa, hành lang quanh co, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm…; lầu từng gác vẽ mây, rèm châu, hiên ngọc…

+ giàu sang trong tiện nghi sinh hoạt: đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng; đồ ăn thức uống là cao lương mĩ vị, mâm vàng chén bạc… toàn của ngon vật lạ

- Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa nhiều lễ nghi, khuôn phép, kẻ hầu người hạ tấp nập, cực kì cao sang và quyền uy tột đỉnh:

+ đầy tớ chạy đằng trước cáng hét đường, cáng chạy như ngựa lồng

+ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi

+ nói tới chúa lời lẽ phải hết sức lễ độ cung kính: Có thánh chỉ triệu cụ vào; Thánh thượng cho cụ vào để hầu mạch Đông cung thế tử…

+ để phục dịch một ông chúa nhỏ mà có tới năm sáu lầm trướng gấm, người hầu kẻ hạ tấp nập đứng hai bên…

⇒ Đoạn văn miêu tả cung cấm khá tỉ mỉ, chi tiết giàu giá trị hiện thực, khắc họa sinh động cuộc sống xa hoa, tráng lệ cùng uy quyền tối thượng nơi phủ chúa.

2. Nhân vật

Nhân vật nổi bật trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là quan Chánh đường, ngoài ra một số nhân vật chỉ được phác họa thoáng qua như Đông cung thể tử Trịnh Cán và các thầy thuốc:

-Quan Chánh đường xuất hiện trong tư thế một người đầy quyền lực, sang trọng. Ông có quyền quyết định nhiều việc trọng yếu trong phủ chúa chứng tỏ ông được chúa tin cậy, trao cho nhiều quyền lực.

- Nhân vật Đông cung tuy thoáng nhưng cũng để lại một ấn tượng khó quên: độ năm, sáu tuổi, da mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, tay chân gầy gò…

- Bảy, tám vị lương y của “tam cung lục viện” tuy có xuất hiện nhưng không để lại ấn tượng nào đáng kể.

3. Thái độ của tác giả qua cách tả và lời bình luận

a. Lúc vào phủ chúa

- Ngạc nhiên trước khung cảnh trước mắt

- Cảm nhận đầy đủ sự xa hoa trong phủ chúa

- Dửng dưng, thờ ơ trước những quyến rũ vật chất, phê phán cuộc sống xa hoa, thừa thãi tiện nghi nhưng thiếu sinh khí, đó cũng là nguyên nhân bệnh của thế tử: Bởi thế tử ở chốn màn che trướng phủ ăn qua no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi

- Qua việc miêu tả sự giàu sang tới mức Cả trời Nam sang nhất là đây và sự lộng quyền của phủ chúa tác giả ngầm ý mỉa mai, châm biếm

b. Thái độ khi chữa bệnh cho thế tử và phẩm chất của người thầy thuốc

Thái độ

- Hồi hộp, căng thẳng, tôn kính

- Mâu thuẫn: Nhưng sợ mình.... nếu mình làm có kết quả ngay lại bị danh lợi nó ràng buộc...... Chi bằng dùng phương thuốc hòa hoãn...... Nhưng lại nghĩ: Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành......

⇒ Quyết định chữa bệnh cho đúng y đức

Phẩm chất

- Ông là người thầy thuốc giỏi, có phẩm chất, già dặn kinh nghiệm

- Là thầy thuốc có lương tâm và đức độ

- Khinh thường quyền quý, danh lợi, yêu thích tự do gắn bó với quê hương

4. Nghệ thuật miêu tả

- Tài quan sát, lựa chọn chi tiết đắt giá. Tác giả đã đưa những quan sát tưởng như vô tình, thoáng qua nhưng thực ra là những chi tiết chọn lọc.

- Các chi tiết về quyền lực của quan Chánh đường, như đã phân tích cũng rất đặc sắc.

- Việc kể chuyện kèm theo bình luận, tỏ thái độ, tự phân tích tâm lí của các tác gủa khiến câu chuyện được kể sinh động, hấp dẫn.
Thêm
Kiến thức cơ bản Vào phủ chúa Trịnh (Lê Hữu Trác)
1K
0
1

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
Kiến thức cơ bản: Vào phủ chúa Trịnh (Lê Hữu Trác): kiến thức về tác giả, đôi nét về tác phẩm và phân tích (quang cảnh phủ chúa Trinh; nhân vật và thái độ của tác giả qua đoạn trích)... Nếu các...
 

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
  2. hưnga @ hưnga:
    cho em hỏi xu có những tác dụng gì ạ
Top