Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
1. Tác giả

- Là nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ

- Phong cách thơ : Gần gũi với văn hóa dân gian, sâu sắc, tài hoa, đi sâu vào cái nghĩa cái tình muôn đời của người dân VN

- TP : Tre Việt Nam, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò lèn, Đánh thức tiềm lực….

2. Tác phẩm

- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1978, tại TP. HCM

- Xuât xứ : in trong tập Ánh trăng

- Bố cục : 3 phần

+ 2 khổ đầu : Vầng trăng trong quá khứ

+ 2 khổ tiếp : Vầng trăng trong hiện tại

+ 2 khổ cuối : Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng

- Chủ đề : Thông qua hình tượng ánh trăng và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ diễn tả những suy nghĩ sâu sắc về thái độ của con người với quá khứ gian lao, tình nghĩa.

II. Luyện đề

Đề bài: Phân tích bài thơ « Ánh trăng » của Nguyễn Duy

I. Mở bài:

- Có những tác phẩm chỉ cần đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe. Và « Ánh trăng » của Nguyễn Duy là một trong những tác phẩm như thế.

- Bài thơ giúp ta cảm nhận được những kỉ niệm đẹp gắn bó giữa con người và vầng trăng đồng thời gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung.

II. Thân bài

1. Khái quát chung

-
Bài thơ ra đời năm 1978 tại TP HCM, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Bài thơ giống như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ tới hiện tại, gắn các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy, mạch cảm xúc đi từ quá khứ tới hiện tại và lắng kết trong cái giật mình ở cuối bài thơ.

2. Phân tích

a. Vầng trăng trong quá khứ.


Ở hai khổ thơ đầu, tác giả gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:

“Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ


- Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê các hình ảnh bình dị « đồng, sông, bể » để gợi ra một không gian rộng lớn, gần gũi ở làng quê Việt Nam.

- Câu thơ giúp ta cảm nhận được tuổi thơ tươi đẹp của nhân vật trữ tình được vui chơi thoải mái thả diều, chăn trâu nơi đồng ruộng, tắm mát, ngụp lặn với sông, với bể của quê hương.

- Giọng thơ thủ thỉ tâm tình cùng nghệ thuật điệp ngữ « với » đã nhấn mạnh sự gắn bó, thân thiết giữa con người với thiên nhiên.

- Thiên nhiên không chỉ gắn bó với tuổi thơ mà còn gần gũi với con người lúc trưởng thành. Khi đất nước có chiến tranh tác giả đã cầm súng lên đường chiến đấu bảo vệ quê hương. Nơi chiến trường ác liệt con người làm bạn với vầng trăng.

- Nghệ thuật nhân hóa «vầng trăng thành tri kỉ » đã diễn tả mối quan hệ thân thiết, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.

- Như vậy, suốt một thời gian dài từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành con người với vầng trăng luôn luôn song hành quấn quýt như đôi bạn thân tình.

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”


- Cái hay trong câu thơ là từ ghép «trần trụi » giàu sức gợi hình biểu cảm. Đứng trước thiên nhiên, con người được sống thật với lòng mình, không phải e dè, không có gì phải giấu giếm. Con người sống say mê, sống sôi nổi thành thật, sống hết mình, chia sẻ đến tận cùng mọi buồn vui sướng khổ.

- Nghệ thuật so sánh “hồn nhiên như cây cỏ” đã diễn tả lối sống trong sáng, vô tư của con người. Con người đã hòa mình chung sống cùng thiên nhiên, cùng cỏ cây hoa lá, giữa thiên nhiên với con người dường như không còn khoảng cách.

- Với sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm “không bao giờ quên”, tự dặn lòng không quên, mãi thủy chung, biết ơn quá khứ.

=> Trong quá khứ, dẫu hoàn cảnh đầy khó khăn, khắc nghiệt, trăng vẫn đồng hành với con người trên mọi bước đường và trở thành người bạn tri kỉ để chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn. Vầng trăng đã trở thành biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung.

- Giọng thơ hồi tưởng ân tình nhưng từ “ngỡ” vang lên như một nốt đàn lạc cung, như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển, rẽ câu chuyện tình nghĩa sang một hướng khác

b. Vầng trăng ở hiện tại.

- Cuộc kháng chiến chống Mĩ hoàn toàn thắng lợi, cuộc sống của con người có sự thay đổi chuyển từ núi rừng về thành phố:

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”


- Tác giả đã tạo ra sự đối lập về hoàn cảnh sống của con người ở hiện tại và quá khứ: Từ những nhà tranh, vách nứa chốn rừng sâu, nước độc, nay trở về trong những tòa nhà khang trang, hiện đại của thành phố.

+ “quen ánh điện cửa gương” là cách nói hoán dụ để tô đậm cuộc sống đầy đủ tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên.

+ Hình ảnh nhân hóa, so sánh: “vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người: Vầng trăng thì vẫn còn đấy, thủy chung tình nghĩa nhưng con người thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra. Con người trong cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc, êm ấm dễ vô tình hay cũng có thể là cố tình quên đi người bạn năm xưa.

- Tác giả so sánh vầng trăng với “người dưng” là người lạ không quen biết khiến ta có cảm giác ớn lạnh về thái độ sống vô tình, bạc bẽo của con người. Con người bạc bẽo với vầng trăng cũng chính là quay lưng với quá khứ. Câu thơ khiến người đọc có cảm giác xót xa, ớn lạnh về hiện tượng suy thoái đạo đức của một số người trong xã hội hiện nay.

=> Câu thơ mang một ý nghĩa khái quát: Khi hoàn cảnh sống thay đổi thì con người ta có thể phản bội lại chính mình, dễ dàng lãng quên đi những gian khổ, đau thương của một thời đã qua. Song, cái sự quên ấy cũng là lẽ thường tình bởi những lo toan thường nhật từ cuộc sống.

- Giống như một câu chuyện nhỏ, tác giả sáng tạo một tình huống độc đáo để con người nhận ra ý nghĩa của vầng trăng.

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”


- Từ láy “thình lình” và cách đảo trật tự cú pháp đã góp phần diễn tả thật chính xác, ấn tượng sự việc đột ngột, bất thường: đèn điện tắt, không gian tối om.

+ Ba động từ mạnh “vội, bật, tung” đã diễn tả hành động khẩn trương, vội vàng của con người.

- Khi mất điện theo đúng phản xạ tự nhiên, con người sẽ bật tung cửa sổ để tìm kiếm nguồn ánh sáng. Và như thế con người gặp lại vầng trăng trong tình huống không hẹn trước.

- Từ láy “đột ngột” diễn tả thái độ bất ngờ, bàng hoàng, sững sờ của con người khi gặp lại vầng trăng.

- Hình ảnh “vầng trăng tròn” xuất hiện chiếu rọi vào căn phòng tối om đã tạo nên một sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Chính khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc và sự “bừng tỉnh” trong nhận thức của nhân vật trữ tình. Vầng trăng kia vẫn tròn, “đồng, sông, rừng, bể” kia đâu có mất, tất cả vẫn đồng hành cùng con người, chỉ có điều con người có nhận ra hay không.

=> Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt trong mạch cảm xúc, góp phần bộc lộ tư tưởng và mở ra những suy ngẫm của nhà thơ.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng”

như là đồng là bể

như là sông là rừng”


- Hình ảnh “ngửa mặt lên nhìn mặt” gợi lên tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt như đang đối diện đàm tâm.

+ Mặt đối mặt đó còn là quá khứ đối diện với hiện tại, tình nghĩa thủy chung đối diện với vô tình lãng quên.

- Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc, phút chốc ấy đã khiến cho cảm xúc dâng trào. Từ “rưng rưng” đã diễn tả nỗi xúc động đến nghẹn ngào, thổn thức trong tim không nói thành lời.

- Cấu trúc song hành (như là... là), cùng với biện pháp tu từ so sánh “như”, điệp ngữ “như là, là” và liệt kê “đồng, bể, sông, rừng”giúp ta thấy được những kí ức về một thời gắn bó, chan hòa với thiên nhiên đang ùa về trong tâm trí nhà thơ. Nếu không có tình huống mất điện, nếu không gặp lại vầng trăng thì những kí ức ấy mãi ngủ quên trong quá khứ, lãng quên ttrong tâm trí của mọi người.

c. Khổ thơ cuối là những suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà thơ:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”


- Từ láy “vành vạnh” diễn tả dáng vẻ tròn đầy của vầng trăng. Trăng khuyết rồi trăng lại tròn đó là quy luật tự nhiên không bao giờ thay đổi.

- “tròn vành vạnh” mang ý nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp vĩnh hằng, cho quá khứ nghĩa tình, cho tình cảm trước sau như một không bao giờ thay đổi. Có chăng chỉ con người là đổi thay.

- Đứng trước sự bội bạc, vong ơn bội nghĩa của con người, ánh trăng đã “im phăng phắc”. Nghệ thuật nhân hóa, từ láy “phăng phắc” diễn tả cái nhìn vừa nghiêm khắc, vừa bao dung của vầng trăng. Vầng trăng lặng lẽ soi tỏ ngõ tối trong tâm hồn con người khiến con người phải giật mình, phải thức tỉnh lương tâm.

+ Giật mình là phản ứng tâm lí của một người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của mình.

+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần phải thay đổi cách sống.

+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay

=> Bài thơ “Ánh trăng”, mà đặc biệt là ở khổ thơ cuối đã dồn nén biết bao tâm sự, suy ngẫm, triết lí sâu sắc. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống: chúng ta không được phép lãng quên quá khứ mà phải sống ân nghĩa thủy chung. Đó là đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Mỗi chúng ta cần phải có những cái giật mình như thế để hoàn thiện bản thân.

* LĐ chốt:

- Bài thơ có hình thức rất đặc biệt chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên mỗi khổ thơ, cả bài chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến những hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại.

- Bài thơ còn xúc động bởi cách diễn đạt bình dị như lời thủ thỉ tâm tình, giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng các biện pháp tu từ liệt kê, so sánh, nhân hóa...

- Qua những nghệ thuật đó nhà thơ đã truyền tải thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài học về lối sống ân nghĩa thủy chung không chỉ với thế hệ ấy mà cả hiện tại và mai sau.

3. Kết bài

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến vầng trăng, nhớ thiên nhiên tươi đẹp từng gắn bó thân thiết với con người như đôi bạn tri kỉ.

- Ta còn ám ảnh bởi lời sống bội bạc chạy theo những giá trị vật chất tầm thường mà lãng quên quá khứ gian lao.

- Bài thơ là lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho người lính chống Mĩ mà nó còn ý nghĩa với tất cả mọi người, trong đó có chúng ta.

- Là học sinh chúng ta cần ghi nhớ công ơn của biết bao anh hùng kiệt sĩ đã hi sinh vì nền độc lập. Chúng ta phải ghi nhớ công ơn của thầy cô, cha mẹ - những người sẵn sàng hi sinh để chúng ta có cuộc sống tốt đẹp.
Thêm
70
0
0
Trăng trong thơ vốn là một hình ảnh mang vẻ đẹp trong trẻo tròn đầy, đó là cái gì lãng mạn nhất trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp: khi con người ta còn ở tuổi ấu thơ hoặc rơi vào những vùng tâm sự cần phải chia sẻ, giãi bày. Ánh trăng của Nguyễn Duy là cái nhìn xuyên suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây không phải là một cái nhìn xuôi, bình lặng từ trước đến sau, mà là cách nhìn ngược: từ hôm nay mà nhìn lại để thấy có cái hôm qua trong cái hôm nay. Nó không xuôi chiều, phẳng lặng nữa. Tính chất tâm sự, đời tư có ý nghĩa như một hối hận, ăn năn tạo nên con sóng ngầm đằng sau một câu chuyện kể.

Câu chuyện kể trong thơ, cũng là một cách cấu tứ của văn xuôi, hấp dẫn chúng ta một cách bất ngờ từ khả năng dựng cảnh. Cảnh mất điện ở thành phố mà gặp ánh trăng tròn. Nay đã gặp xưa, trong một bối cảnh mà con người rất khó ngoảnh mặt quay lưng như thế.

Ba khổ thơ đầu bởi vậy mới như một hồi tưởng, hồi tưởng về cái đã quên tưởng chừng thời gian đã xoá nhoà tất cả. Quá khứ tưởng đã quên hiện về trong hai cái mốc. Cả hai đều xuất phát từ cái nhìn đánh thức. Sự thức dậy đến xôn xao, ấy là một thời thơ trẻ:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Cả một hệ thống những đồng, sông, biển gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, nó cứ mở rộng dần ra cùng với thời gian lớn dần lên của đứa trẻ. Nhưng cái chính là nó diễn tả một nỗi niềm sung sướng đến hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Ba chữ với giàu có biết bao như một mối ân tình. Cái thế bè đôi thật quấn quýt chia sẻ, cảm thông, dìu đỡ con người, và đồng hay sông, rồi biển như những người bạn vô tư.

Ở hai câu đầu không thấy nói đến vầng trăng. Thì ra cái thứ ánh sáng bàng bạc lúc này nó cũng để nhớ, để quên như khí trời hít thở. Chỉ đến khi lớn lên, cái ánh sáng mơ hồ kia mới neo đậu vào trí nhớ con người khi phải xa cách quê hương. Vầng trăng đối với người cầm súng ở trong rừng đã thay thế cho tất cả, cả đồng, sông, biển để trở nên một người bạn đồng hành, thành “vầng trăng tri kỉ”. Như vậy là tuổi thơ như một chớp mắt đã qua. Cái còn lại lúc này là vầng trăng thật đơn sơ nhưng chung thuỷ. Nó đã gieo hạt vào tâm hồn người lính và tường như nó sẽ mãi mãi xanh tươi:

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa.

Đoạn thơ nếu lách khỏi toàn bài sẽ có cảm giác hụt hẫng chơi vơi. Tuy hai câu đầu là khá hay khi nhà thơ so sánh sự ngang hàng của sự tri âm giữa hồn người với cây cỏ (mà cây cỏ, thiên nhiên ấy chính là đồng, là sông, là biển ở khổ đầu), hai câu cuối dường như chỉ là một lời “nói thêm”, thêm vào một cái gì đã đủ đầy, đã nặng sâu ở hai câu trước. Nhưng sự thực, đó là chiếc cầu nối ngôn từ, vừa khép lại vừa mở ra, tạo nên sức bật cho khổ thơ thứ ba tiếp nối:

Từ hồi về thành phố

quen ánh điện, cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường.

Hiện tượng tâm lí mà cũng là đạo lí này thường vẫn xảy ra khi nay đã khác xưa, hoàn cảnh sống của con người thay đổi. Bởi thế, ca dao mới lên tiếng hỏi từ lâu: “Thuyền ơi có nhớ bến chăng” ? Trong thơ Tố Hữu, nhân dân Việt Bắc ở lại cũng băn khoăn một tâm trạng ấy khi tiễn đưa cán bộ về xuôi :

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng ?

Phố đông, còn nhớ bản làng

Sáng đêm, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng ?

Những câu thơ đã cũ, nhưng tính thời sự vẫn còn, vẫn chờ đợi chúng ta những lời giải đáp. Và quả thật trong bài thơ của Nguyễn Duy, sự giải đáp là rất đáng buồn. Câu hỏi thì thiết tha như tiếng khèn, tiếng sáo (như trong bài Việt Bắc) mà không có hồi âm!

Thay cho ánh trăng đó là cửa gương, ánh điện. Nhưng có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng ? Vầng trăng tình nghĩa của ngày xưa đã không còn nguyên vẹn như xưa, thậm chí còn đáng trách hơn nhiều, nó chỉ là người khách qua đường xa lạ bởi tình cảm con người đâu còn son sắt thuỷ chung? Câu thơ thật nhức nhối, xót xa, bởi sự phản bội, ở đây không chỉ với lịch sử, với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.

Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một tâm thế không ngờ. Sống giữa nơi phố phường, mấy ai còn nghĩ đến một vầng trăng hoài cổ:

Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn.

Vầng trăng đến thật đột ngột. Ấn tượng về sự đột ngột này ở tình thế đã đành, còn đột ngột ở khía cạnh chân dung của “người mới đến”, về tình thế, ánh sáng của vầng trăng đối lập với ánh sáng, nhất là ở phía chân dung. “Vầng trăng tròn” vẫn đầy đặn, vẫn nguyên vẹn như xưa. Nó trang trọng, nó thuỷ chung như

ngày xưa. Điều quan trọng hơn chăng là nó làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn toàn khác trước ?

Trăng lãng du và con người lãng quên đã gặp nhau trong một phút tình cờ. Con người không còn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế ở đây là tư thế đối mặt: mặt người và mặt trăng, khuôn mặt của hai linh hồn sống :

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng.

“Rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động đến không nói được bằng lời, ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Một tình cảm chừng như nén lại nhưng nó cứ trào ra đến thổn thức, đến xót xa chính là tâm trạng ấy. Cuộc gặp gỡ không “tay bắt mặt mừng”, nó đã lắng xuống ở độ sâu cảm nghĩ. Trăng thì vẫn vô tư, phóng khoáng, độ lượng biết bao, như “bể”, như “rừng” mà con người thì phụ tình phụ nghĩa. Trước cái nhìn sám hối của nhà thơ, vầng trăng một lần nữa, như gợi lên bao cái “còn” mà con người tưởng như đã mất. Nhịp thơ hối hả, dâng trào khi trăng đã trả lại cho người tất cả. Cái quý nhất mà nó trả lại ấy là tình người, một tình người dào dạt “như là đồng là bể – như là sông là rừng”.

Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Hai gương mặt đối diện nhau ở đây làm người đọc nhớ đến cái giây phút “Mặt nhìn mặt càng thêm tươi” của tình yêu mới bén giữa Kim Trọng với Thuý Kiều. Nghĩa là nó lấp lánh bao điều không dễ nói. Tuy nhiên, cái vô tư mà vầng trăng trả lại, nhà thơ chỉ dám nhận vẻ một nửa của sự vô tư. Nửa còn lại kia dành cho những ăn năn dại dột của sự “vô tình”:

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.

Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song. Đối lập giữa “tròn vành vạnh” nghĩa là sự đầy đặn của vầng trăng với cái hụt vơi của kẻ “vô tình”. Đối lập giữa cái im lặng của ánh trăng (im phăng phắc) và con người thức tỉnh. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xội. Và sự bừng thức của con người, trong trường hợp đó không thể nào quên, vì nó là tiếng nói bên trong, của chính lòng mình khi lương tâm mỗi người mách bảo.

Bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.
Thêm
107
0
0
“Ánh trăng”: Vừa là một phần của hình tượng thiên nhiên lại vừa là biểu tượng của
thiên nhiên.
Biểu tượng:
+ Sự trong sáng, đẹp đẽ, quá khứ nghĩa tình, thủy chung, nguyên vẹn.
+ Con người giản dị, trog sáng, thủy chung: là nhân dân, là đồng đội của người lính
Thêm
83
0
0
Là một nhà thơ thuộc thế hệ lớp lớp anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà thơ Nguyễn Duy đã trở thành một tác giả tiêu biểu cho hồn thơ vừa dung dị vừa chân thật. Đặc biệt, bài thơ “Ánh trăng” của thi sĩ đã khắc họa những rung động chất chứa muôn nỗi suy tư và sự tự vấn trước sự đổi thay của cuộc đời thông qua ba khổ thơ cuối.

xkk (22).png


Đề: Em hãy viết bài văn để thể hiện cảm nhận của em về ba khổ thơ cuối trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
BÀI LÀM MẪU

Không biết tự bao giờ, trăng đã trở thành niềm cảm hứng sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Ta có thể bắt gặp một ánh trăng lãng mạn và chất chứa nhiều cảm xúc trong "Nguyên tiêu" của Hồ Chí Minh hay là một ánh trăng gợi lên nỗi nhớ da diết trong "Tình dạ tứ" của Lý Bạch. Đến với trăng của Nguyễn Duy, ta như thấy được một sự nhắc nhớ về truyền thống, đạo lí cao đẹp của dân tộc - Uống nước nhớ nguồn.

Bài thơ “Ánh trăng” là lời tự nhắc nhở bản thân của nhà thơ về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính. Vầng trăng gắn bó với tác giả suốt cả một quãng đời tuổi thơ. Trăng lại tiếp tục dõi theo từng bước chân hành quân trong suốt cuộc chiến, cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ và cùng tận hưởng chiến thắng. Người và trăng lúc ấy gắn bó với nhau như những người bạn tri âm tri kỉ.

Ngỡ như không bao giờ quên được “vầng trăng tình nghĩa” nhưng sự thay đổi của lòng người như một nhát chổi cuốn phăng đi tất cả những kỉ niệm, hình ảnh về vầng trăng:

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua dường”

Chiến tranh kết thúc, những người lính rời khỏi chiến trường khốc liệt để trở về quê hương xứ sở. Họ tận hưởng một cuộc sống ngày càng trở nên hiện đại, văn minh hơn. Người lính ngày xưa bây giờ được sống trong “ánh điện, cửa gương” và vầng trăng dần dần bị phai nhạt trong kí ức của họ. Vầng trăng giờ đây không còn là “vầng trăng tri kỉ” hay “vầng trăng tình nghĩa” nữa mà đã trở thành một “người dưng”, một người không có bất kì mối quan hệ nào với người lính. Phép nhân hóa “người dưng qua đường” đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Nó đã làm nổi bật lên sự thay đổi của lòng người. Sự ồn ã của phố phường, sự bận bịu mưu sinh bươn chải kiếm sống cùng với sự vô tâm của người lính đã lấn át đi lí trí của họ mà xóa bỏ vầng trăng ra khỏi trí nhớ. Điều này cũng nói lên một thực tế: khi con người được tận hưởng sự sung sướng đến từ vật chất thì họ bắt đầu lãng quên những kí ức gắn bó với mình lúc khó khăn.

Cuộc đời cũng như dòng sông có lắm thác nghềnh quanh co uốn khúc, đôi khi xảy ra những chuyện không bao giờ lường trước được:

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Đèn điện tắt, cuộc sống hiện đại xa hoa của chốn thị thành bất chợt dừng lại và bao quanh con người giờ đây chỉ là một màn đêm. Như là một bản năng, con người không bao giờ muốn ở trong bóng đêm, họ tìm mọi cách để có được ánh sáng thế là “vội bật tung cửa sổ”. Trước mặt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị lãng quên bấy lâu nay. Vầng trăng ấy vẫn cứ “tròn”, vẫn lành lặn vẹn nguyên như hồi nào. Trăng không bỏ đi dù người lính có lãng quên trăng. Trăng không trách cứ hờn dỗi dù có bị xem là “người dưng”. Cái lòng vị tha, bao dung của ánh trăng đã làm thức dậy trong nhà thơ những suy nghĩ bâng khuâng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng, là bể


như là sông, là rừng”

Mặt người phải đối diện với mặt trăng hay chính tác giả đang phải đối diện với người bạn tri kỉ của mình ? Vầng trăng im lặng, chẳng nói, chẳng trách móc mà nhà thơ vẫn cứ cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. Cảm xúc giờ đây như muốn trào ra thành từng giọt nước mắt. Điệp từ “như là” cùng với cấu trúc song hành và nghệ thuật liệt kê đã làm nổi bật lên dòng kí ức tuôn trào, vỡ òa trong thâm tâm của nhà thơ. “Đồng, bể, sông, rừng”, những cảnh vật đã gắn bó với người lính ngày xưa ùa về. Nó như là một thước phim chiếu lại những kỉ niệm thân thương mà bị lãng quên. Giọt nước mắt bây giờ khiến cho tâm hồn nhà thơ trở nên thanh thản, trong sáng lại, giúp ông nhận ra lỗi lầm của mình.

Ở khổ cuối, vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Đến đây, hình ảnh vầng trăng đã mang một ý nghĩa biểu tượng: trăng là quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp bình dị vĩnh hằng trong đời sống. Vầng trăng “tròn vành vạnh” thể hiện một vẻ đẹp viên mãn trọn vẹn, bất chấp sự vô tình của con người. Trăng “im phăng phắc”, không nói gì mà chỉ nhìn. Trăng đã trở thành hiện thân của quá khứ chân tình, chung thủy và nghiêm khắc nhắc nhở con người tự soi rọi lại chính mình. Con người có thể lãng quên, chối bỏ quá khứ nhưng quá khứ vẫn cứ mãi bất diệt, vẹn nguyên.

Thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Giọng điệu tâm tình tự nhiên của nhà thơ cùng kết cấu độc đáo của đoạn thơ tạo nên tính chân thực, có sức truyền cảm sâu sắc cho người đọc. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ không bao giờ bỏ rơi người lính.

Bài thơ “Ánh trăng” không chỉ là lời tự nhắc nhở bản thân của tác giả mà đó còn là thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người. Bài thơ đồng thời củng cố ở người đọc về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Cảm nhận của em về ba khổ thơ cuối trong bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy
3K
0
0
Có những cuộc gặp gỡ để lại những ấn tượng đầy hoài niệm. Thật đặc biệt, trong bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy, cuộc gặp gỡ định mệnh giữa người và vầng trăng đã khơi gợi những kỷ niệm khó quên cho nhân vật trữ tình.

Cuộc gặp gỡ giữa người và trăng trong bài thơ “Ánh trăng”.png

Đề: Cảm nhận của em về cuộc gặp gỡ giữa người và trăng trong các đoạn thơ sau:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

BÀI LÀM MẪU

Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng người bạn tri âm với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (Vọng nguyệt - Nhật Kí trong tù). Và với bài thơ “Ánh trăng”, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Cảm nghĩ trữ tình của tác giả men theo dòng tự sự này để bộc lộ. Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình. Ba khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” chính là một lời nói kịp thời, là hình ảnh biểu tượng ẩn chứa triết lí sâu sắc:
"Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn


Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng


Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình."

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể, như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dài, hùng vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, không mặn mà với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể dửng dưng.

Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một thời điểm không ngờ. Tình huống mất điện đột ngột trong đêm khiến con người vốn đã quen với ánh sáng, không thể chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng buyn đinh hiện đại.
"Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn"

Ba động từ “vội, bật, tung” đặt liền nhau diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương, hối hả của tác giả để đi tìm nguồn sáng. Và hình ảnh vầng trăng tròn tình cờ mà tự nhiên, đột ngột hiện ra vằng vặc giữa trời, chiếu vào căn phòng tối om kia, chiếu lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng kia. Tình huống gặp lại trăng là bước ngoặt tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm và suy nghĩ của nhân vật trữ tình với vầng trăng.

Vầng trăng đến đột ngột đã làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn toàn đổi khác. Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa.

"Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng"

Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn.

Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc, dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động, cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa.

Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương.

Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người. Vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người.

Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh vầng trăng "tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.

Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối.

Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi.

Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng. “Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.

Ba đoạn thơ này không chỉ hay về mặt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Cuộc gặp gỡ giữa người và trăng trong bài thơ “Ánh trăng”
2K
0
0
Văn chương bao giờ cũng mang đến cho độc giả muôn vàn những cảm xúc đặc biệt. Và bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng vậy. Với một nỗi niềm trăn trở về những ân tình của quá khứ, bài học của sự thủy chung của một thời gian khó đã trở thành thông điệp có giá trị đến cả thời điểm hiện tại.

xkk (69).png


Đề: Em hãy viết bài văn để thể hiện cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

BÀI LÀM VĂN

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của ông mang đậm những triết lý, suy tư về cuộc đời và cuộc sống. Ánh trăng là một trong những sáng tác nổi bật cho đời thơ Nguyễn Duy, là lời gửi gắm đến mọi người về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính.

Bài thơ gồm sáu khổ thơ năm chữ kết hợp tự sự với trữ tình, là hồi ức mộc mạc, giản dị được kể lại theo trình tự thời gian. Từ một câu chuyện riêng của tác giả, Ánh trăng trở thành lời nhắc nhở sâu xa thấm thía về cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao nhưng đầy tình nghĩa đối với thiên nhiên đất nước.

Mở đầu bài là những dòng hồi ức mộc mạc, giản dị. Những ký ức thuở nào ùa về hết sức chân thành:

"Hồi nhỏ sống với đồng


..........

cái vầng trăng tình nghĩa"

Đoạn thơ gợi lại ký ức của tác giả, một tuổi thơ bình dị với đồng ruộng mênh mông, với con sông bát ngát, với những cánh đồng trĩu nặng phù sa. Vầng trăng xuất hiện trong ký ức tuổi thơ là những tháng ngày giăng câu, xúc tép giữa đêm hôm được vầng trăng soi rọi, là những đêm quây quần bên góc sân, cùng nghe kể chuyện ngày xưa, cùng thổi nồi bánh nóng dưới ánh sáng vàng nhạt của ánh trăng. Trăng không chỉ soi tỏ góc sân mà còn tràn ngập cả vườn cây, đồng lúa, không chỉ soi sáng vùng trời mà còn soi rọi cả tuổi thơ. Lớn lên, theo kháng chiến trường kỳ, nhà thơ gắn bó với ánh trăng trong những năm dài chiến đấu.

Vầng trăng vì thế cũng trở nên thân quen bởi giữa rừng núi hoang vu cùng đồng đội "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới", cũng trong những đêm ấy, vầng trăng như hòa cùng tinh thần người lính, tạo nên cái nhìn tinh nghịch "đầu súng trăng treo". Bao lần họ cùng đắm mình dưới trăng, cùng hát ca, quây quần dưới tiếng khèn vi vút trong những đêm liên hoan, cùng ngắm mảnh trăng nhớ về ánh mắt người yêu đang trông đợi ở quê nhà, cùng hành quân trên chặng đường đầy ánh trăng sáng. Anh và trăng vì thế đã trở thành đôi bạn thân, khăng khít, gắn bó ngỡ không thể nào quên. Tình cảm ấy, nghĩa tình ấy chỉ có thể gọi với nhau bằng hai từ "tri kỷ".

Những cuộc hành quân gian khổ đã mang chiến thắng trở về, hòa bình lập lại, người lính rời chiến trường trở về thành phố sống cuộc sống đô thị với các tòa nhà cao tầng, với cửa gương, ánh điện sáng choang cùng biết bao điều tiện nghi hiện đại khác. Điều kiện bên ngoài vô tình khiến thay đổi tâm trạng con người, người lính nghĩa tình ngày nào giờ xao lãng với ánh trăng thân thương thuở trước, ánh trăng của tuổi thơ, ánh trăng của những ngày xa quê chiến đấu:

"Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường"

Khoảng cách từ "tri kỷ" đến "người dưng" sao mong manh, ngắn ngủi đến xót xa. Có phải lý do là "từ hồi về thành phố, quen ánh điện cửa gương", để rồi từ một người tri kỷ cùng đồng hành từ thuở thiếu thời cho đến lúc sinh tử vào sống ra chết trên trận địa lại trở thành "người dưng qua đường". Quả thật làm người đọc cảm thấy xót xa. Và mọi thứ có lẽ sẽ tiếp tục như thế nếu như không đặt người vào tình thế:

"Thình lình đèn điện tắt


phòng buyn đinh tối om"

Thành phố bị mất điện, sự xa hoa, hào nhoáng, tiện nghi ngày nào bây giờ cũng chìm trong màu đen của đêm tối. Cảm giác ngột ngạt vì thiếu thốn sự hiện diện của những thứ quen thuộc hàng ngày khiến người lính năm nào khó chịu, vội "bật tung cửa sổ". Thế nhưng:

"... đột ngột vầng trăng tròn


ngửa mặt lên nhìn mặt

có gì đó rưng rưng..."

Hai gương mặt, nhưng lại là hai trạng thái cảm xúc khác nhau: gương mặt người lính thảng thốt, bất ngờ rồi rưng rưng xúc động còn gương mặt của trăng thì im lìm, lặng lẽ. Có lẽ hai gương mặt ấy đang nhìn vào nhau, đang tìm kiếm sự đồng điệu trong tâm hồn và trong những dòng ký ức ùa về như thác lũ, để rồi "cái gì đó rưng rưng" ấy chính là những kỷ niệm chất chứa bấy lâu rồi trào dâng "rưng rưng" nơi khóe mắt theo hồi ức ngày xưa:

"Như là đồng, là bể


như là sông, là rừng"

Cấu trúc sóng đôi, nghệ thuật so sánh hòa quyện cùng với phép liệt kê và điệp cấu trúc khiến người đọc tưởng tượng ra được hình ảnh cả đồng ruộng mênh mông, bể đầy cua tôm trăng ngân bát ngát, cả dòng sông trĩu nặng phù sa mỡ màu vun đắp cho vùng đất quê hương và cả những cánh rừng bạt ngàn nơi gắn bó thời kỳ hoa lửa. Hai câu thơ tuy ngắn nhưng mạch thơ lại kéo dài bất tận, như gọi về những kỷ niệm quá khứ và cái tình những tháng năm xưa, như chính giây phút này, tâm hồn con người được đánh thức sau thời gian dài tâm trí lãng quên. Vật chất bủa vây, tiện nghi đầy đủ, người lính quên đi những tháng ngày gian khó, những trận chiến ác liệt nhưng thấm đẫm tình người bao la, tình đồng đội, đồng chí sát cánh kề vai. Dù bị lãng quên, nhưng vầng trăng trước sau vẫn thủy chung như một, vẫn bình dị và lặng lẽ, độ lượng và khoan dung:

"Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình"

Trăng không nói lời nào, cũng không oán hờn hay trách cứ bất kỳ ai. Giây phút này là thời khắc của sự im lặng để người lính tự vấn lòng mình. Không một tiếng động, không một âm thanh, nhưng chính sự im lặng đó đã khiến người lính bất giác "giật mình". Giật mình" là sự bất ngờ trước tác động từ ngoại cảnh, thế nhưng trong câu thơ này, "giật mình" chính là sự thức tỉnh của lương tri với biết bao suy tư mà tác giả gửi gắm vào trong đó.

Với giọng điệu tâm tình như đang kể câu chuyện của chính cuộc đời mình, nhà thơ Nguyễn Duy sử dụng nhiều bút pháp, kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình. Câu thơ khi căng, khi chùng, khi thì hồ hởi như đang hân hoan trước một tình yêu phía trước, khi thì lại trầm lắng suy tư như nhắc nhở mọi người chứ không chỉ riêng mình, lại có chỗ thiết tha, xúc động đau đáu một nỗi niềm... Tất cả đã tạo nên một "Ánh trăng" với hình ảnh nghệ thuật chứa đựng cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về cuộc đời và tình người thời hậu chiến.

"Ánh trăng" như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính, gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Qua đó, nhắn nhủ đến thế hệ tiếp theo kế tục thái độ sống "Uống nước nhớ nguồn", ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Các bạn có thể tham khảo thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Cảm nhận của em về bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
1K
0
0
Trăng được xem là một biểu tượng quen thuộc trong thi ca. Và trong khổ thơ cuối trong bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy thì hình ảnh vầng trăng lại đem đến những ấn tượng vô cùng đặc biệt.

xkk (32).png


Đề: Em hãy phân tích ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng trong khổ cuối của bài thơ Ánh trăng


MẪU 1

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa.

Vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, của đất trời, trăng vẫn tỏa ánh sáng dịu hiền khắp nhân gian.

Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ, là người bạn tri âm tri kỉ, vẫn luôn thầm lặng dõi theo và chia sẻ mọi buồn vui.

Là tuổi thơ ngọt ngào: trăng còn là biểu tượng cho thời quá khứ, cái thời con người được ngụp lặn trong dòng sông tuổi thơ của cuộc đời mình.

Là biểu tượng cho tình nghĩa thuỷ chung.

Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi kẻ vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Khiến cho ta giật mình”


Ánh trăng vẫn tròn đầy, im lặng trên cao. Trăng còn như oán trách con người, quên đi những gian khó khi có được cuộc sống đầy đủ với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất.

MẪU 2


Ánh trăng đã đi vào thơ với muôn ngàn ca từ mĩ lệ, đã chiếm trọn lòng yêu thương của biết bao thi sĩ. Đến với đề tài quen thuộc – ánh trăng, nhưng Nguyễn Duy đã thể hiện được tính triết lí và chiều sâu suy ngẫm quan bài thơ của mình, đặc biệt ở khổ thơ cuối bài:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”


Từ những ngày thơ bé sống giữa đồng quê, trăng đã người bạn tâm tình với nhà thơ. Ánh sáng ấy theo chân người chiến sĩ trong cả những trận chiến đấu gian khổ. Giữa rừng hoang nước lạnh, ánh trăng chiếu rọi làm ấm lòng người ra trận, vầng trăng gắn bó với biết bao nghĩa tình. Vậy mà khi cuộc sống đủ đầy, nơi thành thị ngập tràn màu sắc của những ánh sáng điện lưới, vánh trăng bỗng trở nên nhạt nhòa trong tâm trí người xưa. Để rồi khi ánh điện vụt tắt. ta mới ngước nhìn lại cố nhân, vẫn âm thầm tỏa ánh sáng chan hòa trên bầu trời cao rộng. Cuộc hội ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ như thế, đã khiến nhà thơ không khỏi bồi hồi, xúc động để rồi tự vấn lòng mình. Thế nhưng vầng trăng vẫn “cứ tròn vành vạnh”, “im phăng phắc”. Tác giả đã ử dụng hai từ láy để diễn tả tâm trạng của “cố nhân”. Trăng vẫn tròn đầy, trọn vẹn nghĩa tình thủy chung, nhân hậu, bao dung của thiên nhiên. Dù thời gian có trôi qua, tình cảm đó chẳng chút hư hao. Ánh trăng đang trách móc hay giữ sự tĩnh lặng để người đứng đó tự vấn lương tâm?

Để rồi, người đứng nhìn phải “giật mình”, đó là phản xạ của người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo. Sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” ở đây thật chân thành có sức cảm hóa lòng người. Hai tiếng “giật mình” cuối cùng bài thơ như một tiếng chuông rất khẽ nhưng ngân vang rất xa và đọng lại rất lâu.

Cái giật mình của Nguyễn Duy thật đáng trân trọng, đó là cái giật mình khi tác giả tự ý thức về sự vô tâm của chính mình. Tự hỏi trong chúng ta, ai dám chắc rằng minh chưa bao giờ lãng quên những điều mà chúng ta cho là trân quý nhất và khi nhận ra sự lãng quên đó, có ai dám nhận lỗi với chính mình. Câu thơ của nhà thơ ngắn ngủi mà có sức lay động lòng người, nhắc nhở mỗi người phải sống có nghĩa tình với quá khứ, uống nước phải nhớ nguồn.

MẪU 3

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa.

Vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, của đất trời, trăng vẫn tỏa ánh sáng dịu hiền khắp nhân gian. Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ, là người bạn tri âm tri kỉ, vẫn luôn thầm lặng dõi theo và chia sẻ mọi buồn vui.

Là tuổi thơ ngọt ngào: trăng còn là biểu tượng cho thời quá khứ, cái thời con người được ngụp lặn trong dòng sông tuổi thơ của cuộc đời mình. Là biểu tượng cho tình nghĩa thuỷ chung.

Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi kẻ vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Khiến cho ta giật mình”


Ánh trăng vẫn tròn đầy, im lặng trên cao. Trăng còn như oán trách con người, quên đi những gian khó khi có được cuộc sống đầy đủ với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất.

Các bạn có thể tham khảo thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng trong khổ cuối của bài thơ Ánh trăng
840
0
0
Trăng đã trở thành hình ảnh biểu tượng trong nhiều tác phẩm thi ca. Thế nhưng, chỉ khi đến với bài thơ "Ánh trăng" của nhà thơ Nguyễn Duy thì ánh trăng mới mang một nét ấn tượng đặc biệt về sự gợi nhắc về những ân tình quá khứ đã dần bị rơi vào quên lãng.


xkk (4).png

Ôn tập kiến thức cơ bản tác phẩm “Ánh trăng” - Nguyễn Duy

Câu 1. Trình bày hiểu biết của em về tác giả Nguyễn Duy?

Trả lời


- Năm sinh: 1948;

- Năm mất :;

- Quê quán: thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa;

- Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948.

- Quê quán: xã Đông Vệ, thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa.

- Mẹ mất sớm, Nguyễn Duy ở với bà ngoại từ nhỏ, chính vì vậy bà ngoại là người gần gũi, thân thuộc nhất với ông ;

- Năm 1966, ông nhập ngũ ;

- Từ năm 1971 - 1975, vẫn đang khoác áo lính, Nguyễn Duy về học tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ;

- Cuối năm 1975, ông cùng đơn vị vào tiếp quản Vũng Tàu.

- Năm 1976, Nguyễn Duy vào sống và công tác tại thành phố Hồ Chí Minh, là biên tập viên báo Văn nghệ Giải phóng, rồi làm Trưởng đại diện của báo Văn nghệ ở phía Nam ;

- Thơ Nguyễn Duy có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trữ tình với chất thế sự đậm đặc, nhiều bài là tiếng nói khảng khái, bộc trực, đầy ngang tàn mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm và mang tinh thần công dân sâu sắc ;

- Ông là một trong số không nhiều cây bút hiện nay đã góp phần làm mới thể lục bát bằng những tìm tòi theo hướng hiện đại, tạo nên nét độc đáo, hấp dẫn trong cấu trúc, hình ảnh và ngôn ngữ của thể thơ truyền thống này ;

- Những tác phẩm chính:

+ Cát trắng (1973) ;

+ Ánh trăng (1984) ;

+ Đãi cát tìm vàng (1987) ;

+ Mẹ và em (1987);

+ Khoảng cách (1986) ;

+ Nhìn ra bể rộng trời cao (1986).


Câu 2. Trình bày hoàn cảnh sáng tác của “Ánh trăng”

Trả lời


“Ánh trăng” là một bài thơ hay viết vào năm 1978, 3 năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, được nhà thơ viết tại Thành phố Hồ Chí Minh. In trong tập “Ánh trăng”.

Câu 3. Ý nghĩa nhan đề “Ánh trăng”

Trả lời


- “Ánh trăng” là nhan đề bài thơ đồng thời cũng là hình ảnh xuyên suốt bài thơ và là đối tượng để nhà thơ Nguyễn Duy thể hiện những quan niệm, triết lý về cuộc đời.

- “Ánh trăng” xuất hiện với tư cách là hình ảnh thực, một hiện tượng, biểu tượng của thiên nhiên. Nó gắn liền với cái thi vị, lãng mạn, tươi mát. Trong bài thơ vầng trăng còn là người bạn gắn bó với những kỉ niệm tuổi thơ, đồng thời cũng gợi nhắc con người nhớ đến truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.

Câu 4. Viết một đoạn văn trình bày của cảm nhận của bản thân về tác phẩm “Ánh trăng”

Đoạn văn mẫu


Trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở nhưng không bao giờ cũ trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam. Đến với ''Ánh trăng'' của Nguyễn Duy, ta lại bắt gặp một tư tưởng hoàn toàn mới lạ. Trăng ở đây là quá khứ thuỷ chung, bất diệt; là người bạn nghĩa tình, tri kỉ; là bài học thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc. Bao trùm cả bài thơ là một nỗi day dứt, ăn năn cứ kéo dài triền miên khôn nguôi. Ở đây, trăng và người vẫn là hai người bạn gắn bó bên nhau không rời '' thành tri kỉ''. Nó đều là sự san sẻ, cảm thông và thấu hiểu nhau sâu sắc. Trăng là người bạn để chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những nỗi đau thương, mất mát của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu, chan chứa yêu thương. Chính vì vậy mà, những ngày tháng tuổi thơ, những năm tháng kháng chiến đã trở thành kí ức chan hoà, tình nghĩa với nhân vật trữ tình. Từ một cuộc sống chan hoà với thiên nhiên, nay cuộc sống của con nguời đã thu hẹp hơn. Không gian núi rừng hoang vu, rộng lớn đã thay bằng không gian phố phường hiện đại, hào nhoáng. Và hình ảnh vầng trăng - người bạn luôn kề vai sát cánh bên con người cũng đã bị thu hẹp lại. Không có con người bên cạnh, nó chỉ biết lủi thủi đi qua con ngõ nhỏ tối tăm, mù mịt. Tầm quan trọng của trăng cũng không còn như xưa. Ngày ngày, trăng vẫn hiện hữu trong đời sống con người, vẫn bên con người, đồng hành cùng con người dù có ở nơi đâu, chốn nào, mặc mọi thời gian, không gian, mặc mọi khó khăn, nhọc nhằn. Trăng vẫn vậy, vẫn tròn đầy,thuỷ chung, chẳng hề thay đổi nhưng con người thì đã đổi thay. Cái bạc bẽo, vô tình đến với người ta một cách từ từ, kín đáo, khó nhận ra. Từ'' vầng trăng tri kỉ'', ''vầng trăng tình nghĩa ''bỗng chốc trở thành ''người dưng qua đường'' lúc nào không hay. Trong khoảnh khắc bất ngờ từ bóng tối bước ra ngoài ánh sáng ấy, nhân vật trữ tình không khỏi bàng hoàng, ngỡ ngàng khi nhận ra ánh trăng vẫn tròn, vẫn đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn nguyên như xưa. Chính cái khoảnh khắc ấy đã tạo nên một bước ngoặt cảm xúc của nhân vật trữ tình. Đằng sau cánh cửa, vầng trăng xuất hiện ''tròn vành vạnh'' không chút thay đổi. Trăng lặng lẽ nhưng rất nhân hậu, bao dung, không oán hờn, không trách móc người bạn đã từng quay lưng với mình. Thế nhưng, cũng chính cái im lặng nghiêm khắc, cái sự cao thượng ấy lại khiến cho bản thân con người phải giật mình thức tỉnh. Cái giật mình của lương tâm con người thật đáng trân trọng. Nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở, tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn, tìm lại cái đẹp trong tâm hồn. Từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm của con người đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà hào hùng, nghĩa tình với thiên nhiên, đất nước bình dị. ''Ánh trăng'' có ý nghĩa sâu sắc, là lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho người lính chống Mĩ mà nó còn ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời - trong đó có chúng ta.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Ôn tập tác phẩm “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mới nhất
  • Like
Reactions: Vanhoctre
732
1
0
Lời gợi nhắc về những ân tình của một thời quá khứ khó khăn, gian nan nhưng thấm đượm nghĩa tình thủy chung đã được nhà thơ Nguyễn Duy đã mang đến trong một tác phẩm đặc biệt của mình. Và “Ánh trăng” đã trở thành bài thơ đem lại cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về những giá trị đó.

mxnn (1).png


Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích tác phẩm “Ánh trăng”

BÀI LÀM MẪU

Trăng - hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.

Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.

Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:

“Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ”

Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là những nơi chôn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên của tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng máu lửa.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:

“Trần trụi với thiên nhiên


hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”


Vầng lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:

“Từ hồi về thành phố


quen ánh điện, cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”

Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loá. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đọc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:

“Thình lình đèn điện tắt


phòng buyn -đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!

“Ngửa mặt lên nhìn mặt


có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng”

Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.

Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh


kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.

“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích tác phẩm “Ánh trăng” mới nhất
633
0
0
“Ánh trăng” (Nguyễn Duy) đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó, còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.

5276


Phân tích đoạn cuối bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy)

Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng:

Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.

- Vầng trăng nằm toả sáng, tròn đầy, đó là một hiện tượng bình thường của thiên nhiên: trăng khuyết rồi lại tròn. Hình ảnh trăng được Nguyễn Duy miêu tả tròn đầy, vành vạnh, toả sáng khắp nơi. Trong không gian buyn đinh tối om, đèn điện tắt, ánh trăng càng trở nên có giá trị.

- Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”, đó là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng. Đó còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.

- “Ánh trăng im phăng phắc”

=> Vầng trăng cứ lặng lẽ toả sáng, không lời, phép nhân hoá khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người, một lời nhắc nhở thấm thía, độ lượng nhưng đủ làm để làm con người “giật mình” nhận ra sự vô tình lãng quên quá khứ tốt đẹp, tức là con người đang phản bội lại chính mình. Nó còn có ý nhắc nhở con người nên trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.

Tham khảo bài viết của học sinh

Hình ảnh vầng trăng rằm toả sáng được Nguyễn Duy miêu tả là một hiện tượng bình thường của tự nhiên: vầng trăng vũ trụ khuyết rồi lại tròn. Nhưng trong không gian “phòng buyn đinh tối om”, ánh trăng hiện lên lại quý giá biết bao, vị tha nhân hậu biết chừng nào! Trăng cứ tròn vành vạnh hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ chẳng thể phai mờ. Quá khứ ấy lúc này đang soi rọi vào người lính, vẫn vẹn nguyên, tình nghĩa, vẫn tròn đầy như thuở nào. Vầng trăng cứ lặng lẽ toả sáng, không lời - sự im lặng ấy có giá trị hơn mọi lời nói nghiêm khắc, một lời nhắc nhở thấm thía, độ lượng khiến cho tác giả giật mình”: con người có thể vô tình lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy bất diệt. Bởi có quá khứ, có những thử thách, hi sinh tổn thất thời đánh Mĩ ác liệt mới có cuộc sống hoà bình hôm nay. “Giật mình” là cảm giác, 1 phản xạ tâm lí của một con người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Đó là cái giật mình tự nhắc nhở bản thân, tự ăn năn, day dứt, hối hận, tự thấy mình phải đổi thay: con người không bao giờ được phản bội, lãng quên quá khứ, thiên nhiên mà sùng bái hiện tại. Bài thơ được sáng tác năm 1978, 3 năm sau khi đất nước thống nhất, khoảng thời gian không dài, nhưng những mục đích mới, cuộc sống mới với mưu toan hàng ngày làm con người ta như bị cuốn vào một vòng xoáy mới. Những bận rộn, lo toan khiến con người dễ dàng quay lưng, dửng dưng với những gì đã qua. Họ không hề biết rằng chính cái thờ ơ, dửng dưng ấy đã vô tình “bóp chết” quá khứ thiên nhiên nghĩa tình, biến nó thành kẻ xa lạ- “người dưng qua đường”. Khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” chính là một lời nói kịp thời, là hình ảnh biểu tượng ẩn chứa triết lí sâu sắc: không được phép lãng quên quá khứ.
Thêm
Phân tích đoạn cuối bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy)
1K
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top