Baivanhay Bức ảnh kết thúc truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" và sự trăn trở giữa nghệ thuật và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Minh Châu

Baivanhay  Bức ảnh kết thúc truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" và sự trăn trở giữa nghệ thuật và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Minh Châu

Đoạn văn: “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.

Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”

(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu)

Bức ảnh kết thúc truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" và sự trăn trở giữa nghệ thuật và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

4922


BÀI VIẾT

Nếu như họa sĩ vẽ nên những nét “truyền thần” hút hồn người xem; người cầm ca hát vang lên những nốt nhạc làm say lòng người; hay những bậc nghệ nhân khéo tay làm nên những món đồ thủ mĩ nghệ tinh xảo… thì nhà văn lại kiến tạo nên những giá trị đích thực xuất phát từ mảnh đất cuộc đời. Trên con đường lao động sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ chân chính luôn cố gắng “đào xới” hiện thực để tìm ra “chất vàng” gửi gắm trong đứa con tinh thần của mình. Và được coi là “người mở đường tinh anh” trong công cuộc đổi mới văn học nước nhà, Nguyễn Minh Châu luôn ý thức rõ thiên chức của người cầm bút chân chính. Đặc biệt bức ảnh cuối truyện với hình ảnh người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh gửi gắm nhiều ý niệm sâu sắc.

Chiến tranh kết thúc đặt điểm nhìn của nhà văn vào một khía cạnh khác. Các sáng tác của họ không còn là những bom đạn, hi sinh trong thời chiến mà trở về với thời bình, con người phải đối mặt với muôn vàn câu chuyện thế sự. Đứng trước nhu cầu đó, Nguyễn Minh Châu đã lao động miệt mài để tìm nên chất liệu đặc biệt cho sáng tác của mình. Điều đáng nói hơn, ông luôn chủ động đi sâu vào tận đời sống xã hội, khai thác mọi biến chuyển của đời sống con người đặc biệt là đời sống tâm hồn để nhìn nhận và phản ánh. Mỗi tác phẩm là một câu chuyện, nhiều mảnh đời và muôn vàn những giá trị nhân văn được đề cập. Mọi khám phá đều được nhà văn khắc họa lại trong tác phẩm nghệ thuật một cách rất nghệ thuật.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” như một hồi ức được kể dưới cái nhìn của một nghệ sĩ trên con đường lao động sáng tạo và tìm ra được chân lí nghệ thuật. Được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh cảnh buổi sáng có sương, Phùng phải xách máy kiếm tìm khoảnh khắc nghệ thuật đó. Sau nhiều lần lỡ hẹn, cuối cùng Phùng chọn cho mình được bức ảnh đắt giá. Bức tranh đó không chỉ là kết quả của quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật lâu dài mà nó còn là một tấm gương phản soi những giá trị sâu sắc về cuộc sống.

Với những người đứng ngoài hành trình lao động kiến tạo nghệ thuật, đối với họ bức ảnh của Phùng quả là một bức ảnh mang vẻ đẹp thuần khiết, toàn bích. Đó là vẻ đẹp tựa như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Nghệ sĩ Phùng khéo căn chỉnh góc máy để bắt trọn cái hồn túy của bức ảnh. Mũi thuyền đâm thẳng một nét chuẩn mực giữa sắc hồng của ánh mặt trời phản chiếu. Vài bóng người bước vào họa thêm những nét sinh động của cuộc sống thường ngày ở vùng chài lưới. Dưới con mắt và một tâm hồn nghệ sĩ, Phùng cảm được bức ảnh đó nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi. Bức ảnh đó mang trong mình trọn vẹn hơi thở của biển cả và ngồn ngột sức hơi thở cuộc sống mới. Một sự hài hòa tuyệt đối tạo nên một kiệt tác giản đơn nhưng đạt đến độ toàn bích, hoàn mĩ. Đặc biệt dưới con mắt của những người sành nghệ thuật, họ lấy làm tâm đắc và quý trọng, treo bức ảnh đó ở những nơi trang trọng. Nó được xem như là một bức tranh mang vẻ đẹp chuẩn mực khiến người ta rung động và mơ về một cuộc sống căng tràn nhựa sống như thế.

Tuy nhiên, đối với Phùng bức ảnh lại gây nhiều nỗi ám ảnh trăn trở hơn là rung động. Là người trực tiếp thu chụp khoảnh khắc đắt giá ấy vào ống kính, Phùng hiểu rõ đằng sau nét đẹp tuyệt mĩ ấy ẩn chứa nhiều nước mắt của cuộc sống hơn là niềm vui. Phùng cảm nhận được một bức tranh đa sắc màu thay vì chỉ đơn thuần là tấm ảnh đen trắng mà mọi người vẫn nhìn thấy. Phùng bước vào cuộc sống của những chủ thể trong bức tranh, hơn nữa Phùng cận cảnh thấy đằng sau những nét vẽ khỏe khoắn, căng tràn nhựa sống ấy là những vệt đen làm tối mờ cuộc sống. Hiện thực cuộc sống đã ám ảnh trong tâm thức người nghệ sĩ để rồi mãi về sau, khi bức ảnh đã khô mực in, họ vẫn còn nhớ như in những giá trị hiện thực đã kiến tạo nên vẻ đẹp bức ảnh đó. Nghệ sĩ Phùng thấy đằng sau tấm sương sớm màu hồng ấy là một màu xám u ám bao phủ lấy biết bao mảnh đời. Càng ngắm nhìn, từng nét vẽ hiện lên sống động như những thước phim đưa Phùng về với hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống. Cái tâm huyết cùng những trăn trở của người nghệ sĩ đã ăn nhập vào hồn Phùng để rồi ông có những nét chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời.

Đằng sau vẻ đẹp khiến người ta trầm trồ là những khổ đau dằn vặt của người nghệ sĩ. Những người thưởng thức nghệ thuật chỉ ngắm nhìn được thành quả của người nghệ sĩ sau khi chọn lọc kĩ càng để đưa ra những tấm ảnh đẹp nhất, xuất thần nhất. Nhưng ít ai biết rằng, đằng sau vẻ đẹp ấy là những đau thương của những kiếp người mà nếu không có dịp chứng kiến, ngay cả những nghệ sĩ lăn lội nhiều năm như Phùng cũng không thể biết được. Vì thế, giá trị bức tranh không chỉ đơn thuần là những sắc cảnh sinh động tươi sáng của cuộc sống mà sâu trong từng chi tiết, nhiếp ảnh Phùng muốn nói thêm nhiều điều với những người yêu nghệ thuật.

Phùng nhìn ra được phía sau bức tranh màu hồng ấy là hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Bức qua những nét vẽ điêu thần làm sống dậy cả vùng trời biển cả bao la là một bức tranh xám xịt, ảm đạm về cuộc đời con người “bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Phùng là người lao động làm ra bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa ấy nên hơn ai hết, Phùng hiểu rõ cuộc sống hiện thực không đẹp, hoàn hảo được như trong ảnh. Nếu như bức ảnh gợi về một cuộc sống đầy mơ ước thì ở hiện thực, con người còn phải gánh chịu nhiều cảnh khổ mà cuộc đời người đàn bà làng chài là một đại diện tiêu biểu. Bóng lưng của người đàn bà làng chài hằn in những nét khổ cực và khốn cùng của cuộc sống. Bức tranh càng mềm mại, thanh thoát bao nhiêu thì hình ảnh người đàn bà hằn in sâu trong nó lại hiện lên những nét thô kệch, khắc khổ bấy nhiêu. Chỉ trong một câu văn ngắn gọn nhưng Nguyễn Minh Châu đã khéo mô tả rất tinh nhưng đầy đủ và chân thực cuộc sống của người đàn bà làng chài. Với tấm áo bạc phếch lại thêm dăm ba miếng vá, khuôn mặt thì rỗ, trắng nhợt vì kéo lưới suốt đêm. Dường như ngay từ cái nhìn đầu tiên, sự khắc khổ đến tội nghiệp của người đàn bà làng chài đã hằn in trong trí nhớ của Phùng với những ấn tượng sâu sắc nhất. Hình ảnh một người đàn bà sống một đời lam lũ bên tấm lưới kéo, tảo tần bên đàn con thơ. Cuộc sống vật chất đã chẳng đủ đầy, đời sống tinh thần lại càng đè nén lên tấm thân ấy những thiếu thốn, bất an. Vẻ còm cõi bên ngoài chưa phải là bi kịch khi Phùng kịp chứng kiến đằng sau tấm thân nhỏ đáng được bảo vệ ấy là những trận đòn roi. Nửa thân người ướt sũng chính là những đau thương còn chưa kịp ráo nước của trận đòn vừa qua. Xót đau thay, những trận đòi roi ấy là sự tự nguyện từ hai phía kẻ đánh và người bị đánh. Kẻ đánh tự tâm ra tay là điều có thể hiểu được nhưng bi kịch thay, ngay cả người bị đánh cũng cam tâm tình nguyện. Mà đã là tình nguyện thì đây đâu phải lần đầu tiên, cũng không phải lần cuối cùng. Nó kết thúc như một sự tạm bợ và lại bắt đầu như một quy luật đã ngầm được hình thành. Thực ra có ai nào muốn mình bị đánh, bị làm cho tổn thương rồi nhục nhã ê chề đâu. Chỉ là người đàn bà ấy đang muốn dùng tấm thân nhỏ bé của mình để che chở và bảo vệ gia đình. Đến đây, Phùng không chỉ nhìn ra những cảnh ngộ cuộc đời mà phía sau bức tranh ấy Phùng còn phát hiện những vẻ đẹp rạng ngời của người đàn bà.

Đằng sau những đường nét thô kệch là một trái tim ấm nóng, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Trong cuộc nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà đã chỉ ra những cơ sự hàn lâm của cuộc sống. Bà chỉ ra những vấn đề mà ngay cả những người học rộng như Đẩu và Phùng cũng phải nín bặt. Trong cuộc sống, người đà bà toát ra là một người hiểu chuyện và rất mực vị tha. Đối với bà, hạnh phúc chỉ thu bé lại bằng sự quây quần của gia đình, lúc được nhìn những đứa con thơ ăn no, lúc gia đình vui vẻ đầm ấm bên nhau. Người mẹ chấp nhận hi sinh để con cái có được cuộc sống ấm no. Là một người nếm trải nhiều đau thương và sớm lăn lộn với cuộc sống, người đàn bà hiểu rõ những căn nguyên gây nên những trận đòn roi. Người đàn bà còn khẳng định: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bà thấu được cảnh khổ của dân chài khi không có người đàn ông, bà không trách móc hay thù oán gì người đàn ông đã gây nên những trận đòn roi mà ngược lại, bà bênh vực, tha thứ cho chồng và đổ lỗi cho cuộc sống. Đây cũng không phải là cuộc sống của mọi người đàn bà làng chài bởi người đàn ông ấy “cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu”.

Như vậy, phía sau một tấm lưng thô kệch là cả trái tim vị tha, giàu đức hi sinh và hết mực yêu thương chồng con. Phía sau manh áo vá là những mảnh đời khổ cực và phía sau người đàn bà khuôn mặt rỗ nhợt trắng xấu xí là cả một tâm hồn đẹp tựa ngọc. Hiểu chuyện, bà dành tất cả tấm thân hao mòn để gồng gánh chịu đựng và giữ hạnh phúc cho các con. Ngay cả bị đánh bà cũng xin người chồng được quyền chịu đánh trên bờ - nơi khuất xa tầm mất của mấy đứa nhỏ. Bà sợ khi chúng chứng kiến cảnh mẹ bị đánh thì chúng lại đau lòng hơn, cũng sợ con cái làm điều không phải với bố nó. Người đàn bà luôn gìn giữ hết mức có thể để mong con được ăn no, mặc ấm. Tình mẫu tử thiêng liêng như giọt máu chảy để nuôi tim.

Nhờ lao động sáng tạo nghệ thuật, nhiếp ảnh Phùng đã nhận ra chân lí nghệ thuật. Nghệ thuật không phải nơi sản sinh ra cái đẹp mà là lấy chất liệu từ cuộc đời để sản sinh ra những giá trị tốt đẹp. Không chỉ trong nhiếp ảnh mà trong bất cứ lĩnh vực nào của nghệ thuật cũng đều phải lấy chất liệu từ hiện thực để sáng tạo. Nếu nghệ thuật chỉ vẽ lên những bức tranh màu sắc, rỗng tuếch tư tưởng thì nó chỉ là tấm màn che mất vẻ đẹp cốt lõi của hiện thực. Âm nhạc chọn lấy tình yêu, nỗi đau hay hạnh phúc của con người để ca vang lên kiếm tìm những tâm hồn đồng điệu. Hội họa, nhiếp ảnh chọn cách khắc họa những bức tranh đời sống. Nhưng đó chưa phải là giới hạn của nghệ thuật. Phùng nhận thấy nghệ thuật có khả năng vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp ấy để phản ánh cuộc sống và khắc họa nét đẹp chân chính. Tuy nhiên với chất liệu và phương tiện phản ánh có phần hạn hẹp của nghệ thuật nhiếp ảnh, người nghệ sĩ khó lòng chuyển tải hết được những tư tưởng sâu kín trong lòng. Giống như bức ảnh được chọn lồng vào bộ lịch cuối năm. Dù trưởng phòng rất bằng lòng, những người sành chơi nghệ thuât coi nó như bức tranh tuyệt mĩ nhất nhưng họ vẫn chẳng thể cảm được đằng sau vẻ hào nhoáng tráng lệ của buổi trời hồng ấy là một màu đen nhám. Tuy màu đen xám nhưng nó vẫn đủ sức mạnh lan tỏa những vẻ đẹp thầm kín – một trái tim người mẹ, người vợ hết lòng vì gia đình. Cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, văn học với ngôn từ làm phương tiện chuyển tải hiện thực cuộc sống có sức mạnh riêng để nói lên những vấn đề nhân sinh sâu sắc.

Là người mở đường tinh anh cho công cuộc đổi mới văn học của nước nhà, Nguyễn Minh Châu hiểu rõ nhiệm vụ của văn học. Văn học sau những năm 1975 không còn chỗ cho những bom đạn của chiến tranh mà là mảnh đất của những vấn đề của cuộc sống hậu chiến tranh. Con người tạm quên đi tiếng súng và bước vào cuộc sống hòa bình. Văn học tất nhiên phải bám lấy cuộc sống hiện thời mà phản ánh. Do đó, những nhà văn chủ trương đi sâu vào đời sống thế sự, đời tư để tiếp tục nhìn nhận và giải quyết những vấn đề còn nảy sinh trong đời sống xã hội. Với tôi, văn học sau 1975 có một sức hấp dẫn kì lạ bởi nó gắn liền với hơi thở cuộc sống mà tôi đã, đang và sẽ trải qua. Nó réo lên những vấn đề trăn trở của cuộc sống mà chúng ta đôi lúc vẫn chưa thẳng thắn đối diện với nó. Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống “văn học và cuộc sống và hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Nguyễn Minh Châu đã nắm bắt hiện thực một cách trung thực, thậm chí ông còn đi sâu vào mọi ngõ ngách tâm hồn nhân vật để phản ánh những hiện thực giằng xé trong nội tâm nhân vật. Từ truyện ngắn “Bức tranh” đến “Bến quê” rồi “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đều nhìn nhận trung thực những vấn đề của đời sống con người và xã hội. Ông chủ trương rằng “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối thoại với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống”. Do đó, văn học với hiện thực như một sợi dây thừng bện chặt vào nhau, có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời. Cuộc sống là chất liệu kiến tạo nên tác phẩm. Nhà văn là người chuyển tải cái hiện thực ấy vào văn học một cách nghệ thuật nhưng phải đảm bảo tính thời sự, chân thực của cuộc sống. Những mảnh đời, hiện thực thời đại cứ hiện lên ngồn ngột trên trang viết của Nguyễn Minh Châu. Nhà văn Tô Hoài cũng đã khẳng định “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý". Nằm lòng mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa nhà văn với cuộc đời, nhà văn sẽ kiến tạo nên những tác phẩm trường tồn “Nghệ thuật nhìn trở lại cuộc sống, nghệ thuật không bao giờ chết. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một cái nhìn: sự trường tồn ấy mãi mãi đang nhìn vào khoảnh khắc thực tại. Cái vĩnh cửu đang nhìn cái khoảnh khắc”.

Thông qua bức tranh cuối cùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình. Ông cũng đã nhiều lần thể hiện quan điểm sáng tác của mình “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Với Nguyễn Minh Châu, hiện thực là máu nuôi sống tác phẩm, quyết đến sự sống còn của một nhà văn. Hiện thực bên ngoài thôi thì chưa đủ dưỡng chất để đảm bảo cơ thể sống phát triển. Đã mang trên mình sứ mệnh của một người lao động nghệ thuật, anh ta phải tham gia vào chiều sâu cuộc sống để nhìn nhận, thể nghiệm và có những quan điểm nhân sinh có giá trị cao “Nhà văn rất cần thiết có mặt ở trên đời để làm công việc cảnh tỉnh nhân loại và báo hiệu trước những tai họa”. Nhà văn không chỉ phải khám phá hiện thực mà còn phải tái hiện hiện thực, phải làm sao để tất thảy mọi người nhận thấy những vấn đề ung nhọt cần phê phán, cải tạo trong xã hội để hướng tới một cuộc sống văn minh, bình ổn “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời". Trung thực phản ánh cuộc sống thôi thì chưa đủ mà nhà văn phải là người có tư tưởng, tình cảm dồi dào để trên nền hiện thực ấy, nhà văn phải đối thoại với người đọc những vấn đề nhân sinh lớn lao. Ông đã có lần tâm sự rằng “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống”. Hiện thực là cái có sẵn trong cuộc sống nhưng tư tưởng, tình cảm lại khác. Nó là sản phẩm của một con người nhân hậu, trái tim biết yêu thương và tấm lòng nhiệt huyết của một nhà văn nặng lòng với nghề. Cũng chỉ khi có được những điều ấy, bản thân nhà văn mới đủ sâu sắc để đối thoại với người đọc những vấn đề lớn lao. Tư tưởng quyết định nội dung, nội dung chi phối hình thức. Đó là quy luật tuần hoàn mà nếu không có một trong những yếu tố đó, tác phẩm sẽ nhanh chóng bị đào thải khỏi quy luật sáng tạo nghệ thuật.

Có thể nói, bức ảnh cuối truyện là kết tinh những giá trị nhân sinh lớn lao nhất. Thông qua bức ảnh cuối truyện, Nguyễn Minh Châu không chỉ vạch ra hiện thực xã hội còn lắm ngang trái mà còn cất lên tiếng nói nhân văn sâu sắc. Ông nhìn thấy vẻ đẹp của người đàn bà làng chài phảng phất trong từng chi tiết của tấm ảnh. Nguyễn Minh Châu thương thay cho những kiếp người bần cùng trong cuộc sống, đồng cảm với những khổ đau của họ và thấm thía chân lí cuộc sời và nghệ thuật. Hình ảnh người đàn bà chậm rãi dậm trên mặt đất những bước đi chắc chắn, hòa mình giữa đám đông là một hình ảnh thú vị, khơi gợi nhiều tư tưởng độc đáo. Phải chăng ngườu đàn bà ấy đang bước đi những bước chậm nhưng chắc về phía cuộc sống tương lai. Gìn giữ hạnh phúc gia đình hôm nay cũng chính là các người đàn bà bước từng bước nhẹ nhàng, chậm rãi về phía cuộc sống. Hình ảnh ấy chở đầy niềm tin của nhà người nghệ sĩ về hành trình hòa nhập cuộc sống của con người. Người đàn bà vẫn mạnh mẽ bước tiếp, hòa lẫn vào đám đông như một sinh thể đang cố vượt ra biển khơi để sống, hòa mình vào cuộc sống ấy. Bức tranh cuối cùng vì thế mà càng thấm nhuần những giá trị nhân văn.

Như vậy, bức ảnh nghệ thuật cuối tác phẩm chuyển tải nhiều hơn những đường nét trên bức hình. Bức ảnh kết thúc câu chuyện nhưng mở ra một đời sống mới mà ở đó, mọi độc giả đều tin tưởng về một đời sống yên vui sẽ mở ra đón chào những mảnh đời tội nghiệp. Đồng thời thông qua giá trị nghệ thuật của bức ảnh, Phùng hay chính là nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt ra yêu cầu đối với những người nghệ sĩ lao động sáng tạo nghệ thuật: cuộc sống và nghệ thuật là hai mảnh ghép tuyệt đối mà nếu tách bạch nó ra sẽ không thể tạo nên bất cứ tác phẩm nào. Miệt mài kiếm tìm và phát hiện ra những nét đẹp ẩn sâu trong bản chất con người chính là nhiệm vụ đối với những nghệ sĩ theo đuổi nghệ thuật chân chính.

Người viết: Cô Trần Thùy Dương
 
Sửa lần cuối:
Từ khóa Từ khóa
bức tranh kết thúc truyện chiec thuyen ngoai xa cuộc đời ngữ văn 12 nguyen minh chau sự trắn trở giữa nghệ thuật
  • Like
Reactions: Ngô Mỹ Hạnh
1K
1
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.