Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
IV. Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

1. MB:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Trong đó, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp toàn diện của hai người con gái họ Vương.

2. TB:

* Khái quát chung:

- Đoạn trích nằm ở phần một “Gặp gỡ và đính ước”, khi giới thiệu về gia đình Vương viên ngoại, tác giả tập trung miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều.

- Với nghệ thuật miêu tả người đến mức điêu luyện, Nguyễn Du đã khắc họa chân dung Thúy Vân, Thúy Kiều, đồng thời tác giả còn dự cảm cuộc đời hai nàng sau này.

* Luận điểm 1: Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đã khắc họa vẻ đẹp chung của hai nàng:

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”

- “ả tố nga” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ người con gái đẹp.

- Nguyễn Du đã khéo léo kết hợp ngôn ngữ bình dân “ả” và ngôn ngữ bác học “tố nga” để giới thiệu gia đình Vương viên ngoại có hai cô con gái đầu lòng đẹp tựa như những nàng tiên trên cung Quế của chị Hằng.

- Với nghệ thuật kể, tiểu đối, tác giả đã cho thấy thứ bậc của hai nàng trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em.

- Sau đó, Nguyễn Du miêu tả khái quát vẻ đẹp của hai chị em:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

- Thành công của Nguyễn Du là sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng lấy thiên nhiên làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp con người. Vẻ đẹp của hai nàng được so sánh với các hình ảnh đẹp của thiên nhiên “mai, tuyết”.

- “Mai cốt cách” gợi lên cốt cách thanh cao như cây mai. Đó là một loài hoa có dáng vẻ mảnh mái, hương thơm quý phái.

- “Tuyết tinh thần” diễn tả tinh thần trong trắng, tinh khiết như tuyết.

- Nghệ thuật tiểu đối đã thể hiện sự cân đối hài hòa giữa vóc dáng và tâm hồn.

+ “Mỗi người một vẻ” cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người.

+ Thành ngữ “mười phân vẹn mười” được vận dụng một cách khéo léo để nhấn mạnh vẻ đẹp toàn diện, hoàn hảo của hai nàng.

=> Với bốn câu thơ lục bát, Nguyễn Du làm nổi bật vẻ đẹp trong sáng, thanh cao của hai nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của hai nàng.

* Luận điểm 2: Bốn câu thơ tiếp theo Nguyễn Du đã gợi tả vẻ đẹp của nhân vật Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngoài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

+ Tác giả sử dụng từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người miêu tả.

+ Từ láy “trang trọng” diễn tả vẻ đẹp đoan trang, cao sang, quý phái.

=> Câu thơ gợi lên ấn tượng tốt đẹp về một người phụ nữ trong khuôn khổ, lễ giáo của xã hội phong kiến.

- Bút pháp ước lệ tượng trưng tiếp tục được phát huy hiệu quả khi khắc họa bức chân dung Thúy Vân. Vẻ đẹp của nàng được ví với vẻ đẹp của trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.

- Miêu tả Thúy Vân, tác giả khắc họa trên nhiều bình diện khác nhau:

+ “Khuôn trăng đầy đặn” là hình ảnh ẩn dụ gợi lên khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như vầng trăng.

+ “nét ngài nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung của nàng.

+ “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười tươi tắn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà. Từ “thốt” còn diễn tả cử chỉ ngôn ngữ của nàng nhẹ nhàng, tinh tế. Mỗi lời nàng nói ra tựa như đang tuôn châu nhả ngọc.

+ “Mái tóc của nàng mềm, mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết.

- Với nghệ thuật ẩn dụ, liệt kê, so sánh cùng với các hình ảnh giàu sức gợi tả “đầy đặn, nở nang”, Nguyễn Du đã làm nổi bật vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, đài các của Thúy Vân.

- Nghệ thuật nhân hóa “mây thua, tuyết nhường” cho thấy vẻ đẹp của nàng êm đềm hòa hợp với thiên nhiên nên được thiên nhiên nghiêng mình ngưỡng mộ. Qua đó, tác giả dự cảm cuộc đời của nàng sau này êm đềm, suôn sẻ, hạnh phúc.

* Luận điểm 3: Mười hai câu thơ tiếp theo Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.

- Thúy Vân là em nhưng lại được miêu tả trước, đó là dụng ý của Nguyễn Du khi sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. Nguyễn Du trân trọng vẻ đẹp của Thúy Vân và lấy đó làm nền nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn”

- Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về tâm hồn của Thúy Kiều.

- Nghệ thuật so sánh “lại là phần hơn” giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt trội hơn so với Thúy Vân.

- Thúy Kiều là người con gái có nhan sắc tuyệt trần:

+ Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhấn”:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

-“Làn thu thủy” gợi tả đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo như làn nước mùa thu.

-“Nét xuân sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân.

- Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nhìn vào đôi mắt ấy, ta không chỉ thấy sự tinh anh của trí tuệ con người mà còn thấy Kiều là người con gái có trái tim nhạy cảm, giàu tình yêu thương.

- Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã nhấn mạnh vẻ đẹp của Thúy Kiều đến mức hoàn mĩ, xứng đáng là trang giai nhân tuyệt sắc.

- Vẻ tươi tắn của nàng khiến cho hoa phải ghen, nét thanh xuân của nàng khiến cho liễu phải hờn. Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật nhân hóa “hoa ghen, liều hờn” giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp vượt ngưỡng, nằm ngoài tầm kiểm soát của tạo hóa nên bị tạo hóa ganh ghét, đố kị. Tác giả dự cảm cuộc đời của Thúy Kiều sau này sóng gió, trắc trở.

- Thúy Kiều còn mang vẻ đẹp về tài năng và tâm hồn:

+ Không chỉ đẹp, Thúy Kiều còn rất đa tài:

“Một hai nghiêng nước, nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

- Thành ngữ “nghiêng nước, nghiêng thành” một lần nữa nhấn mạnh nhan sắc của Thúy Kiều làm cho các bậc đế vương phải say mê, đắm đuối đến mức thành nghiêng, nước đổ.

- Nếu như xét về nhan sắc nàng đứng thứ nhất trong thiên hạ thì tài năng của nàng may ra mới có người đứng thứ hai.

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”.

- Tài năng của nàng là do yếu tố thông minh, bẩm sinh thiên phú cùng với sự chăm chỉ tập luyện hàng ngày.

- Cầm, ca, thi, họa lĩnh vực nào nàng cũng đều đạt đến độ xuất chúng. Nhưng nổi bật hơn cả là tài chơi đàn hồ cầm. Nàng chơi đàn điêu luyện, thành thạo âm, luật đến mức trở thành ngón nghề riêng, vượt lên trên tất cả mọi người.

- Không chỉ chơi đàn hay, nàng còn sáng tác cung đàn “Bạc mệnh”. Tên cung đàn gợi sự mong manh, bạc bẽo của cuộc đời người phụ nữ. Và khi cung đàn ấy tấu lên âm thanh của nó nghe ai oán, não nề lòng người. Tiếng đàn ấy là tài năng, là tiếng lòng của người con gái đa sầu, đa cảm nên cuộc đời của nàng cũng lắm đa đoan.

=> Vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của ba yếu tố: nhan sắc tuyệt trần, tài năng tuyệt thế, trái tim đa sầu, đa cảm. Theo quan niệm của Nguyễn Du, cuộc đời nàng khó lòng tránh nổi thuyết tài mệnh tương đố:

“Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

* Luận điểm 4: Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du nhận xét về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em.

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh, xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

- “hồng quần” là hình ảnh vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa hoán dụ cho ta thấy Thúy Vân, Thúy Kiều là những người con gái xuất thân cao sang, quyền quý.

- Tác giả sử dụng liên tiếp các từ láy, từ ghép “xuân xanh, xấp xỉ, cập kê” để diễn tả hai nàng ở độ tuổi búi tóc, cài trâm, có nhu cầu giao lưu, gặp gỡ bạn bè.

- Ấy vậy mà hai nàng vẫn sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” trong vòng tay che chở của gia đình.

- “Tường đông ong bướm” là hình ảnh tượng trưng cho những nơi trai gái giao lưu, hò hẹn. - Cụm từ “đi về mặc ai” diễn tả thái độ tuyệt giao với thế giới bên ngoài. Điều đó đã làm nổi bật đức hạnh của hai nàng – những người con gái có lối sống khuôn phép, mẫu mực trong nền nếp gia phong.

- Chính lối sống ấy đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho sự hình thành, phát triển nhân cách của hai chị em sau này, đặc biệt là Thúy Kiều.

* Luận điểm chốt

- Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của Nguyễn Du là sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng lấy thiên nhiên làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người; bút pháp gợi tả, nghệ thuật đòn bẩy.

- Nghệ thuật miêu tả người đến mức điêu luyện với các hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm.

- Các biện pháp tu từ: liệt kê, ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng một cách khéo léo.

- Qua những nghệ thuật ấy, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân dung của chị em Thúy Kiều đồng thời dự cảm về số phận của Thúy Kiều, Thúy Vân trong tương lai.

- Nguyễn Du hết lời trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của hai nàng, phải chăng đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm?

c. Kết bài:

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến Thúy Vân – một người con gái xinh đẹp, đoan trang, phúc hậu với dự cảm về cuộc đời bình lặng, yên ả.

- Ta còn nhớ đến Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn với dự cảm về cuộc đời chìm nổi lênh đênh.

- Ta còn ấn tượng về Nguyễn Du - một trái tim chan chứa yêu thương, đồng cảm với số phận con người.

- Có lẽ vì thế “Truyện Kiều” của Nguyễn Du trở thành cuốn sách gối đầu tay của biết bao thế hệ bạn đọc. Nguyễn Du thật xứng đáng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Thêm
80
0
0
I. Tác giả Nguyễn Du:

1. Những yếu tố tạo nên thiên tài Nguyễn Du:

- Nguyễn Du (1765 – 1820)

- Tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên.

- Quê: Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

- Là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

a. Thời đại:

- Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, xã hội phong kiến Việt Nam khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân nổ ra liên tục, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

- Nhưng Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi, triều Nguyễn lên thay.

- Những thay đổi kinh thiên động địa ấy tác động mạnh tới nhận thức tình cảm của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút của mình vào hiện thực.

b. Gia đình:

- Gia đình Nguyễn Du là gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương.

- Nhưng gia đình ông cũng bị sa sút. Nguyễn Du mồ côi cha năm chín tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Hoàn cảnh đó cũng tác động lớn tới cuộc đời Nguyễn Du.

c. Bản thân:

+ Là người thông minh, tài trí, hiểu biết sâu rộng,

+ Am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.

+ Có vốn sống phong phú với nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, nhiều con người, số phận khác nhau.

+ Có trái tim giàu lòng yêu thương.

- Nguyễn Du là một thiên tài văn học, nhà nhân đạo chủ nghĩa.

2. Về sự nghiệp văn học của Nguyễn Du:

- Sáng tác nhiều tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm

+ Ba tập thơ chữ Hán gồm 243 bài (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục)

+ Chữ Nôm: có Văn chiêu hồn, Truyện Kiều,…

II. Tác phẩm “Truyện Kiều”:

1. Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác vào đầu thế kỷ 19

2. Xuất xứ: Truyện có nguồn gốc từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc)

3. Thể loại: Truyện thơ Nôm.

4. Nhan đề:

- Nguyễn Du dặt tên cho tác phẩm của mình là “Đoạn trường tân thanh”: tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột.

- Nhân dân quen gọi là “Truyện Kiều”

5. Bố cục: Gồm 3254 câu thơ lục bát, chia làm 3 phần:

+ P1: Gặp gỡ và đính ước

+ P2: Gia biến và lưu lạc

+ P3: Đoàn tụ.

III. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

1. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần một “Gặp gỡ và đính ước”, khi giới thiệu gia đình Thuý Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc của 2 chị em Thuý Vân, Thuý Kiều.

2. Bố cục đoạn trích: 4 phần

+ Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát vẻ đẹp trong sáng, thanh cao của hai chị em Thuý Kiều.

+ Bốn câu tiếp: Miêu tả vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu đài các của Thuý Vân

+ Mười hai câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp toàn diện của Thuý Kiều

+ Bốn câu cuối: Đức hạnh của hai nàng.

3. Nội dung:

- Đoạn trích khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thuý Kiều.

- Ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.

4. Nghệ thuật:

- Sử dụng thành công thể thơ lục bát của dân tộc

- Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật qua bút pháp ước lệ tương trưng, lí tưởng hóa

- Nghệ thuật đòn bẩy làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.

- Các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, liệt kê.

- Kết hợp ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân.
Thêm
75
0
0
Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyện thơ Nôm, là đỉnh cao của tư tưởng nhân văn chủ nghĩa.

1. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện Kiều được sáng tác trong thời kì đầu Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn (khoảng những năm 1805 – 1809), sau khi phải trải qua 15 năm gió bụi với bao cay đắng đoạn trường. Ban đầu, tác phẩm được đặt tên là: Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới đau đứt ruột). Về sau, Nhân dân ta gọi là: Truyện Kiều. Tác giả đặt nhan đề là Đoạn trường tân thanh là dựa vào chủ đề của tác phẩm, còn Truyện Kiều là nhan đề đặt theo tên nhân vật trung tâm của truyện.

2. Nguồn gốc

Truyện Kiều được Nguyễn Du sáng tác dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Văn học trung đại có tính sùng cổ nên việc vay mượn cốt truyện không có gì là đặc biệt, mà đây là biểu hiện của sự coi trọng quá khứ, coi trọng cái khởi nguồn. Tuy nhiên, Nguyễn Du không bê nguyên mà ông đã tiếp thu với sự sáng tạo rất lớn.
Đặc điểm
Kim Vân Kiều truyện
Truyện Kiều
Ngôn ngữ​
Hán​
Nôm
(Đỉnh cao của ngôn ngữ Tiếng Việt)​
Thể loại​
Tiểu thuyết chương hồi, gồm 20 hồi​
Truyện thơ Nôm, gồm 3254 câu thơ lục bát​
Phương thức biểu đạt chính​
Tự sự​
Trữ tình​
Sự kiện, chi tiết​
- Có quá nhiều sự kiện rườm rà, thậm chí thô kệch.
- Ít đi sâu miêu tả nội tâm, chỉ chú trọng cốt truyện, nhân vật, sự kiện​
- Lược bỏ nhiều chi tiết rắc rối, tác phẩm coi trọng hàm xúc.
- Thêm vào nhiều chi tiết tả cảnh, tả tình, đi sâu khai thác thể hiện nội tâm làm rõ những biểu hiện tâm trạng, khắc sâu tính cách nhân vật​


3. Bố cục

Truyện Kiều gồm 3254 câu thơ lục bát được chia làm ba phần. Kết cấu về hình thức giống cổ tích và Kim Vân Kiều truyện: Gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ. Đây là kết thúc có hậu, nhưng nhìn sâu vào kết thúc của Truyện Kiều thì đó lại là một kết thúc bi kịch. Vì Kiều gặp lại người yêu nhưng không gặp lại tình yêu, chuyển từ tình vợ chồng thành tình bạn bè. Kiều thực chất vẫn cô đơn…Điều này càng làm tăng giá trị tố cáo xã hội của tác phẩm.

4. Tóm tắt tác phẩm:

- Phần 1: Gặp gỡ và đính ước:
Dưới thời Gia Tĩnh, triều Minh, ông bà Vương viên ngoại ở Bắc Kinh sinh được 3 người con, hai gái, một trai.

Hai chị em Kiều có nhan sắc “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười” và đã đến “tuần cập kê”.

Vào dịp tết thanh minh, ba chị em đi chơi xuân, gặp mộ Đạm Tiên, Thuý Kiều thắp hương và khóc thương. Lúc ra về khi bóng chiều đã ngả, họ gặp Kim Trọng – một chàng văn nhân “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”.

Đêm về Kiều mơ thấy Đạm Tiên đến và báo trước cuộc đời sóng gió mà nàng sẽ gặp phải.

Về phần Kim Trọng, chàng đã tìm cách dọn đến ở gần nhà Thuý Kiều. Một lần, chàng Kim bắt được chiếc thoa rơi. Chàng mang trả cho thuý Kiều và nhân đó bày tỏ tình cảm với nàng. Hai người đã ước hẹn, thề nguyền sẽ gắn bó với nhau “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Sau đó, Kim Trọng nhận được thư nhà, chàng phải vội vàng về Liễu Dương “hộ tang” chú.

- Phần 2: Gia biến và lưu lạc:

Thằng bán tơ vu oan, gia đình Kiều gặp gia biến.Cha và em trai Kiều bị bắt, bị tra tấn. Bọn sai nha - đầu trâu mặt ngựa ập đến đập phá nhà cửa tan hoang, “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Để cứu cha và em trai, Thuý Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh lấy tiền lo lót. Trong đêm trước khi ra đi Kiều đã trao duyên cho Thuý Vân.

Trên đường đi, Kiều bị Mã Giám Sinh làm nhục. Sau đó, hắn đưa nàng vào lầu xanh của mụ Tú Bà. Kiều tự vẫn nhưng không chết. Nàng được Đạm Tiên báo mộng là phải đến sông Tiền Đường sau này mới hết kiếp đoạn trường. Mụ Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở Lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để bày mưu, tính kế lừa gạt nàng.

Mụ thuê Sở Khanh lừa Kiều, rủ Kiều đi chốn. Trên đường chạy chốn, nàng bị Tú Bà bắt về và đánh đập rã man. Mụ ép nàng phải sống kiếp đời ô nhục.

Tại lầu xanh, Thuý Kiều được Thúc Sinh, một khách làng chơi ngất ngây trước vẻ đẹp của nàng, chuộc ra và lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư - vợ cả Thúc Sinh - ghen tuông lập mưu bắt nàng về Vô Tích, bắt nàng về gãy đàn hầu rượu vợ chồng ả… Thuý Kiều đau đớn xót xa. Thúc Sinh cũng vậy nhưng không làm gì được. Kiều xin ra ở Quan Âm Các. Sau đó, Kiều bỏ chốn, náu nhờ ở chùa Giác Duyên. Giác Duyên sợ liên luỵ, gửi Kiều ở nhà Bạc Bà. Bạc Bà ép gả nàng cho cháu là Bạc Hạnh. Bạc Hạnh là tay buôn người. Kiều lại rơi vào lầu xanh lần 2.

Ở lầu xanh, Kiều lại phải tiếp khách làng chơi. Nhưng lúc nào, nàng cũng có ý thức giữ gìn phẩm giá của mình. Từ Hải là người anh hùng nổi dậy chống lại triều đình, nghe tiếng nàng, đã đến lầu xanh và chuộc kiều ra khỏi chốn này. Sau khi chuộc Kiều ra, Từ Hải đã cưới nàng làm vợ “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cỡi rồng”.

Một năm sau, Từ Hải đã có mười vạn tinh binh, rạch đôi sơn hà, lập nên một triều đình: “Năm năm hùng cứ một phương hải tần”. Từ Hải đã giúp Kiều báo ân báo oán.

Triều đình cử Hồ Tôn Hiến đi đánh dẹp Từ Hải. Do mắc mưu hắn nên Từ Hải bị giết. Kiều bị Hồ Tôn Hiến ép hầu đàn, hầu rượu…nhưng nghĩ về trọng trách của mình nên hắn ép gả nàng cho thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, Kiều trẫm mình xuống sông Tiền Đường. Nhưng nàng được sư Giác Duyên cứu và lần thứ 2 nương nhờ cửa Phật.

- Phần 3: Đoàn tụ

Lại nói về Kim Trọng, sau nửa năm về Liễu Dương hộ tang chú, chàng trở lại Bắc Kinh, tìm đến vườn Thuý. Kim Trọng kết duyên với Thuý Vân. Tuy vậy, lòng chàng vẫn luôn hướng về Kiều. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ, được bổ đi làm quan. Kim Trọng luôn đi tìm, hỏi thăm tin tức về Kiều. Nghe tin Kiều đã trẫm mình xuống sông Tiền Đường, cả gia đình đến đó lập đàn giải oan cho Kiều. Bất ngờ sư Giác Duyên đi qua và cho biết Kiều còn sống, đang tu ở chùa.

Kiều gặp lại gia đình và chàng Kim sau 15 năm trời lưu lạc. Trong bữa tiệc đoàn viên, cả nhà khuyên nàng nối lại duyên xưa. Chiều ý mọi người, Thuý Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai người cùng nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

5. Đề tài: Truyện Kiều viết về đề tài “hồng nhan bạc mệnh”. Đây là đề tài lớn vì các văn sĩ thường dành nhiều tình cảm cho họ.

6. Đại ý: Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo; là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người, tiếng nói lên án những thế lực xấu xa và khẳng định tài năng, phẩm chất, thể hiện khát vọng chân chính của con người.

7. Giá trị của của Truyện Kiều:

a. Giá trị nội dung

* Giá trị tố cáo hiện thực:
Truyện Kiều lấy bối cảnh xã hội Trung Quốc, thời Minh nhưng những gì mà tác phẩm phản ánh lại giúp chúng ta thấy trọn vẹn bức tranh hiện thực thu nhỏ về xã hội phong kiến Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX đầy rẫy những bất công, vô lí, thối nát và tàn bạo. Ở đó, số phận con người rất bi thảm bởi thế lực cường quyền và thế lực đồng tiền.

- Về tầng lớp quan lại phong kiến: Truyện Kiều đã phản ánh rất chân thực bộ mặt thật của nó. Từ quan lớn đến quan bé, từ quan ông đến quan bà đều có chung một bản chất: bất tài, tham lam, tàn ác, vô lương tâm…

+ Thằng bán tơ vu oan cho gia đình Thuý Kiều, quan lại chẳng truy xét sự tình, “sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao”, người nách trước, kẻ tay dao, “đầu trâu mặt ngựa” xông vào nhà nàng bắt đánh, trói cha và em trai, rồi :

“Đồ tế nhuyễn, của riêng tây

Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”

Sai nha như lũ cướp ô hợp thừa dịp cướp bóc dân lành.

+ Quan xử kiện Vương Ông cũng chẳng khác bọn sai nha nhiều lắm. Việc đầu tiên, hắn làm là tra hình tàn bạo:

“Rường cao rút ngược dây oan

Dẫu là đá, cũng nát gan, lọ người”

Công lý mà hắn xử không phải là lẽ phải, lẽ công bằng mà chỉ duy nhất vì đồng tiền. Ai có tiền thì hắn xử công lí cho người đó. Muốn cứu Vương Ông và Vương Quan ra khỏi chốn ngục tù thì phải “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Với con dân của quan phụ mẫu thì lấy đâu ra chừng ấy tiền để mà lo lót. Họ chỉ còn cách bán mình mà thôi.

+ Còn tên quan xử vụ Thúc Ông thì xử hết sức vô lí và vô trách nhiệm:

“Một là cứ phép ra hình

Hai là lại cứ lầu xanh phó về”

+ Mẹ con Hoạn Thư, đại diện cho tầng lớp quan bà trong xã hội lại gian ngoan, xảo quyệt:

“Bề ngoài thơn thớt nói cười

Mà trong nhan hiểm giết người không dao”

Trong nhà còn nuôi một bầy đầy tớ sẵn sàng làm những việc sai khiến, bất chấp cả đạo lí.

+ Hồ Tôn Hiến, tên quan cao nhất trong Truyện Kiều, được giới thiệu “ kinh luân gồm tài” nhưng thực chất lại bất tài, tráo trở, độc ác, dâm ô, vô liêm sỉ nhất.

- Bên cạnh phê phán tầng lớp quan lại, sai nha, tác phẩm còn phản ánh gay gắt thế lực đồng tiền. Nó tác oai tác quái trong xã hội. “Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí; sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương Ông; Tú Bà, Mã Giám Sinh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người; Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác. Cả xã hội chạy theo tiền” (Hoài Thanh). Đồng tiền, nó có một sức mạnh ghê gớm:

“Trong tay sẵn có đồng tiền

Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì”

Đồng tiền huỷ hoại nhân phẩm con người, len lỏi vào mọi tầng lớp trong xã hội. Nguyễn Du đã phê phán gay gắt thế lực đồng tiền, chủ yếu là đồng tiền trong tay bọn quan lại, sai nha, bọn buôn thịt bán người…chuyên làm việc xấu để kiếm tiền bất chính. Dường như chúng coi việc kiếm tiền là mục đích sống chứ không phải là phương tiện để sống nữa.

- Một góc hiện thực khác của xã hội nữa cũng khiến chúng ta đau lòng, đó là các nhà chứa mọc khắp nơi, mà điển hình là lầu xanh của mụ Tú Bà.

- Sống trong một xã hội như thế, những người dân lương thiện luôn gặp những bất công, vô lí, bị chà đạp, bị vùi dập đến bước đường cùng. Số phận của họ luôn đau khổ, bất hạnh, tiêu biểu cho kiếp người đó là Thuý Kiều. Thuý Kiều là người tài sắc vẹn toàn. Vậy mà cuộc đời nàng lại lênh đênh, chìm nổi kiếp đoạn trường suốt mười lăm năm trời, chịu biết bao cay đắng, tủi nhục, “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”; cuối cùng, phải trẫm mình xuống sông Tiền Đường.

=> Đó là một hiện thực đen tối, ngột ngạt…

* Giá trị nhân đạo: Cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Du qua Truyện Kiều là tinh thần nhân đạo cao cả. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở một số phương diện sau:

- Lên án các thế lực xã hội phong kiến chà đạp lên quyền sống, lên nhân phẩm…của con người. Đó chính là đồng tiền, là bọn quan lại bất nhân, tàn bạo đã đẩy Kiều rơi vào số phận bi kịch.

- Nguyễn Du cảm thương cho số phận bi kịch của con người mà cụ thể là nhân vật Thuý kiều. Ông đau đớn, xót xa trước nỗi khổ của nàng:

“Đau đớn thay, phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

- Giá trị nhân đạo, nhân văn của Truyện Kiều còn thể hiện ở chỗ: Tác phẩm đã ca ngợi vẻ đẹp hình thức, phẩm chất và tài năng của con người:

+ Trước hết là ca ngợi vẻ đẹp hình thức: Nguyễn Du đã dành những tình cảm tốt đẹp với những lời văn tuyệt mĩ cho những nhân vật mà ông yêu quý:

• Tả Thuý Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”

• Tả Thuý Kiều:

“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

• Tả Kim Trọng:

“Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”

• Tả Từ Hải:

“Râu hùm, hàm én, mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”

Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ngợi ca vẻ đẹp nhân phẩm của con người:

+ Ngợi ca sự hiếu thảo của Kiều: Nàng đã hi sinh mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ để bán mình chuộc cha. Sau này rơi vào chốn lầu xanh, Kiều vẫn luôn nhớ về cha mẹ, lo lắng không biết ai thay mình chăm sóc cha mẹ… Đó không phải là do xuất phát từ chữ hiếu hay sao?

+ Tình nghĩa thuỷ chung của Thuý kiều cũng là một nét đẹp truyền thống. Cuộc đời của nàng sau này cho dù tan nát với bao cay đắng, đau đớn, xót xa, tủi nhục ê chề, nhưng trái tim nàng lúc nào cũng hướng về Kim Trọng: “ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”.

+ Dù rơi vào hoàn cảnh nào, Kiều vẫn có ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Kiều đã tự vẫn hai lần chính vì Kiều là người trọng nhân phẩm, không chịu sống cuộc đời ô nhục. Kiều luôn khao khát sống nhưng sống là để làm người, nếu không sống đúng kiếp người thì đành phải chết cho trong sạch, giữ trọn phẩm giá trước sau như một.

+ Nhân hậu, bao dung: Hoạn Thư đã gây cha nàng bao tủi hổ, đau đớn. Vậy mà trước toà công lý, Kiều vẫn tha bổng Hoạn Thư ; nàng vẫn lo lắng cho người khác trong khi cuộc đời mình đang trong hoàn cảnh đáng thương

Nguyễn Du còn hết lòng ca ngợi tài năng của con người:

+ Thuý Kiều không chỉ là một người phụ nữ “nghiêng nước nghiêng thành” mà còn là người có nhiều tài năng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm

Cung thương lầu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

+ Từ Hải có tài năng của một người anh hùng:

“Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”,

Hay: “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”

- Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều còn thể hiện ở việc khẳng định, đề cao những khát vọng chân chính của con người:

+ Thông qua nhân vật Kim Trọng và Thuý Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định, đề cao tình yêu tự do của con người: Thuý Kiều và Kim Trọng tự do đến với nhau, đặc biệt bước chân “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của Kiều không chỉ làm cho người xưa mà còn làm cho chúng ta ngày nay phải ngơ ngác. Dù tình yêu Kim-Kiều có thể tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu không bao giờ tan vỡ. Nguyễn Du đã dũng cảm vượt qua bức tường lễ giáo phong kiến để xây dựng một mối tình Kim – Kiều thật trong sáng, đẹp đẽ và thuỷ chung biết bao.

+ Khát vọng công lí chính nghĩa:

“Anh hùng tiếng đã gọi rằng

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”

Tiếng gọi ấy là tiếng gọi của công lí chính nghĩa. Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng người anh hùng Từ Hải có tài cao, chí lớn có sức mạnh để đạp bằng mọi bất công, ngang trái trong xã hội là để thể hiện khát vọng ngàn đời của nhân dân. Xã hội trong Truyện Kiều là một xã hội bất công, tàn nhẫn mà ở đó biết bao thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống hạnh phúc của con người. Những người lương thiện như Kiều luôn phải chịu kiếp đời cay đắng. Từ Hải đã làm được cái điều mà trước đây không ai làm được, đó là đưa Thuý Kiều từ thân phận của một gái lầu xanh trở thành một bậc mệnh phụ phu nhân, từ một nạn nhân lên cầm cán cân công lí để đền ơn người lương thiện sống nhân nghĩa và trừng trị những kẻ bạo tàn, gian ác giữa thanh thiên bạch nhật.

b. Giá trị nghệ thuật:

* Thể loại:


- Truyện Kiều là một thành tựu đặc sắc nhất của thể loại thơ Nôm bác học. Đây là thể loại đặc biệt có sự kết hợp giữa yếu tố truyện và thơ, tự sự và trữ tình.

- Ở tác phẩm này, Nguyễn Du đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ dân tộc: thể thơ lục bát. Thể lục bát của Truyện Kiều vừa mang yếu tố bình dị dân dã (mộc mạc chân chất như ca dao), vừa uyển chuyển, nhịp nhàng cân đối, vừa chau chuốt, điêu luyện, giàu tính biểu cảm, biểu nghĩa của văn học bác học. Đến Truyện kiều thể thơ lục bát đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ.

* Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ Truyện Kiều là ngôn ngữ thơ ca, vừa giàu hình tượng, giàu âm hưởng nhạc điệu, vừa có khả năng gợi cảm đặc biệt. Nó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Nguyễn Du đã vận dụng rất thành công lời ăn tiếng nói của Nhân dân (ca dao, dân ca, thành ngữ…) kết hợp với việc sử dụng các điển tích, điển cố của văn học Trung Quốc. Chính sự kết hợp này đã giúp tác giả tả cảnh, tả tình, khắc hoạ tính cách nhân vật làm cho lời thơ thêm mượt mà, giản dị nhưng tinh tế, sâu sắc.

* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

Truyện Kiều có hai tuyến nhân vật: thiện – ác. Mỗi tuyến nhân vật, Thi hào Nguyễn Du lại dùng một bút pháp riêng để khắc hoạ.

- Với nhân vật phản diện: Ông sử dụng bút pháp tả thực sắc sảo để làm nổi bật bản chất xấu xa của chúng:

+ Mã Giám Sinh:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”

+ Mụ Tú bà thì:

“Thoát trông nhờn nhợt màu da

Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao”

Cách sử dụng ngôn ngữ tả để thể hiện loại nhân vật này cũng rất chân thực. Ông chỉ cần dùng một từ ngữ đã có thể lột tả cả tính cách của nhân vật. Với một từ “lẻn”, tác giả đã lột được tính cách của Sở Khanh; hay với từ “tót”, ông đã tả được tính cách nhân vật Mã Giám Sinh.

- Với nhân vật chính diện: Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng, lí tưởng hoá nhân vật:

+ Tả Thuý Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

+ Tả Thuý Kiều:

“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

+ Tả Kim Trọng:

“Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”

và :

“Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”

+ Tả Từ Hải:

“Râu hùm, hàm én, mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”

Mỗi nhân vật đều được khắc hoạ với những đặc điểm, tính cách riêng rất sinh động.

* Nghệ thuật miêu tả tả tâm lí nhân vật cũng rất tinh diệu.

Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết của hàng ngàn tâm trạng. Thầy Lê Quốc Lập nhận định: “Những diễn biến tâm lý nhân vật được khai thác triệt để, làm cho nhân vật trở nên có sức sống, chân thực, sinh động như bản thân đời sống: Kiều dịu dàng kín đáo, xông xáo quyết liệt, bâng khuâng rạo rực, lưu luyến thiết tha, băn khoăn lo lắng, khắc khoải chờ mong, buồn thương da diết, bi quan thất vọng, phẫn uất căm hờn…”.

* Nghệ thuật tả cảnh thiên:

Trong lịch sử văn học trung đại, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai tác giả viết nhiều về thiên nhiên. Mỗi người đều có cách cảm nhận riêng. Nhưng nhìn chung, cảnh nào cũng đẹp, cảnh nào cũng thơ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã để lại cho đời những bức tranh phong cảnh tuyệt tác:

Cảnh mùa xuân:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Cảnh mùa hạ:

“Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông”

Cảnh mùa thu:

“Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”

Thông qua việc miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du gợi lên tâm trạng, tình cảm con người (chỉ dùng với nhân vật chính diện). Khi tâm trạng nhân vật có diễn biến phức tạp, khó diễn thành lời thì thi nhân mượn thiên nhiên trữ tình làm ngôn ngữ để diễn tả chính xác, sinh động và tinh tế trạng thái tâm hồn của họ:

Khi diễn tả tâm trạng của nhân vật trong buổi chia tay giữa Thuý Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du viết:

Bóng tà như giục cơn buồn

Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo

Dưới cầu nước chảy trong veo

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

Còn đây là cảnh ở lầu Ngưng Bích được tái hiện qua cái nhìn đầy tâm trạng của Kiều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Bao trùm lên bức tranh ấy là tâm trạng buồn-lo, buồn lo cho số phận của mình không biết sẽ trôi dạt về đâu…

Rõ ràng, những bức tranh ấy không chỉ đơn thuần là cảnh, mà nó được vẽ bằng tấm lòng người nghệ sĩ, tả cảnh mà ngụ tình. Nó chứa trong đó cả những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Truyện Kiều” chính là một kiệt tác trong văn học trung đại nói riêng và văn học dân tộc nói chung. Nhận xét về “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường chủ nhân có nói: “…Tố Như sử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, thì tài nào có bút lực ấy…”

8. Ảnh hưởng của tác phẩm:

- “Truyện Kiều” hàng trăm năm được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả.

+“Truyện Kiều” không biết tự bao giờ đã đi vào đời sống của nhân dân, và đã trở thành lời ăn tiếng nói của những người dân bình dị nhất cho đến những người trí thức, am hiểu về văn chương bác học.

+ Trong ca dao, người ta thấy có rất nhiều câu có vận dụng những hình ảnh trong “Truyện Kiều”. Ví dụ:

“Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,

Liễu xa đào liễu ngả liễu nghiêng.

Anh xa em như bến xa thuyền.

Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi!”

+ “Truyện Kiều” đã trở thành sức sống của dân tộc, là thứ thưởng ngoạn cho tao nhân mặc khách của mọi thời. Có câu:

“Làm trai biết đánh tổ tôm

Uống trà mạn hảo, xem Nôm Thúy Kiều”.

- “Truyện Kiều” còn được giới thiệu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Người ta đã dịch“Truyện Kiều” ra nhiều thứ tiếng và nhiều người nước ngoài đã nghiên cứu về “Truyện Kiều”.

IV. KẾT LUẬN

Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng thương người sâu sắc, bao dung, là ngòi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Về nghệ thuật, ông là người kết tinh những thành tựu văn học chữ Hán và chữ Nôm của dân tộc, tổng hợp tinh hoa của nhiều thể loại văn học để sáng tác Truyện Kiều như một tiểu thuyết bằng thơ với nghệ thuật miêu tả tâm lí thần tình chưa từng có. Nguyễn Du đã đưa ngôn ngữ văn học tiếng Việt lên trình độ điêu luyện, cổ điển. Với những thành tựu đó, ông được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hoá thế giới.
(Sưu tầm tổng hợp)​
Thêm
596
0
1
Đoạn trích "Thề nguyền' được đưa vào bài đọc thêm trong chuỗi những đoạn trích tiêu biểu từ tác phẩm "Truyện Kiều" - Nguyễn Du để các bạn có thể hiểu về tác phẩm này nói chung cũng như câu chuyện tình yêu lãng mạn, nỗi tơ vò xé lòng khi chia li của Kiều. Để hiểu hơn về Trao duyên hay Kiều ở lầu Ngưng Bích thì "Thề nguyền" không nên bỏ qua, nhất là khi các bạn đã hiểu về tính cách, quan niệm, về chuyện tình cảm của Kim - Kiều sẽ càng đồng cảm hơn, thấu hiểu hơn nỗi lòng của Thúy Kiều trong các diễn biến sau này.

Trong phần đầu của truyện Gặp gỡ và đính ước (câu một đến câu 242) đã giới thiệu về chị em Thúy Kiều, cuộc gặp gỡ tình cờ với Kim Trọng. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Thuý Kiều và Kim Trọng đã trúng tiếng sét ái tình, cả hai “tình trong như đã mặt ngoài còn e”.​


Sau đó, Kim Trọng dọn đến ở trọ gần nhà Thuý Kiều. Nhân một lần Kiều bỏ quên chiếc thoa và Kim Trọng bắt được, hai người đã trao kỉ vật rồi hứa hẹn chung thuỷ cùng nhau.

Cuộc gặp gỡ giữa Kim Trọng và Thuý Kiều​

Kim Trọng và Thuý Kiều trao kỷ vật hẹn ước thuỷ chung

Khi cả nhà Kiều đi mừng thọ bên ngoại, nàng đã chủ động sang nhà Kim Trọng tự tình đến tối. Khi Kiều về nhà, thấy cha mẹ chưa về, nàng lại sang nhà Kim Trọng lần thứ hai.

Đoạn trích Thề nguyền là một trong những phân đoạn đẹp nhất Truyện Kiều, nằm ở phần một của Gặp gỡ và đính ước. Đoạn trích kể về buổi tối hai người gặp nhau tại nhà trọ của Kim Trọng, hai người hứa hẹn, thề nguyền chung thuỷ với nhau đến trọn đời.

Kiều sang nhà Kim Trọng trong tình yêu chớm nở từ lần gặp đầu tiên​

Đoạn trích Thề nguyền là màn tình yêu ngọt ngào, lãng mạn giữa nàng Kiều và chàng Kim. Việc Thúy Kiều chủ động sang tìm Kim Trọng đủ để thấy tình yêu trong nàng lớn thế nào.

Kim Trọng vốn đã phải lòng nàng nhưng vẫn còn sợ nàng không đồng ý. May mắn thay, hai người đã nhận ra tình cảm của nhau và chuẩn bị một lễ thề nguyền thiêng liêng, hạnh phúc.

Tâm trạng và tình cảm của Thuý Kiều​

Thề nguyền là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy Kiều. Một cô gái sống ở xã hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim Trọng.

Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa, gương dọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt hướng huỳnh hắt hiu


– Thề nguyền

Với bốn câu thơ này, độc giả có thể hình dung ra một khung cảnh lãng mạn, huyền ảo của đêm thề nguyền. Nơi đó có ánh trăng sáng vằng vặc cùng với ngọn đèn hiu hắt, khiến không gian trở nên thật trữ tình, thơ mộng.

Trong xã hội cũ, người con gái thường ở vị trí phụ thuộc, kể cả chuyện hôn nhân vì họ “liễu yếu đào tơ”. Thế nhưng trong Truyện Kiều, người con gái lại dám vượt qua cả hai trở ngại ấy.

Khung cảnh lãng mạn đêm thề nguyền​

Thuý Kiều dám vượt qua định kiến xã hội để tiến tới hạnh phúc

Hình ảnh nàng Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” cho thấy sự chủ động của một cô gái khi yêu, lấy hết can đảm để vượt qua mọi rào cản. Đích tới của cô gặp người mình đang thầm thương, trộm nhớ.

Sự táo bạo, mạnh dạn ấy phá vỡ mọi giới hạn của lễ giáo phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Mọi định kiến dường như không thể trói buộc đôi chân nàng, làm lu mờ tiếng gọi tình yêu.

Hơn nữa, sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực với những cảm xúc và mong muốn của mình. Tuy hành động táo bạo nhưng Thúy Kiều vượt quá giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ nông nổi của mình:

Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao


“Khoảng vắng đêm trường” đó là khoảng thời gian dài mà nàng phải vượt qua để tới gặp chàng Kim. Việc Thuý Kiều sang nhà Kim Trọng trong đêm cũng cho thấy nàng đã tự vượt qua nỗi lo, sự băn khoăn về sự tan vỡ để làm chủ tình yêu, tự sắp xếp số phận mình.

Câu thơ “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa” đã nói lên quan niệm hoàn toàn khác những cô gái cùng thời. Dường như nàng muốn tự tìm ý chung nhân, người phù hợp với bản thân hay vì cha mẹ.

Nàng Kiều muốn tự tìm kiếm ý chung nhân​

Thuý Kiều có quan niệm khác biệt so với những cô gái cùng thời

Thúy Kiều từ khi còn sống trong cảnh êm đềm, trướng rủ màn che đã có những dự cảm không lành về tương lai nhiều biến cố. Dù tình yêu đang lúc nồng nàn và say đắm nhất, nàng vẫn lo đây là giấc chiêm bao, mọi thứ rồi sẽ tan biến.

Hành động vội vã của nàng như muốn tranh thủ từng phút, từng giây hạnh phúc bên người yêu. Nàng muốn làm chủ tình yêu của bản thân, từ đó vượt lên mọi rào cản về quan niệm xã hội cũ.

Đoạn thơ thể hiện được tâm trạng và tình cảm của Thúy Kiều. Nàng đã nghe theo tiếng gọi của tình yêu, hành động mà không màng đến lễ giáo phong kiến.

Tâm trạng và thái độ của Kim Trọng​

Với chàng Kim, khoảnh khắc này thực sự đáng quý hơn bao giờ hết. Bởi sau những tháng ngày mong chờ, giờ đây đã được gặp trực tiếp để giãi bày nỗi lòng với nàng Kiều:

Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng


Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ “tiếng sen” để nói về từng bước chân nhẹ nhàng của Thúy Kiều giữa lúc chàng Kim đang nửa tỉnh, nửa mê, luyến tiếc nàng Kiều phải trở về nhà sau lần gặp thứ nhất.

Thế rồi, nàng Kiều bất chợt quay lại khiến tâm trạng chàng bâng khuâng và xao xuyến, tưởng chừng như còn mơ màng trong giấc mộng đêm xuân. Đến khi biết không phải là mơ, Kim Trọng nhanh chóng rước Thuý Kiều vào nhà.

Đoạn thơ là màn gặp gỡ của Thuý Kiều và Kim Trọng, là cuộc hội ngộ của cặp uyên ương thuở mới yêu. Thứ tình yêu thuần khiết, chân thành ấy được xuất phát từ trái tim.

Lời thề nguyền của Kim Trọng và Thuý Kiều​

Trước sự xuất hiện đầy bất ngờ của Thúy Kiều, chàng Kim vội mừng làm lễ rước vào. Niềm hân hoan, vui mừng không giấu mà thể hiện ra ngay trong nét mặt và hành động, chàng Kim cho thêm sáp vào đèn để làm cuộc gặp mặt thêm ý nghĩa, thiêng liêng hơn.


Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp song đào thêm hương

– Thề nguyền​

Hình ảnh nến sáp tạo một không gian ấm áp, hạnh phúc. Những lời thề nguyện, hẹn ước đã được chuẩn bị sẵn, kỉ vật cũng đã sẵn sàng cho khoảnh khắc thề nguyền của hai người:

Tiên thề, cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương

Bằng những câu thơ này, độc giả hình dung được không khí trang nghiêm và thiêng liêng biết bao nhiêu. Nguyễn Du sử dụng từ láy “đinh ninh” cùng lời thề “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” để minh chứng tình yêu mãnh liệt của họ dưới vũ trụ bao la.

Buổi thề nguyền ngắn gọn, vội vàng nhưng đầy đủ nghi thức như tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề nguyền. Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc mây, thể hiện được tình cảm sâu sắc mà nàng trao cho chàng.

Khung cảnh đêm thề nguyền được Nguyễn Du khắc họa bằng những chi tiết sinh động với đầy đủ ánh sáng, màu sắc và hương thơm. Nét đặc sắc của không gian đã trở thành một kỷ niệm thiêng liêng, khắc sâu trong trái tim hai người Kim và Kiều.

Khung cảnh thề nguyền được Nguyễn Du khắc hoạ sinh động​

Cảnh thề nguyền qua ngòi bút của Nguyễn Du đã trở nên sinh động

Với nhiều hình ảnh ước lệ cùng điển cố, điển tích, Nguyễn Du đã khắc họa ra một không gian thề nguyền lãng mạn, thơ mộng mà ở đó vầng trăng là nhân chứng cho mối tình son sắt của hai người.

Ánh trăng đã chứng kiến toàn bộ những biến cố trong cuộc đời Thúy Kiều, từ giây phút hạnh phúc, nồng nàn đến khi thề nguyền cùng chàng Kim. Cũng là những phút giây đau khổ, chia ly sau này.

Đoạn trích đã thể hiện đầy cảm động tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, cũng có thể thấy được đây là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong cuộc đời bạc mệnh của nàng Kiều.

Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong Thề nguyền​

Với nghệ thuật sử dụng từ ngữ có sức gợi tả cùng hệ thống hình ảnh hàm súc, đan xen việc sử dụng điển tích điển cố và nhiều từ láy có giá trị tạo hình, biểu cảm, đoạn trích Thề nguyền giúp độc hiểu về quan niệm tình yêu tự do tiến bộ của Nguyễn Du.

Nguyễn Du đã xây dựng một khung cảnh tuyệt đẹp, đó là đêm trăng tình yêu, vầng trăng ước hẹn để từ đó thể hiện khát khao tự do của Thúy Kiều. Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng chứa đựng nét trong sáng, thủy chung, son sắc.

Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn trích​

Nguyễn Du đã sử dụng nhiều điển tích điển cố trong Thề nguyền

Cảnh thề nguyền đêm trăng là khoảnh khắc hạnh phúc nhất cuộc đời của Thúy Kiều, bởi lúc ấy nàng được sống và được yêu một cách cháy bỏng. Không chỉ có lời thề nguyền hay hẹn ước, nàng hiện còn ở bên người mình yêu.

Thông qua tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du thể hiện tư tưởng nhân đạo về tình yêu thương, sự trân trọng hạnh phúc của con người. Phải kể đến những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa, một bộ phận luôn bị kìm hãm bởi lễ giáo.
Thêm
913
0
0

CẢNH NGÀY XUÂN​

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.

Đại thi hào Nguyễn Du

Vị trí: “Cảnh ngày xuân” là đoạn thơ tả cảnh ngày mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em kiều, trước đoạn Kiều gặp nấm mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng.

Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt.
Thêm
612
0
3

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Phân tích bốn câu thơ đầu trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”

Gợi ý:
– Hai câu đầu vừa nói không gian, vừa gợi thời gian. Ngày xuân thấm thoát trôi mau, tiết trời đã bước sang tháng ba. Trong...
 
Đoạn “Trao duyên” có một vị trí đặc biệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Về phương diện kết cấu, đoạn thơ đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời nhân vật chính Thúy Kiều: mở đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về phương diện chủ đề, đoạn thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ. Về phương diện nghệ thuật, đoạn thơ chứng minh tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật.
Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn “Trao duyên” diễn biến qua ba chặng như ba nấc thang tâm lí.
Mở đầu là những lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều đối với Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”


Hai câu thơ cho thấy Kiều vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, vừa như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong bao từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,...Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”. Phải chăng vì chỉ từ “cậy” mới hàm chứa nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa, tại sao là “chịu lời” mà không phải là “nhận lời”, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chắc gì Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã có ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuyện gì mà tự nguyện hay không tự nguyện. Do vậy phải là “chịu lời”, vì đây là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào hoàn cảnh không nhận không được. Ở đây Kiều hiểu hoàn cảnh khó xử của mình và càng hiểu hoàn cảnh khó xử của cô em gái. Cũng qua đây có thể thấy Nguyễn Du là thi sĩ thật “sâu sắc nước đời”.

Thúy Kiều đã không quá dài lời về hoàn cảnh của mình. Những việc vừa xảy ra ai chẳng rõ. Nhưng bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới là người thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và khi “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa hiếu và tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu là chuyện chữ hiếu thì Kiều đâu phải “cậy”, phải “lạy”, phải “thưa” với cô em gái của mình; việc gá duyên, với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.

Mâu thuẫn chính được thể hiện qua đoạn trích là “mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi và hạnh phúc bị tan vỡ”. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng gặp trong ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.

Sau tám câu mở đầu KIều nói với Vân về nỗi bất hạnh của mình, về sự thấu hiểu hoàn cảnh khó xử của em, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự biểu hiện qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Những lời tâm sự có tác dụng thuyết phục. Kiều ràng buộc Vân bằng tình máu mủ, lại khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của em:

“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”


Vừa thuyết phục vừa ràng buộc, ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Nhưng chính lúc mục đích đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều lên tới đỉnh cao. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ không phải vì “lời nước non” cho nên Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân, còn tình yêu, nàng đâu có dễ trao. Với tình yêu, Kiều là “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật, linh hồn bất tử.

Kiều đã trao lại Vân những kỉ vật. Nàng những mong, bằng kỉ vật, nàng sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỉ vật đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày đẹp nhất của đời Kiều. Kỉ vật thiêng liêng bởi nó là riêng – chỉ riêng cho Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em mình. Bao xót xa trong một từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Bao đớn đau trong một từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”. Hiện thực đẹp đẽ, rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng. Thời gian khách thể bị phá vỡ, nhường chỗ cho thời gian của tâm trạng. Kỉ vật còn đó mà đối với tình yêu, Kiều không hiện diện. Có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã mất. Con đường trở về bằng kỉ vật đã không giúp được Kiều.



Kiều tìm đến con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều những mong bằng sự trở về ấy nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm của người thương “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Thế nhưng, như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa thì trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ.

Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm mà còn được đẩy lên mức cao hơn. Ấy là lúc sự trở về bằng linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm nhận thực tế của người con gái họ Vương. Kiều ý thức rất rõ về cái hiện sinh, cái “bây giờ”: “Trâm gãy gương tan”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”.

Kiều ý thức về cái hiện hữu, cái “bây giờ” và Kiều càng thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi thương người, vì người, nàng đã tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải là vị kỉ mà vẫn là rất mực vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không chút bóng dáng của đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều xong xuôi, bây giờ mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao” (Lê Trí Viễn).

Tâm trạng bi kịch của Kiều càng sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận nàng vẫn không thôi khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của người em gái. Đang từ đối thoại với Vân, Kiều trở về độc thoại nội tâm và rồi nàng như hướng tất cả về Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”


Trong một câu thơ, tên Kim Trọng được gọi đến hai lần, kèm theo là những thán từ chỉ sự đớn đau, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc, để rồi đến câu thơ dưới nhịp thơ dài ra như một lời than.

Lời trao duyên kết thúc bằng một lời than, bằng tiếng kêu đớn đau, tuyệt vọng. Tuy nhiên, tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu được khẳng định. Đó là nét đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ có bi kịch, đau thương nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ánh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người.

Đoạn thơ cho ta thấy “sức cảm thông lạ lùng” (Hoài Thanh) của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua “Trao duyên”, ta còn thấy bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc của tác giả “Truyện Kiều”.

(Phân tích tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại – Lã Nhâm Thìn)

Thêm
  • Like
Reactions: Văn Học
739
1
0

TRAO DUYÊN (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)​

I. GIỚI THIỆU ĐOẠN TRÍCH​

– Vị trí: Sau đêm thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Tai nạn ập đến khi gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Vương Ông và Vương Quan bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, tài sản bị cướp hết. Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

– Nội dung: Đoạn trích miêu tả tình cảnh trớ trêu của Kiều khi phải trao duyên cho em.Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng khi tình yêu tan vỡ, mình buộc phải phụ tình với Kim Trọng.

II. PHÂN TÍCH​

1. Thúy Kiều nhờ cậy, thuyết phục TV thay mình kết duyên với KT​

a. Kiều thuyết phục Thúy Vân​

– Lời lẽ tha thiết gửi gắm:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”


+ “Cậy” (không phải “nhờ”):
• Nhờ với tất cả sự hy vọng, tin tưởng, tha thiết gửi gắm, phó thác tuyệt đối vào em.
• Âm nặng như dồn nén, chuyên chở, chứa chất sức nặng của một cõi lòng đang quằn quại, khó nói của một lời gửi gắm, nương tựa, trối trăng, một lời khẩn khoản thiết tha.
+ “Chịu” (không phải “nhận”):
• cũng là nhận lời nhưng là nhận lời trong tâm thế bị ràng buộc, khó có thể chối từ
• sự thấu hiểu những thiệt thòi, hy sinh, khó xử nếu Thúy Vân nhận lời (Thúy Vân sẽ phải kết duyên với người mình chưa hề quen biết) => Đòi hỏi phải có sự chia sẻ, thấu hiểu, cảm thông

– Thái độ, hành động khẩn khoản, chân thành: “lạy…thưa”
+ Phi lí: thay đổi thứ bậc, chị phải lạy em
+ Hợp lí:
• Tạo không khí thiêng liêng, trịnh trọng, hé lộ tính chất hệ trọng của sự việc sắp nói tới
• Kiều là người chịu ơn, muốn bày tỏ lòng biết ơn trước sự hy sinh to lớn của em, với Kiều thì Vân là ân nhân của mình vì đã hy sinh hạnh phúc cá nhân mình vị chị
=> Hiểu rõ việc mình sắp nhờ cậy em là một việc hết sức hệ trọng và tế nhị, Vân sẽ khó xử, vì vậy Kiều mở đầu lời trao duyên bằng những lời lẽ tha thiết gửi gắm, khéo léo ràng buộc và bằng cả một thái độ khẩn khoản, chân thành, đầy kính cần khiến Vân khó lòng từ chối.

b. Kiều tâm sự với Thúy Vân​

* Về cảnh ngộ éo le của mình:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”


Tình yêu thơ mộng với chàng Kim Thực tế đắng cay
+ Điệp ngữ “Khi ngày…khi đêm” + phép đối ngày > < đêm thể hiện sự gắn bó sâu nặng của 2 người
+ Quạt ước, chén thề: những kỉ niệm tình yêu hạnh phúc, những lời thề thủy chung son sắt
=> Tình cảm sâu nặng, thắm thiết, khó có thể phai mờ + “Giữa đường đứt gánh tương tư”: với người xưa, tình yêu là gánh nặng, lúc tình cảm đang đậm sâu nhất, đắm say nhất thì gánh đứt, không sao mang xách lại được
+ “Sóng gió bất kì”: hình ảnh ẩn dụ cho tai họa bất ngờ ập đến phá tan tất cả, gia biến do thế lực PK gây ra
=> Thực tế đắng cay,
=> Thực tế tàn nhẫn buộc nàng phải chọn lựa giữa “tình” và “hiếu”: ý thức sâu sắc về tình cảnh ngang trái, éo le của mình + sự chọn lựa khó khăn, nghiệt ngã
• Quyết định: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
+ “Keo loan” là loại keo bền nhất được làm từ máu chim loan => Hy vọng Thúy Vân sẽ nối lại tình duyên với KT một cách bền chặt, dài lâu, vĩnh cữu chứ không bị đứt gánh giữa đường như Thúy Kiều.
+ “Mối tơ thừa”: với TK thì đó là mối duyên nhưng với Thúy Vân đó là mảnh duyên do chị trao lại, là mối duyên không trọn vẹn => ý thức sâu sắc về sự thiệt thòi của Thúy Vân.
+ “Mặc em”: quyết định phó mặc, dứt khoát, trông cậy mọi việc vào em.
=> Lời Kiều nói với Vân tưởng như chỉ kể lể đơn thuần để Vân hiểu được tình cảnh của mình nhưng thật ra, bên trong đó là cả tấm lòng hiểu mình, hiểu người, hiểu đời và cả những đớn đau, mất mát, chia lìa.

c. Lời Kiều thuyết phục Thúy Vân​

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”


• “Ngày xuân”: ẩn dụ cho tuổi xuân của người con gái. Vân vẫn còn trẻ, còn hạnh phúc, còn một tương lai đầy hứa hẹn (đồng thời ngầm so sánh với mình nay chẳng còn gì cả mất đi tình yêu, Kiều xem như mình đã không còn tuổi xuân, hy vọng, không còn hạnh phúc)
• “Xót tình máu mủ”: cách nói bình dân tác động đến tình cảm của TV, hãy vì tình cảm chị em ruột thịt thiêng liêng mà thay chị gánh lấy trách nhiệm nặng nề “thay lời nước non”
• “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”: thành ngữ dân gian thể hiện cái chết để ràng buộc em (nghĩa tử là nghĩa tận). Thúy Kiều sẽ thanh thản, toại nguyện vì dẫu chết vẫn mang tiếng thơm bởi là người có tình nghĩa. Đồng thời nàng mơ hồ nhận ra tương lai tăm tối đang chờ đợi mình phía trước, đó là dự cảm về cái chết đang chờ đợi.
=> Với cách nói đầy thương cảm, thống thiết, Kiều đã đưa ra những lý lẽ rất thuyết phục, vừa có lý vừa có tình để TV nhận lời trao duyên. Lúc này, con người lý trí đã chiến thắng những đau đớn, yêu thương đang trỗi dậy trong lòng.

2. Trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò những chuyện sau này​

a. Trao kỉ vật​

– Lí trí mách bảo: quyết định trao kỉ vật
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
+ Chiếc vành: chiếc vòng xuyến đeo tay của những thiếu nữ, là tín vật kỉ niệm mà KT đã tặng nàng.
+ Bức tờ mây: tờ giấy có trang trí hình mây ghi lời thề nguyền đôi lứa
=> Những kỉ vật gắn bó với tình yêu sâu đậm giữa Kim – Kiều. Kiều quyết định trao kỉ vật là hành động thể hiện sự dứt khoát trao duyên cho em, để thuyết phục, tạo niềm tin cho em và sự giải phóng cho mình : LÍ TRÍ
– Con tim trù trừ, do dự:
+ Nhìn thấy kỉ vật, bao kỉ niệm, tình yêu bỗng ùa về. Trao kết kỉ vật nghĩa là hoàn toàn đoạn tuyệt với mối duyên này, kể từ giây phút đó chàng Kim sẽ vĩnh viễn không thuộc về nàng nữa => Nhận thức đầy đủ nỗi mất mát của tình yêu tan vỡ.
+ Trong đau đớn tột cùng, Kiều cố gắng giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi
• “giữ” không có nghĩa là trao hẳn, chỉ là “giữ” mà thôi
• “của chung”: Kỉ vật đó giờ là của chung 3 người, Kiều vẫn lưu luyến, níu kéo, vẫn muốn có sự tồn tại, hiện diện của mình trong những kỉ vật đó
=> Kiều có thể trao em chữ “duyên”(nhân duyên, duyên phận, cơ duyên: sự run rủi cho số phận hai người gặp nhau, kết đôi với nhau và lấy nhau), còn chữ “tình” thì không thể trao đi. Trao kỉ vật nhưng không thể trao hồn kỉ vật.
<=>Lí trí đã quyết nhưng con tim vẫn trù trừ do dự. Con tim muốn níu giữ tình yêu còn lí trí buộc phải dứt tình. Điều này khiến nàng thêm đau đớn, giằng xé tâm can.

b. Tâm trạng sau khi trao kỉ vật​

Trao duyên xong, Kiều dường như đã chết:
– Hình ảnh cõi âm hiện lên nửa thực nửa mộng: cách mặt khuất lời, dạ đài, người mệnh bạc, người thác oan, thân bồ liễu … => tâm trạng đau đớn tột cùng khiến con người rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh, chỉ nhìn thấy phía trước một màu tăm tối của cái chết, của đau đớn, của oan khuất, cô đơn.
– Lời của Kiều là lời của một oan hồn mệnh bạc, âm dương cách trở, không nói được lời nào:
• Nhắc đến những kỉ niệm ngày xưa đầy xót xa “mảnh hương nguyền, phím đàn”, “lò hương”…trong đêm thề hẹn
• Hình dung oan hồn bơ vơ, thê thảm của mình: ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ
• Khao khát nhận được sự đồng cảm nơi người còn sống: “Dạ đài…thác oan”: bấy giờ, Kiều và Vân sẽ thuộc về hai thế giới cách biệt, không thấy được nhau và nghe được nhau. Khi đó, Kiều mong em có thể rảy chén nước rửa nỗi oan khuất của Kiều => Trong hoàn cảnh ấy, Kiều vẫn ý thức sâu sắc về nỗi oan khuất của mình và đấu tranh đến cùng với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
• Khát vọng trả món nợ nghĩa tình “Hồn còn…trúc mai” àMâu thuẫn trong Kiều: lúc thì cho rằng trao duyên xong sẽ ngậm cười nơi chín suối, khi trở thành oan hồn vẫn muốn đền đáp món nợ tình, lời thề năm xưa “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Rõ ràng đây là tâm lý mâu thuẫn, phức tạp, day dứt => Tư tưởng thủy chung son sắt dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo.
=>Chới với trước viễn cảnh tương lai, Kiều nửa tỉnh nửa mê, nửa như đang sống, nửa như người đã chết. Nói với em mà lời Kiều như phảng phất từ cõi bên kia đang vọng về.

3. Lời độc thoại nội tâm của Kiều​

– Sau khi hoàn tất việc trao duyên, đáng lẽ Kiều phải thấy an tâm, yên lòng đằng này Kiều lại như thấy hụt hẫng, xót xa. Tiếng nói thành tiếng than khóc, nói với em mà như nói với chính mình, rời quên hẳn xung quanh, quên hẳn Vân trước mặt, chỉ còn lời độc thoại nội tâm:
• Ý thức được sự đối lập giữa:
+ Quá khứ: hạnh phúc, viên mãn “muôn vàn ái ân”, ân tình không đong đếm nổi
+ Hiện tại: bi kịch tình yêu tan vỡ, tâm hồn đau đớn nát tan “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”
=> Thúy Kiều nghẹn ngào đau đớn, xót xa trước thực tại, giọng thơ chua chát, cay đắng. Quá khứ giờ đây đã trở thành niềm khát khao mãnh liệt.
=>Bi kịch càng thêm sâu sắc
• Hướng tới Kim Trọng: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” thể hiện sự day dứt, giày vò, đồng thời thấy được tình yêu cao thượng của Thúy Kiều. (Tuy trao duyên cho TV nhưng vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi, cái lạy này là cái lạy tạ lỗi vô cùng thóng thiết. Trong tình cảnh này, Kiều không thể làm gì hơn ngoài sự tạ lỗi với chàng Kim, cái lạy trong đau đớn, xót xa, trách đời, trách mình, đồng thời kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi đầy tiếc nuối)
• Ý thức được tình trạng bi kịch của bản thân:
+ “Bạc như vôi”: số phận bất hạnh, cuộc đời bạc bẽo
+ “Nước chảy hoa trôi”:
=> Số phận long đong, lận đận, chịu kiếp dập vùi, trôi nổi trên dòng đời vô định, nhơ nhớp, cuộn xiết không thể nào cứu vãn
=> Thành ngữ thể hiện cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, tượng trưng cho tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều chấm dứt từ đây.
• Bi kịch tình yêu đến đỉnh điểm, Kiều thốt lên tiếng kêu xé lòng:
+ Thán từ “ôi hỡi”, nhịp thơ 3/3 như một tiếng nấc đau thương, nghẹn ngào, tiếng kêu than thảng thốt của người phụ nữ tuyệt vọng.
+ Lời gọi được lặp lại một cách trang trọng “Kim Lang”(cách xưng hô thể hiện quan hệ vợ chồng) như một lời kêu cứu tuyệt vọng
+ Điệp từ “thôi” vừa thể hiện sự dằn vặt, vừa xác nhận sự phụ bạc, nhịp thơ ngân dài như tiếng kêu than vọng mãi không có lời đáp
=> Kiều tự cho mình là người phản bội lại tình yêu, qua đó, ta nhận thấy thêm sự vị tha, thủy chung, giàu đức hy sinh của Kiều
=> Cuộc trao duyên kết thúc trong đỉnh điểm nỗi đau, trong tiếng kêu than tuyệt vọng bởi tình yêu tan vỡ nhưng đó cũng là lúc khát vọng tình yêu lên tiếng.

*** Đoạn trích kết lại bằng tiếng kêu xé lòng trong tột cùng đau đớn của Thúy Kiều khi nàng ý thức sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ của mình. Kiều thương mình thì ít, thương cho chàng Kim thì nhiều. Nàng đã nhận hết mọi trách nhiệm của sự tan vỡ tình duyên về mình. Có thể nói, trong đau khổ tột cùng Kiều vẫn sáng lên vẻ đẹp của một nhân cách cao thượng: ân cần, chu đáo với Kim Trọng mà vẫn tự trách, nàng quên đi bất hạnh của mình để cảm thông cho người khác. Đây là giây phút độc thoại thật nhất, nhân bản nhất.
Thêm
  • Like
Reactions: Văn Học
606
1
0
Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần hai “Gia biến và lưu lạc” của tác phẩm “Truyện Kiều”. Trích đoạn này đã được đại thi hào Nguyễn Du diễn tả bằng khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn phòng khuê để rồi phải lưu lạc chốn thanh lâu với biết bao nỗi khổ đau đầy tủi nhục và lòng thương nhớ những người thân da diết.

xkk (10).png

Ôn tập kiến thức cơ bản đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” - Nguyễn Du

Câu 1. Vị trí đoạn trích trong Truyện Kiều

Trả lời


- Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc) của Truyện Kiều;

- Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để tiếp tục nghĩ ra kế sách mới.

Câu 2. Nội dung chính của đoạn trích

Trả lời


Miêu tả cảnh ngộ cô đơn buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo rất đáng thương, đáng trân trọng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

Câu 3. Bố cục của đoạn trích

Trả lời


- 6 câu đầu: Khung cảnh bi kịch của nội tâm;

- 8 câu tiếp: Nỗi nhớ người thân;

- 8 câu cuối: Tâm trạng buồn lo của Kiều.

Câu 4. Viết một đoạn văn trình bày của cảm nhận của bản thân về đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Đoạn văn mẫu


Truyện Kiều là đại kiệt tác của Nguyễn Du, là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học trung đại Việt Nam có thể vươn ra bên ngoài thế giới, hòa nhịp cùng với nhịp vận động đầy sôi động của văn học thế giới. Thành công của Truyện Kiều ngoài phương diện nội dung, thẩm mĩ còn nằm ở các yếu tố nghệ thuật. Nguyễn Du được đánh giá là bậc thầy trong việc miêu tả nhân vật, trong việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện được rõ nét nghệ thuật miêu tả đặc sắc này. Lầu Ngưng Bích là nơi Thúy Kiều sống sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, lầu Ngưng Bích là lầu nhỏ, không gian khép kín, nhìn từ lầu Ngưng Bích có thể thấy khung cảnh hùng vĩ của núi non mây trời. Ở nơi hoang vắng như lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều không thể tìm thấy một người để bầu bạn, tâm sự, đối diện với bản thân nàng luôn mang trong mình nỗi đau khổ, buồn tủi khi bản thân bị ô nhục, bị đẩy đến mức đường cùng “bẽ bàng”. Mây sớm đèn khuya không chỉ à những dấu hiệu để nàng nhận biết thời gian mà nó còn gợi nhắc đến sự cô đơn, trống trải cùng nhịp sống vô vị, nhạt nhẽo của Thúy Kiều trong lầu Ngưng Bích. Khung cảnh trầm buồn như hòa quyện cũng với tâm trạng đau khổ, cô đơn của Kiều “Nửa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”. Ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều nhớ về Kim Trọng, cùng với lời thề nguyền dưới ánh trăng, hai người đã cùng nhau thề ước nhưng vì hoàn cảnh Thúy Kiều đã buộc phá bỏ lời thề. Từ đó hai người không gặp nhau, do vậy nên Kiều luôn mang trong mình nỗi day dứt, đau đớn, lo lắng vì sợ chàng Kim vẫn đang chờ đợi mình trong nỗi tuyệt vọng. Hướng nỗi nhớ về cha mẹ, Thúy Kiều đau khổ khi không thể kề cạnh bên cha mẹ khi cha mẹ già, không thể thực hiện tròn trách nhiệm của một người con, nàng đau đáu trong lòng vì không biết giờ đây ở nhà cha mẹ như thế nào, có ai quạt khi trời nóng, có ai làm ấm chăn khi trời trở lạnh hay không. Điều làm nàng đau khổ nhất là không thực hiện tròn chữ hiếu còn khiến cha mẹ mòn mỏi ở nhà lo lắng, trông mong tin tức từ đứa con. Ở đây, Thúy Kiều buồn cho chính thân phận của mình, đó là thân phận bèo bọt, bất hạnh, tựa như những cánh hoa trôi giữa dòng nước, rồi sẽ chảy trôi về đâu không ai có thể biết. Không gian xung quanh như chính cuộc đời phía trước của nàng, luôn bất an, không chắc chắn.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Ôn tập đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của Nguyễn Du mới nhất
804
0
0
Nằm ở phần miêu tả đặc sắc nét đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du đã được khắc họa một cách đặc biệt. Bức chân dung Vân – Kiều cũng đã thể hiện được tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du trong việc miêu tả tinh tế vẻ đẹp con người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng.

xkk (8).png

Ôn tập kiến thức cơ bản đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” - Nguyễn Du

Câu 1. Vị trí đoạn trích trong Truyện Kiều

Trả lời


Đoạn trích thuộc phần 1 “Gặp gỡ và đính ước” của Truyện Kiều, trong mạch thơ giới thiệu về gia đình Vương ông, Nguyễn Du tập trung bút lực giới thiệu về hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều.

Câu 2. Nội dung chính của đoạn trích

Trả lời


Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” không chỉ khắc họa vẻ đẹp của những trang tuyệt thế giai nhân mà còn thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du.

Câu 3. Bố cục của đoạn trích

Trả lời


- Đoạn 1 (4 câu đầu): giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều;

- Đoạn 2 (4 câu tiếp): gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân;

- Đoạn 3 (12 câu tiếp): gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều;

- Đoạn 4 (4 câu cuối): Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.

Câu 4. Viết một đoạn văn trình bày của cảm nhận của bản thân về đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

Đoạn văn mẫu


Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” trong Truyện Kiều đã gợi tả được vẻ đẹp đặc sắc của hai cô con gái nhà họ Vương, vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều cũng như vẻ đẹp của từng người được Nguyễn du khắc học một cách rõ nét bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Bằng bút pháp so sánh ước lệ, vẻ đẹp về hình dáng (mai cốt cách) và vẻ đẹp về tâm hồn (tuyết tinh thần) của hai chị em được tôn lên đến độ hoàn mỹ. Cả hai đều đẹp mười phân vẹn mười. Trong cái đẹp chung ấy có cái đẹp riêng của từng người - Mỗi người một vẻ. Tác giả đặc tả nhan sắc Thuý Vân - một con người phúc hậu, đoan trang. Nàng có vẻ đẹp cao sang quý phái trang trọng khác vời. Từ cái đẹp của Thuý Vân, Nguyễn Du chỉ cần giới thiệu một câu: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”, thế là vẻ đẹp của Thuý Kiều đã vượt lên trên vẻ đẹp của Thuý Vân (sắc sảo) và tâm hồn (mặn mà). Tả Vân trước, tả Kiều sau đó là cách tác giả mượn Vân đế tả Kiều. Qua vẻ đẹp của Vân mà người đọc hình dung ra vẻ đẹp của Kiều. Ở Vân trác giả không hề tả đôi mắt, còn ở Kiều tác giả lại đặc tả đôi mắt. vẫn là nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đôi mắt của Kiều được so sánh với: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Cái sắc sảo mặn mà của đôi mắt chính là biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn. Với đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, thiên nhiên sẵn sàng thua và nhường còn vẻ đẹp của Kiều làm cho thiên nhiên. Tác giả ngợi ca Thúy Kiều là một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, không những thế tài năng của nàng xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng có người thứ hai sánh bằng. Với tất cả tài năng, phẩm chất của nàng đang có thì chắc chắn rằng, cuộc sống êm đềm hiện tại, sự an nhàn tĩnh tại ngầm chuẩn bị trước cho một trận bão táp cuồng phong. Trong dân gian xưa cũng có câu: “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”. Sống trong khuôn phép, trong “trướng rủ màn che”, hai chị em đã sắp tới tuổi tìm đấng phu quân cho mình nhưng có lẽ với chữ “mặc” ở câu thơ cuối đã thể hiện thái độ của Kiều và Vân, không tơ tưởng đến những kẻ ngoài kia. Tóm lại, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa được vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân. Qua đó, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả đầy độc đáo của Nguyễn Du.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Ôn tập đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du mới nhất
  • Like
Reactions: VHT
623
1
0
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều” của đại thi hào của Nguyễn Du đã khắc họa nên những hình ảnh rộn ràng, vui tươi trong tiết trời giao hòa. Bên cạnh đó, sự hòa quyện giữa cảnh sắc thiên nhiên và con người cũng là một trong những hình ảnh đặc trưng của đoạn trích.

dn (4).png


Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân”

BÀI LÀM MẪU

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều” của đại thi hào của Nguyễn Du đã khắc họa nên những hình ảnh rộn ràng, vui tươi trong tiết trời giao hòa. Bên cạnh đó, sự hòa quyện giữa cảnh sắc thiên nhiên và con người cũng là một trong những hình ảnh đặc trưng của đoạn trích.

Người xưa có câu: Thi trung hữu họa, và nếu thế thì “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du quả thực đã họa nên một bức tranh màu xuân vừa tinh khiết, tươi mới, lại cũng giàu sức sống biết bao.
"Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"

Câu thơ mở đầu, ẩn dụ qua hình ảnh con én đưa thoi đã cho thấy sự trôi chảy quá nhanh của thời gian, lúc này đã sang tháng ba, tháng cuối cùng của mùa xuân. Hình ảnh ẩn dụ đã nêu và hình ảnh hoán dụ “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” là một cách nói rất đắt của Nguyễn Duy diễn tả sự trôi chảy quá nhanh của thời gian. Để tiếp đến, trước sự ngỡ ngàng của lòng người, tác giả phác họa nên một vài nét về bức tranh xuân với những điểm họa độc đáo. Nền của bức tranh là màu của sự sống, của sức xuân, của sức trẻ, của sự tươi mới, ấy là màu xanh non trải rộng bất tận tới chân trời, không chỉ gợi nên không gian bao la, mà còn thổi hồn cho không gian sống tưởng như vô tri ấy. Tất cả đếu sinh động, tươi mới đến lạ thường, rõ ràng thơ cổ ưa vẻ đẹp tĩnh, thanh đạm ..thế nhưng ở trong thơ Nguyễn Du, bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên dồi dào sức sống, rạo rực nhựa sống. Và trên nền màu xanh non ấy, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Gam màu trắng của hoa lê và nền xanh của cỏ đã tạo nên một bức tranh thật hài hòa màu sắc, tinh tế trong đường nét. Nguyễn Du không hề tả chi tiết từng cảnh vật lúc đương xuân, mà chỉ chọn mắt điểm tên, nhưng vẫn nảy ra được vẻ đẹp đặc trưng của không gian màu xuân, mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống “cỏ non”; khoáng đạt và trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng và thanh khiết (trắng trẻo). Khéo khen thay cho ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du, đặt chữ điểm ở câu thơ đã làm cho cảnh vật trở nên không tĩnh tại, sống động và có hồn.

Trong thơ cổ Trung Quốc cũng có những câu thơ rất ấn tượng, thậm chí đã trở thành điển cố khi tả về mùa xuân:
"Phương thảo niên bích

Lê chỉ số điểm hoa"

Có thể thấy, chữ điểm trong thơ Nguyễn Du đã khiến cho cảnh vật thêm sinh động, sống động và có hồn hơn, chứ không mang vẻ đẹp tĩnh lặng như trong câu thơ cổ.

Không chỉ miêu tả bức tranh thiên nhiên, trong cảnh ngày xuân, Nguyễn Trãi còn tái hiện lại những hoạt động nô nức của con người trong những ngày này:

"Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thành

Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm

Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Thiên nhiên ngập tràn sự sống, con người cũng rộn ràng, náo nức cùng đi tảo mộ, đi thưởng ngoạn đó đây, so sánh “như nước, như nêm” của Nguyễn Du đã cho thấy cảnh tượng đông đúc nhộn nhịp của con người đi chảy hội, đồng thời phần nào là bản lề đối lập cho bức tranh tâm trạng của chị em Thúy Kiều trong câu thơ cuối:
"Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Thiên nhiên tươi đẹp, con người rộn ràng, náo nức, thế nhưng dường như ở giữa bức tranh đó, tâm trạng của chị em đặc biệt là Thúy Kiều vẫn cảm thấy phần nào cô quạnh, hiu hắt. Trước hết là bởi thời gian chiều tà muôn thuở là thời gian gợi buồn, thêm nữa để ý thấy các tính từ trong đoạn thơ cuối cũng giảm dần sắc độ, nhịp độ, tạo nên một bức tranh phong cảnh nhỏ xinh, dịu dịu phù hợp với sắc thái tâm trạng của nhân vật. Nao nao, thanh thanh, nho nhỏ, tất cả các từ láy tượng hình, tượng thanh đều góp phần giúp Nguyễn Du đặc tả thế giới nội tâm đang rất phức tạp của nhân vật, đồng thời cũng nói lên khả năng quan sát tinh tế của nhà thơ.

Quả thật, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trong tác phẩm “Truyện Kiều” đã mang đến màu sắc độc đáo. Qua đó, năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ của đại thi hào Nguyễn Du cũng ngày càng được khẳng định rõ ràng và chân thật.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân” mới nhất
369
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top