Soạn văn Thư lại dụ Vương Thông - Nguyễn Trãi, Ngữ văn 10, Chân trời sáng tạo

Soạn văn Thư lại dụ Vương Thông - Nguyễn Trãi, Ngữ văn 10, Chân trời sáng tạo

Triều Anh
Triều Anh
  • Thành viên BQT
  • Người yêu của văn chương ❤️ đến từ Sóc Trăng
Tư tưởng xuyên suốt các áng văn chính luận của Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén. Cùng Triều Anh tìm hiểu một văn bản văn chính luận như thế qua bài soạn dưới đây:

588DF578-A861-4F8F-AE2B-FD5FB23C304E.jpeg

Ảnh sưu tầm

I. Quân trung từ mệnh tập

Quân trung từ mệnh tập là một tập hợp các thư từ và mệnh lệnh trong quân đội do Nguyễn Trãi biên soạn trong giai đoạn kháng chiến chống Minh; tác phẩm là tập văn chiến đấu sắc sảo, đanh thép với lập luận chặt chẽ, phân tích sáng rõ, lời lẽ cứng rắng, lúc mềm dẻo linh hoạt, thành công sử dụng chiến thuật “đánh vào lòng người”.

II. Thư lại dụ Vương Thông (Tái dụ Vương Thông thư)

Thư dụ lại Vương Thông là bức thư số 35 trong “Quân trung từ mệnh tập” được Nguyễn Trãi vào khoảng tháng 2 năm Đinh Mùi (1427) nhằm phân tích tình hình khó khăn của nhà Minh và vạch rõ nguy cơ bại vong của quân giặc nếu vẫn ngoan cố giữ thành chờ viện binh.

III. Trước khi đọc/sgk trang 40


Bài thơ Bảo kính cảnh giới - bài 57 của Nguyễn Trãi có câu: "Đao bút phải dùng tài đã vẹn". Hình ảnh "đao bút" đã nói lên quan niệm gì về vai trò của nhà văn và văn chương trong hoàn cảnh đất nước có ngoại xâm?

Trả lời

- Hình ảnh “đao bút”: hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, cây bút của thi sĩ cũng chính là lưỡi đao sắc bén.
- Quan niệm của tác giả qua hình ảnh “đao bút”: Nguyễn Trãi xem cây bút của thi nhân trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm cũng là vũ khí chiến đấu vừa khích lệ chiến sĩ vừa đả kích quân thù.

IV. Đọc văn bản

1. Câu 1, sgk trang 40 – theo dõi

Những từ nào được nhắc lại nhiều lần trong đoạn này? Điều đó có ý nghĩa gì?

Trả lời

- Những từ ngữ được nhắc lại nhiều lần trong đoạn (1) là: “thời” và “thế” nhắc lại 3 lần, nhằm nhắc đến nguyên tắc cơ bản của những người dùng binh giỏi là phải biết rõ thời thế để tiến lui phù hợp.
- Tác giả nêu cụ thể: “Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy”.
Qua đó, tác giả chỉ ra điểm yếu nhất của đối phương trong hoàn cảnh hiện tại.

2. Câu 2, sgk trang 41 – suy luận

Tác giả nhắc đến những chuyện xưa nhằm mục đích gì?

Trả lời

Tác giả đã nhắc lại những chuyện xưa ở Trung Quốc (chuyện nhà Tần thôn tính 6 nước bị thất bại; nội chiến bên trong, việc Trương Phụ; chuyện Lưu Bị thời Tam Quốc; Y Doãn; Thái Công; Mộ Dung; Thạch Lặc) với các mục đích:
- Nhắc chuyện nhà Tần: Nêu lại việc “đức chính không sửa” sẽ dẫn đến thất bại, dùng chiêu “gậy ông đập lưng ông” để vạch rõ luận điệu sảo trá của giặc Minh, đồng thời nhận xét đúng đắn về tình thế hiện giờ của bọn chúng. Đây là một chứng cứ lịch sử hùng hồn.
- Nêu tên những con người xuất chúng (Y Doãn, Thái Công; Mộ Dung, Thạch Lặc): Tăng thêm lí lẽ cho sự thất bại tất yếu của quân giặc.

3. Câu 3, sgk trang 42 – theo dõi

Chỉ ra các nguyên nhân tác giả cho rằng quân giặc tất yếu phải thua?

Trả lời

Các nguyên nhân mà tác giả cho rằng quân giặc tất yếu phải thua:
- Thiếu lương thực, “ngựa chết, quân ốm”.
- Không có viện binh, viện binh đã thua, nếu viện binh có đến cũng không làm gì được.
- Trong nước còn phải lo phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến miền Nam.
- Gây chiến tranh liên tiếp, dân sống không yên, nhao nhao thất vọng.
- Gian thần chuyên chính, bạo chúa giữ ngôi, nội bộ lục đục.
- Quân ta trên dưới đồng lòng, anh hùng tận lực, quân giặc lại đang mỏi mệt.

4. Câu 4, sgk trang 42 – suy luận

Giải pháp tác giả đưa ra hợp lý như thế nào cho cả đôi bên?

Trả lời

Giải pháp tác giả đưa ra hợp lý cho cả đôi bên:

- Đưa ra 2 lựa chọn cho tướng giặc: Một là, nộp thủ cấp của Phương Chính, Mã Kì thì an toàn về nước, bảo toàn lực lượng, hòa hảo lại thông, can qua dứt hẳn, sẽ được cầu đường sửa sang, thuyền ghe sắm đủ, thủy bộ hai đường, tùy theo ý muốn, Đại Việt sẽ giữ phận chư hầu. Hai là, bày trận nghinh chiến, quyết một trận được thua chứ không nên ở chúi trong xó hang cùng mà mang cái nhục khăn yếm.
→ Thông qua giải pháp mà tác giả đưa ra thể hiện đức hiếu sinh, lập trường chí nhân đại nghĩa, yêu chuộng hòa bình thực hiện thành công chiến thuật “mưu phạt tâm công”. Về phía ta không dấy động can qua, nhân dân được yên ổn. Đồng thời thể hiện niềm tin tất thắng, sự rõ ràng trong việc đánh giá tình hình ta và địch đặc biệt là trong hành động thách thức, khiêu chiến, sỉ nhục kẻ thù.

V. Sau khi đọc, sgk trang 43

1. Câu 1. Cho biết mục đích và đối tượng của bức thư. Việc tác giả chọn cách nghị luận dưới hình thức một bức thư có tác dụng như thế nào?


- Mục đích của bức thư: thuyết phục giặc đầu hàng.
- Đối tượng hướng tới của bức thư: Tổng binh Vương Thông (tướng nhà Minh).
Đây là bài văn nghị luận đặc biệt được viết dưới hình thức một bức thư nên thể hiện cả hai chức năng và phong cách của hai thể loại khác nhau. Bài văn nghị luận yêu cầu luận điểm phải rõ ràng, lí lẽ, lập luận phải chặt chẽ, đanh thép, dẫn chứng phải có cơ sở để thuyết phục đối tượng về mặt lí trí. Bức thư cần lời lẽ mềm dẻo, tinh tế, sự bày giải cần tận tình, tha thiết, chỉ rõ thiệt hơn để thuyết phục đối tượng về mặt tâm lý, tình cảm.
Kết hợp cả hai hình thức này, tác giả vừa đánh vào mặt tâm lý vừa đánh vào mặt lý trí đối phương nên càng tang hiệu quả cho bức thư dụ hàng tướng giặc.

2. Câu 2. Trong đoạn trích dưới đây, câu văn nào nêu luận điểm, câu văn nào nêu lí lẽ, bằng chứng?

“Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?”


- Trong đoạn trích trên, câu văn nêu luận điểm là: “Kể ra người dung binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi”
=> Luận điểm về thời thế - biết rõ thời thế để tiến lui phù hợp mới là người dung binh giỏi.
- Trong đoạn trích trên, câu văn nêu lý lẽ: “Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi”.
=> Khi có được thời thế, hay hành động hợp thời thế, thì dù gian khó cũng sẽ đi đến thành công; khi không có thời thế, hay hành động không hợp thời thế, thì dù đang hùng mạnh cũng sẽ đi đến thất bại. Sự thay đổi này sẽ diễn ra rất nhanh. Người dung binh giỏi là phải biết điều này.
- Trong đoạn trích trên, câu văn nêu bằng chứng: “Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?”
=> Tướng giặc không hiểu biết thời thế, lại dung lời lẽ ngụy biện để tự dối mình, dối người, đấy là bằng chứng của sự kém cỏi, không đáng mặt cầm quân và khó thể thành công.

3. Câu 3. Ở phần 2, tác giả nhiều lần vạch rõ sự giả trá, gian dối của quân Minh và cho rằng như thế là trái với "mệnh trời". Hãy dẫn ra một số từ ngữ, câu văn cho thấy điều đó. Theo bạn, vì sao việc nói đến "mệnh trời" lại cần thiết trong bức thư này?

- Một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự giả trá của quân Minh là trái với “mệnh trời”: “Xưa kia Tần thôn tính sáu nước, chế ngự bốn phương, mà đức chính không sửa, nên thân mất nước tan. Nay Ngô mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy mấy năm nối nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy”, “huống hồ con cháu vua Trần, mệnh trời đã cho, lòng người đã theo, thì Ngô làm sao có thể cướp được!”.
- Việc nói đến “mệnh trời” lại cần thiết trong bức thư này vì triều đình phương Bắc luôn cho mình là “thiên triều”, tướng giặc minh theo lệnh “thiên tử” thi hành “thiên mệnh” đem quân sang nước ta để giúp “phù Trần diệt Hồ”. Bọn giặc làm gì cũng nhân danh “mệnh trời” nhưng thực ra đó là ngôn ngữ xảo trá, lừa bịp để cướp nước ta. Do đó, tác giả đã dùng cách “gậy ông đập lưng ông”, vạch rõ sự chính danh và giả danh kèm theo chứng cớ thực tế khiến đối phương không thể biện bạch được.

4. Câu 4. Khái quát những nguyên nhân thất bại tất yếu của quân Minh mà tác giả đã vạch rõ trong phần 3. Điều gì đã tạo nên tính chất đanh thép, quyết đoán trong phần này?

Những nguyên nhân thất bại tất yếu của quân Minh mà tác giả đã vạch trong phần 3:
- Lũ lụt làm giặc hư hại về cơ sở vật chất, tổn thất quân lương.
- Đường sá, cửa ải đều bị nghĩa quân Đại Việt đóng giữ, không viện binh nào của giặc tới cứu được.
- Quân mạnh ngựa khỏe của nhà Minh phải dành để đối phó quân Nguyên ở phía bắc nên phía nam không thể lo được.
- Phát động chiến tranh liên tiếp nhiều năm làm dân nhà Minh khổ sở, bất mãn.
- Trong triều đình nhà Minh thì bạo chúa, gian thần nắm quyền, nội bộ xâu xé nhau.
- Nghĩa quân Đại Việt đồng lòng quyết chiến, hăng hái tinh nhuệ, khí giới, lương thực đầy đủ, quân giặc bị vây trong thành thì mệt mỏi nản lòng.
Điều đã tạo nên tính chất đanh thép, quyết đoán trong phần này: Thứ nhất là cách phân tích rõ ràng, xác đáng kèm theo dẫn chứng từ những thực tế trước mắt không thể phủ nhận. Các nguyên nhân cũng được sắp xếp theo một hướng trình tự hợp lí, đi từ thực tế khó khăn về thiên thời (thiên tai lũ lụt), địa lợi (đường tiếp viện bị ngăn trở, biên giới phía bắc đã thu hút hết binh lực tinh nhuệ) đến nhân hòa (dân chúng bất mãn, nội chiến trong triều, quân bị vây lâu ngày kiệt sức nản lòng), cho thấy giặc hoàn toàn không có gì cả “thời” lẫn “thế”. Thêm vào đó, cách diễn đạt nêu nguyên nhân bằng những dẫn chứng lí lẽ phân tích và dẫn chứng ra trước rồi mới kết lại bằng một câu rắn rỏi: “Đó là điều phải thua thứ...” khiến câu văn như lời phán quyết đanh thép, chắc nịch, quyết đoán không ai có thể phủ định.
5. Câu 5. Trong phần 4, tác giả đã gợi ra cho Vương Thông những lựa chọn nào? Từ đó, bạn hiểu gì về cách ứng xử của Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn?

Sau khi nêu ra sáu điều phải thua đó với quân giặc, Nguyễn Trãi đã gợi ra hai lựa chọn cho tướng giặc:
- Chấp nhận đầu hàng, nộp đầu tướng giặc đã gây nhiều tội ác là Phương Chính, Mã Kỳ thì sẽ tránh được thương vong cho quân giặc và tất cả được an toàn về nước.
- Không đầu hàng thì phải tiếp tục giao chiến (tức là nhận lấy thất bại) chứ không thể trốn tránh một cách hèn nhát, nhục nhã.
=> Việc gợi ra những lựa chọn như vậy cho thấy Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn luôn thể hiện lập trường “chí nhân” “đại nghĩa”, lòng yêu chuộng hòa bình và luôn biết tận dụng sức mạnh của ngòi bút văn chương chính luận để thực hiện “tâm công”, tránh đổ xương máu cho cả đôi bên.

6. Câu 6. Nêu những lưu ý trong cách đọc hiểu văn bản nghị luận mà bạn rút ra được sau khi đọc Thư lại dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi. Nhận xét về nghệ thuật viết văn nghị luận của Nguyễn Trãi.

Những lưu ý trong cách đọc hiểu văn bản nghị luận mà bạn rút ra được sau khi đọc “Thư lại dụ Vương Thông” của Nguyễn Trãi:
- Trước hết, cần thấy được luận đề chính (vấn đề chủ yếu đưa ra để bàn luận) của VB nghị luận. Trong “Thư lại dụ Vương Thông”, đó là thời và thế. Đây chính là đầu mối của hệ thống luận điểm sẽ được triển khai ở những đoạn sau.
- Tiếp đó, cần thấy rằng hệ thống luận điểm của bài văn nghị luận chính là nhằm phân tích, diễn giải rõ và chứng minh cho tính đúng đắn của luận để được nêu ra ở đoạn đầu. Trong Thư lại dụ Vương Thông, đoạn thứ hai phân tích và chứng minh cho hành động không hợp thời của giặc Minh, đoạn thứ ba phân tích và chứng minh cho sự thất thế của quân giặc với sau điều phải thua và đoạn cuối cùng chỉ ra cho quân giặc con đường hành động hợp thời thế là như thế nào để tránh được bại vong. Đoạn cuối này đã chứng minh tinh đúng đắn của luận để về thời và thế: “Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hoá ra yếu, yên lại chuyển nguy”.
Nhận xét về nghệ thuật viết văn nghị luận của Nguyễn Trãi:
- Bố cục của bài văn nghị luận luôn chặt chẽ, mạch lạc; các phần nối kết với nhau theo một trình tự lô-gic không thể tách rời hay đảo ngược vị trí.
- Các lí lẽ luôn đi kèm bằng chứng cụ thể nên có sức thuyết phục cao, không thể bác bỏ.
- Từ ngữ và các biện pháp tu từ được chọn lọc thích đáng với nội dung cần biểu đạt và có sức biểu cảm cao tạo nên giọng văn phù hợp, kích thích tâm trí người đọc theo đúng ý đồ của người sáng tác.
- Lối viết thay đổi linh hoạt tuỳ hoàn cảnh, mục đích viết và đối tượng hướng tới.
...................................................................​
Chúc các em học tốt!
 
Sửa lần cuối:
Từ khóa
nguyen trai quân trung từ mệnh tập tái dụ vương thông thư thư lại dụ vương thông thư số 35 của nguyễn trãi văn chính luận văn nghị luận
1K
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Top