Đề cương Ôn tập kiến thức trọng tâm của Vợ chồng A Phủ

Đề cương Ôn tập kiến thức trọng tâm của Vợ chồng A Phủ

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 33 đến từ Nam Định
Tô Hoài đã kể lại rằng: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!”. Có lẽ đây chính là lí do để ông viết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như lời tri ân dành cho con người nơi rừng núi Tây Bắc. Tác phẩm được đánh giá là tác phẩm kết tinh giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, không chỉ là bản án tố cáo chế độ cai trị tàn bạo mà còn thể hiện niềm xót xa, trân trọng của nhà văn với những kiếp người phải sống trong sự cai trị đó. Cùng ôn tập lại tất cả những kiến thức quan trọng nhất trong bài học "Vợ chồng A Phủ" trong bài Ôn tập kiến thức trọng tâm Vợ chồng A Phủ

Ôn tập vợ chồng a phủ của tô hoài, kiến thức chung về tác phẩm chi tiết văn học trẻ.png

Ôn tập kiến thức trọng tâm của Vợ chồng A Phủ​

I. Tác giả Tô Hoài (1920 – 2014)​

– Có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền. “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống” (Trần Đăng Khoa).
– Có biệt tài trong việc miêu tả thiên nhiên và phong tục XH. Lối trần thuật hóm hỉnh sinh động, vốn từ vựng giàu có, tác phẩm có sức lôi cuốn, lay động người đọc.
– Được mệnh danh là nhà văn của đề tài Hà Nội và đề tài miền núi.
->Là nhà văn lớn, cây bút văn xuôi hàng đầu của nền VHVN hiện đại.
– Tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), Truyện Tây Bắc (1953)…

II. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”​

1. Hoàn cảnh sáng tác​

– Vợ chồng A Phủ (1952) là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc.
– Được in trong tập “Truyện Tây Bắc”- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
– Nội dung: Tác phẩm thể hiện một cách chân thực xúc động về cuộc sống cơ cực tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân và chúa đất. Đồng thời phản ánh quá trình giác ngộ cách mạng và tự vùng lên giải phóng cuộc đời của những người lao động nghèo miền núi.

2. Kiến thức trọng tâm​

2.1 Nhân vật Mị​

* Cách giới thiệu nhân vật Mị​

– Một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, cõng nước… cúi mặt, mặt buồn rười rượi -> một cô gái lẻ loi giữa khung cảnh đông đúc tấp nập của gia đình thống lí.

– Cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra -> là con dâu của một gia đình quyền thế, giàu có nhất vùng nhưng sao lúc nào cũng mặt buồn rười rượi?.

-> Cách vào truyện ấn tượng với thủ pháp tạo tình huống -> gợi mở về cuộc đời và thân phận của Mị.

* Mị trước khi về làm dâu nhà Thống lí.​

– Bản thân:

+ Là cô gái trẻ trung, thổi sáo hay, có nhiều người mê, đêm theo về đứng nhẵn đầu vách buồng Mị -> Xinh đẹp, đáng yêu.
+ Xin bố được làm nương để trả nợ cho bố -> Muốn được lao động để trả nợ, làm chủ cuộc đời mình.

->Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc, có những phẩm chất đáng trân trọng và xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

– Cảnh ngộ gia đình:
+ Bố mẹ Mị vay tiền bố thống lí Pá Tra, mỗi năm nộp lãi một nương ngô, mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ.
+ Thống lí Pá Tra đòi bắt Mị làm dâu gạt nợ.
-> Vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ nghèo, Mị bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí.

* Cuộc đời làm dâu gạt nợ​

– Lúc đầu:​

+ Mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc.
+ Trốn về nhà, định ăn lá ngón để chết.

-> Ý thức phản kháng mạnh mẽ. Không chấp nhận cuộc sống tủi nhục của thân phận làm dâu gạt nợ. Nhưng vì thương cha nên Mị đành quay lại tiếp tục cdoi làm dâu gạt nợ, làm thân trâu ngựa cho nhà thống lí.

– Về sau:​

+ Ở lâu trong cái khổ, quen khổ rồi.
+ Tưởng mình là con trâu, con ngựa.
+ Cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau…làm đi làm lại…
+ Vùi vào việc làm cả đêm, cả ngày.
+ Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Hình ảnh con rùa là một ẩn dụ về thân phận phụ thuộc cơ cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà Mị là số phận tiêu biểu.
+ Cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông…trông ra chỉ thấy một màu trăng trắng, không biết là sương hay nắng.

Mị nghĩ mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi. Chi tiết “một lỗ vuông” gợi sự ám ảnh về một không gian ngột ngạt, tù túng, bức bối. Căn buồng ấy như một thứ địa ngục trần gian, một ngục thất giam hãm tuổi thanh xuân và tự do của Mị, làm cạn khô nhựa sống, làm lụi tàn ngọn lửa sống của Mị, khiến tâm hồn Mị chết dần chết mòn.

-> Mị bị biến thành công cụ lao động của nhà thống lí, bị đày đọa về thể xác, bị áp chế về tinh thần đến mức tê liệt ý thức, không còn ý niệm về cuộc sống. MỊ không khát vọng, buông xuôi phó mặc cho hoàn cảnh và số phận.

=> Sự áp bức của bọn chúa đất miền núi, sự thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục đã hủy diệt ý thức, tinh thần của người lao động nghèo.

* Sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân​

Từ một cô gái trẻ trung yêu đời, Mị đã bị biến thành công cụ lao động, ý thức tê liệt từ khi bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Nhưng ở người con gái ấy có một sức sống mạnh mẽ. Ngọn lửa của lòng ham sống, muốn được sống tự do, hạnh phúc; muốn được yêu thương vẫn cứ tiềm tàng và âm ỉ cháy đâu đó nơi thẳm sâu ở tâm hồn Mị. Như thỏi than hồng bị giấu vùi dưới đống tro tàn, khi có ngoại cảnh tác động, nó sẽ nhen lên, để rồi bùng cháy mạnh mẽ. Khát vọng hạnh phúc ở Mị có thể bị vùi lấp bởi sự đày đọa áp bức của cường quyền, sự ràng buộc của thần quyền nhưng khát vọng ấy không hề tiêu tan mà sẽ hồi sinh khi có cơ hội. Tô Hoài đã phát hiện và miêu tả sự hồi sinh ấy bằng những trang viết thấm đẫm tình người.

Để chuẩn bị cho việc trỗi dậy sức sống của Mị, Tô Hoài đã miêu tả những yếu tố ngoại cảnh tác động đến tâm hồn cô. Tác nhân đầu tiên chính là vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân. “Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy”. Những đêm mùa xuân của vùng cao TB là những đêm tình của trai gái hẹn hò. Không khí mùa xuân về trên rẻo cao đã khiến lòng Mị xốn xang những cảm xúc.

Tác nhân tiếp theo là âm thanh tiếng sáo. Tiếng sáo là bài ca về hạnh phúc, là biểu tượng về tình yêu đôi lứa. Tiếng sáo gợi nhắc một thời vàng son của Mị: “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi” “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Âm thanh tha thiết của tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị, khơi dậy những kỉ niệm về tuổi thanh xuân bấy lâu bị vùi lấp trong cuộc sống làm dâu gạt nợ đầy cơ cực cay đắng. Tiếng sáo như ngọn gió len lỏi vào sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức khát vọng hạnh phúc lứa đôi, thổi bùng lên đốm lửa sống tưởng chừng đã nguội tắt trong Mị. Sự thức tỉnh về mặt ý thức đã dẫn đến những hành động gần như tất yếu của Mị.

– Diễn biến tâm lí, hành động của Mị:​

Khi nghe tiếng sáo đầu núi vọng lại, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Một cô Mị bao ngày câm lặng lầm lũi giờ bỗng cất tiếng hát, dù đó chỉ là những tiếng nhẩm thầm, thì vẫn là một tín hiệu về sự đổi thay. Rồi Mị uống rượu. Mị “lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cái cách Mị uống rượu được nhà văn đặc tả đầy ấn tượng. Không phải là uống để thưởng thức mà là uống như để quên đi phần đời cay đắng vừa qua, uống để nén bao nhiêu tủi cực vào lòng. Chén rượu xuân đã đánh thức sức mạnh trong con người Mị, giúp cô can đảm thoát ra thực trạng bị trói buộc, cầm tù về thể xác lẫn tinh thần. Lòng cô đang sống lại những ngày trước. Lúc này, tâm hồn Mị như thăng hoa trong ngập tràn cảm xúc. Từ trong chết mòn, chai lì vô cảm, Mị bỗng thấy “phơi phới trở lại”. Cô “đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Rồi cô nhận ra: Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Lần đầu tiên, sau những tháng ngày mất hết ý niệm về thời gian, không gian, mất hết ý thức về bản thân, bây giờ Mị đã có ý thức trở lại. Mị nhận ra giá trị và khát vọng của mình, thấy quyền mình được sống, được đi chơi Tết như bao người phụ nữ có chồng khác. Thế rồi, lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy. Khát vọng hạnh phúc thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh.

Sự tự ý thức của Mị chính là biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đang bừng dậy trong tâm hồn cô, là biểu hiện của khát vọng tự do và bình đẳng.. Không những thế, trong giây phút ấy, Mị còn thầm so sánh mình với người đàn bà khác để nhận ra sự bất công mà mình phải chịu. Và cũng chính lúc này, Mị cảm nhận rõ sự bất hạnh của mình “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay… Nếu trước đây Mị chai sạn, vô cảm với những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần, Mị không còn tưởng đến việc ăn lá ngón tự tử thì giờ đây Mị lại muốn chết ngay khi nhận ra hoàn cảnh thực tại đầy cay đắng của mình. Đó chính là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự xung đột gay gắt giữa một bên là khát vọng sống được thức tỉnh với một bên là thực tại bất hạnh vẫn đang hiện hữu. Khi Mị thấy nước mắt ứa ra, là chứng tỏ ý thức của Mị đang hồi sinh, Mị cảm nhận được hoàn cảnh đau xót tủi nhục của mình. Tô Hoài đã miêu tả thành công công những xung đột gay gắt trong lòng Mị, đó là xung đột giữa lòng yêu đời và sự chán đời, giữa lòng ham sống với sự tuyệt vọng vì bị cầm tù, đày đọa.

Tuy nhiên tiếng sáo vẫn bay lơ lửng ngoài đường. Trong đoạn trích, tiếng sáo được nhắc đến nhiều lần là một dụng ý nghệ thuật. Cả không gian ngập tràn tiếng sáo. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi nơi đầu núi. Tiếng sáo ấy như tiếng gọi tha thiết của tình yêu và cuộc sống đã thôi thúc Mị hành động. Mị đến góc nhà “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Câu văn không chỉ miêu tả hành động của Mị thắp lên ngọn đèn vật lý để thắp sáng căn buồng mà còn bao hàm ý nghĩa Mị đang thắp sáng cuộc đời quá ngột ngạt, tăm tối của mình. Mị thắp lên ánh sáng để xua đi bao âm u, lạnh lẽo nơi ngục thất đang giam hãm tuổi thanh xuân và khát vọng hạnh phúc của Mị, cũng là thắp lên ngọn lửa lòng, ngọn lửa sống trong tâm hồn Mị. Trong đầu Mị luôn chập chờn ý nghĩ: Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Ý nghĩ ấy thúc giục Mị tiếp tục hành động nối tiếp hành động: Quấn lại tóc, lấy cái váy hoa để đi chơi xuân. Từ một người đàn bà cam chịu lầm lũi, ý thức tê liệt, cả cái chết để giải thoát cũng không muốn, bây giờ lại muốn làm đẹp muốn đi chơi, là cả một quá trình thay đổi lớn. Ta thấy Mị đang dần dần hồi sinh với những cảm xúc rất chân thực, những mong muốn rất chính đáng của một con người.

Giữa lúc lòng yêu đời, sự ham sống, sức hồi sinh trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị quật xuống phũ phàng nhất. A Sử thản nhiên, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà. Hành động tàn bạo ấy của hắn đã trói cái khát vọng vừa mới manh nha, của người phụ nữ tội nghiệp. Sợi dây trói là hiện thân hung tợn của một lối hành xử đầy tính dã man thời trung cổ, hiện thân của sự vùi dập quyền sống chính đáng, tự do và hạnh phúc của con người. Việc A Sử tắt đèn, “khép cửa buồng lại” một cách lạnh lùng tàn nhẫn như dập tắt luôn sự sống vừa mới bùng lên trong Mị, phong kín cánh cửa tâm hồn mà mị vừa hé mở.

Mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu nồng nàn đã khơi dậy sức sống mạnh mẽ trong tâm hồn Mị. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy đã bùng lên thành ngọn lửa khao khát sống, khao khát tự do, hạnh phúc. Mặc dù ngọn lửa ấy bị AS dập tắt một cách tàn bạo ,sự trỗi dậy của tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân chưa thể đổi thay cuộc đời và số phận nhưng đó chính là những biểu hiện tích cực thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của Mị.

* Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ​

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục vùi mình vào công việc với thân phận làm dâu gạt nợ. Cuộc sống của Mị cứ thế chìm nghỉm trong tủi nhục bất hạnh. Những đau khổ tủi cực mà Mị gánh chịu như nhưlớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro nguội lạnh ấy thì đốm lửa sống sẽ bùng cháy. Một lần nữa, sức sống lại bùng lên trong tâm hồn Mị khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ – người ở trừ nợ cho nhà thống lí – bị trói. Trước khi đi đến hành động táo bạo là cắt dây cởi trói cho A PHỦ, lòng Mị đã trải qua những trạng thái giằng xé phức tạp.

– Mấy đêm đầu: Khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi, Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Sự thản nhiên ấy là biểu hiện của thái độ dửng dưng vô cảm trong lòng Mị. Cô chẳng quan tâm đến bất cứ điều gì. Bản thân Mị đã chịu quá nhiều đau khổ tủi nhục cay đắng đến mức cô thờ ơ, không còn khả năng phản ứng trước những đau khổ của người khác.Mị đã rơi vào nỗi đau tận cùng, đến mức không nỗi đau nào có thể làm Mị quan tâm hơn nữa. Mị hờ hững với những gì đang diễn ra xung quanh mình bởi Mị chỉ đang tồn tại như một các xác không hồn, một công cụ lao động của nhà thống lí. Qua thái độ đó của Mị, Tô Hoài cho ta thấy, nếu cứ sống lâu, sống mãi trong cảnh khổ, trong áp bức đọa đày thì trái tim con người sẽ dần dần băng giá, cảm xúc của con người sẽ rơi vào tình trạng tê liệt. Những tưởng, Mị sẽ mãi mãi như thế.

– Khi thấy dòng nước mắt của A Phủ:​

+ Đó là dòng nước mắt bất lực tuyệt vọng khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Dòng nước mắt của A PHỦ đã khiến Mị nhớ lại đêm năm trước A sử trói Mị… Nỗi đau đã khơi dậy nỗi đau. Từ chỗ thương mình, Mị đã đồng cảm, xót thương cho A PHỦ: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…Người kia việc gì mà phải chết”.

Dòng nước mắt của A Phủ là một chi tiết có ý nghĩa nghệ thuật. Nó như một dòng nham thạch đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Mị bắt đầu hồi sinh nhận thức. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra A PHỦ giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ đồng cảm vs nhau. Từ thương mình, thương A PHỦ, Mị trỗi dậy lòng căm thù cha con thống lí. Đoạn độc thoại nội tâm của Mị đã thể hiện sự giằng xé xung đột trong tâm hồn người phụ nữ trẻ. Tô Hoài quả là một nhà văn rất có biệt tài trong việc miêu tả nội tâm nhân vật,đặc biệt là những trạng thái cảm xúc miên man của Mị. Cô tưởng tượng ra cảnh A PHỦ trốn thoát còn cô sẽ bị trói đứng vào cột nhà để thế mạng nhưng “nghĩ đến đấy Mị vẫn kg thấy sợ.” Có lẽ lúc này, tình thương người và lòng căm thù kẻ bạo tàn độc ác đã chiến thắng nỗi sợ hãi trong con người Mị. Nó thúc đẩy cô đi tới quyết định táo bạo: cắt dây trói cứu A PHỦ.

Mị cắt sợi dây hữu hình trên người A PHỦ mà không hề biết rằng chính lúc ấy cô đã cắt luôn hai sợi dây vô hình lâu nay trói buộc thân phận mình. Đó là sợi dây của thần quyền và cường quyền. Cứu A PHỦ cũng có nghĩa là Mị tự giải thoát cho chính mình. Chạy theo A PHỦ là Mị đã chạy theo tiếng gọi của sự sống và tự do bởi cô đã ý thức được rằng: “Ở đây thì chết mất.”

=> Hành động của Mị tự phát nhưng quyết liệt, có ý nghĩa quyết định cuộc đời cô. Hành động đó thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của Mị, là kết quả tất yếu của sức sống vốn tiềm tàng trong con người Mị. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị cũng chính là biểu hiện của khát vọng sống, khát vọng tự do – những khát vọng rất tự nhiên chính đáng của con người.

Từ đêm tình mùa xuân đến đêm mùa đông cứu A Phủ là một hành trình dài Mị tìm lại chính mình để rồi tự giải thoát mình khỏi những gông xiềng của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục. Sức sống mãnh liệt của Mị tiêu biểu cho sức sống và khát vọng tự do của người lao động nghèo miền núi Tây Bắc.

Bằng lối kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, bằng khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, miêu tả nhân vật qua một số nét chân dung lặp lại, khai thác dòng suy nghĩ và tiềm thức chập chờn của nhân vật, Tô Hoài xây dựng thành công nhân vật Mị. Hình tượng nhân vật Mị tiêu biểu cho số phận đau thương và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc, của ng dân lao động TB dưới sự áp bức của bọn chúa đất. Họ là những con người đã từ đau thương vươn lên đấu tranh tự giải phóng cuộc đời mình

Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Ông đã đồng cảm với số phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ , đồng thời căm phẫn lên án, tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi. Không chỉ thế, nhà văn còn ngợi ca những vẻ đẹp của người dân lao động Tây Bắc, đó là khát vọng sống, khát vọng tự do, tư tưởng đấu tranh phản kháng và khả năng làm cách mạng để tự giải phóng cuộc đời mình. Đây là nét mới trong tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài cũng như của Văn học giai đoạn 45-75.

2.2 Nhân vật A Phủ​

* Lai lịch hoàn cảnh:​

+ Lúc nhỏ bơ vơ đau bất hạnh: cha mẹ, anh chị em chết trong trận dịch bệnh đậu mùa, chỉ con sót lại một mình A Phủ. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác.

* Phẩm chất, tính cách​

+ A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Bởi vậy, A PHỦ được nhiều người con gái trong làng mê, trở thành niềm ao ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Tuy nhiên với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, nên không thể lấy nổi vợ, không thể có gia đình, hạnh phúc.

* Cuộc đời đau thương tủi nhục của A Phủ:​

– Bị phạt vạ và làm nộ lệ cho thống lí: Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con nhà quan khi hắn phá đám chơi ngày Tết. “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đẫu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ cho thấy sự khảng khái, không cúi đầu nhẫn nhục trước kẻ xấu. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ. Bọn thống lí và chức việc kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi… Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như hổ mang phù”. Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”. Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, người phát đơn kiện cũng là người xử kiện, A Phủ đã thống lí Pá Tra buộc làm người ởkhông công để trả nợ “đời mày, đời con mày, đời cháu máy tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Cũng như Mị, A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi bởi chúa đất Hồng Ngài.

– Cuộc đời nô lệ: A Phủ bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc và cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ lại. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Sau bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ đã nằm bên bờ vực của cái chết. “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. Tuy vậy, với khát vọng mãnh liệt, với bản chất gan góc, sẵn có, A Phủ không chịu chờ cái chết mà tìm mọi cách tự giải thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một bên tay”. Khi bị thống lí trói chặt hơn, A PHỦtuyệt vọng, những tưởng chết đói chết rét trong nhà thống lí, nhưng được sự giải cứu của Mị, “A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi” trốn khỏi Hồng Ngài.

– Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt vừa vạch trần bộ mặt tàn bạo, dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ, mặt khác bày tỏ sự đồng cảm xót thương với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, đồng thời ca ngợi sức vươn lên mạnh mẽ của họ để tự giải phóng cuộc đời mình.

– Kết luận: Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật A Phủ hiện lên thật sinh động. Nhà văn miêu tả không qua những diễn biến tâm lí của nhân vật mà chủ yếu thông qua hành động. Cùng với Mị, cuộc đời A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận, phẩm chất và con đường đi của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, ánh sáng tự do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Kết luận về nội dung và nghệ thuật của Vợ chồng A Phủ:​

* Nội dung​

– Giá trị hiện thực: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người lao động nghèo, lên án tố cáo bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi.

– Giá trị nhân đạo: thể hiện tình thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ tủi nhục của người lao động miền núi dưới ách thống trị của bọn chúa đất; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khả năng tự giải phóng của nhân dân lao động Tây Bắc.

*Nghệ thuật​

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc (Với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ấn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn).

– Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.

– Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ.

Xem thêm các bài viết về bài học Vợ chồng A Phủ:
Nhận định hay về nhà văn Tô Hoài cùng tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy (T. Sêkhốp), chứng minh qua tác phẩm Vợ chồng A,
Những kiến thức căn bản trong "Vợ chồng A Phủ"
Khát vọng sống mãnh liệt của A Phủ
Lí giải nguyên nhân nỗi khổ của Mị
Ánh lửa hồng tái sinh cuộc đời Mị
Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân
Ôn tập tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài mới nhất (câu hỏi thường gặp)
 
Từ khóa
cách giới thiệu nhân vật mị cuộc đời làm dâu gạt nợ cuộc đời đau thương tủi nhục của a phủ diễn biến tâm lí hành động của mị mị trong đêm mùa đông cứu a phủ ôn tập kiến thức trọng tâm của vợ chồng a phủ tác giả tô hoài trỗi dậy sức sống của mị
559
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top