Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Nguyễn công trứ
Ông vừa đậm yếu tố nho giáo, vừa có sự chi phối của những yếu tố xã hội, lại vừa có sự bứt phá của cá nhân. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ gắn với một giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Mở đầu thế kỷ XIX, trong khai trương một triều đại mới - triều Nguyễn Gia Long, đó là một thời khó sống. Đó là, một xã hội bộc lộ những mẫu người cơ hội, đa phần quân thần khi thì bỏ chúa Trịnh chạy theo Tây Sơn rồi lại quay về phò nhà Lê, rồi lại ép mình theo nhà Nguyễn. Một bộ phận khác thì mặc “trời đất xoay vần” rút lui ra ngoài cõi thế, sống ẩn dật nơi thôn dã, chốn sơn lâm. Đó là xã hội được Nguyễn Du mô tả một phần trong Truyện Kiều với “những phường bán thịt, những tay buôn người”, với thế lực mới là đồng tiền đã “đổi trắng thay đen” v.v…

Trước một xã hội đan xen những hào quang nhân văn cao cả và dục vọng thấp hèn Nguyễn Công Trứ hiên ngang bước vào đời, quyết chí lập thân, lập danh. Với tính cách ngang tàng, lại nằm trong khuôn phép của một nền giáo dục lấy nho giáo làm chính, Nguyễn Công Trứ một mặt vẫn luôn “trung quân”; mặt khác đã “bay vượt” ra khỏi sự kìm nén đó để được tự do bộc lộ nhân cách của mình.

Ông đã nhận ra giá trị dân tộc gắn với tinh thần yêu nước chân chính cả trong thơ ca cũng như sự hành xử trong sự nghiệp, trong cuộc sống. Là một vị giải nguyên giỏi chữ Hán, một nhà thơ xuất sắc, nhưng thơ ông hầu như viết toàn bằng chữ Nôm với ngôn ngữ dân dã, đời thường, gắn với ca dao, tục ngữ. Ông là ông tổ của lối hát nói và là người có công lớn đưa thể cách hát nói của ca trù thành một thể thơ ca của văn học Việt Nam.

Trong ông dần nảy sinh, hình thành tư tưởng độc lập quốc gia phải gắn liền với chống áp bức xâm lược. Đó là điều mà từ xa xưa đến lúc bấy giờ chưa có nho sĩ nào dám nghĩ đến

Tám mươi năm sau ngày Nguyễn Công Trứ mất, Lưu Trọng Lư, một nhà thơ tiền chiến viết trong Tạp chí Tao Đàn, 1939: “Ở trong thi văn Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có trong văn chương Việt Nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử. Cái thể ca trù nhờ phép thần của Nguyễn Công Trứ trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với những sự xuất diễn hùng mạnh.

Cuộc dấn thân của Nguyễn Công Trứ trong thi ca giữa cuối thế kỷ XVIII, lần đầu tiên trong lịch sử thi ca Việt Nam khẳng định nhu cầu hưởng thụ của con người, nâng nó lên thành một triết lý sống thì nhiều nhà thơ Hà Tĩnh thế kỷ XVIII như Nguyễn Huy Oánh, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Du chưa làm được. Mà theo tôi, trong không gian đạo đức bấy giờ, giữa những giới hạn cay nghiệt của vận động lịch sử, để làm được cái điều độc đáo ấy, Nguyễn Công Trứ đã trung thành với triết lý dấn thân có từ thuở hàn vi.

Đời rút lại chỉ là một cuộc chơi lớn; một cuộc chơi trong cõi nhân sinh “ba vạn sáu nghìn ngày”, như một “miếng da lừa” bị co kéo giữa hai phía của bậc thầy chủ nghĩa hiện thực phương Tây Balzac - người cùng thời với Nguyễn, khiến con người chớ dại mà “tiêu nhăng” (Nhân sinh ba vạn sáu nghìn ngày. Vạn sáu tiêu nhăng hết cả rồi); con người phải khôn ngoan mở “rộng đất chơi” (Nhắn con Tạo hoá xoay thời lại. Để khách tang bồng rộng đất chơi).

Triết lý ấy ứng vào cái thời ấy, cái thời đất nước đang âm thầm tích tụ cho một cuộc thay đổi, khi cái cũ đã không còn lý do để tồn tại, và cái mới chỉ vừa hé lộ trong các nền móng vật chất và tinh thần của xã hội. Cái thời đồng tiền đã có thể làm lung lay mọi nền tảng đạo lý cũ và cái tôi cá nhân với yêu cầu giải phóng đã hiện diện với sức công phá tiềm tàng của nó.

Với tàitình, Nguyễn đã là người góp phần khơi rộng và tạo một lối rẽ cho con người được trở về với chính cá nhân mình, chính cái tôi riêng của mình trong khát vọng hưởng thụ mà hệ tư tưởng chính thống Nho giáo đã bóp nghẹt và vắt kiệt trong một xã hội phong kiến kéo quá dài trong lịch sử
Thêm
Nét tiêu biểu liên quan đến Nguyễn Công Trứ
319
0
0
Dàn ý phân tích và văn mẫu phân tích "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ. Đây là một bài thơ hát nối nổi tiếng - kiệt tác của thơ ca dân tộc, và là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách, cá tính sáng tác của Nguyễn Công Trứ. Văn học trẻ đưa tới bài phân tích gồm cả dàn ý chi tiết và văn mẫu để các bạn có tư liệu tham khảo chuẩn xác nhất.

DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI CA NGẤT NGƯỞNG

1. Mở bài
- Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Nguyễn Công Trứ (đặc điểm con người, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác,...)
- Giới thiệu những nét khái quát về bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" (hoàn cảnh ra đời, cảm hứng chủ đạo, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ,...)
- Giới thiệu khái quát bài học được rút ra từ tác phẩm.

2. Thân bài

a. Phân tích bài thơ "Bài ca ngất ngưởng"

* Cảm hứng chủ đạo của bài thơ - "ngất ngưởng"
- Xuất hiện 4 lần trong toàn bộ tác phẩm
- Là một từ láy giàu ý nghĩa:

+ Xét về nghĩa đen: tả độ cao ở trạng thái không vững, chực đổ nhưng không đổ.
+ Trong bài thơ, là lối sống, là thái độ sống của Nguyễn Công Trứ.

* "Ngất ngưởng" khi ở chốn làm quan

- Câu thơ chữ Hán mở đầu đã khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện hướng theo, đây chính là lí tưởng chung của những người đi theo con đường Nho học: trong vòng trời đất không có việc gì là không phải việc của mình.

- Bằng việc sử dụng hàng loạt từ ngữ Hán Việt cùng biện pháp liệt kê, Nguyễn Công Trứ đã khéo léo điểm lại hàng loạt các chức quan, danh vị mà mình đã từng đảm nhiệm, điều đó cho thấy ông là người văn võ song toàn.

→ Việc khoe tài năng, danh vị ấy của Nguyễn Công Trứ không phải là tự cao, tự đại, khoe khoang hợm hĩnh mà nó dựa trên tài năng và sự nghiệp của chính bản thân ông, là cái vỏ bên ngoài để giấu sâu bên trong là một cái tôi ý thức rõ về tài năng, danh vị của bản thân mình

* "Ngất ngưởng" khi đã cáo quan về hưu

- Lối sống khác đời, khác người và có phần trái khoáy:

+ Con bò vàng đã được nhà thơ "trang sức" cho nó bằng đạc ngựa.
+ Vãn cảnh chùa còn mang theo một cô gái đẹp đến nước bụt cũng phải chào thua.

- Có quan niệm sống rõ ràng, không quan tâm đến chuyện được - mất, khen - chê: Với ông, giữa được và mất, khen và chê không biết cái nào hơn cái nào

- Ông đã lựa chọn cho mình một lối sống tự do, được thỏa chí làm những việc mình muốn: Coi trọng hiện tại, hiện thế và biết thưởng thức những thú vui có trong cuộc đời như thú hát cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình.

→ Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ đã vượt ra ngoài vòng cương tỏa nhưng ông vẫn luôn là một bề tôi hết mực trung thành.

b. Những bài học rút ra cho bản thân từ bài thơ "Bài ca ngất ngưởng"

- Cần ý thức được vai trò, vị trí của bản thân trong cuộc sống và ý thức rõ ràng về tài năng của chính mình
- Có một quan niệm sống, lí tưởng sống đúng đắn, phải biết vượt ra khỏi cuộc sống tù túng, tẻ nhạt để sống một cuộc sống giàu ý nghĩa.
- Không được sống nhỏ nhen, ích kỉ, chỉ biết quan tâm đến chuyện được, mất, khen, chê của mình mà quên đi những người xung quanh.

3. Kết bài

Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ, bài học rút ra cho bản thân và nêu cảm nghĩ của bản thân.



PHÂN TÍCH BÀI CA NGẤT NGƯỞNG - NGUYỄN CÔNG TRỨ
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan. Vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”.


Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm “Hàn nho phong vị phủ”, và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những bài thơ hát nối kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ dôi tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hắt nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.

Nguyễn Công Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triểu Nguyễn. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật vể cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào vể tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.

“Ngất ngưởng” nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nên hiểu “ngất ngưởng” là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cả niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.

Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng tài trai. Rất trang trọng và hào hùng: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” — mọi việc trong vũ trụ chằng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng đinh tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: “Vũ trụ giai ngô phận sự” (Những việc trong vũ trụ đểu thuộc phận sự của ta )

- Nợ tang bồng; “Vũ trụ chức phận nội” (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta – Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy, chính vì “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ “lồng” trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. “Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa cái nơi chật hẹp, tù túng trái với cái tài đội trời đạp đất của ông” (Lê Trí Viễn). Có người lại giải thích: “lồng là trời đất, vũ trụ”. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: “Đã mang tiếng ở trong trời đất”, hoặc “Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn” (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có vào lồng vũ trụ thì mới có ý chí đua tranh, như ông nói:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.


Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, “tài bộ” mình, chí nam nhi của mình mang tầm vốc vũ trụ.

Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cừ, ông dám thí thố với thiên hạ: “Cái nợ cẩm thư phải trả xong”. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lẫy lừng “Làm nên đấng anh hùng đâuu đấy tỏ” (“Chí anh hùng”). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bời có văn võ toàn tài, bởi có “gốm thao lược”, và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành “tay ngất ngưởng”, một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2), ba lần điệp lại chữ “khi” đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phí thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:

“Khi Thủ khoa! khi Tham tán ! khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược ! đã nên tay ! ngất ngưởng”.

Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: “Bình Tây cờ Đại tướng”. Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm “Phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: “Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục”. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ vể trí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):

“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”.


Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào “ngựa ngựa xe xe” nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với “miệng thế”. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ đề vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:

“Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng nhàn.
Lợm mùi giáng chức với thăng quan.
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian”.


Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng — “tay kiếm cung” — thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị “nên dạng từ bi”. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi dì”, nhũng nàng hầu xinh đẹp với “gót tiên đủng đỉnh”…

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…”


Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào gợi ít nhiều hóm hỉnh. Bụt cười, hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện “được, mất” là lẽ đời, như tích “Thất mã tái ông” mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào cá tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng, phong tình và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện “được, mất”, bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách nhi nhiên, hổn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong “Bài ca ngất ngưởng”:

“Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng /
Không Phật / không Tiên / không vướng tục”.


Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hoà thanh (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp (khi… không..,) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hoà quyện trong những vẩn thơ đẹp như thế! Đúng là ngất ngưởng mà tài hoa, tài tử.

Khổ xếp của bài hát nói chỉ có 3 câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có 6 từ. Nên ghi đúng như văn bản ‘Tuyến tập thơ ca trù” – NXB Văn học 1987 mớí đúng thi pháp:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”


Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹn “nghĩa vua tôi”. Ông đã viết trong bài “Nợ tang bồng”:

“Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.


Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng “ông” đĩnh đạc, hào hùng: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”. Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải “vẹn đạo vua tôi” mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục”, cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.

Cái nhan đề, thi đề “Bài ca ngất ngưởng” của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất “ngông”. Một đằng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.

Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn.

Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hoà nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. “Bài ca ngất ngưởng” đích thực là “Bài ca từ đáy lòng” của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.

Xem thêm: Các bài viết về Bài ca ngất ngưởng" - Nguyễn Công Trứ
Thêm
561
0
1
Nguyễn Công Trứ là một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác. Thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc. "Bài ca ngất ngưởng" là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ.
Để hiểu hơn chúng ta cùng đi tìm hiểu
"Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ nhé!

5974


Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ

Bố cục
- Phần 1 (6 câu thơ đầu): quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan
- Phần 2 (10 câu thơ tiếp): quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu
- Phần 3 (còn lại): quãng đời khi cáo quan về hưu

Câu 1 (39 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Ngất ngưởng từ láy tượng hình vốn được dùng sự vật ở độ cao chênh vênh, bất ổn định

- Từ ngất ngưởng được dùng chỉ sự khác thường, vượt lên dư luận
- Nhan đề được nhắc lại 4 lần trở thành biểu tượng, phong cách sống, thái độ sống vượt thế tục, thách thức xung quanh dựa trên sự tự ý thức, tài năng, nhân cách cá nhân:

+ Chỉ sự thao lược, tài năng, phong cách ngạo nghễ khi làm quan của tác giả
+ Chỉ sự ngang tàng của ông khi làm dân thường
+ Khẳng định cái chơi ngông hơn người
+ Tác giả hơn người vì dám coi thường công danh, phú quý, coi thường dư luận, không bị ràng buộc

Câu 2 (trang 39 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Nguyễn Công Trứ biết làm quan là mất tự do nhưng ông vẫn làm quan vì:

+ Ông muốn thể hiện tài năng, hoài bão của bản thân
+ Ông quan niệm bản thân đã cống hiến hết tài năng, nhiệt huyết nên ông có quyền ngất ngưởng nhất so với các quan trong triều

→ Ngất ngưởng thực chất là phong cách sống tôn trọng trung thực, cá tính, không chấp nhận “khắc kỉ phục lễ” uốn mình theo lễ và danh giáo của Nho gia

Câu 3 (trang 39 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Nguyễn Công Trứ đã tự kể về mình, tự thuật, tự đánh giá về bản thân

+ Giọng điệu tự thuật khảng khái, đầy cá tính
+ Ông ý thức được rõ ràng tài năng, phong cách sống của bản thân
+ Ông tự hào vì có cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội
+ Ông tự hào vì dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó của lễ và danh giáo

Câu 4 (trang 39 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Nhiều nhà thơ, nhà chính trị nổi tiếng dường như đều gửi gắm tâm sự của mình nói

+ Thể loại hát nói nhanh chóng trở thành thể loại chiếm được vị trí độc tôn, trở thành một khuynh hướng văn học
+ Hát nói có những ưu điểm về sự phóng khoáng thích hợp với việc truyền tải quan niệm nhân sinh mới mẻ của tầng lớp nhà nho

Luyện tập
Sự khác biệt:
+ Ngôn ngữ bài ca ngất ngưởng phù hợp với nội dung, phong cách của Nguyễn Công Trứ tự do, có chút ngạo nghễ
+ Ngôn ngữ bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thấm đẫm ý vị thiền, say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước

Xem thêm tại: https://forum.vanhoctre.com/forums/bai-ca-ngat-nguong-nguyen-cong-tru.298/
Thêm
"Bài ca ngất ngưởng" - Nguyễn Công Trứ
596
0
0
Tác giả Nguyễn Công Trứ điều giá trị nhất trong thơ văn Nguyễn Công Trứ đã tuyên dương một lí tưởng sống tích cực. Thơ văn của Nguyễn Công Trứ cũng chỉ nhằm cho sự nghiệp kinh bang tế thế của ông. Vì thế, nhà thơ ít chú trọng gia công nghệ thuật nên thơ của ông có cái mộc mạc, nôm na.

Bài viết này, người viết giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ: Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác. Hy vọng, bài viết này sẽ là tài liệu tốt để các bạn tiếp cận với những tác phẩm của ông. Đặc biệt tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" - Nguyễn Công Trứ Ngữ Văn 11.

5482

Giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ​

1. Tiểu sử

- Nguyễn Công Trứ sinh năm 1788, mất năm 1858, thọ 81 tuổi. Ông lấy biệt hiệu là Hy Văn. Ông quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Thân sinh là Nguyễn Công Tấn, giữ chức quan nhỏ dưới triều Lê. Khi Tây Sơn ra Bắc, ông chống lại Nguyễn Huệ lên ngôi ông không chịu ra làm quan mà trở về quê hương mở trường dạy học. Gia đình Nguyễn Công Trứ vì vậy cũng sa sút và nghèo đi.

- Nguyễn Công Trứ là người thích lối sống tự do, phóng khoáng. Ông cũng là người có tài, ham học, có chí và rất hăm hở trong việc lập danh. Ông đi thi rất nhiều lần, trượt vẫn không nản, 41 tuổi mới đậu giải nguyên, 42 tuổi mới ra làm quan (chức hành tẩu ở Sứ quán).

- Con đường làm quan của ông dưới triều Nguyễn có nhiều thăng trầm, có lúc làm tướng, làm tôíng đốc Hải An nhưng có lúc phải làm một anh lính ở biên cương. Trong thời gian 28 năm làm quan thì ông bị đến năm lần giáng chức và cách chức.

* Cảm nhận về tác giả Nguyễn Công Trứ: Trong cuộc đời làm quan của Nguyễn Công Trứ có hai điểm đáng chú ý:

- Ông là người kiên quyết bảo vệ trật tự xã hội phong kiến vì thế ông có nhiều công trạng đối với nhà Nguyễn trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa (chủ yếu là của nông dân) chống lại triều đình.

- Ngược lại trong thời gian làm Dinh điền sứ ở Thái Bình và Ninh Bình ông đã chiêu mộ nông dân lưu vong ở các nơi đến để khai khẩn đất hoang ở hai tỉnh này và đã lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình).

Hai việc làm này mới nhìn vào có vẻ trái ngược nhau nhưng trong thâm tâm, trong nhận thức bao giờ Nguyễn công Trứ cũng đinh ninh rằng việc làm của ông là trên vì vua, dưới vì dân.

2. Sự nghiệp sáng tác

- Sáng tác của Nguyễn Công Trứ hầu hết bằng chữ Nôm và bị thất lạc nhiều. Hiện nay sưu tầm được khoảng 150 bài gồm thơ, ca trù, phú.

- Ngoài ra ông còn có một số tác phẩm thơ văn chữ Hán.

- Thơ văn ông bao hàm nội dung khá phức tạp, kết tinh trạng thái ý thức của một thế hệ nhà nho như Nguyễn Công Trứ. Nhưng tổng quát, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính:

+ Chí nam nhi.

+ Cái nghèo và thế thái, nhân tình.

+ Triết lí hưởng lạc.

Kết luận: Giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ, người viết đã tóm tắt tác giả Nguyễn Công Trứ về khía cạnh tiểu sử và sự nghiệp sáng tác. Xen kẽ vào đó là những cảm nhận về tác giả Nguyễn Công Trứ: Con người của ông là con người hành động, ý thức được tài năng và phẩm chất của mình. Ông rất kiên trì trong việc sáng tác chữ Nôm. Nhà thơ thành công nhất với thể ca trù, ông nâng nó thành một thể thơ dân tộc độc đáo.
Thêm
Tác giả Nguyễn Công Trứ
706
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top