Hướng dẫn Đọc hiểu về tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ Câu cá mùa thu

Hướng dẫn Đọc hiểu về tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ Câu cá mùa thu

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 33 đến từ Nam Định
"Câu cá mùa thu" (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến nằm trong bộ ba bài thơ về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến đã được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn 11, Văn học trẻ sẽ tóm tắt những ý chính nhất, cô đọng , chuẩn xác nhất về tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ. Đồng thời đưa ra bài bình giảng về bài thơ hay nhất để các bạn học sinh nắm được bài học đầy đủ, dễ hiểu nhất.

I. Đọc - hiểu

1. Tác giả Nguyễn Khuyến
(1835-1909) người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nhà nghèo, học giỏi và có chí, đã đỗ đầu cả ba kì thi Hương, thi Hội, thi Đình, được tôn vinh là Tam nguyên Yên Đổ.

Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu người kể đã ba phen.

(Di chúc)

2. Bài "Câu cá mùa thu" Tiêu biểu cho hồn thơ Nôm của Nguyễn Khuyến là chùm thơ thu ba bài: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm. Cả ba bài thơ đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật; ngôn ngữ thơ bình dị, tự nhiên, rất điêu luyện. Cảnh thu đẹp, tình thu trong sáng, man mác, bâng khuâng.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

(Thu ẩm)

Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.

(Thu vịnh)

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

(Thu điếu)

3. Chùm thơ thu được viết ra sau năm 1885, khi Nguyễn Khuyến đã cáo quan về ở ẩn tại quê nhà "nơi vườn Bùi chốn cũ".

Thu điếu nghĩa là câu cá mùa thu. Mỗi vần thơ là một nét thu đẹp mơ màng, tĩnh lặng.
- Đề: tả ao thu và chiếc thuyền câu bé tẻo teo
- Thực: tả sóng biếc, lá vàng, khẽ đưa vèo theo làn gió thu.
- Luận: tả tầng mây trên bầu trời xanh ngắt và ngõ trúc quanh co, vắng teo.
- Kết: tả tư thế ông lão ngồi câu cá và tiếng cá đớp động dưới chân bèo.

6057

II. Tìm hiểu - cảm thụ bài thơ

“Thu điếu” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên “lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ - “bé tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo”:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.

Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.
Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoa làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.

Màu “biếc” của sóng hòa hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức độ “tí” của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu”: “Vèo trông lá rụng đầy sân”.

Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt”:

- “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”.
(Thu vịnh)

- “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”.
(Thu ẩm)

- “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.
(Thu điếu)

“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” đến “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”, từ “sóng biếc” đến “lá vàng”, từ “tầng mây lơ lửng” đến “ngõ trúc quanh co” hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh,… có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!

Cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là ở hai câu kết:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.


“Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động”, nhất là từ “đâu” gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh bạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy - buồn cô đơn và trống vắng.

Âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỉ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc "vàng" của lá thu, ở màu “xanh ngắt” của bầu trời thu, ở làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”…

Thật vậy, “Thu điếu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.

Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần “eo” đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài “Thu điếu” ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi”…

Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

Bình bài thơ "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến

Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chí đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ao mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự đảo điên, "cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ" (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha - Trung Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hưởng thú nhàn tản, hòa hợp với thiên nhiên, suy tư trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chăm chú, cũng hồi hộp, cũng say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy là ông đã được một bài thơ "Thu điếu" vào loại kiệt tác của nền văn học nước nhà:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.


Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.


Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, "ao thu lạnh lẽo" với mặt nước "trong veo" rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo "bé tẻo teo". Âm eo là tử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả.

Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.


Ao thu không còn tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, "sóng biếc" thật đẹp. Ngòi bút của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh. "Sóng biếc" đối với "lá vàng", đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. "Hơi gợn tí" đối với "sẽ đưa vèo", vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.


Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng "sẽ đưa vèo" trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:

Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô

(Lưu Trọng Lư)

Vàng rơi ! Vàng rơi ! Thu mênh mông.
(Bích Khê)

Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ "Thu điếu" dưới ánh mắt của Xuân Diệu: "Cái thú vị của bài "Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi...". Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.

Nhà thơ mở không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt và không gian được mở rộng nên bức tranh "Thu điếu" thêm đường nét, thêm màu sắc:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.


Màu da trời "xanh ngắt" thật là đẹp, màu xanh sao mà tha thiết. Trong màu "xanh ngắt" có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà "lơ lửng", những áng mây trắng "lơ lửng" trên bầu trời "xanh ngắt" thật là thanh bình. Rồi tác giả lại trở về cận cảnh với hình ảnh của làng quê. "Ngõ trúc quanh co", đường làng quanh co thân thuộc với bóng tre trùm mát rượi. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, "Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu" (Thu vịnh), "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo". Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí ấy "Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng". Những nét trúc thẳng đối lập với những nét quanh co của đường làng thật là gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, "khách vắng teo". Bức tranh thu đượm buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.

(Đây mùa thu tới)

Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.


Nhà thơ thu mình lại "tựa gối ôm cần", dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền "bé tẻo teo". Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì một cử động đã làm cho nhà thơ sực tỉnh:

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Ba chữ "đ" (đâu, đớp, động) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình.
Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muốn tan hoà vào thiên nhiên, vào non nước. Toàn bộ hình tượng thơ "Thu điếu" đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền "bé tẻo teo". Nhà thơ thu mình lại "tựa gối ôm cần" hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được ? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguyễn Khuyến.

Trong chùm thơ ba bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn một bài thì đó là bài "Thu điếu". Bài thơ "Thu điếu" là kiệt tác trong nền thơ cổ điển nước nhà. Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng độc đáo. Vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không non lép chữ nào. Thật là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê hương làng cảnh, với non sông đất nước thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam.

Nguyễn Đức Quyền
(trích “Những bài văn chọn lọc lớp 11”)

Xem thêm các bài viết về "Câu cá mùa thu" - Nguyễn Khuyến
 
Từ khóa
câu cá mùa thu làng quê việt nam nguyen khuyen viết về mùa thu
1K
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top