I - LUYỆN TẬP VỀ PHÉP ĐIỆP (ĐIỆP NGỮ)
1. Đọc những ngữ liệu trong SGK và trả lời câu hỏi
a.
* Ngữ liệu 1
- Về ý: Trong ngữ liệu, “nụ tầm xuân” khiến ta liên tưởng tới người con gái. “Nụ tầm xuân” nở cũng như “em có chồng rồi”. Nếu thay như trên thì cơ sở để liên tưởng sẽ bị mờ nhạt, ý câu thơ sẽ chỉ như tả một loài vậy. Sự lặp lại nguyên vẹn ở câu thứ hai và câu thứ ba có tác dụng vừa nhấn mạnh, vừa làm cho ý thơ, nhịp thơ dường như chững lại, nó góp phần diễn tả sự hụt hẫng, sự thảng thốt trong tâm trạng của chàng trai khi được tin người con gái mình yêu đi lấy chồng.
- Về nhạc điệu: Thực chất ba câu đầu không có vần nhưng đọc lên ta không cảm giác thấy điều đó là vì phép điệp ngữ đã tạo nên một thứ nhạc riêng mà nếu thay như trên thì thứ âm nhạc này sẽ bị phá vỡ.
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá mắc câu.
Cá mắc câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
- Sự lặp lại này nhằm nhấn mạnh tình cảnh “cá chậu, chim lồng”, nỗi chua xót, sự lệ thuộc, bê tắc về bi kịch hôn nhân tình yêu của người phụ nữ thời phong kiến. Nếu không lặp lại như thế thì sự so sánh cũng đã rõ ý. Nhưng việc lặp lại đã tô đậm thêm một lần nữa ý so sánh. Qua đó, cô gái muốn khẳng định với chàng trai về tình cảnh không thay đổi của mình.
b. Trong các câu ở ngữ liệu (2), việc lặp từ không phải là phép điệp tu từ mà chỉ đơn thuần là nhằm tạo nên tính đối xứng và tính nhịp điệu, diễn đạt rõ ý cho câu nói mà thôi.
c. Định nghĩa về phép điệp: Phép điệp là biện pháp tu từ được xây dựng bằng cách lặp lại một, một số yếu tố diễn đạt (vần, nhịp, cụm từ, câu từ) nhằm nhấn mạnh, diễn tả cảm xúc, ý nghĩa, có khả năng gợi hình tượng
2. Bài tập ở nhà
a. Tìm ba ví dụ có điệp từ, điệp câu nhưng không có giá trị tu từ:
- Anh ấy uống nhiều, nói nhiều và hát nhiều nữa.
- Văn học giúp ta nhận thức cuộc sống, văn học còn chắp cánh ước mơ.
- Tôi yêu thương con người phương Nam, yêu cái nắng gió phương Nam.
b. Tìm ba ví dụ trong những bài văn đã học có phép điệp.
Phép điệp được dùng khá phổ biến trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong thơ (các bài ca dao; đoạn trích truyện thơ Tiễn dặn người yêu; Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi; các đoạn trích Truyện Kiểu của Nguyễn Du...).
Ví dụ 1 - Điệp từ:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trồng đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng, mới yên tấm lòng
(Ca dao)
Ví dụ 2 - Điệp ngữ:Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đàn em ta đây xương sắt da đồng
Đảng ta muôn vạn công nông
Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin.
(Tố Hữu)
Ví dụ 3 - Điệp cấu trúc:Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!
c. Viết một đoạn văn có phép điệp theo nội dung tự chọn.
Quê hương trong tôi, không chỉ là đàn cò trắng bay thẳng cánh đồng, không chỉ là cây đa, giếng nước, sân đình. Quê hương trong tôi, bao trùm tất cả, là tuổi thơ, là gia đình, là bạn bè đồng trang lứa, là những trưa trốn mẹ đi chơi, là những đêm trăng tỏ chị Hằng. Quê hương trong tôi, là quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
II - LUYỆN TẬP VÊ PHÉP ĐỐI
1. Đọc những ngữ liệu II. (SGK trang 125,126) và trả lời câu hỏi:
a. Ngữ liệu (1) và (2) đều có cách sắp xếp từ ngữ cân đối giữa hai vế trong một câu. Mỗi câu đều có hai vế, mỗi vế đều có ba từ. Hai vế cân đối được gắn kết với nhau nhờ phép đối.
Vị trí của các danh từ (chim, người/tổ, tông...) các tính từ (đói, rách, sạch, thơm...), các động từ (có, diệt, trừ...) tạo thế cân đối là nhờ chúng đứng ở những vị trí giống nhau xét về cấu tạo ngữ pháp của mỗi vế (ví dụ hai danh từ “chim” và “người” đều đứng ở vị trí đầu mỗi vế; hai tính từ “sạch” và “thơm” đều đứng ở vị trí cuối mỗi vế;...).
b. Trong ngữ liệu (3) và (4) có những cách đối khác nhau:
- Ngữ liệu (3) sử dụng cách tiểu đối trong một câu (Khuôn trăng đầy đặn / nét ngài nở nang, Mây thua nước tóc / tuyết nhường màu da).
- Ngữ liệu (4) sử dụng cách đối giữa hai câu (Rắp mượn điền viên vui tế nguyệt / Trót đem thân thế hẹn tang bồng) - Đối theo kiểu câu đối.
c. Ta có thể tìm thấy trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi; Truyện Kiều của Nguyễn Du rất nhiều câu văn sử đụng phép đối. Ví dụ:
- Hịch tướng sĩ:
+ Trăm thân này phơi ngoài nội cỏ / nghìn xác này gói trong da ngựa;
+ Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa / hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển / hoặc vui thú ruộng vườn / hoặc quyến luyêh vợ con;...
- Bình Ngô đại cáo:
+ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân / Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
+ Gươm mài đá, đá núi phải mòn / Voi uống nước, nước sông phải cạn;...
- Truyện Kiều: Gươm đàn nửa gánh / non sông một chèo; Người lên ngựa / kẻ chia bào...
- Thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua đèo Ngang)
- Câu đối:Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua đèo Ngang)
Một người thợ nhuộm chết. Vợ ông ta đến nhờ cụ Tam nguyên Yên Đổ làm cho một đôi câu đối. Nguyễn Khuyến viết như sau:
Thiếp kể từ khi lá thắm se duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại, điều khôn nhờ bố đỏ/ Chàng dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.
d. Phát biểu định nghĩa về phép đối: Phép đối là cách sắp xếp từ ngữ, cụm từ, câu ở vị trí cân xứng nhau, tạo nên hiệu quả giống nhau trái ngược nhau nhằm gợi ra một vẻ đẹp hoàn chỉnh, hài hòa, diễn đạt nội dung nào đó.
2. Phân tích các ngữ liệu ở mục 2 (SGK trang 126) và trả lời câu hỏi:
a.
- Phép đối trong tục ngữ có tác dụng làm cho người đọc, người nghe dễ nhớ, dễ thuộc.
- Từ ngữ sử dụng trong tục ngữ hầu như không thể thay được vì mỗi câu tục ngữ đều mang tính cố định giống như các thành ngữ, quán ngữ. Hơn nữa, tục ngữ sử dụng phép đối rất cân chỉnh, không thể có một từ khác thay vào mà tính cân chỉnh của phép đối tốt hơn.
- Phép đối trong tục ngữ thường đi kèm với các biện pháp ngôn ngữ như: thường gieo vần lưng (tật/ thật)-, từ ngữ dùng mang giá trị tu từ (ẩn dụ, so sánh, nhân hoá...); câu ngắn và thường tỉnh lược các bộ phận...
b. Tục ngữ là những câu rất ngắn nhưng vẫn khái quát được hiện tượng rộng, người không học mà cũng nhớ, không cố ý ghi lại mà vẫn được lưu truyền. Sở đĩ có được điều đó là vì cách diễn đạt của tục ngữ được chọn lọc, gọt giũa, có vần, có đối, nghe một lần là nhớ và rất khó quên.
3. Bài tập ở nhà
a. Tìm mỗi kiểu đối một ví dụ.
Ví dụ:
- Kiểu đối thanh: Chim có tổ / Người có tông: (“tổ’’ - thanh trắc / “tông”, thanh bằng).
- Kiểu đối chọi về nghĩa: Gần mực thì đen / gần đèn thì sáng: (mực - xấu / đèn - tốt).
- Kiểu đối từ loại: Đói cho sạch /rách cho thơm: (các từ có cùng từ loại đối với nhau: đối - rách; sạch - thơm).
b. Có rất nhiều cách ra vế đối, cần tham khảo thêm câu đối của các bậc nho sĩ xưa để học tập cách ra vế đôi và cách đối.