Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành. Kiến thức bổ ích cho 2k5 nhé!

Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành. Kiến thức bổ ích cho 2k5 nhé!

H
Hoàng Cung
  • Người yêu văn chương đến từ Sóc Trăng
RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành

I. Tác giả

- Nguyễn Trung Thành (bút danh khác Nguyên Ngọc) là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
- Ông sống gắn bó mật thiết với mảnh đất Tây Nguyên nên ông đã có những trang viết đặc sắc về con người và thiên nhiên vùng đất này.
II. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác

- Cảm hứng trực tiếp: Truyện ngắn Rừng xà nu viết năm 1965 được đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ số 2 – 1965, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Đây là tác phẩm đặc sắc của Nguyên Ngọc trong thời chống Mĩ cứu nước. Tác phẩm ra đời trong những năm tháng rất đặc biệt của lịch sử Việt Nam: “Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn với đế quốc Mĩ”. Đế quốc Mĩ đổ ào ạt hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam (ngày 08/3/1965 lên vùng biển Chu Lai, Quảng Nam), chuyển từ “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bộ”, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Cả nước là một chiến trường đánh Mĩ: đâu cũng là tiền tuyến. Cả dân tộc phải đương đầu với thử thách lớn lao, nhưng vẫn kiên trì mục tiêu và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tiếp theo bài tuỳ bút nổi tiếng Đường chúng ta đi, Nguyễn Trung Thành đã viết Rừng xà nu với tư tưởng cơ bản là khẳng định con đường duy nhất đúng của dân tộc ta là đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản cách mạng mới bảo vệ được quyền sống, quyền làm người trên chính mảnh đất quê hương của mình.
- Cảm hứng gián tiếp:
+ Cảm hứng về cây xà nu:
• Nhà văn hồi ức: tháng 5/1962, ông cùng nhà văn Nguyễn Thi hành quân từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Đêm chia tay, mỗi người về chiến trường của mình, họ đã sống giữa: “khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời”.
• Nhà văn có ấn tượng sâu đậm và yêu cây xà nu từ đó. Nhà văn thật sự rung động trước cây xà nu, bởi: “Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại mà trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn hàng triệu cây vô tận”.
Như vậy Rừng xà nu là một khối cảm hứng trầm tích, kết tụ từ lâu, âm thầm lẫn khuất, chín dần trong tâm thức của nhà văn và giờ đây được cảm hứng lịch sử trực tiếp xé toạc ra, tuôn chảy rào rạt thành một truyện ngắn hay. Cây xà nu hoàn toàn hợp với không khí tráng ca thời đánh Mĩ, hợp với cảm hứng sáng tạo của nhà văn muốn viết một bài hịch hiện đại nên đã đi vào truyện thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo giàu ý nghĩa biểu tượng.
+ Cảm hứng về những con người Tây Nguyên anh hùng trong đời thực, trong cuộc chiến đấu của dân tộc.
• Đặc trưng của truyện là hư cấu nghệ thuật nhưng hư cấu được bắt nguồn từ mảnh đất hiện thực cuộc sống. Trong Rừng xà nu, Nguyên Ngọc đã bám vào hiện thực cuộc sống Tây Nguyên để phản ánh và xây dựng nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm có hư cấu, nhưng cũng có nhân vật lấy từ nguyên mẫu.
• Cụ Mết, người làng Xóp Dùi, Bắc Kon Tum, nhà văn quen cùng thời gian biết anh Núp (Đất nước đứng lên). Anh Núp người làng Xi Tơ ở Gia Lai.
• Anh Đề (người Xê Đăng – nhà văn đổi tên Tnú cho mất đi vẻ người Kinh) là nhà văn gặp năm 1963. Anh Đề đã kể cho nhà văn nghe hồi 1959, anh cùng 10 trai làng đã dùng dao rựa, giáo mác giết sạch một tiểu đội lính Diệm, bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang ở đây.
• Chị Dít, nhà văn gặp năm 1963 trong một hội nghị ở núi Ngọc Linh, Đắc Lây.
Như vậy, cảm hứng sáng tạo là cảm hứng lịch sử - xã hội, nhưng chiều sâu vẫn là niềm cảm phục và yêu thương con người Tây Nguyên, mảnh đất Tây Nguyên đau thương mà anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam của nhà văn. Nguyên Ngọc kể: “Tây Nguyên đối với tôi là một tâm sự không bao giờ dứt”. Cảm hứng anh hùng, cảm hứng ngợi ca nhân dân.
b. Tư tưởng chủ đề tác phẩm
- Truyện kết tinh trong câu nói của nhân vật cụ Mết được truyền tụng như di huấn của thế hệ trước với các thế hệ sau: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !”.
- Trong truyện Rừng xà nu, nhà văn đã giải đáp vấn đề nêu trên bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động, giàu sức biểu hiện. Kẻ thù đốt mười đầu ngón tay của Tnú hòng uy hiếp, ngăn chặn những bàn tay cầm vũ khí đánh trả lại chúng. Nhưng ngọn lửa cháy trên hai bàn tay của Tnú đã làm cháy bùng lên ngọn lửa căm thù, cháy bùng lên ngọn lửa đấu tranh và có hàng ngàn cánh tay cầm lấy vũ khí chống lại chúng. Kẻ thù gieo đau thương, gieo tội ác thì cũng gieo mầm đấu tranh, đó là một quy luật tất yếu. Mười đầu ngón tay của Tnú bị đốt thì lập tức mười thằng giặc phải đền mạng. Rừng xà nu là khúc ca bi tráng về đường chúng ta đi, con đường mở đầu cuộc đồng khởi ở miền Nam và kết thúc với chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh đại thắng.
c. Tóm tắt tác phẩm:
Sau 3 năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Làng Tnú ở trong tầm đại bác của giặc, đạn giặc đã tàn phá dã man rừng xà nu; Trong đêm về thăm làng, Tnú ở nhà cụ Mết và cũng trong đêm đó, cụ Mết kể cho dân làng nghe về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; Ngày ấy giặc khủng bố dã man phong trào cách mạng nhưng dân làng Xô Man vẫn tìm cách nuôi giấu cán bộ, trong số những thanh niên tích cực nhất có Tnú và Mai. Tnú được anh Quyết dìu dắt đi làm liên lạc sau khi bị giặc bắt và giam. Tnú đã vượt ngục trở về cùng dân làng chuẩn bị vũ khí chiến đấu; Nghe tin đó bọn giặc hùng hổ kéo một tiểu đội về làng Xô Man nhưng không bắt được Tnú. Chúng đã bắt và hành hạ vợ con Tnú. Từ chỗ nấp, Tnú đã nhảy vào giữa bọn lính nhưng không cứu được vợ con. Tnú bị giặc bắt, chúng đốt mười đầu ngón tay Tnú bằng giẻ tẩm dầu xà nu nhưng Tnú không thèm kêu la. Trước cảnh tượng dã man này, dân làng đã nhất tề vùng lên đánh giặc; Tnú kể cho dân làng nghe trong một trận chiến đấu, anh đã bóp chết tên chỉ huy đồn bằng đôi tay tàn tật khi nó cố thủ trong hầm. Cụ Mết và Dít đã tiên Tnú dưới cánh rừng xà nu bạt ngàn.
III. Đọc – hiểu văn bản:
1. Nội dung:
a. Ý nghĩa nhan đề:

Vừa có nghĩa thực vừa có nghĩa tượng trưng.
- Nghĩa thực: xà nu là một loài cây thuộc họ thông mọc rất nhiều ở Tây Nguyên. Đây là một thứ cây khoẻ, giàu sức sống, có thể sinh sôi rất nhanh ngay cả ở những nơi có khí hậu khắc nghiệt, đồi núi khô cằn. Người Tây Nguyên cũng gắn bó mật thiết với cây xà nu.
- Nghĩa tượng trưng: rừng xà nu tiêu biểu cho sức sống bất diệt, tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường của nhân dân Tây Nguyên nói riêng, con người Việt Nam nói chung trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước vĩ đại.
b. Hình tượng cây xà nu – biểu tượng của sự sống đau thương nhưng kiên cường, bất diệt
- Trong truyện Rừng xà nu, hình tượng cây xà nu, rừng xà nu góp phần tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi, lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Hình tượng cây xà nu, rừng xà nu là một hình tượng nghệ thuật độc đáo, đặc sắc bao trùm cả thiên truyện, hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng. Qua hình tượng này, người đọc có thể thấy rõ sức sống mãnh liệt, ngoan cường của con người Tây Nguyên nói riêng và con người Việt Nam nói chung trong những năm tháng chống Mĩ, cứu nước. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, cụ thể rừng xà nu với một cảm xúc say mê, mãnh liệt và bằng một ngôn ngữ giàu chất thơ. Trong đoạn trích, tác giả đã hơn hai mươi lần nói đến cây xà nu, rừng xà nu. Mở đầu và kết thúc thiên truyện là hình ảnh “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Tiếp đó là các chi tiết về cây xà nu gắn bó với nếp sống, nếp sinh hoạt hằng ngày như đã ngàn đời thân thuộc với dân làng Tây Nguyên: ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi nếp nhà; đuốc lửa xà nu soi đường rừng đêm; lửa xà nu bập bùng trong nhà ưng; khói xà nu làm đen nhẻm thân hình và lem luốc mặt lũ trẻ con; khói xà nu hun tấm bảng đen để anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ... Xà nu còn tham dự vào những sự kiện lớn trong đời sống dân làng Xô Man: đuốc lửa xà nu trong tay cụ Mết và dân làng vào rừng lấy vũ khí; đêm đêm, dưới ánh lửa xà nu mọi người mài giáo mác; lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú làm cháy lên ngọn lửa căm hờn; lửa xà nu cháy rừng rực trong đêm cả làng nổi dậy giết giặc, soi tỏ mười xác giặc quanh đóng lửa xà nu giữa sân nhà ưng... Cây xà nu được nhân hoá: “...rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...”; cây xà nu cũng “bị thương”; nhựa xà nu như dòng máu trong một cơ thể cường tráng... Con người cũng được so sánh với cây xà nu: ông già Mết là cây xà nu cổ thụ; Tnú là cây xà nu đã trưởng thành; cậu bé Heng như cây xà nu non mới mọc lên.
- Với một kết cấu trùng điệp đầy âm vang, tác giả đã làm cho thiên truyện trùng trùng điệp điệp những “xà nu” lấp lánh, xanh rờn những “xà nu” mà làm nổi lên sắc màu Tây Nguyên. Tây Nguyên cứ từ từ hiện lên trên những trang miêu tả rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành vừa hào hùng, vừa tuyệt vời thơ mộng, trữ tình: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”.
- Làng Xô Man và rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của đồn giặc, nhưng không có thứ đại bác nào huỷ diệt được sự sống vốn bắt rễ sâu trong lòng đất, không khuất phục nổi những con người vốn sinh ra từ truyền thống anh hùng bất khuất của Tây Nguyên. Có thể có những cây xà nu bị đạn đại bác chặt đứt đôi; có cây “đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã...”; “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Điều đó cũng giống như dân làng Xô Man dưới tầm đại bác, dưới ách kìm kẹp của kẻ thù cũng chịu bao đau thương tang tóc.
Dường như cây xà nu tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những nỗi buồn vui của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu anh dũng của họ. Cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn, vừa là nhân chứng, vừa tham gia vào bản hùng ca, vừa chịu đựng mọi gian nan vất vả, những chết chóc đau thương do tội ác của quân giặc gây ra. Nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn vươn mình cường tráng, nó tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man. Sức sống mãnh liệt của rừng xà nu tượng trưng cho sức sống của thế hệ trẻ làng Xô Man: đó là những Tnú, Mai, Dít, bé Heng,... những con người bất khuất từ tuổi thơ, lớn lên trong bão táp cách mạng, trưởng thành trong đau thương, anh dũng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Sức sống bất khuất, kiên cường của cây xà nu còn được tạo bởi số lượng hàng ngàn, hàng vạn cây, ở những đồi xà nu nối tiếp đến tận chân trời, ở tấm ngực lớn của rừng che chở cho dân làng. Đó là những cây xà nu vững chắc không chịu ngã gục trước giông bão, bom đạn và sự tàn phá của kẻ thù. Đó cũng là hình ảnh của dân làng Xô Man kiên cường đánh giặc, hết thế hệ này sang thế hệ khác, bất chấp mọi gian khổ hi sinh, đi theo Đảng đến cùng.
Câu chuyện cụ Mết kể phảng phất phong vị anh hùng ca. Đêm kể chuyện của cụ Mết dưới ánh lửa xà nu. Giọng điệu sử thi của truyện Rừng xà nu bắt nguồn từ đó, và rừng xà nu, cây xà nu không chỉ gắn quá khứ với hiện tại anh hùng mà còn gắn bó với mọi sinh hoạt, những phong tục, tập quán, đời sống văn hoá của các dân tộc người Tây Nguyên. Hình tượng rừng xà nu là một thành công đáng kể của Nguyễn Trung Thành trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
c. Hình tượng nhân vật Tnú:
- Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện đã được “sử thi hoá” qua lời kể của ông già Mết.
Cuộc đời Tnú rất tiêu biểu cho số phận các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì chống Mĩ cứu nước: “Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm dài như cả một đời”. Tnú đã trải qua biết bao nhiêu thử thách khốc liệt từ thuở ấu thơ và chính những thử thách ấy đã hun đúc Tnú trở nên một con người mang nhiều phẩm chất cao quý. Tnú không phải tìm đường, nhận đường. Tnú được anh Quyết, người cán bộ cách mạng dìu dắt, dạy cho cái chữ để sau này lớn lên làm người lãnh đạo dân làng đánh giặc. Lòng dũng cảm không sợ hi sinh, sự mưu trí, và lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của Tnú có một phần kế thừa truyền thống anh hùng, bất khuất của người Tây Nguyên kiêu hùng, mặt khác nó được sớm thử thách, hình thành trong thực tế, trong công việc đi nuôi giấu cán bộ, đi liên lạc cho anh Quyết từ xã xuống huyện, trong khi đối mặt trực tiếp với tù ngục và đòn thù. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được ông già Mết và cả làng cưu mang, đùm bọc, lớn lên Tnú rất xứng đáng là người con của cả bản. Khi đi liên lạc cho anh Quyết, Tnú rất dũng cảm, gan dạ, thông minh, tháo vát. Tnú không đi theo đường mòn vì ở đó có giặc phục kích. Tnú leo lên cây cao xác định phương hướng rồi đạp gai, xé rừng mà đi. Qua sông, qua suối Tnú tránh chỗ nước êm, vì chỗ ấy có quân Mĩ – Diệm hay mai phục; Tnú chọn chỗ nước chảy xiết, đè lên con sóng như một con cá kình để sang bờ. Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn lá thư cuộn trong đọt dong ngậm trong miệng. Lưng cậu bé bầm dập vết dao chém nhưng cậu không hé răng khai nửa lời. Bị giặc cầm tù, Tnú vượt ngục Kon Tum mà về làng. Lúc ấy, anh đã thành một chàng trai cao nguyên hoàn hảo: rắn chắc, cao lớn, cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú chan hoà trong hạnh phúc bên Mai dịu dàng và đứa con trai đầu lòng giống Tnú như đúc. Tưởng như Tnú đã có tất cả những gì mà con người mong có được.
Nhưng rồi hạnh phúc của Tnú với Mai vừa bừng nở đã bị quân giặc chà đạp rất phũ phàng. Câu chuyện đau thương về cuộc đời của Tnú thật sự bắt đầu khi lũ ác ôn kéo về làng ngăn chặn những bàn tay cầm vũ khí chống lại chúng. Để truy tìm Tnú, bọn giặc dùng đến ngón đòn độc hiểm cuối cùng: nó bắt Mai cùng đứa con. Tnú không cứu được vợ con. Tận mắt anh phải nhìn cảnh Mai và đứa con trai chưa đầy tháng chết thê thảm dưới cây gậy sắt của quân giặc. Lúc ấy, lòng căm hờn và nỗi đau đớn đã biến “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Anh đã lao vào lũ giặc với sức mạnh của hùm thiêng. “Anh không biết đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà ưng”. Thế nhưng “Tnú không cứu sống được mẹ con Mai”. Kiên cường, kiêu hãnh có thừa, không bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, trong lồng ngực anh chan chứa yêu thương và sức mạnh căm thù... nhưng ngần ấy phẩm chất vẫn chưa đủ để anh bảo vệ được tình yêu và hòn máu của đời anh. Vì sao vậy ? Vì anh “chỉ có hai bàn tay không” thì không cứu nổi vợ con và không cứu nổi bản thân mình. Chính cụ Mết đã rút ra kết luận cực kì quan trọng ấy. Khi kẻ thù cầm vũ khí mà mình tay không thì sự sống sẽ bị huỷ diệt. Tấm thảm kịch đã diễn ra: mười đầu ngón tay của Tnú bị đốt. Giữa cao trào đau thương, già làng Tây Nguyên đã khắc ghi vào lòng các thế hệ một chân lí: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !”.
- Khi trong tay “người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà” đã có “một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa” ... thì tình hình sẽ khác hẳn: lửa xà nu tắt trên mười đầu ngón tay của Tnú, mười thằng giặc phải đền mạng, lửa đuốc xà nu soi rõ mười cái xác giặc ngổn ngang bên đống lửa lớn trên sân nhà ưng. Rừng Xô Man ào ào rung động. “Tiếng chiêng nổi lên”, “Và lửa cháy khắp rừng”. Sự sống hồi sinh từ sự quật khởi của những người cầm vũ khí đáp trả lại bạo tàn. Tnú từ đau thương vụt lớn lên, anh gia nhập lực lượng quân Giải phóng, chiến đấu dũng cảm để bảo vệ sự sống trên quê hương, để trả thù cho những người dân Xô Man đã bị giặc giết, trả thù cho bà Nhan, cho anh Xút, anh Quyết, trả thù cho Mai, cho đứa con của anh, trả thù cho mười đầu ngón tay của anh. Anh trở thành một tấm gương để cụ Mết giáo dục thế hệ đời sau.
Khắc hoạ nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay anh. Hai bàn tay mà mỗi ngón chỉ còn hai đốt, hai bàn tay ấy biết kể cho chúng ta nghe về số phận của một con người. Hai bàn tay ghi lại tội ác của quân giặc, hai bàn tay là bằng chứng về nỗi đau thương mà nhân dân Tây Nguyên phải chịu đựng. Hai bàn tay mà mỗi ngón chỉ còn hai đốt vẫn bắn súng được, sẽ là hai bàn tay quả báo: những thằng Dục ác ôn sẽ phải chết dưới hai bàn tay ấy. Kẻ thù phải đền tội bởi chính những dấu tích tội ác mà chúng đã gây ra.
Khi những bàn tay như bàn tay của Tnú đã cầm lấy vũ khí để chiến đấu thì sự sống sẽ trường tồn và phát triển, nảy nở trên đất quê hương. Tnú và dân làng Xô Man sẽ tìm lại được những gì đã mất. Mai tiếp tục sống trong hình ảnh Dít; đứa con đã mất sẽ sống lại trong hình ảnh bé Heng... Và những đồi xà nu xanh một màu xanh bất diệt vẫn trải ra trùng điệp nối tiếp tới chân trời.
=> Câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
d. Các nhân vật: cụ Mết, Mai, Dít, Heng.
- Cụ Mết là một già làng, người lãnh đạo tinh thần cao nhất của dân làng. Trong tác phẩm, cụ hiện lên với tư cách một nhân vật đại diện và lưu giữ truyền thống anh hùng của dân tộc. Kích thước và tầm vóc của cụ vì thế mà có bóng nét của những anh hùng trong những sử thi, anh hùng ca Đăm săn, Xinh Nhã,... Cụ có vai trò lãnh đạo cuộc nổi dậy và phát huy sức mạnh ấy trong cuộc kháng chiến lâu dài chống kẻ thù xâm lược của cộng đồng. Cụ Mết còn là nhân vật phát ngôn cho chân lí về con đường đấu tranh cách mạng mà dân làng phải ý thức và tích cực hành động: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !”.
- Mai, Dít là thế hệ hiện tại. Trong Dít có Mai của thời trước và có Dít của hôm nay, mang vẻ đẹp của sự kiên định, vững vàng trong bão táp chiến tranh. Từ một cô Dít nhỏ ngày nào giờ đã là bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội, người lãnh đạo chủ chốt của cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc của dân làng Xô Man.
- Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi cuối cùng.
=> Họ là sự tiếp nối các thế hệ làm nổi bật tinh thần bất khuất của làng Xô Man nói riêng, của Tây Nguyên nói chung.
2. Đặc sắc về nghệ thuật.
- Cách trần thuật của tác giả đậm đà chất sử thi. Tác giả đã dành phần lớn chiều dài của tác phẩm để ghi lại lời kể chuyện với giọng trầm trầm của già làng bên bếp lửa nhà ưng bập bùng suốt một đêm; giọng kể trang trọng như truyền cho các thế hệ sau những trang sử bi hùng của cộng đồng, lưu truyền cho con cháu một kinh nghiệm sống và chiến đấu: “Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe”. Cách trần thuật như vậy gợi nhớ đến những đêm trăng mờ sao nhạt trong tiếng suối róc rách từ xa vọng lại, các già làng kể “khan” cho con cháu nghe bên bếp lửa nhà rông. Câu chuyện về cuộc đời Tnú, của dân làng Xô Man là chuyện của thời hiện đại nhưng được sử thi hoá qua lời kể của cụ Mết, qua giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng, với thái độ “chiêm ngưỡng”, qua một “khoảng cách sử thi” vừa chân thực, vừa huyền ảo.
- Đặc sắc nghệ thuật của thiên truyện còn ở nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật của tác giả. Khắc hoạ nhân vật Tnú, tác giả tập trung miêu tả hai bàn tay của anh. Qua hai bàn tay mà tác giả làm hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật.
Nhìn chung, với nhân vật Tnú cũng như với các nhân vật khác, tác giả thường nhắc đi nhắc lại một vài điểm riêng biệt và nổi bật. Đó là dấu vết của cách giới thiệu, miêu tả nhân vật trong các sử thi truyền thống Tây Nguyên Như Đăm Săn, Xinh Nhã. Đó cũng là một đặc điểm nghệ thuật nổi bật của truyện ngắn này khiến cho mỗi nhân vật khắc vào trí nhớ của người đọc một ấn tượng không phai mờ.
- Nguyễn Trung Thành rất tinh tế trong việc gợi lên không khí, màu sắc Tây Nguyên trong tác phẩm. Trong ấn tượng của người đọc, ông là nhà văn của Tây Nguyên hùng vĩ và tươi đẹp, là người mở cửa đón Tây Nguyên vào văn xuôi hiện đại. Nguyễn Trung Thành đã chọn lọc những chi tiết đậm đà chất Tây Nguyên, nhưng rất mộc mạc, giải dị, tự nhiên để cho tác phẩm “lên” được chất Tây Nguyên quý báu ấy. Ngòi bút của nhà văn ghi lại hình ảnh “con suối nhỏ có một khúc nứa dẫn nước từ trong lòng đá”; ông kí hoạ “những bà già ... lụm cụm bò xuống thang, từng bậc, từng bậc”. Tác giả miêu tả “bữa cơm tối ở nhà cụ Mết” có “món canh tàu môn bạc hà nấu lạt trong ống nứa... Ông cụ không nêm muối vào canh. Ông chia cho mỗi người mấy hạt, họ ăn sống từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần”. Đêm Xô Man, dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành thật tịch mịch, có thể lắng nghe “Bên ngoài lấm tấm một trận mưa đêm, rì rào như gió nhẹ”; đêm như đêm huyền ảo “chỉ còn có tiếng vòi nước đầu làng lanh tanh trộn lẫn tiếng mưa đêm gõ đều trên vòm lá cây”. Đêm rõ là đêm cao nguyên, trong nhà ưng có một già làng “gõ ống điếu lên đầu ông táo, bẻ một que nứa ở sạp, cẩn thận soi cho hết tàn thuốc trong ống điếu”... Có một thiếu nữ cao nguyên nào vừa vào, ngồi sụp xuống bên bếp lửa xà nu “hai chân xếp về một bên, đưa tay kéo tấm váy che kín cả gót chân”. Tác giả ghi lại nhịp đập xúc động của con tim hồi hộp trong nhịp chày giã gạo trên buôn làng: “Bây giờ anh chợt hiểu ra rằng hình như cái mà anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ day dứt trong lòng anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó, tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Tnú cố giữ bình tĩnh nhưng ngực anh vẫn đập liên hồi...”. Những chi tiết ấy làm cho tác phẩm thấm đẫm chất Tây Nguyên.
Rừng xà nu là thiên sử thi của thời đại mới. Bằng giọng điệu sử thi trang trọng, đẹp đẽ, tác phẩm đã tái hiện được vẻ tráng lệ, hào hùng của núi rừng, của con người và truyền thống lịch sử, văn hoá Tây Nguyên.
3. Ý nghĩa văn bản
Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, bất tận. Tác phẩm ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, đất nước, con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định chân lí có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân mãi được trường tồn không có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.​
 
Từ khóa
cây xà nu cụ mết nguyễn trung thành rừng xà nu tnu
469
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top