Soạn văn Thị Mầu lên chùa

Soạn văn Thị Mầu lên chùa

Lan Hương
Lan Hương
  • Thành viên BQT
  • Truyền thông VHT 20
"Thị Mầu lên chùa" là một tác phẩm không còn xa lạ với người dân Việt Nam. Để hiểu hơn về tác phẩm này, mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây nhé!
Thị Mầu lên chùa.png

Thị Mầu lên chùa
I. Nội dung chính
Đoạn trích xoay quanh sự việc trêu ghẹo Tiểu Kính của Thị Mầu

II. Chuẩn bị
Đề bài:
Hình ảnh Thị Mầu lên chùa trong bức ảnh gợi cho em ấn tượng như thế nào?
Phương pháp giải:
- Đọc văn bản, xem kĩ ảnh.
- Diễn đạt để nêu lại ấn tượng của bản thân.
Lời giải chi tiết:
Hình ảnh Thị Mầu lên chùa trong bức ảnh gợi cho em ấn tượng là một cô gái xinh đẹp, đoan trang có phần lẳng lơ.

III. Trước khi đọc

Câu 1 (trang 75, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài:
Chú ý ngôn ngữ, hành động của các nhân vật và chỉ dẫn sân khấu.

Phương pháp giải:
- Đọc văn bản, vận dụng kĩ năng đọc hiểu.
- Áp dụng vào văn bản để tìm ra ngôn ngữ, hành động, chỉ dẫn sân khấu.

Lời giải chi tiết:
- Chỉ dẫn sân khấu:
(Thị Mầu: ra nói; đế; hát; xưng danh; đế; đế; đế; đê; hát ghẹo tiểu; nói; Tiểu Kính bỏ chạy; nấp; xông ra, nắm tay tiểu kính; Tiểu Kính bỏ chạy; đế; hát; hạ Tiểu Kính: tụng kinh; ra, nói)
- Hành động của Thị Mầu: xông ra nắm tay chú tiểu
- Ngôn ngữ thể hiện Thị Mầu: của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn. Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”

+ “Cấm gía” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:
“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

+ “Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:
“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”

“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua

- Ngôn ngữ, hành động của Tiểu Kính: Giữ khoảng cách, tìm cách từ chối, lẩn tránh, lúc nào cũng tụng kinh “Niệm Nam mô A Di Đà Phật!”
→ Bên cạnh nét giai điệu phóng túng, du dương là nét nhạc trầm lắng cùng với tiếng gõ mõ tụng kinh đều đều. Hai thái cực âm nhạc đối nhau, hai tâm trạng khác nhau, hai nỗi niềm khác nhau tạo nên một màn trò độc đáo.

Câu 2 (trang 76, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài:

- Thị Mầu lên chùa có gì khác với lệ thường.
- Chú ý các con số trong lời nói và câu hát của Thị Mầu.

Phương pháp giải:
- Đọc văn bản, vận dụng kĩ năng đọc hiểu
- Áp dụng vào văn bản tìm ra sự khác biệt.

Lời giải chi tiết:
- Thị Mầu lên chùa khác với lệ thường là: Người ta lên chùa vào mười tư, rằm; còn Thị Mầu lên chùa mười ba.
- Các con số trong lời nói và câu hát của Thị Mầu là: mười ba, mười bốn, mười lăm.

Câu 3 (trang 76, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài:
Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin gì?

Phương pháp giải:
- Đọc văn bản, vận dụng kỹ năng đọc hiểu
- Áp dụng vào văn bản để tìm thông tin được nhấn mạnh.

Lời giải chi tiết:
- Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin “chưa chồng”
“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đây nhá!”​

Câu 4 (trang 77, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài:

- Thị Mầu có quan tâm đến việc vào lễ Phật không?
- Chú ý hành động, ngôn ngữ bày tỏ tình cảm của Thị Mầu?

Phương pháp giải:
- Đọc văn bản, vận dụng kĩ năng đọc hiểu
- Áp dụng vào văn bản để phân tích tâm lí, hoàn cảnh, từ đó hiểu ra mục đích thật sự của Thị Mầu.

Lời giải chi tiết:
- Thị Mầu không quan tâm đến việc vào lễ Phật.
- Hành động, ngôn ngữ bày tỏ tình cảm của Thị Mầu được thể hiện qua câu:

“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”

“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua”.

Câu 5 (trang 77, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài:
Phép so sánh trong lời của Thị Mầu có gì độc đáo?

Phương pháp giải:
- Đọc văn bản, ôn lại kiến thưc cũ.
- Áp dụng vào văn bản để tìm ra nét độc đáo trong phép so sánh.

Lời giải chi tiết:
Lối nói ví von so sánh thể hiện khát khao yêu đương của Thị Mầu.

“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua”​

+ Cây táo mọc ở sân đình thường cao, sau mùa xuân chín rụng. Vì ít được chăm sóc lại già cỗi nên táo vừa chua, vừa chát.
+ Còn người phụ nữ nghén, người đời gọi là gái rở, thường thèm của chua, thèm đến xót lòng.

→ Người đàn bà ăn dở mà gặp quả táo, hơn nữa lại là rụng mà rụng ở sân đình thì nỗi khát khao thèm muốn càng tăng thêm gấp bội. Nhặt quả táo lên chắc người con gái ăn dở ấy phải nhai nuốt ngấu nghiến.
→ Việc Thị Mầu ví mình như gái rở, ví tiểu Kính như táo rụng sân đình thì hình ảnh vừa thật vừa rõ nét mà vừa dễ hiểu cho người xem.

Câu 6 (trang 78, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài:

- Những câu hát trong phần này đều tập trung thể hiện điều gì?
- Câu “Trúc xinh [...] chẳng xinh!” có gì khác với ca dao?

Phương pháp giải:
- Đọc văn bản, ôn lại kiến thưc cũ
- Áp dụng vào văn bản để tìm hiểu chi tiết, so sánh để tìm ra sự khác biệt.

Lời giải chi tiết:
- Những câu hát trong phần này tập trung thể hiện nỗi lòng, khát khao hạn phúc của Thị Mầu nhưng lại bị chú tiểu ngó lơ.
- Câu ca dao:
“Trúc xinh trúc mọc đầu đinh
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.”​

→ So sánh hình dáng cây trúc với người phụ nữa Việt Nam trẻ trung, mong manh và xinh đẹp cho dù đứng ở đâu, dù ở góc độ nào vẫn xinh.

+ Trong vở chèo Thị Mầu lên chùa

“Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh.”​

→ Ở trong câu ca dao người phụ nữ đứng một mình, dù đứng ở đâu, góc độ nào vẫn xinh; còn trong vở chèo Thị Mầu thì nó được biến tấu đi, nhằm ghẹo chú tiểu, ẩn ý người phụ nữ xinh đẹp cần phải có đôi có cặp mới xinh, còn đứng một mình sẽ không xinh.

Câu 7 (trang 79, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài:
Đoạn trích có những chỉ dẫn sân khấu nào/ Tác dụng của các chỉ dẫn đó với người đọc là gì?

Phương pháp giải:
- Đọc các chỉ dẫn trong văn bản
- Ôn lại kiến thức cũ, vẫn dụng vào văn bản để hiểu được tác dụng của chỉ dẫn.

Lời giải chi tiết:
Chỉ dẫn được đặt trong ngoặc đơn, đánh số.
- Tác dụng: Giúp người đọc hiểu đựơc nghĩa của các từ mới, giúp người đọc hiểu được cách thức, cũng như trình tự trình diễn của các nhân vật, từ đó theo dõi và hiểu được nội dung toàn bộ vở chèo.

Trên đây là một số nội dung chính trong tác phẩm "Thị Mầu lên chùa". Hi vọng bài viết sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo giúp ích cho các bạn trong quá trình học tập.
_Chúc các bạn học tốt!_
 
Từ khóa
hành động ngôn ngữ nội dung chính thị mầu lên chùa
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
2K
1
1

Thích Văn Học

Sáng tạo nội dung (content)
30/9/21
149
14
18,000
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
954,737
Câu hỏi 1: Thị Mầu đã sử dụng ngôn ngữ, hành động như thế nào để bày tỏ tình cảm với chủ tiểu? Tiếng gọi “thầy tiểu ơi!" lặp lại nhiều lần có tác dụng gì trong việc biểu lộ nỗi lòng Thị Mầu? Em thấy ấn tượng nhất với lời bày tỏ tình cảm nào của Thị Mầu? Vì sao?

Trả lời:

* Ngôn ngữ và hành động

- Sử dụng ngôn ngữ, hành động để bày tỏ tình cảm với chú tiểu

+ Hành động: Hát ghẹo, xông ra, nắm tay Tiểu Kính.
+ Ngôn ngữ:

· Vui tươi, háo hức khi sắp được gặp thầy tiểu: “Thế mà Mầu tôi lên chùa từ mười ba”.

· Không giấu giếm niềm say đắm với chú tiểu: “Tôi vừa đôi tám chưa chồng đấy thầy tiểu ơi”; “Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?”

· Tha thiết bày tỏ tình cảm mãnh liệt, bộc bạch khát vọng nên duyên qua lời hát ghẹo.

· Khi không được Thị Kính đáp lại lời bày tỏ thì Thị Mầu đã quyết liệt: “Bỏ mõ để em đánh cho nào”, “Đưa chổi đây…”; gạt phăng “Bỏ mô Phật đi” , dằn dỗi “Mô với chả Phật”

· Tha thiết giãi bày: “Tri âm chẳng tỏ tri âm…sầu riêng!”

Diễn tả tâm hồn rạo rực một khát vọng tình yêu tự do đến cháy bỏng, khắc họa một con người đầy táo bạo, quyết liệt, dám phá vỡ khuôn khổ của lễ giáo, bất chấp mọi quy ước xã hội để bày tỏ một cách thành thật tiếng lòng của mình.

* Tiếng gọi: “thầy tiểu ơi”
+ Tiếng gọi trở đi trở lại nhiều lần trong những lời đối thoại với Thị Kính, cho thấy mối quan tâm duy nhất của Thị Mầu khi lên chùa là thầy tiểu.
+ Tiếng gọi buộc đối tượng phải quan tâm đến mình, làm cho mọi lời nói, tiếng hát trở thành sự giãi bày, bộc lộ chỉ mong thầy tiểu thấu hiểu.
+ Tiếng gọi tạo cảm giác như đang bủa vây, bay vờn, níu chặt, bám riết lấy đối tượng giao duyên, quyết thực hiện bằng được khao khát bày tỏ tình cảm.

Tiếng gọi như muốn bộc bạch tất cả sự mê đắm bật ra cả những nhớ nhung, niềm khao khát. Nó đã hòa nhịp với giọng hát lả lơi, ánh mắt sóng sánh đa tình, nhịp bước tung tẩy, sắc áo rực rỡ và sức sống căng tràn của tuổi thanh xuân phơi phới khiến người đọc hình dung được tâm hồn rạo rực xuân thì, khát khao được nên duyên với người thương của Thị Mầu.

Em thấy ấn tượng nhất với lời bày tỏ: “Thầy như táo rụng sân đình/ Em như gái rở đi rình của chua". Đây là lời tỏ tình đầy táo bạo, mạnh mẽ. Thị so sánh thầy tiểu như táo rụng sân đình. Cây táo ở sân đình thường không được chăm sóc nên quả nhỏ, chua chát. Người phụ nữ có mang thèm của chua, nhìn thấy táo rụng sân đình mắt đã sáng bừng, thật là “cầu được, ước thấy". Cách so sánh như “vơ vào” để thể hiện Thị Mầu đã say thầy tiểu như điếu đổ, không thể cưỡng lại niềm khát khao được thỏa nguyện. Nó thể hiện trực tiếp tình cảm của Thị Mầu với thầy tiểu từ đó ta nhìn thấy được hình ảnh của một người phụ nữ mạnh mẽ, dám yêu, dám bày tỏ tình yêu của mình.

Câu hỏi 2: Qua ngôn ngữ và hành động của nhân vật Tiểu Kính trong đoạn trích, em có nhận xét gì về nhân vật này?

Trả lời:

* Ngôn ngữ:

- Không đáp lời trước bất cứ lời bộc bạch, thổ lộ nào của Thị Mầu.

- Chỉ mượn lời niệm Phật: “A Di Đà Phật” để hàm ý nhắc nhở Thị Mầu về giới hạn của người tu hành và chốn Thiền môn. / Có buông ra để tôi quét chùa…

- Tuy vậy, Tiểu Kính không hoàn toàn vô tình mà vẫn cảm thán trước sự éo le, cay đắng của cuộc đời khi mình vốn là phần nữ nhi nhưng lại khiến Thị Mầu say đắm: “Ngẫm oan trái …cũng chỉ là…”

* Hành động: Bỏ chạy 2 lần trước sự sấn sổ táo bạo của Thị Mầu => Nghiêm trang, cẩn trọng, đúng mực theo nguyên tắc của người tu hành.

Tiểu Kính là người điềm đạm, một lòng hướng về Phật pháp, chối bỏ mọi quyến rũ cõi trần.

Có tính cách đối lập với Thị Mầu, là người đoan trang, tuân thủ lễ tiết, có tâm hồn nhạy cảm – tiêu biểu của vai đào chính trong nghệ thuật chèo.

Câu hỏi 3: Dưới đây là một số trích dẫn ngôn ngữ của tác giả dân gian (được thể hiện qua tiếng đế) và nhân vật Thị Mầu:

Tiếng đế

Lời đáp của Thị Mầu

- Ai lại đi khen chú tiểu đẹp thế, cô Mầu ơi!

- Có ai như mày không?

- Dơ lắm! Mầu ơi!

- Sao lẳng lơ thế, cô Mầu ơi!

- Đẹp thì người ta khen chứ sao!

- […] chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy.

- Kệ tao.

- Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn / Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ!

Em có đồng tình với cách đánh giá trên đây của tác giả dân gian (qua tiếng đế) về Thị Mầu và thái độ, suy nghĩ của Thị Mầu không? Vì sao?

Trả lời:

- Em đồng tình với cách đánh giá trên của tác giả dân gian. Vì:

Từ đâu Thị Mầu đã được xây dựng là người con gái lẳng lơ, không phải là người con gái theo quan niệm “tam tòng tứ đức” của thời xưa vậy nên, qua lời đế thì những cái dở, cái xấu của Mầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Cái dở đó là sự mù quáng trong tình yêu nhưng đó mù quáng cũng là dễ hiểu, do đó dễ thông cảm. Cái mù quáng của Thị Mầu là ở chỗ cô không nhận biết – đối tượng của mình… Thầy Tiểu mà cô mê thực ra là Thị Kính giả trai. Sự mù quáng của Thị Mầu đã dẫn đến những hành động quá táo bạo. Những lời đế ấy không chỉ giúp Mầu thể hiện rõ bản thân của mình mà còn khiến giá trị của những yếu tố trong vở chèo dân gian là cách dùng gậy ông đập lưng ông mà văn học dân gian rất thiện nghệ để phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của của xã hội phong kiến. Từ đó khẳng định rằng khát khao sống, khát khao yêu bất chấp mọi khuôn khổ mực thước cũng chính là thông điệp được tác giả dân gian hết lòng ủng hộ.


Câu hỏi 4: Theo em, nhân vật Thị Mầu là người như thế nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8-10 dòng) nêu lên nhận xét của mình về nhân vật này.

Trả lời:

Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao tự do yêu đương. Đây là quyền cơ bản của bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời này. Đặc biệt đối với người phụ nữ, khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không có quyền được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Thị Mầu theo quan niệm dân gian là một người con gái lẳng lơ nhưng trong góc nhìn của độc giả thì đó lại là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, dám sống, dám yêu và sẵn sàng trực tiếp bày tỏ tình yêu của mình với người mà mình thương. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng cội nguồn cũng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ. Đây là điều dễ có thể cảm thông.

Câu hỏi 5: Em biết những tác phẩm văn học nào lấy cảm hứng từ hình tượng nhân vật Thị Mầu trong vở chèo Quan Âm Thị Kính?

Trả lời:

- Xuân khúc Thị Màu (Huy Trụ)
- Cô Thị Mầu (Trần Đăng Khoa)
- Thị Màu (Anh Ngọc)
- Này em Thị Mầu (Ngân Vịnh)
- Hát với Thị Mầu (Đoàn Thị Lam Xuyến)
 

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top