Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Nếu như Xuân Diệu tiếp thu những cái hay của văn học phương Tây hiện đại thì Nguyễn Bính lại trở về với những hơi thở của ca dao của những gì gọi là truyền thống. Cái “tôi” của Nguyễn Bính luôn là cái tôi bất an, một tâm hồn tha thiết với những giọt cổ truyền của dân tộc đang nguy cơ mai một trước sự âu hóa của đô thị thị dân. Đặc biệt ông mang cái truyền thống ấy vào trong sáng tác của mình. Tiêu biểu trong những bài thơ mang đậm hồn quê dân tộc ấy phải kể đến tác phẩm tương tư. Có thể nói tác phẩm ấy mang đậm màu sắc dân tộc Việt Nam. Cùng tới với bài Phân tích chất dân gian trong bài Tương Tư của Nguyễn Bính để thấy rõ được màu sắc dân tộc đã được Nguyễn Bính vận dụng nhuần nhuyễn như thế nào.

Bài văn đạt điểm cao nêu cảm nhận vẻ đẹp dân gian trong bài thơ Tương tư​

Trong khi hầu hết các nhà Thơ mới – theo nhận xét của Hoài Thanh “đều đội lên đầu dăm bảy nhà thơ Pháp” thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hóa dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò , cây đa, bến nước…. Ông đã trở thành “chủ soái” của trường phái “thơ mới dân gian” gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà Thơ mới khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu song không mãnh liệt, dữ dội như tình yêu trong thơ Xuân Diệu, không tang thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Bài thơ “Tương tư” rất tiêu biểu cho hồn thơ và giọng thơ Nguyễn Bính trong lĩnh vực thơ tình. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nét truyền thống và hiện đại, vừa chứa những nét dân gian chân chất vừa mang trong mình cái hồn thơ mới.

Trong dòng Thơ Mới 1930-1945 , ”Tương tư” của Nguyễn Bính có phong cách cổ điển dân dã ở cả thi liệu, thể thơ, đề tài. Nếu như thơ Xuân Diệu mới lạ trong màu sắc phương Tây, Hàn Mặc Tử siêu thực trong thơ Điên… Nguyễn Bính tinh ròng chất ca dao. Nét truyền thống trước hết thể hiện ở ngay thể thơ- thể lục bát, đây là thể thơ truyền thống do người Việt Nam sáng tạo nên. Nguyễn Bính vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp chẵn 2/2/2; 2/4( câu lục ) và 2/2/2/2; 4/4 (câu bát) thường thấy của ca dao:

“Thôn Đoài / ngồi nhớ / thôn Đông
Một người / chín nhớ / mười mong / một người”


Về đề tài, bài thơ là nỗi nhớ, tương tư trong tình yêucủa chàng trai dành cho người con gái. Đây là đề tài thường thấy trong ca dao.

Nhớ ai khổ sở thế nầy
Nhớ ai, ai nhớ, đêm ngày nhớ ai
Nhớ ai, ai có nhớ ai
Nhớ sao da diết, biết có ai nhớ mình

(ca dao)
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt

(ca dao)

Thơ lục bát của Nguyễn Bính cũng rất tự nhiên, mượt mà, không gò ép nhưng cũng không rơi vào diễn ca, vần vè, dễ dãi. Bởi thể lục bát dường như đã nhuyễn vào hồn thơ Nguyễn Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết thì Nguyễn Bính làm thơ lục bát rất dễ dàng: “Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi”. Đọc thơ Nguyễn Bính, ta như được thưởng thức những khúc nhạc êm dịu của ca dao:

Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành;
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.


Phát huy nhịp điệu trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguyễn Bính đã tạo nên những dòng thơ lục bát rất hay, mang đậm phong cách thơ “ chân quê”:

Về ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Bính không cầu kì khuôn sáo mà gần gũi, chân thành. Ta nghe như có tiếng trách móc nhẹ nhàng đáng yêu của một chàng trai với người mình thương:

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Hay những lời kể chân chất:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.


Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn giầu, hàng cau, mái đình, của làng quê Việt Nam thân quen, gần gũi.

Một điều đáng chú ý nữa là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca dân gian đã hòa hợp vào “Tương tư” của Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những cụm từ phíếm chỉ tôi- nàng, Thôn Đoài – thông Đông, bên ấy – bên này, bến – đò, hoa – bướm cùng đại từ phiếm chỉ “ai” rất tế nhị, khó xác định chính xác đối tượng nhưng cũng rất dễ vận vào bất cứ người nào, làm tăng khả năng khái quát tâm trạng điển hình của nhiều người, tăng khả năng đồng cảm giữa những con người khác nhau. Nguyễn Bính đã làm người đọc phải suy nghĩ vấn vương bởi những câu có từ mờ nghĩa:

“ Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai biết, ai người biết cho
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”


– Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả dùng hình ảnh “ hoa- bướm” (hoa khuê các, bướm giang hồ), “trầu- cau” (giàn giầu/ hàng cau liên phòng), “bến- đò” (Bao giờ bến mới gặp đò).

Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian, “chín nhớ mười mong” được hoán cải từ thành ngữ ” chín nhớ 10 thương” từ thành ngữ để chàng trai bộc lộ nỗi niềm riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp người, tình yêu không được đền đáp, thậm chí người ta còn chưa biết nên sinh ra nỗi tương tư. Do đó, từ ngữ không còn ý nghĩa thường có của chúng bởi vì chính khi tư duy theo kiểu đan lồng những từ tương hợp thì ý nghĩa của từ đã được nhân lên gấp bội:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”


Lối đan chữ “chín nhớ mười mong” đã làm tăng nỗi nhớ mong thấp thỏm của chàng trai đang trong trạng thái “ tương tư”.

Nét hiện đại​

Trong bài thơ, chất dân gian vẫn không lấn át được những tình điệu lãng mạn vốn là sản phẩm đặc thù của thời đại Thơ mới. Nét hiện đại thể hiện rõ nét qua nhịp điệu, hình ảnh và đặc biệt là cảm xúc – tình cảm cá nhân được bộc lộ trực tiếp.

Trước hết ở nhịp điệu Nhịp điệu:​

Vì mang hơi thở của cái tôi Thơ Mới, lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hoà của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh động diễn tả tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Tác giả sử dụng kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát làm cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nhịp thơ ngắt bất ngờ tạo sự xuất hiện đột ngột của tình huống:

Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các,/ bướm giang hồ /gặp nhau.


Hay sự ngắt nhịp 3/3 trong câu lục biểu thị nỗi chờ đợi mòn mỏi của chàng trai:

Ngày qua ngày/ lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.


Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truyền thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, Nguyễn Bính đã tạo cho thơ lục bát của ông những dấu ấn riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại những xúc cảm mới mẻ cho người đọc.

- Về việc sử dụng hình ảnh,​

Nguyễn Bính không phải là nhà thơ gây ấn tượng đối với người đọc bằng những hình ảnh mới lạ như những nhà Thơ Mới khác như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao với những giàn giầu, hàng cau, làng xóm…nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của Thơ Mới. Trong ca dao hay thơ trung đại, các tác giả lấy thiên nhiên làm cái cớ, ẩn chứa trong đó lí do, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai – cô gái:

“Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ bóng thuyền em sang”
“Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ
Anh quá thương nàng, trối kệ thị phi”


Còn trong thơ Nguyễn Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình và thiên nhiên, các hình ảnh thơ để tạo không gian nhân vật sống, không gian quen thuộc nuôi dưỡng tình cảm của nhân vật trữ tình:

Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng


Sự thực trong câu thơ đã len vào thứ giọng đậm chất thành thị của con người thời Âu hóa với đặc điểm dám gọi đích danh sự vật hiện tượng, sự vật, dám chường cái tôi của mình ra mà giãi bày – một lời giãi bày trần trụi, táo bạo và mãnh liệt. Ngay ở tên nhan đề bài thơ cũng đã thể hiện rõ ràng : “tương tư” – nó như phô bày, như khoe lòng mình trước thiên hạ rằng tôi đang yêu, tôi đang nhớ. Điều này là một sự hiếm thấy trong ca dao.

“Tương tư” của Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung truyền thống của dân tộc nhưng nét mới nhất là nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Bên cạnh đó đó ông đã thổi “ hồn quê” vào bài thơ. Điều này đã làm cho tác phẩm có diện mạo riêng so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Thơ Mới. Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát Nguyễn Bính là thứ hồn quê mang màu sắc cá nhân. Cũng mang “hồn quê” nhưng lục bát ca dao nó mang tính phổ quát còn trong thơ lục bát của Nguyễn Bính, không gian đồng quê được phủ lên cái tâm tư của con người hiện đại. Bài thơ vừa là sự kết hợp , kế thừa của những yếu tố truyền thống vừa có những nét mới, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.

Xem thêm:
Nguyễn Bính - người giữ hồn quê
Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính

Cảm nhận bốn câu thơ cuối bài "Tương tư" - Nguyễn Bính
Baivanhay Bình giảng bài Tương tư

Phân tích chất dân gian trong bài Tương Tư của Nguyễn Bính - Bài mẫu 2​

Thơ Nguyễn Bính mang màu sắc dân gian, khơi gợi cho ta ít nhiều về hồn xưa đất nước, quy tụ trong những câu thơ mộc mạc, giản dị mà thấm đẫm nghĩa tình.

Tương tư là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ là xúc cảm nhớ nhung, tha thiết của chàng trai chân quê với nhiều cung bậc phong phú, đẹp đẽ, thắm đượm màu sắc dân gian, hồn quê ấm áp. Màu sắc dân gian đã tạo bầu không khí thôn quê cho thi phẩm nhưng đồng thời cũng là nét đặc trưng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính.

Một tác phẩm mang đậm màu sắc dân gian là tác phẩm mang tình cảm truyền thống cũng như phương thức thể hiện thường được bắt gặp ở ca dao, dân ca. Ca dao dân ca là chuỗi ngọc trong sáng vô ngần của người lao động bình dân. Nó thấm đẫm cách cảm, cách nghĩ của người lao động

Bài thơ tương tư trước hết là một sản phẩm của nền Thơ mới. Khi tung phá bức màn ước lệ để nhìn thẳng vào cái tôi cá nhân của mình, Thơ mới thoát ra như một tiếng ca chân thật, phong phú, mặc sức phô bày không hề giấu giếm. Nhiều nhà thơ chọn viết về đề tài tình yêu như Nguyễn Bính luôn hướng ngòi bút vào chiều sâu thẳm, huyền bí của cõi thơ này.

Thế nhưng, Nguyễn Bính đã có một hướng đi khác. Nói rằng ông có một hướng đi khác lạ thật là không phải bởi ông chưa từng rời đi. Nói ông đã có những sáng tạo vượt bậc cũng không phải bởi ông chưa từng phá vỡ thi pháp vốn có trong ca dao. Thơ ông không phải là cái tình thoảng qua, cũng chẳng phải là tình thiên thu. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính nằm ngay trong đời sống dân tộc được phản ánh sâu sắc trong ca dao trong mấy nghìn năm qua. Thơ ông chứa đựng cái hồn bình dị của dân tộc.

Mở đầu bài thơ, là lời tâm tình của chàng trai:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.


Một nỗi niềm nhung nhớ, tương tư ấy vậy mà lắm cung bậc đẹp đẽ. Giọng kể tâm tình vừa tự nhiên lại vừa hết sức kín đáo. Rõ ràng là chuyện tôi yêu nàng ấy vậy mà cứ vòng vo không nói nên lời. Đó chính là cái tình trong sáng, thánh thiện mà ta thường bắt gặp trong ca dao dân ca:

“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhận thì cho anh xin”.

(Ca dao)

Nào phải là chuyên quên chiếc áo mà đó chính là cái cớ để gặp gỡ, để chuyện trò, thổ lộ tâm tình. hay một cách tỏ tình khác đẹp đẽ, tinh tế hơn:

“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”


(Ca dao)

Hình ảnh chàng trai ẩn mình trong biểu tượng “thôn Đoài”. Tình cảm cũng được che giấu tế nhị: “ngồi nhớ”, không hề vồ vập hay lộ liễu. Người xưa là thế, nhẹ nhàng, kín đáo mà đắm say, nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”. Tiếp đến, chàng trai tiện lời tỏ bày sau khi đã viện cái cớ:

“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”


Lời thơ như trách móc nhưng kì thực là để gợi mở, mời gọi bước chân thôn nữ tìm đường sang chơi. Đây cũng là cái cớ để trò chuyện, đưa lời, hỏi đáp. Chắc chắn rằng, cô gái ấy đã thấu hiểu tâm tình của chàng trai. Chân đã muốn tìm đường sang mà ngại đường chưa tỏ lối. Lí ra, chàng trai sẽ chủ động hơn nhưng trong lòng còn nhiều e ngại, chưa rõ nguồn cơn để mạnh lời hơn nữa, đành kín đáo gửi lời theo gió theo trăng:

“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”


Tưởng rằng chàng trai đang nói với cô gái nhưng kì thực đây là một đoạn độc thoại tự vấn. Nỗi niềm đau đáu trong lòng không thể giãi bày, muốn tìm một lời giải đáp để xóa tan u uẩn. Thời gian đằng đẵng trôi càng làm cho tình yêu trong lòng cuộn cháy, thôi thúc không nguôi mà lòng người xa còn đang mờ mịt. Có một chút oán trách nhưng nào lỗi tại ai. Chàng trai không dám trực tiếp ngỏ lời e rằng như thế là thô lỗ. Càng giấu giếm trong lòng nó càng cào cấu dữ dội. Tưởng chừng, niềm thôi thúc ấy sẽ là nguồn sức mạnh mãnh liệt đưa bước chàng trai tìm sang thôn Đông. Nhưng không, chàng quyết định im lặng và chỉ tìm gặp nhau trong mộng tưởng:

Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?


Mãi mãi, tình yêu thầm kín được chôn giấu trong lòng. Tình yêu ấy biến thành khát vọng đẹp và suốt cuộc đời chỉ là niềm khao khát xa vời mà thôi:

“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”


Đọc thơ Nguyễn Bính thấy nhẹ nhàng và thanh lọc tâm hồn. Mỗi câu thơ đưa ta trở về với hồn xưa đất nước. Bởi lẽ dù viết về chuyện tình yêu dù hợp duyên hay trắc trở, tất cả đều đặt trong không gian vườn tược của làng quê tươi xanh, tràn trề sức sống. Màu sắc dân gian của bài thơ Tương tư toát lên từ chính khung cảnh làng quê bình dị, tĩnh lặng và thân thuộc. Đó chính là phong nền cho tình yêu lứa đôi nảy nở. Thơ Nguyễn Bính có sự vận dụng linh hoạt lời ăn tiếng nói của dân gian. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, cảm giác như ta đã từng đọc thấy hay nghe được ở đâu đó trong ca dao dân ca.

Cảm nhận về bài thơ Tương tư để cảm nhận sâu sắc và trọn vẹn hơn sự mộc mạc, đậm chất quê trong thơ của Nguyễn Bính Bài văn mẫu 3​


Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về với chất dân ca – điệu thơ dân tộc.

“Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ý hơn cả trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên dáng, mang phong vị ca dao: tác phẩm này đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và một tình người đằm thắm thiết tha. Bài thơ “Tương tư” được in lần đầu trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Bính nói chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng.

Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của những người yêu nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong cả văn chương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã có những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… viết về đề tài này. Và ngay trong làng “Thơ mới” đã có bài “Tương tư chiều” nổi tiếng của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là những thử thách to lớn đối với những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách nói mới.

Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc thái muôn thuở của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ nhung, có trách móc, có giận hờn, và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi chờ…Nỗi niềm tương tư ở đây chưa đến độ cháy bỏng mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu (“Bữa ni lạnh, mặt trời đi ngủ – Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em!”), nhưng cũng thật tha thiết chân thành:

“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.


Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của thiên nhiên thì nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất yếu của những người đa tình, đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này chỉ để thương thầm nhớ vụng. Giữa chàng trai – nhân vật trữ tình – và bạn gái dường như chẳng có cách trở gì về cả không gian lẫn thời gian? Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “một đầu đình”. Cô gái có thể thuận lợi đủ điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn thêm hờn dỗi. Nhưng nào có ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số bài thơ khác của Nguyễn Bính thường nói đến mối tình đơn phương (như trong bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn dỗi kia rõ ràng trở thành vu vơ. Thực ra, những lời nói đó chính là sự tự bộc lộ tâm hồn nhạy cảm, khao khát yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc đời còn những mối tình đơn phương, khi còn những con tim ít tuân theo những quy tắc rạch ròi; thì người đọc cũng không mấy ai nỡ trách Nguyễn Bính đã “tương tư” một cách vu vơ…

Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã được nhà thơ thể hiện một cách mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tôi” có nhu cầu giãi bày, phơi trải được Nguyễn Bính diễn tả một cách trực diện không chút vòng vo:

“Gió mưa là việc của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.


Ngoài ra còn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào lời ăn tiếng nói của người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn tiếng nói ấy xuất hiện một cách tự nhiên mộc mạc, tạo nên không khí dân dã, quê mùa cho toàn bài thơ:

“Hai thôn chung lại một làng,
Có sao bên ấy chẳng sang bên này?
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”


Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng như những nhà Thơ mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của họ trở nên gần gũi với người đọc và nó góp phần phát hiện ra những cái mới mẻ của con người và tạo vật, mà trước đây ít nhiều thi ca bác học chưa làm được.

Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất muôn thuở đã được nhà thơ Nguyễn Bính thể hiện bằng một lời nói hiện đại, mang dấu của thời đại, phản ánh một mảng tâm hồn của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm 30 của thế kỷ này.

Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới mẻ cái “tôi” thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ yếu nó gợi lên được cái “hồn xưa đất nước”, theo cách nói của nhà phê bình Hoài Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm riêng ở chi tiết nào, câu thơ nào mà toát ra từ toàn bộ bài thơ qua hệ thống hình ảnh, lời ví von, cũng như giọng điệu chung.

Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính thành” nói theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta không có trong mình một đôi kỷ niệm về một làng quê Việt Nam truyền thống? Tương tư có khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn người đọc. Trong khi các nhà thơ cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu đậm thơ phương Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ mới những nét đặc sắc, thì Nguyễn Bính lại thành công khi ông tìm về với điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt Nam thân thuộc, với những hình ảnh gần gũi tự ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải hoa vàng, những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt hương thơm, ven đê là ruộng dâu bãi đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng khơi là những cô thôn nữ đôn hậu, quanh năm dệt lụa chăn tằm, trẩy hội, xem chèo,… với trang phục cổ truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm lụa sồi… Ở bài thơ “Tương tư” dường như có một sự kết nối giữa hệ thống hình ảnh đã trở thành ước lệ đối với làng quê Việt Nam.

Ở đó có thôn Đoài, thôn Đông, có con đò và bến nước, có hàng cau và giàn trầu… Ở đó còn có nơi sinh thành và nuôi dưỡng lối thơ lục bát và Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần nhuyễn lối thơ này, cách ví von mộc mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa – bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài… Hệ thống hình ảnh, lối thơ truyền thống với cách ví von ấy đã đánh thức con người nhà quê lâu nay ẩn náu trong lòng độc giả, làm cho họ bồi hồi xao xuyến về một làng quê Việt Nam, một dân tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng.

Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong lối suy nghĩ gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng trôi qua đã được ông cha ta miêu tả qua sự biến đổi của cây lá:

“Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng”.


(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian dựa vào chính sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng những câu thơ dân dã, mộc mạc:

“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.


Đồng thời thiên nhiên còn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung, suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Do sống hoà hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao – dân ca, trai gái quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen – Hồ, Mận – Đào… để giãi bày tình yêu một cách kín đáo vừa duyên dáng, vừa tinh tế. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng triệt để các cách nói ấy mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nếu như ở khổ thơ thứ hai còn có câu dường như lạc hệ thống, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm giang hồ gặp nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài. Ở khổ thơ này “hồn xưa đất nước” toát lên từ cách dùng hình ảnh, cách bộc lộ tình cảm kín đáo, mộc mạc của tác giả. Thay vì lối diễn đạt trực tiếp ở phần đầu đến khổ thơ cuối, Nguyễn Bính dùng lối diễn đạt gián tiếp rất tinh tế, phảng phất chất hương đồng cỏ nội của ca dao thuần khiết:

“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”


Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có lẽ chỉ mình Nguyễn Bính nói đúng được cái hồn quê Việt Nam. Ngày nay ở nông thôn Việt Nam phong cảnh cũng như hồn người đã đổi khác rất nhiều. Thanh niên nam nữ thường thích điệu bộ bò hơn là áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, xe Cub đã thay cho ngựa tía võng điều…

Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn như một dấu tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc thêm phong phú và tươi sáng. Đấy chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà thơ trong bài thơ này nói riêng và trong phần nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trước Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khiến nhiều người yêu thích thơ ông.

(sưu tầm)​
Thêm
716
0
0
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng hỏi rằng: “Cho đến tận hôm nay, có nhà thơ lục bát nào mà nhân dân thuộc nhiều như Nguyễn Bính chưa?!” Câu hỏi đó chính là một sự khẳng định mà không cần câu trả lời, bởi ai nghe cũng biết chắc câu trả lời chính xác. Cùng tới với bài Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính để hiểu thấu những nét đẹp thi ca Nguyễn Bính và hiểu thêm sức sống mãnh liệt trong lòng bạn đọc muôn đời đến từ đâu.

Dàn ý bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

1. Mở bài

Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bính và bài thơ Tương tư:
+ Thơ Nguyễn Bính luôn chất chứa những ý vị sâu sắc, nồng đượm tình quê, chất quê dung dị mà vô cùng gợi cảm, hấp dẫn và thu hút.
+ "Tương tư" là bài thơ điển hình cho tài năng và phong cách của nhà thơ Nguyễn Bính.

2. Thân bài

- "Tương tư" là mối tình đơn phương của một chàng trai thôn Đoài đem lòng mến người con gái thôn Đông.
- Tương tư trở thành căn bệnh khi chàng trai trót mang trái tim trao gửi vào mối tình đơn phương.
- Lỡ đem lòng thương nên nỗi nhớ da diết khôn nguôi "chín nhớ mười mong".
- Tình yêu đâu chỉ có nhớ, có mong thôi đâu, tình yêu còn là những lần trách móc vô cớ, rất gần mà ngỡ rất xa.
- Lòng chàng trai ngày một thiết tha, trăn trở. Nỗi nhớ ấy qua bao tháng ngày từ hạ sang thu vẫn vẹn nguyên và đong đầy.
- Trái tim này đang bồi hồi, thổn thức vì yêu mà bao nhiêu đêm không ngủ.
- Sử dụng hình ảnh này như một sự hy vọng cho mối tình đơn phương được người đáp trả để nên duyên đôi lứa.

3. Kết bài

- Nêu cảm nghĩ về bài thơ: Đến với "Tương tư" nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung, tâm hồn ta như được thành lọc, được trở về với vẻ đẹp chân quê đằm thắm những ân tình, cảm xúc dạt dào, dịu dàng như dòng sữa mẹ khiến ta thêm nâng niu, thêm trân trọng những vẻ đẹp của tình quê, của hương đồng gió nội.

Xem thêm:
Nguyễn Bính - người giữ hồn quê
Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính

Cảm nhận bốn câu thơ cuối bài "Tương tư" - Nguyễn Bính

Bài văn mẫu Bình giảng Tương tư - Nguyễn Bính​

Trong phong trào Thơ mới, Nguyễn Bính đã tạo ra một dòng riêng. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ánh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ánh hưởng của thơ ca dân gian. Nguyễn Bính là thi sĩ đồng quê. "Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình quê tuyệt vời của Nguyễn Bính" (Tồ Hoài). Bài thơ "Tương tư' tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Bính.

Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì Nguyễn Bính theo một lối riêng. Có thể coi bài thơ "Chân quê" là tuyên ngôn thơ của Nguyễn Bính:

"Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều".


Ví như cùng viết về nỗi thương nhớ trong tình yêu mà giữa "Tương tư' của Nguyễn Bính và "Tương tư chiều" của Xuân Diệu khác nhau biết mấy! Xuân Diệu thì rất Tây mà Nguyễn Bính thì "chân quê", cả hai đều có sức hấp dẫn riêng.

Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà lặn xuống tan hoà vào không gian của đồng quê bằng thủ pháp nhân hóa như trong ca dao. Hãy nghe mấy lời mở đầu bài "Tương tư:

"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".


Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã. Từng chữ thơ đều có dây mơ rễ má với thơ ca dân gian. Các cụm từ "ngồi nhớ "chín nhớ mười mong" gợi nhớ câu ca dao:

"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than".


Nguyễn Bính thích lối cụ thể hoá cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:

"Một người chín nhớ mười mong một người"

"Một người" đứng ở hai đầu câu thơ, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy thật là hay!

Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất:

"Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".


Thanh niên từ Nam chí Bắc đều nhớ những câu thơ này vì đã nói hộ cho họ rất nhiều, thậm chí họ không biết đó là thơ của Nguyền Bính, họ nhớ như nhớ ca dao, họ thốt lên như từ cõi lòng mình. Đó là vinh quang của thi sĩ, vinh quang của Nguyễn Bính.

Nhớ mong đơn phương là "quyền được yêu" của con người, nhưng sao lại trách móc? Tinh yêu phi lí như thế đấy:

"Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này".


Thật là tội nghiệp cho người trách và cũng tội nghiệp cho người bị trách. Nàng "thôn Đông" đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng "thôn Đoài".

Cái "chung" đã không chung được thì thời gian càng đằng đẵng, nỗi chờ mong càng vò võ: ,

"Ngày qua ngày qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".


Lối láy chữ "ngày qua ngày lại..." như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của một thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết "mùa qua mùa lại..." mà phải viết "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng" thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đã đến vàng vọt cả "lá xanh" (hay là tuổi xanh?)

Rồi lại kiếm cớ để mà trách:

"Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đinh,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?"


Tương tư như thế chẳng khác chi chàng trai tương tư trong ca dao "Lá khoai anh ngỡ lá sen, - Bóng trắng anh tưởng bóng đèn anh khâu". Nhưng không phải chỉ có người tình phương Đông mới yêu phi lí như vậy, người tình phương Tây yêu có khác gì. Anh chàng Phê-lít Ác-ve (Félix Arvers) yêu một thiếu phụ đoan trinh, yêu đơn phương, đau đớn và tuyệt vọng trong bài Xon-nê (Sonnet) bất tử:


"... Người nào ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Nào ngờ chân đạp lên trên mối tình..."


Chao ôi, mỗi bước chân lãng đãng của nàng đã giẫm lên mối tình của chàng thi sĩ mà nàng nào có hay!

Hết trách móc (trách yêu thôi) lại kể lể nào nề:

"Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho".


Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có "ai" biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Nhưng từ ai phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ "ai" gợi nhớ những từ "ai" trong ca dao: "Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai". Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng:

"Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?".


Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng Bến và Đò, Hoa và Bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như Bến, Hoa ám chỉ người con gái, biêu tượng động như Đò, Bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại "Bao giờ bến mới gập đò?" Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch! Cho nên cứ trách "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này", rồi "Không sang là chẳng đường sang đã đành", rồi "tình xa xôi". Lại nữa "hoa khuê các" làm sao gặp "bướm giang hồ"! Rõ ràng Nguyễn Bính đã thổi vào Hoa - Bướm của dân dã một chút tình làng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa bó cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút "khó hiểu của thời đại" (Hoài Thanh). Trong thâm tâm, Nguyễn Bính đã cảm nhận được cuộc tình của đôi lứa không thể hoà hợp, gắn bó, bền chặt được.

Kết, bài thơ trở về với giai điệu ban đầu, có thêm một vài biến tấu:

"Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"


Giai điệu ban đầu "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu - cau, nhưng cũng chỉ nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao "đỏ với nhau" được (Miếng trầu với lại quả cau - làm sao cho đỏ với nhau thì làm - Ca dao) thành ra "tương tư'. Mà tương tư đơn phương gọi đúng tên là thất tình. Đúng đấy là bài Thơ Thất tình của Nguyễn Bính.

Nguyễn Bính là ca sĩ của đồng quê. Trong khi ngọn gió nghệ thuật phương Tây ào ào thổi tới, Nguyễn Bính vẫn một mực giữ lấy chút "hương đồng gió nội" cho thơ minh. Với tài hoa và tâm huyết, với nghệ thuật dân tộc, Nguyễn Bính đã thành công. Thơ Nguyễn Bính thành ra lạ so với trường phái thư lãng mạn đương thời. Sức hấp dẫn của "Tương tư không chỉ là ở chuyện tình yêu lứa đôi mà còn ở tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, với người với cảnh, ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc, ở lối tư duy thơ đậm màu sắc dân gian. Có thể nói hồn quê chính là hồn thơ "Tương tư mà cũng là hồn thơ Nguyễn Bính. "Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn Bính và cũng chưa phân biệt được đâu là chút lòng mộc mạc thiết tha của người làm thơ, đâu là cái hoa hoà hoa sói của chàng trai quê ra tỉnh. Rồi mỗi khi gặp chính trong cuộc sống khốn khó hàng ngày tưởng như chẳng liên quan gì đến những bài thơ quê hương đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại nghĩ ra ý nghĩa sâu thảm của mỗi câu thơ với quê hương" (Tô Hoài).

Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính mẫu 2​

Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ viết về đề tài khá quen thuộc trong đời sống và văn chương: sự tương tư, tức một trạng thái tình cảm nam nữ khi yêu nhau, hoặc phải xa cách, hoặc không được đáp lại. Nhà thơ lại sáng tác bằng thể thơ cũng rất quen thuộc - lục bát.

Song, để bài thơ có thể sống dài lâu trong lòng bạn đọc không phải là chuyện dễ. Tương tư của Nguyễn Bính vừa có vẻ thân quen như một làn điệu dân ca khiến bao người thuộc lòng. Thậm chí trở thành một bài hát ru em, vừa mang tâm tình mới của thanh niên thời bấy giờ. Nói cách khác, Tương tư cũng như rất nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính trước năm 1945, đậm đà chất dân tộc, trong điệu tâm hồn, cả trong lối diễn đạt, nhưng lại là tiếng thơ của một thời đại mới. Vì thế, khi bình giảng cần biết rằng Tương tư là nỗi nhớ, là tâm trạng của một chàng trai đối với một cô gái. Cô gái ấy vô tình, hay hữu ấy không biết nỗi lòng ấy. Tình cảm của chàng trai rất đỗi tha thiết. Tương tư là một thứ bệnh của tình yêu. Chàng trai ấy đang mang bệnh đó. Anh ta buồn, anh ta nhớ, anh ta thao thức và cả trách móc nữa. nhưng là sự trách móc của một người đang yêu nên cũng rất đáng yêu:

Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?


Khi bình giảng lại lần theo tâm trạng đó. Tuy nhiên, không phải là sự diễn xuôi, kể lại (vì có gì đáng kể đâu) mà để thấy từng cung bậc tình cảm trong trái tim chàng trai đang tương tư.

Tương tư là bài thơ tình yêu, bài thơ diễn tả nỗi tương tư. Thành công của nó ở chỗ bao tâm hồn đã tìm thấy ở đó sự đồng điệu, tiếng thơ. Điều này tưởng chừng bình thường, đơn giản, song thật ra không phải ai cũng làm được. Nhiều bài thơ tuy rất hay, rất nổi tiếng, nhưng người ta nhận ra trước hết đó là nỗi lòng rất đơn chiếc của một người, và nếu có chỉ là tiếng lòng rất người, một bộ phận tương đối hẹp nào đó. Chẳng hạn:

Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh sầu khổ
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân.

(Lưu Trọng Lư - Một mùa đông)

Hoặc:

Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng
Mà sầu trong dạ đã mang mang
Tình yêu như bóng trắng hiu quạnh
Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.

(Lưu Trọng Lư - Một chút tình)

Thơ Nguyễn Bính, ở Tương tư, cũng như nhiều bài thơ khác, không phải vậy. Rất đông thanh niên, nhất là những người bình thường, thời bây giờ và sau đó nữa, tìm thấy sự đồng điệu ở thơ ông. Có được như vậy, trước hết là do thơ Nguyễn Bính có nhiều hình ảnh quen thuộc của thế giới ruộng đồng, dân dã (ở bài thơ này là bướm, hoa, thôn Đoài, thôn Đông, đình làng, bến đò, hàng cau, giàn trầu...) Dường như tiếng nói trong thơ Nguyễn Bính được cất lên từ chính thế giới thân thuộc đó, là một phần của thế giới ấy, chứ không là sự vay mượn. Thành ra lối diễn đạt cũng thế. Nó mang dáng vẻ mộc mạc, chân thành, bình dị (Ngày qua ngày lại qua ngày/ Bao giờ bến mới gặp đò?/ Nhà em có một giàn giần..) Và dĩ nhiên, đây là hình thức thể hiện của một ai khác, sâu xa hơn, ở thơ Nguyễn Bính, đó chính là chân quê, hồn quê thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Chính cái tình, cái hồn ấy làm nên sự quen thuộc, gần gũi và thân thiết của thơ Nguyễn Bính đối với bao người Việt Nam, dù ở bất cứ thời đại nào.

Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính mẫu 3​

Trước Nguyễn Bính 150 năm, Nguyễn Công Trứ thuở "hàn nho" đã có lần viết:

"Tương tư không biết cái làm sao
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào... "

("Tương tư")

Xuân Diệu - Ông chúa thơ tình - người đồng thời với thi sĩ Nguyễn Bính cũng có bài "Tương tư chiều" (Thơ thơ - 1938) nồng nàn thương nhớ:

"Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm".


Năm 1939, Nguyễn Bính viết "Tương tư" in trong tập "Lỡ bước sang ngang” xuất bản tại Hà Nội, năm 1940. Với 20 câu thơ lục bát, Nguyễn Bính đã có một cách nói riêng về nỗi nhớ, nỗi buồn tương tư. Chàng trai đa tình, mơ mộng khắc khoải chờ mong và thương nhớ cô gái "chung làng" với một tình yêu chưa được đáp đền... nên mới tương tư như thế. Nỗi tương tư buồn dịu ấy được đặt vào một khung cảnh bình dị đáng yêu trong hương đồng gió nội thuần khiết, trong sáng như một mối tình dan díu xưa cũ trong bài hát giao duyên thuở nào.

Có yêu lắm nhớ nhiều nên mới tương tư. Yêu lắm nhớ nhiều. mà không được "người tình" đáp lại, không được gặp mặt người yêu... thì mới tương tư, mang nỗi buồn tương tư. "Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều - Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang" ("Truyện Kiều" - Nguyễn Du).

Khổ thơ đầu nói lên nỗi "nhớ", nỗi "mong” của kẻ đang yêu, nỗi nhớ mong đầy ắp trong lòng, đã thành "bệnh" bởi lẽ "tôi yêu nàng":

"Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
"Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".


Chữ "tôi" xuất hiện trong bài thơ thật đáng yêu. Thôn Đoài với thôn Đông là nơi nhà "Nàng" và nhà Tôi" đang ở. Cách sử dụng hoán dụ - nhân hóa kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ - vị ngữ “chín nhớ mười mong" làm cho lời thơ trở nên hình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. Nỗi "chín nhớ mười mong một người" không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Yêu nàng tôi tương tư đã thành "bệnh", thật đáng thương,... cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh "bệnh giời" với bệnh “tương tư "của tôi yêu nàng", Nguyễn Bính đã diễn tả một cách hồn nhiên, thi vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Yêu thì mong được gần nhau, mà xa nhau thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều; càng nhớ mong thì càng tương tư. Tương tư là một nét đẹp của tình yêu nên khác gì "Nắng mưa là bệnh của giời"...

Mười hai câu tiếp theo nói lên tâm trạng tương tư "bệnh của tôi yêu nàng". Trước hết là nỗi băn khoăn thắc mắc. Tuy chẳng được ở gần nhau "bên giậu mùng tơi", "bên giàn thiên lí", nhưng tôi với nàng gần gũi biết bao "Hai thôn chung lại một làng". Có mong có nhớ... có đi mà không có lại, nên băn khoăn thắc mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ? Một câu hỏi cất lên nghe thật là thương, thật là buồn:

"Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?".

Đã bao lâu rồi chưa được gặp nàng, nỗi buồn tương tư càng da diết, nôn nao:

"Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".


Ba chữ "ngày" kết hợp với chữ , “qua" một chữ "lại" diễn tả nỗi buồn triền miên dằng dặc. Từ mùa xuân, khi lá xanh nay đã cuối thu "cây lá vàng", thế mà "bên ấy" chẳng sang bên này? Làm sao chẳng mỏi mòn mong nhớ? Làm sao chẳng tàn úa như lá vàng mùa thu? Nguyễn Bính đã học tập cách nói của dân gian lấy cây cỏ sắc màu để diễn tả thời gian li cách. Thời gian tâm lí, thời gian tâm trạng: dằng dặc mong nhớ, triền miên buồn trông - được nói lên một cách rất thơ, rất đậm đà, ý vị.

Thắc mắc rồi trách móc, rồi hờn tủi. Băn khoăn tự hỏi, tự giày vò mình: "Bao rằng", "không... là chăng... đã đành", "nhưng", "có xa xôi mấy...", hỏi để rồi lại băn khoăn, hờn dỗi. Và chỉ biết hỏi mình mà thôi, càng hỏi càng cô đơn lẻ loi, hờn tủi:

"Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?".
"Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?".


Trải qua những "chín nhớ mười mong", hết trách móc hờn đỗi rồi lại trông đợi cầu mong. Thật chân tình, thật chân thành, tha thiết:

"Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?".


Vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) để thể hiện một nỗi ước mong, một khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng ", trở thành "cái chung" của nhiều chàng trai, cô gái khác. Vì thế đã 70 năm qua, tiếng thơ "Tương tư" vẫn được bao thế hệ độc giả trân trọng coi nó như tâm hồn mình, tiếng lòng mình - Có một số người cho rằng câu thơ "Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau" dường như lạc hệ thống, thiếu sự dung dị (?) Chàng trai trong "tương tư" đâu phải là anh trai cày "tát nước đầu đình" mà có thể là một chàng trai đang học trường làng, trường huyện và đã từng đọc "Hồn bướm mơ tiên"... thích mơ mộng. Nguyễn Bính không chỉ làm cho vần thơ mang vẻ đẹp mộc mạc như ca dao mà lại cũng khác ca dao, là ở chỗ ấy.

Ở phần hai bài thơ, chàng trai lúc thì trách móc, lúc thì nhắn hỏi liên tiếp mà "nàng" vẫn hững hờ, biệt tăm. Kẻ thì đa tình mơ mộng... mà đối tượng lại mơ hồ, vô định, nhớ thương mong đợi, có đi mà chẳng bao giờ có lại. Chỉ là chuyện hão huyền, vô vọng vì đó đều mơ hồ, vu vơ. Ở đời vẫn có những mối tình yêu như thế, lãng mạn như thế: "Ai biết tình ai có đậm đà?" (Hàn Mặc Tử). Năm 1912 thi sĩ Tản Đà viết trong bài thơ "Thư trách người tình không quen biết":

"Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ
Trông mây trông nước, nay chờ mai mong".


Và năm 1926, ông còn viết:

"Mong ai mỏi mắt chân trời,
Nhớ ai, đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ".


("Thư trách người tình không quen biết")

Qua đó, ta giới có thể cảm nhận được tình tương tư "một người chín nhớ mười mong một người" trong thơ Nguyễn Bính. Và đó chỉ là yêu vụng dấu thầm mà thôi.

Bốn câu thơ cuối bài nói lên niềm mơ ước muôn đời của lứa đôi. Và ở đây là của "anh". Yêu nhau đâu chỉ có "chín nhớ mười mong", đâu chỉ có tương tư mà còn ước mơ hạnh phúc:

"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phong.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thân Đoài nhớ giầu không thôn nào".


"Có một giàn giầu", "có một hàng cau liên phòng", nhà anh, nhà em mới đều chỉ có "một" nghĩa là còn lẻ loi, đơn chiếc. Anh và em vẫn đôi nơi: Anh ở thôn Đoài, em vẫn ở thôn Đông, vẫn còn xa cách quá chừng, vẫn là một trời mong nhớ: "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông". Anh nhớ em, tưởng như: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?". Hình ảnh ẩn dụ "giầu - cau" dân dã biểu lộ niềm mơ ước: duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứa sắt son, bền chặt. Câu trúc song hành gợi tả mối quan hệ gắn bó của đôi trai gái trong một tình yêu đẹp: nhà tôi và nhà em, thôn Đoài và thôn Đông, trầu và cau. Tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đôi, của trai gái. Nguyễn Bính đã khép lại bài thơ bằng một lối diễn đạt tinh tế, đậm đà, nhiều man mác, bâng khuâng. Mơ ước về trái ngọt hạnh phúc sẽ làm lịm môi, mơ ước về con thuyền tình sẽ cập bến bờ hạnh phúc... đó là mơ ước đẹp rất nhân văn, vần thơ, câu thơ của tác giả "Lỡ bước sang ngang" được tuổi trẻ thời áo trắng yêu thích là vì thế.

"Tương tư" vượt lên thời gian, đã sống trong lòng người, trong trái tim, tâm hồn bao chàng trai, cô gái. Ngôn ngữ và chất thơ dung dị, hồn nhiên, dân dã và không kém phần lãng mạn thơ mộng. Một hệ thống ẩn dụ - ước lệ: thôn Đoài, thôn Đông, bến - đò, hoa - bướm, cau - trầu... - với cách nói ví von bình dị đã tạo nên một không gian nghệ thuật gần gũi, thân quen là làng xóm, quê nhà, là "hồn xưa đất nước". Cái mới trong thơ lục bát của Nguyễn Bính là chất biểu cảm nồng nàn, là niềm khao khát về tình yêu hạnh phúc, là cái tôi trữ tình, là "của tôi yêu nàng", là cảm xúc của tuổi trẻ bấy lâu nay.

Trong "Tương tư" có mong nhớ và buồn, có trách móc và giận hờn, nhưng chủ yếu là vươn tới, là mơ ước, khát khao để anh và em, để cau thôn Đoài và giầu không thôn Đông thắm lại, son sắt, thủy chung. Mọi mơ ước đều đẹp. Mơ ước về tình duyên hạnh phúc lại càng đẹp. "Tương tư" thể hiện hồn thơ Nguyễn Bính: Lãng mạn mà chân quê, man mác hương đồng gió nội một thời quá vãng.
Thêm
  • Like
Reactions: Lan Hương
971
1
1
Tương tư là một bài thơ hay trong dòng chảy văn học Việt Nam trước nay, vậy tại sao bài thơ lại có sức sống dẻo dai theo năm tháng tới vậy? Vì lí do gì bạn đọc muôn đời vẫn coi Tương tư là bài thơ ghi trong sổ tay ấp gối, khẽ đọc lên khi nhớ tới người thương? Cùng tới với bài viết Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính có dàn ý và bài mẫu tham khảo để hiểu cặn kẽ hơn về bài thơ tình tuyệt vời này bạn nhé.

Xem trước bài viết liên quan:
Tìm hiểu tác giả Nguyễn Bính
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính hay nhất.png

Dàn ý phân tích bài thơ Tương tư​

I. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tương tư - Nguyễn bính
II. Thân bài: Phân tích bài thơ tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính

1. Bốn câu thơ đầu:

+ Nỗi tương tư của nhà thơ
+ Hình ảnh đôi trai gái mang dáng vóc mộc mạc, giản dị
+ Sự nhớ thương da diết của chàng trai, nỗi nhớ thương của một người dành cho một người

2. Tâm trạng của người tương tư:

+ Có sự trách móc nhẹ nhàng của chàng trai
+ Nhận thấy được tình cảm nồng thắm của chàng trai dành cho cô gái
+ Nỗi buồn da diết của người tương tư được thể hiện rất rõ ràng
+ Sự thay đổi cách xưng hô
+ Thể hiện nên sự độc đáo, chân thật, mộc mạc trong thơ Nguyễn Bình

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bình​

Hướng dẫn phân tích bài Tương tư​

Mở bài​

Nguyễn Bính (1918 – 1966) là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông thường mang màu sắc dân dã, thấm đẫm hồn quê. “Tương tư” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho màu sắc thơ ca bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ được sáng tác năm 1939 tại Hoàng Mai, và được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Tương tư hội tụ những cung bậc cảm xúc chân thực nhất, gần gũi nhất và cũng là cái nhìn của tác giả về cuộc sống.

Tương tư là bài thơ nói lên nỗi lòng của chàng trai với tình yêu cháy bỏng

Thân bài Phân tích bài thơ Tương tư​

  • Luận điểm 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bính đưa người ta tới những cung bậc cảm xúc gần gũi nhất của tình yêu. Bằng những lời thơ vô cùng mộc mạc, chân thành:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng


Ở đây, tác giả đã sử dụng ngay địa danh để thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu. Có lẽ người mà chàng trai đang tương tư ở thôn Đông, còn chàng trai thì đang ở thôn Đoài ngày nhớ đêm mong. Sự hoán dụ ấy càng làm nổi bật lên vẻ bình dị, chân thật của tình yêu đôi lứa ở vùng đồng quê. Tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái chắc hẳn đã rất sâu sắc. Thế nên ở câu tiếp theo, tác giả sử dụng ngay thành ngữ “chín nhớ mười mong” để thể hiện sự háo hức, gấp gáp muốn được gặp người mình yêu.

Nguyễn Bính còn sâu sắc hơn nữa khi mượn chuyện nắng mưa của trời để trải lòng. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh, đó là căn bệnh rất đỗi bình thường giống như chuyện nắng mưa của trời. Thế nên “tôi yêu nàng” thì phải tương tư thôi. Chỉ vỏn vẹn 4 câu mở đầu ấy thôi, Nguyễn Bính đã khiến người ta muốn tìm hiểu sâu hơn về mối tương tư của chàng trai thôn Đoài và cô nàng thôn Đông.

Tương tư mang đậm dấu ấn của những gì chân thật nhất
Trạng thái “tương tư” của chàng trai ngay tức khắc đã chuyển sang những than thở, hờn dỗi. Chàng trai trách cô gái hững hờ, sự hờn dỗi, trách móc ấy xuất phát từ tình yêu sâu sắc.

Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi


Sự hờn trách của chàng trai nghe có vẻ vô lý. Bởi trong tình yêu, thường con trai sẽ là người chủ động. Nhưng ở đây, chàng trai lại là một người bị động, chỉ biết ngồi than trách mà không tự mình đi tìm tình yêu. Có lẽ sự ngược ở đây lại là ý đồ của Nguyễn Bính khi muốn tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm. Thế nên, chàng trai mới có thể bộc bạch được nỗi tương tư rõ nét hơn.

Chàng trai trách cô gái sao chẳng thấy sang thăm dù giờ đây “hai thôn chung lại một làng” chỉ cách một đầu đình. Ấy vậy mà thời gian trôi qua, đến nỗi cây đã chuyển từ lá xanh sang lá vàng, từ mùa xuân sang thu vẫn chẳng thấy bóng dáng nàng đâu. Phải chăng không vì do đường xa cách trở mà do tình cách trở. Tâm trạng của chàng trai mang vẻ hờn dỗi, trách móc, nhưng sâu trong tim lại là tình yêu sâu sắc. Bởi có yêu sâu sắc mới có thể có được những cảm xúc tương tư thật đến như vậy.

Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?


Tâm trạng tương tư của chàng trai thật nhiều cung bậc. Từ trách móc, hờn giận, chàng trai đã chuyển sang những ước vọng xa xôi về tình yêu. Nỗi tương tư của chàng trai trằn trọc bao đêm dài, nhưng chẳng biết tỏ cùng ai bởi “ biết cho ai, hỏi ai người biết cho”. Có lẽ nỗi tương tư của chàng trai chỉ có một lời giải duy nhất. Thế nên, chàng trai chỉ chờ đợi “ bao giờ bến mới gặp đò” để có thể hóa giải nỗi điềm ấy. Ở đây, Nguyễn Bính đã sử dụng từ ngữ ẩn dụ “bến” và “đò” để miêu tả hình ảnh chàng trai và cô gái trong tình hình. Hình ảnh “bến”, “đò” cũng đã được dùng rất nhiều trong thơ ca Việt Nam khi nhắc tới tình yêu. Tác giả cũng dùng hình ảnh “hoa khuê các”, “bướm giang hồ” để miêu tả chàng và nàng. Có lẽ nàng là tiểu thư khuê các nhà giàu, nên dù chỉ cách nhau một đầu đình, nhưng vì cách trở, vì ngăn cấm nên đã không sang gặp chàng được.
  • Luận điểm 2: Phân tích bài thơ Tương tư – Khao khát về hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn
Chính nỗi tương tư ám ảnh suốt bao đêm liền, nó khiến chàng trai phải đặt ra băn khoăn cho mối tình:

Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?


Ở đây, Nguyễn Bính đã sử dụng hình ảnh “cau” “trầu” để thể hiện khát khao hạnh phúc của chàng trai. “Cau” và “trầu” là hình ảnh gắn liền với tình yêu, “miếng trầu là đầu câu chuyện” để bắt đầu cuộc sống gia đình. Có lẽ chàng trai đang khao khát về một đám cưới, khi hai trái tim về chung một nhà.

Trầu nhà em đã có sẵn, cau nhà anh cũng sẵn sàng. Điều duy nhất còn chờ đợi đó chính là sự công nhận về tình yêu của hai người. Ở đây, tác giả cũng mạnh dạn thay đổi cách xưng hô. Thay vì xưng ngang, giờ đây, tác giả đã gọi thân mật hơn là “anh” và “em”. Sự chuyển biến này chẳng phải chốc lát, có lẽ mối tình của chàng thôn Đoài, nàng thôn Đông đã không còn “tương tư” mà đã trở nên sâu sắc. Giờ đây, chàng trai chỉ muốn giãi bày trực tiếp với cô gái mình thương yêu. Và chàng trai cũng thể hiện rõ tình yêu của mình “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Đó như sự khẳng định: anh đã trót mang lòng yêu em rồi, còn “cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào”?

Tình cảm mà nhân vật trữ tình dành đến cho cô gái thôn Đoài vô cùng chân thành, nhưng không kém phần mãnh liệt. Dù bày tỏ tình yêu một cách trực tiếp nhưng lại vô cùng tế nhị đủ để thấy tình yêu mà chàng trai dành đến cho cô gái sâu sắc thế nào. Tình cảm của chàng trai là thật, nhưng chàng trai cũng không ép buộc cô gái phải trả lời ngay mà rất nhẹ nhàng để cô gái có thể tự bày tỏ lòng mình.

Kết bài​

Bằng những từ ngữ gần gũi, Nguyễn Bính đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc tâm trạng tương tư của một chàng trai quê. Đó là tình cảm chân thành bắt nguồn từ sâu con tim. Tình yêu của chàng trai quê ấy được hòa quyện với cảnh quê, mối duyên quê tạo nên sự đồng điệu, ấn tượng.

Tương tư chính là một tác phẩm ghi đậm phong cách thơ Nguyễn Bính. Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng lại mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc nhất. Phân tích bài thơ Tương tư ta thấy được sự tinh tế của Nguyễn Bính trong việc sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh vô cùng đặc biệt. Có lẽ bởi vậy Tương tư của Nguyễn Bính trở thành lời tỏ tình quốc dân được sử dụng qua bao thế hệ.

Phân tích bài thơ Tương tư ngắn gọn​

Tác giả Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đi tiên phong và tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên khác với các nhà thơ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp thì thơ của Nguyễn Bính lại thường đậm đà truyền thống dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự bình dị, mộc mạc của đồng quê. Bài thơ “Tương tư” của ông nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông.

Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa. Sự tương tư thường bắt đầu với những con người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật trữ tình tương tư là một chàng trai quê chân thật, chất phác. Diễn biến trong tâm trạng của chàng trai chính là mạch cảm xúc của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu ta cảm nhận được nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông…
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện bằng những hình thức quen thuộc của ca dao xưa, có thể thấy hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” và “thôn Đông” chính là con người, và chính là chàng trai của thôn Đoài đang nhớ tới người mình yêu ở thôn Đông. Rồi lại đong đếm cụ thể nỗi nhớ mong ấy bằng thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”. Có thể thấy nỗi nhớ ấy đã quá đong đầy, chan chứa. Hình ảnh ví von đầy hài hước “nắng mưa” là bệnh của trời đó là lấy cái quy luật của tự nhiên, của trời đất để thể hiện cho sự tương tư trong tình yêu cũng là một lẽ tự nhiên như thế. Tưởng như đó là một đôi trai gái đã bén duyên nhau, nhưng thực ra lại vừa rõ ràng vừa mơ hồ, tình cảm của chàng trai thì đã rõ, còn cô gái thì vẫn thấp thoáng, vu vơ. Bởi thế mà trong ba khổ thơ sau, lời hờn trách của chàng trai được bộc lộ ra, trách sao người mình yêu quá hững hờ:

“Hai thôn chung lại một làng…
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”

Nỗi tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại. Sự trách móc nhẹ nhàng sao gần nhau chỉ cách nhau có “một đầu đình” mà bên ấy lại chẳng sang bên này, để cho bên này chờ mong mòn mỏi. Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi. Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định.

Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát. Sự cách biệt giữa bên ấy bên này ngày càng xa xôi, thời gian đã dài đằng đẵng “ngày lại qua ngày” đến nỗi la xanh nhuộm chuyển thành lá vàng, thế nhưng thời gian trôi lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của bên ấy. Hỏi cứ như vậy làm sao bên này lại chẳng chờ đợi đến héo mòn, khô úa.

Như vậy cho đến những khổ thơ này ta đã rõ: tất cả đều là từ một phía, chỉ là nỗi tương tư chân thành của chàng trai không được đáp lại. Yêu người nhưng chẳng được người yêu lai, nhớ mong nhưng chẳng được gặp gỡ, bởi người ta cũng chẳng muốn gặp mình, chàng trai lại đành quay lại với chính mình, trở lại với niềm mơ ước thầm kín của mình về một mối nhân duyên tốt đẹp:

Nhà em có một giàn giầu…
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Chàng trai đã mạnh dạn xưng “anh” và gọi người mình yêu là “em”, chẳng cần bóng gió, vòng vo xa xôi nữa mà đi thẳng tới vấn đề muốn được kết tóc se duyên, muốn được ở bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng thật trớ trêu thay chàng trai vẫn không thoát khỏi được nỗi nhớ mong chẳng được đền đáp, vẫn là câu hỏi không ai hồi đáp.

Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc.

***​

Phân tích bài thơ Tương tư hay nhất​

Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu : một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu ; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế ! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở.

Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng ; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi :

- Vừa thoáng tiếng còi tàu
Lòng đã Nam đã Bắc
- Nên cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ.

(Xuân Quỳnh)


Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng :

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.


Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu ! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính ! Ấy là giọng kể lể. Một câu thơ được viết toàn bằng số từ ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu "chín nhớ, mười mong", khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải :

Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.


So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp trong so sánh đó nữa. "Gió mưa là bệnh của giời", thì bệnh đó là một thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra - một thứ bệnh nội sinh có sẵn ! Còn "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" thì là căn bệnh mắc phải do "ngoại nhập". Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ "bệnh", mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì... phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng ? Có phải thế là sự khôn ngoan dễ thương ?

Hình như tương tư thường bắt đầu bằng kể lể, giãi bày, và rồi chẳng mấy ai chịu dừng lại ở đó. Sẽ còn là trách móc, hờn giận, sẽ còn là giận dỗi đơn phương, khát khao đòi hỏi, cũng đơn phương. Nghĩa là bệnh tương tư sẽ mỗi ngày một thêm trầm trọng. Mà "kì" nhất là, cũng một không gian ấy thôi, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của mình - cho mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, trái lại, đến khi trách móc, "kể tội đối phương" thì nó lại thu hẹp đến kiệt cùng :

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?


Mở ra, "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông", tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu : tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư ! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao !


Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian:

Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng


Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian:

Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.


Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư trầm trọng ! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy ! "Ngày qua ngày lại qua ngày", câu thơ dịp nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ "lại" chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nuôi lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng.

Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư ! Hay đó là cây tương tư ?! ). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu : ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên. Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn ? - nạn nhân bởi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà... Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon !

Cái cây kia là hình ảnh khác của anh ! Cái cây kia chính là anh. Tả cảnh ngụ tình là thế ! Phải nói chữ "nhuộm" thật đắt. Cũng viết về sự thay đổi sắc màu trên cây cỏ, khi Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:

Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.


Chữ "nhuốm" rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp ! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã bước sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới "nhuộm". Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ "nhuộm" của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất : lá xanh đã biến thành lá vàng rồi ! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi ! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần.

Có phải tương tư là một gánh nặng đơn phương, càng nặng nề bao nhiêu, càng nghĩ "đối phương" vô tình bấy nhiêu. Vì thế mà cung bậc tương tư cứ chuyển biến rất tự nhiên từ kể lể, thở than sang trách móc ? Mà lời trách móc thì, ôi chao, đầy một lối "quy kết" khó mà "chạy tội" được :

Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.


Vẫn cái "luận điệu" dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thăm thẳm. Còn ở đây thì "phủ định sạch trơn" : không hề có xa cách - không có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì ! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có "khiếp" không ! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể "quy chụp" người ta vô tình được ! Sao những trái tim yêu lại có thể "ranh mãnh" một cách hồn nhiên đến thế ! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi "người ta" đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội "khó chịu" đến đâu cũng đành mà "chịu khó" thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao ?


Trách chưa hết đã lại hờn:

Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Hờn mát đến điều rồi thì lại khát khao đến độ :
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?


Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh:

Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?


Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi ! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật nguy hiểm!

Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thành đôi thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao khát ấy còn ký thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đồi ấy còn xa xôi, càng về sau càng xích lại gần. Lần đầu, 1990, khi viết cho sách Để dạy tốt Văn 11 dành cho giáo viên, tôi mới chỉ nhận ra một nửa số cặp ấy. Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ :

Thôn Đoài - Thôn Đông
Một người - Một người
Bên ấy - Bên này
Bến - Đò
Hoa Khuê Các - Bướm giang hồ
Nhà anh - Nhà em


Và cuối cùng là :

Trầu - Cau
Kết như thế thật khéo


Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất : ấy là trầu - cau! Mà trầu cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm luyến ái. Là một nhà thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Nghĩa là với cau - trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới chỉ ở dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi. Vâng, đợi chờ một vị "cứu tinh" duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn hờ kia sẽ kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa ! Nỗi khổ sở sẽ hết giày vò ! Vân vân và vân vân.

Nhưng em biết không, khi tất cả những điều kia đã thành, thì cũng là lúc nỗi tương tư bắt đầu... bị hoá giải.
Thêm
Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
  • Like
Reactions: Triều Anh
2K
1
1
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính để tìm hiểu trước những ý chính cần nắm trong bài. Tìm hiểu trước bài học là một hoạt động hỗ trợ tiếp thu bài học trên lớp hiệu quả hơn hết. Tương tư cũng là một bài thơ hay trong dòng chảy văn học Việt Nam trước nay, vậy tại sao bài thơ lại có sức sống dài theo năm tháng tới vậy? Cùng mình tìm hiểu nhé.

Xem trước: Tìm hiểu tác giả Nguyễn Bính

Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính.png

Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính​

Bố cục​

3 phần:
- Phần 1 (4 câu đầu): khởi nguồn cho tâm trạng tương tư
- Phần 2 ( 12 câu tiếp theo): tỏ bày tâm tư tương tư
- Phần 3 (còn lại) khao khát hạnh phúc muôn đời của tình yêu đôi lứa.

Câu 1 (trang 50 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Nỗi nhớ và những lời kể, trách móc, mơ tưởng, ước vọng xa xôi của chàng trai
- Tâm trạng mong nhớ tha thiết “chín nhớ mười mong”
- Trách móc để bộc lộ nỗi tương tư của mình (cớ sao bên ấy chưa sang bên này?)
- Tâm trạng mong ngóng, trông đợi, mòn mỏi:
  • + Câu thơ “ngày qua ngày lại qua ngày”, ngắt nhịp 3/3, chữ “lại” diễn tả vòng thời gian trôi lặp lại trong sự vô vọng
  • + Lấy sự chuyển đổi màu sắc “lá xanh” thành “lá vàng” chỉ thời gian chờ đợi
  • + Nỗi nhớ mong kéo dài theo năm tháng
→ Cách diễn đạt tinh tế, giàu ý nghĩa
- Những ước vọng xa xôi:
  • + Trong ao ước có sự vô vọng: hình ảnh bến, hoa, đò khó “gặp” nhau.
  • + Chàng trai quê sống những nỗi tương tư, vẫn mang những niềm ước vọng xa xôi
  • + Đáng lí phải nói “cau thôn Đoài” nhớ “trầu thôn Đông” nhưng tác giả nói chệch đi, nỗi nhớ nhung vẫn không thay đổi.
- Nỗi mong nhớ kéo dài tới cuối bài thơ nhưng không được đền đáp để tâm trạng nhân vật trữ tình bộc lộ tha thiết, sâu sắc.
⇒ Chàng trai có tình cảm, tương tư nhưng chưa được đáp lại

Câu 2 (Trang 50 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Cách bày tỏ tình yêu, giọng điệu thơ, cách so sánh, ví von:
- Giọng điệu tha thiết, chân thành, nhẹ nhàng, nhưng trầm buồn
- Hình ảnh ví von, ẩn dụ, chất liệu ngôn từ chân quê đậm màu sắc dân gian: thôn Đoài, thôn Đông, bến đò, hoa, bướm, trầu cau
- Cách bày tỏ tình yêu tự nhiên, kín đáo, ý nhị, có ý vị chân thành mộc mạc của tâm hồn, chàng trai quê
- Sử dụng hình ảnh thân thuộc, gợi hình gợi cảm

Câu 3 (trang 50 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Trong thơ Nguyễn Bính “có hồn xưa đất nước” ( Hoài Thanh). Điều đó được thể hiện ở:
+ Cách biểu hiện cảm xúc, sử dụng ngôn ngữ
+ Chất liệu, hình ảnh đậm màu dân gian, đậm chất chân quê
+ Lối nói chân chất, thật thà
+ Thể hiện tinh tế, giàu sức gợi cảm

Luyện tập bài "Tương tư"​

Giá trị nội dung, nghệ thuật

Nội dung
- Bài thơ là tâm sự thiết tha của một chàng trai thôn quê gửi tới cô gái nhằm bày tỏ niềm nhớ mong tương tư thầm kín, nỗi chờ mong khắc khoải nhưng vẫn chưa được đáp lại. Đồng thời, thể hiện niềm mong ước, khát khao về hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của chàng trai
Nghệ thuật
- Sử dụng rất nhiều chất liệu và hình ảnh dân gian trong thơ
- Ngôn từ hết sức giản dị, mộc mạc
- Thể thơ lục bát của dân tộc
- Giọng điệu thơ tha thiết, chân thành, nhẹ nhàng, nhưng trầm buồn

***​

Soạn bài Tương tư Ngữ văn 11 nâng cao​

Câu 1: "Tương tư" có nghĩa là nhớ nhung, nhưng tâm trạng tư tương ở đây có phải chỉ đơn thuần là nhớ nhung không? Nỗi tương tư ở bài thơ này đã diễn biến qua những sắc thái cảm xúc nào?​

Gợi ý:
- Nhan đề Tương tư: là tâm trạng nhớ nhung trong tình yêu, (thường là tình yêu đơn phương, xa cách). Tuy nhiên, không đơn thuần chỉ là nỗi nhớ mà Tương tư còn là phức hợp đan xen các cung bậc cảm xúc vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất, hợp lí: chờ đợi, bâng khuâng, mơ tưởng, ước ao…
- Những cung bậc của nỗi tương tư mà chàng trai thôn Đoài đã trải qua: nhớ - tự phân tích nỗi nhớ - trách móc, ngờ vực, băn khoăn - ngậm ngùi thương mình, mong được chia sẻ - đợi chờ phấp phỏng và khao khát gặp gỡ, sum vầy.

Câu 2: Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái, điều này có lí hay vô lí? Nó giúp ta hiểu được gì về quy luật tâm lí trong tình yêu?​


Gợi ý:
- Trong quan hệ yêu đương, sự trách móc nhau vẫn thường xảy ra. Ở đây, lời trách của chàng trai rất thiếu cơ sở: chuyện của hai thôn vốn thuộc lĩnh vực hành chính, làm sao có thể đồng nhất với chuyện tình yêu vốn thuộc lĩnh vực của trái tim được. Giữa chúng chẳng có mối liên hộ tất yếu nào. Thêm vào đó, không sang không phải là chuyện của khoảng cách địa lí mà là chuyện của khoảng cách tình cảm. Vin vào đó để bắt bẻ quả không tránh khỏi sự hồ đồ. Tuy nhiên, kẻ đang yêu có bao giờ hiểu được điều đó. Lí lẽ của một trái tim yêu quả thật khác thường và cũng thật đáng cảm thông!

Câu 3: Tìm hiểu nghệ thuật diễn tả thời gian và tâm trạng trong hai câu: "Ngày qua ngày lại qua ngày - Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".​

Gợi ý:
- Hai câu thơ “Ngày qua ngày lại qua ngày – Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” cho thấy rất rõ sự tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Hai từ ngày, qua được lặp đi lặp lại đầy biến hoá đã diễn tả rất hay một thực tế không hề biến hoá : hết qua rồi lại qua, tất cả vẫn không có gì khác ngoài cái ngày vô vị ấy ! Từ lại được cài vào rất nghệ thuật cũng góp phần biểu đạt sâu sắc thêm cảm giác này ở nhân vật trữ tình. Trong câu thơ sau, âm điệu của từ nhuộm cũng như hiện tượng đảo vị trí từ vừa xác nhận dấu ấn rõ rệt của thời gian in trên cây lá, vừa khắc hoạ thật tài tình tâm trạng nặng nề của kẻ tương tư không làm sao tránh được sự nhắc nhở thường xuyên của thời gian.

Câu 4: Mối duyên quê của lứa đôi đã hòa quyện trong cảnh quê như thế nào?​

Gợi ý:
- Nhân vật trữ tình tự nhìn thấy mình như một bộ phận của thiên nhiên, vũ trụ và hiểu rõ mối tương quan hoà hợp giữa các đối tượng, sự vật.
- Tuy có băn khoăn, nghi ngờ, chàng trai vẫn không thôi hi vọng ; đằng sau từ bao giờ đầy mơ hồ, khắc khoải là một niềm tin – cái niềm tin vẫn tiềm tàng trong những, con người sống cuộc đời bình dị đằng sau luỹ tre xanh.
- Tình cảm tương tư đã được biểu hiện một cách ý nhị, kín đáo, khá phù hợp với văn hoá nói năng, ứng xử của người Việt xưa, v.v.

Câu 5: Phân tích hình ảnh, tâm trạng và cách diễn tả đậm chất dân gian của thơ Nguyễn Bính (lối bố cục, lối liên tưởng, cách dùng địa danh và ngôn ngữ,...)​

Gợi ý:
- Trong bài thơ, Nguyễn Bính đã tạo dựng được một không gian nghệ thuật riêng phù hợp với mối tình chân quê mà ông nói tới. Ta thấy bao trùm ở đây hình ảnh của thôn Đoài, thôn Đông với mái đình, giàn trầu, hàng cau liên phòng cùng những cây lá đổi màu theo bước mùa đi,… Nhờ nó, người đọc mới có được ấn tượng đặc biệt đến vậy về nỗi mong nhớ mơ hồ xa xôi, cách tính đếm thời gian theo dấu ấn của mùa trên cây cỏ, chút ỡm ờ trong cách biểu đạt cảm xúc của chàng trai. Không gian làng quê lúc này không tồn tại như một bối cảnh thuần tuý mà tự nó cũng toát lên, cũng hàm chứa một “nội dung” sâu xa.

- Dù có giọng “quê mùa”, Tương tư vẫn là một bài thơ mới đích thực nội tâm con người, đặc biệt là cảm xúc yêu đương được mổ xẻ tường tận và miêu tả một cách tinh tế xen vào giữa các câu có cách diễn đạt lấp lửng, kín đáo là một’ số câu dám gọi đích danh sự vật, tạo môi trường cho cái tôi cá nhân lộ ra ở bình diện thứ nhất,…

Câu 6: Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều hình ảnh cặp đôi trong bài. Hãy tìm, thống kê và phân tích hệ thống hình ảnh ấy.​

Gợi ý:
- Có một hệ thống hình ảnh cặp đôi tồn tại trong bài thơ: thôn Đoài - thôn Đông, bến - đò, hoa khuê các - bướm giang hồ, cưu - giậu (trầu). Hệ thống hình ảnh này thật giàu màu sắc dân gian, biểu đạt rất hay khát vọng lứa đôi của các đối tượng được giả định là bình dân. Về hình ảnh trầu - cau, ai cũng biết nó gắn liền với chuyện kết duyên, chuyện cưới hỏi. Đây là hình ảnh cặp đôi được nhắc sau cùng, thể hiện đúng mạch “đi tới” của tình cảm tương tư và quy luật phát triển của tình yêu ở người dân quê : tình yêu tất gắn với hôn nhân. Bốn câu cuối của bài thơ được tổ chức thành các vế song song. Hai câu trên muốn nói: tiền đề của sự giao kết đã ngầm chứa sẵn trong thực tế khách quan. Nếu cau hày trầu chỉ trơ trọi một mình thì chúng sẽ mất hết giá trị. Theo áp lực nghĩa của hai câu đó, dù bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi lửng lơ, ta vẫn đọc ra được “lời đáp” trong mong chờ và tin tưởng: cau thôn Đoài không nhớ, không làm bạn với trầu không thôn Đông thì còn nhớ, còn làm bạn với cái gì, với ai được nữa!
Thêm
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính
  • Like
Reactions: Triều Anh
432
1
0
Cùng với một số nhà thơ khác, Nguyễn Bính đã tạo nên trường phái thơ “chân quê” trong phong trào thơ Mới 1930 - 1945. Nguyễn Bính một lòng trở về với những con người đời thường chân chất, trải lòng cùng những mối duyên e ấp, vụng dại của một thời kì làng mạc yên bình. Thơ Nguyễn Bính đầy màu sắc ca dao dân ca và phong vị văn học dân gian, vừa quen vừa lạ. Đặc biệt bốn câu cuối bài thơ "Tương tư" làm nổi bật những nội dung đó.


Nguyễn Bính là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, Nguyễn Bính lại gắn bó và hấp thụ tinh hoa ca dao, dân ca, truyện thơ dân gian cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông biểu hiện cảnh quê, thắm được tình quê, hồn quê nước Việt với một sắc thái lãng mạn. Người ta gặp trong thơ Nguyễn Bính những hình ảnh bình dị, thân quen: hàng cau, giàn trầu, rặng mùng tơi, cây bưởi, thôn Đoài, thôn Đông. Hoài Thanh, trong “Thi nhân Việt Nam” cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi 20 đã làm gần một ngàn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều loại thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát. Ở những bài thơ ấy, “ ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta”, ta cảm thấy một điều đáng quý vô ngần, đó là “hồn xưa của đất nước”.

Bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ hay nhất viết về tình yêu. Kết thú bài thơ, nhà thơ đặt ra câu hỏi khiến người đọc, những ai đã từng yêu không khỏi ngậm ngùi, xót xa:

“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?”


Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ “Tương tư”, rút trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang’’ (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tủi hờn: “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”… Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng.

Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ao ước khao khát. Từ chỗ gọi “nàng”: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” đã chuyển thành tiếng “em” gần gũi, thân thiết yêu thương: “Nhà em có một giàn giầu …” Cách xưng hô từ “tôi” – “nàng” dần đến “em” – “anh” thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.

Giầu (trầu) với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ:

“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”


Điệp ngữ “ nhà … có một” làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng “hai thôn chung lại một làng” chẳng xa xôi mấy, nhưng “giàn giầu” nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ “có một” chưa chưa có đôi. Chữ một trong 2 câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu – cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung.

Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư “gỡ mãi chẳng ra”: Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Có xa xôi mấy mà tình xa xôi? Biết cho ai, hỏi ai người biết cho? Bao giờ bến mới gặp đò? Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:

“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?’’


Cả một trời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Một lối nói bỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cùng thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với cấu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một mơ ước hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn.

Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giá vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian như giầu – cau, thôn Đoài – thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu, nhạc điệu để nói lên nỗi khao khát tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. “Tương tư” thấm vào nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng.

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/tuong-tu-nguyen-binh.305/
Thêm
Cảm nhận bốn câu thơ cuối bài "Tương tư" - Nguyễn Bính
416
0
0
Nội dung

Xem thêm: Bài thơ Tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính, Diễn đàn Văn học lớp 11

Nếu bạn có câu hỏi, hoặc chia sẻ khác hãy viết bên dưới.
Thêm
898
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top