Chủ nghĩa hiện thực tâm lí

Chủ nghĩa hiện thực tâm lí

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 32 đến từ Nam Định
Chủ nghĩa hiện thực - với tư cách là một phương pháp sáng tác - gắn liền với một một trào lưu văn học xuất hiện ở Tây Âu thế kỷ XIX. Ph.Ăng-ghen, tronglá thư gửi nữ văn sĩ Anh Hac-cơ-net vào năm 1888, đã phát biểu một định nghĩa có tính kinh điển về chủ nghĩa hiện thực: “Theo tôi, ngoài chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi sự tái hiện chân thực những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”. Như vậy, từ thực tiễn của văn học Tây Âu thế kỷ XIX, đặc biệt là văn học Pháp với những tác phẩm của Ban-dắc, Ăng-ghen đã xác định hai nét đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa hiện thực: “chi tiết chân thực” và “những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”. Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu, lý luận ở ta đã dựa trên định nghĩa nổi tiếng nói trên của Ăng-ghen làm cơ sở chủ yếu để nghiên cứu, xem xét, đánh giá các trào lưu và tác phẩm văn học. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của trào lưu văn học hiện thực thế giới đã bổ sung những thực tiễn sáng tác mới. Bên cạnh chủ nghĩa hiện thực truyền thống, đã song song tồn tại những loại hình chủ nghĩa hiện thực hiện đại, điều mà các nhà kinh điển chưa có điều kiện đề cập tới. Trong số đó có một loại hình chủ nghĩa hiện thực mà một số nhà nghiên cứu gọi là chủ nghĩa hiện thực tâm lý.

Chủ nghĩa hiện thực tâm lý.png

1. Khái niệm chủ nghĩa hiện thực tâm lý​

Chủ nghĩa hiện thực tâm lý là một thể loại văn học nổi tiếng vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đây là một thể loại tiểu thuyết hướng về nhân vật , vì nó tập trung vào động cơ và suy nghĩ nội tâm của các nhân vật. Đây là khái niệm để chỉ một chủ nghĩa hiện thực đi sâu khám phá hiện thực của tâm hồn, “một chủ nghĩa hiện thực trong ý nghĩa cao nhất, một chủ nghĩa hiện thực khám phá con người bên trong con người...".

Một nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý tìm cách không chỉ thể hiện những gì các nhân vật làm mà còn giải thích tại sao họ lại có những hành động như vậy. Thường có một chủ đề lớn hơn trong các tiểu thuyết hiện thực tâm lý, với việc tác giả bày tỏ quan điểm về một vấn đề xã hội hoặc chính trị thông qua sự lựa chọn của các nhân vật của mình.

Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực tâm lý không nên nhầm lẫn với văn bản phân tích tâm lý hay siêu thực, hai phương thức biểu đạt nghệ thuật khác phát triển mạnh trong thế kỷ 20 và tập trung vào tâm lý theo những cách độc đáo.

2. Dostoevsky và chủ nghĩa hiện thực tâm lý​

Một ví dụ tuyệt vời về thể loại này (mặc dù bản thân tác giả không nhất thiết phải đồng ý với việc phân loại) là "Tội ác và Trừng phạt" của Fyodor Dostoevsky .

Cuốn tiểu thuyết năm 1867 này (lần đầu tiên được xuất bản dưới dạng một loạt các câu chuyện trong một tạp chí năm 1866) tập trung vào sinh viên Nga Radion Raskolnikov và kế hoạch của ông ta để giết một kẻ cầm đồ phi đạo đức. Raskolnikov cần tiền, nhưng tiểu thuyết dành rất nhiều thời gian tập trung vào việc tự phân biệt đối xử của mình và những nỗ lực của ông để hợp lý hoá tội ác của ông.

Trong suốt cuốn tiểu thuyết, chúng tôi gặp những nhân vật khác, những người tham gia vào các hành vi bất hạnh và bất hợp pháp do tình hình tài chính tuyệt vọng của họ: em gái của Raskolnikov lên kế hoạch kết hôn với một người đàn ông có thể đảm bảo tương lai của gia đình mình.

Để hiểu được động cơ của nhân vật, người đọc sẽ hiểu rõ hơn về các điều kiện của đói nghèo, đó là mục tiêu bao quát của Dostoevsky.

3. Chủ nghĩa hiện thực tâm lý Mỹ: Henry James​

Tiểu thuyết gia người Mỹ Henry James cũng sử dụng chủ nghĩa hiện thực tâm lý để có hiệu quả lớn trong tiểu thuyết của ông. James đã khám phá các mối quan hệ gia đình, những ham muốn lãng mạn và đấu tranh quyền lực quy mô nhỏ thông qua ống kính này, thường là chi tiết siêng năng.

Không giống như tiểu thuyết hiện thực của Charles Dickens (những khuynh hướng phê bình trực tiếp về những bất công xã hội) hoặc các tác phẩm hiện thực của Gustave Flaubert (được tạo thành từ những mô tả xa hoa, tinh xảo của nhiều người, địa điểm và vật thể khác nhau), tập trung chủ yếu vào cuộc sống nội tâm của các nhân vật thịnh vượng.

Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông - bao gồm cả "Chân dung của một quý bà", "The Turn of the Screw", và "The Ambassadors" - những nhân vật xuất hiện thiếu tự nhận thức nhưng thường có những năm không được hoàn thành.

4. Nam Cao - nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý​

Đánh giá Nam Cao sáng tác theo phương pháp của chủ nghĩa hiện thực tâm lý, chúng ta vẫn khẳng định ông là nhà văn hiện thực đúng với nghĩa nghiêm ngặt của từ này. Ông cũng đề cập trực diện đến cái đói và miếng ăn; phản ánh cuộc sống của những con người bị “áo cơm ghì xuống đất”. Nhưng với Nam Cao, phản ánh cái hiện-thực-đói không chỉ là sự báo động về nạn đói vật chất đơn thuần mà hơn thế, là lời cảnh báo về phẩm giá con người trước cái đói. Nam Cao luôn hiện ra như một trí tuệ luôn băn khoăn trước câu hỏi làm gì để giữ nhân phẩm con người trước sức công phá dữ dội của hoàn cảnh. Vì thế, ông đã chọn một lối đi riêng trong cách tiếp cận thẩm mỹ đối với hiện thực, công phu tìm kiếm những sự thật kín đáo, tiềm ẩn đằng sau những mâu thuẫn hiện diện trong xã hội, đi sâu khám phá hiện thực của tâm hồn con người.
Nói một cách công bằng thì tâm lý, tính cách con người bao giờ cũng là đối tượng phản ánh của văn học mọi thời đại, bởi lịch sử văn học xét cho cùng là lịch sử tâm hồn một dân tộc. Tuy nhiên, cái để làm nên một Nam Cao trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam, cái để chúng ta có thể mạnh dạn gọi ông là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý là ở chỗ Nam Cao không chỉ dừng ở việc mô tả tâm lý nhân vật như cách hiểu, cách làm thông thường, mà ông đã tiếp cận tâm lý con người với ý thức triết học, và về mặt nghệ thuật, với Nam Cao, tâm lý là điểm tựa của kiến tạo văn bản, nội tâm nhân vật là đối tượng miêu tả trực tiếp; tính cách nhân vật chủ yếu được khắc họa bằng đường dây tâm lý. Đi sâu vào tác phẩm Nam Cao, người đọc có thể nhận ra trong mỗi nhân vật của ông - cho dù là nông dân hay trí thức tiểu tư sản - đều mang trong mình những cuộc vật lộn nội tâm dữ dội, những sự dằn vặt, cắn rứt, khổ sở về bản thân mình và cả trong suy nghĩ đối với những người chung quanh. Những câu chuyện của Nam Cao thường không thể kể lại được vì nó được dệt nên chỉ bởi những hồi ức, những nỗi buồn vui của nhân vật, mặc dầu những hồi ức, những nỗi buồn vui ấy đều gắn liền với hiện thực đời sống xã hội Việt Nam trước 1945. Khi đã xác định tâm lý con người là đối tượng phản ánh, Nam Cao thường không chọn bối cảnh rộng lớn để đưa vào tác phẩm như nhiều nhà văn hiện thực khác. Ông đã soi chiếu vào những không giản nhỏ hẹp để trên đó, nhân vật hiện ra với triền miên trong những suy nghĩ, qua đó bộc lộ tính cách, bộc lộ tình cảm, thái độ xã hội của mình. Thời gian trong tác phẩm Nam Cao dường như cũng ngưng đọng, quẩn quanh, bị tãi ra, kéo dài miên man. Nó là một thứ thời gian tâm trạng.
Con người hiện hữu của Nam Cao thường hay hồi tưởng lại thời gian quá khứ để quên đi những nỗi khổ về vật chất và tinh thần hiện tại. Nam Cao không né tránh, trái lại, ông đặc biệt thành công với những "ca" tâm lý phức tạp nhất, những tâm trạng chứa chất nhiều mâu thuẫn. Và chính ở đó, bức tranh hiện thực về đời sống và tính cách nhân vật càng được khắc họa đến mức điển hình sống động. Ông đã khám phá nhiều khía cạnh khác nhau, thậm chí tương phản nhau trong cùng một tính cách. Vì vậy về mặt thi pháp phản ánh, Nam Cao cũng phải thể hiện nhân vật rất đa dạng, đa chiều trong tính phức hợp và khả năng lưỡng phân của nó. Không phải là hiếm trên những trang truyện của Nam Cao, những tâm trạng như thế này: "ngay lúc ấy hắn nghẹn ngào trong cổ. Nh ưng chỉ một lúc sau, hắn đã bật cười"(Xem bói); hoặc: "giọng y nửa đứng đắn, nửa đùa. Nói xong, y cười ăng ắc. Tiếng cười thái quá ấy nghe còn đau đớn hơn tiếng khóc. Tiếng cười im, mặt y dãn ra ngay, trở nên buồn rười rượi" (Sống mòn). Nam Cao biệt tài trong việc mô tả tâm trạng dở cười dởkhóc, dở say dở tỉnh. Nó là cái ngoại hiện của những tấn bi kịch bên trong con người. Diễn tả những tình cảm phức tạp của nhân vật, NamCao sử dụng những từ ngữ có sức gợi lớn. Nhân vật của Nam Cao khóc: "Mắt lão ầng ậng nước", "nước mắt ứa ra òng ọng", "thầy rân rấn nước mắt", "mắt bu ầng ậng nước”, “khóc ằng ặc như người nuốt phải ngụm gì đắng quá, nó quánh vào cổ họng", " khóc ngằn ngặt" ... Và cười: "Cười khành khạch", "cười sằng sặc", "cười hừng hực", "cười sòng sọc", "tiếng cười nảy lên đành đạch", "hắn ngửa mặt lên trời cười ặc ặc" v.v... Tâm trạng dỗi hờn cũng là một biểu hiện tâm lý phức tạp của nhân vật Nam Cao. Nhân vật của Nam Cao vốn cũng "hay tủi thân, hay khóc như những bà già". Chẳng hạn một văn sĩ Điền trong truyện Nước mắt: "Điền vẫn ngồi cúi mặt. Một nỗi chua xót gần như thuộc về thể chất ứ lên trong lòng Điền", "Điền cực lắm. Hắn thấy một lớp buồn tủi nữa chất thêm vào lòng!'. Và một anh giáo Thứ: "Thứ đột nhiên thấy nổi lên trong lòng một nỗi uất ức tối tăm. Nó nâng một cục gì lên, lấp họng y "... Những nhân vật nông dân hay người lao động khác của Nam Cao cũng có lúc mang một tâm trạng dỗi hờn như thế. Thai trong truyện Làm tổ: "Cổ hắn cứ nghèn nghẹn suốt từ giờ cho đến tối. Có lúc nước mắt hắn ứa ra một chút. Hắn ngao ngán quá”. Và Mô (Sống mòn): “Mặt nó sưng lên, như giận dỗi ai. Nó giận trời, giận đời, giận mẹ vợ, giận ô tô, giận chiến tranh, giận tất cả mọi người. Tìm cái dùi trống không thấy, nó nhặt ngay một thanh củi tạ, đạp loạng choạng mấy tiếng, rồi quăng ngay ra ngay giữa lối đi". Khi khắc hoạ tính cách nhân vật bằng đường dây tâm lý, Nam Cao sử dụng phổ biến lối trần thuật hoá thân vào nhân vật. Đến Nam Cao, văn xuôi Việt Nam đã trở thành giọng văn mang tính “phức điệu”. Thế giới nội tâm nhân vật được nhà văn trần thuật lại theo phương thức lời nửa trực tiếp, trong đó lời trần thuật ẩn dưới dưới lời nhân vật, điều này đặc biệt gây ấn tượng so với nhiều tác giả văn xuôi hiện thực lúc bấy giờ. Nam Cao buộc người đọc phải luôn theo dõi sự biến hoá của giọng văn, bị cuốn hút vào đó, thực chất là bị cuốn hút vào sự chuyển biến các trạng thái tâm lý nhân vật. Và cũng theo đó, Nam Cao sử dụng đầy hiệu quả kỹ thuật dòng ý thức gắn liền với độc thoại nội tâm, trong đó tư tưởng nhân vật luôn luôn lướt từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác như dòng sông chảy không ngừng. Đây là quan niệm động về tâm lý, trái với quan niệm tĩnh cho rằng tư tưởng có những đoạn, khúc, có giới hạn phân minh.

Phương thức này là biểu hiện một cách tinh vi của trạng thái ý thức của nhân vật diễn biến một cách quanh co phức tạp, theo những quy luật bất ngờ của sự sống. Độc thoại nội tâm là cách nhân vậttự nói chuyện với chính mình, gần như không có sự can thiệp của tác giả. Đây cũng là biện pháp nghệ thuật rất phổ biến ở Nam Cao.

5. Các ví dụ khác về chủ nghĩa hiện thực tâm lý​

Sự nhấn mạnh của James về tâm lý học trong tiểu thuyết của ông đã ảnh hưởng đến một số nhà văn quan trọng nhất của thời đại hiện đại, bao gồm Edith Wharton và TS Eliot.

"The Age of Innocence" của Wharton đã đoạt giải Pulitzer cho tiểu thuyết viễn tưởng vào năm 1921, đưa ra quan điểm của người trong cuộc về xã hội tầng lớp trung lưu. Tiêu đề của cuốn tiểu thuyết là mỉa mai kể từ khi các nhân vật chính của Newland, Ellen, và May, hoạt động trong các vòng tròn mà là bất cứ điều gì nhưng vô tội. Xã hội của họ có những quy định nghiêm ngặt về những gì là và không phù hợp, mặc dù những gì cư dân của nó muốn.

Như trong "Tội ác và Trừng phạt", các cuộc đấu tranh nội tâm của các nhân vật của Wharton được khám phá để giải thích hành động của họ, trong khi cùng lúc cuốn tiểu thuyết vẽ một bức tranh không tốt về thế giới của họ.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của Eliot, bài thơ "The Love Song of J. Alfred Prufrock," cũng rơi vào thể loại chủ nghĩa hiện thực tâm lý, mặc dù nó cũng có thể được phân loại là chủ nghĩa siêu thực hay chủ nghĩa lãng mạn. Đó chắc chắn là một ví dụ về văn bản "dòng ý thức", như người kể chuyện mô tả sự thất vọng của anh ấy với những cơ hội bỏ lỡ và tình yêu đã mất.

(PC sưu tầm và tổng hợp)
 
Từ khóa
chủ nghĩa hiện thực tâm lý dostoevsky và chủ nghĩa hiện thực tâm lý henry james khái niệm chủ nghĩa hiện thực tâm lý khám phá hiện thực của tâm hồn nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý tác giả bày tỏ quan điểm về một vấn đề xã hội tâm lý học trong tiểu thuyết
786
3
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Top