Tìm hiểu tác giả, tác phẩm: Sống chết mặc bay - Phạm Duy Tốn

Tìm hiểu tác giả, tác phẩm: Sống chết mặc bay - Phạm Duy Tốn

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 33 đến từ Nam Định
Phạm Duy Tốn sáng tác văn rất ít, chỉ có 4 tác phẩm. Tuy nhiên, ông vẫn được xem là một nhà văn có sức ảnh hưởng đến nền văn học Việt Nam. Ông được xem là người tiên phong mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau này. Bằng ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn, những câu văn cảm thán xen lẫn những lời bình luận trong "Sống chết mặc bay", đặc biệt sự kết hợp khéo léo hai phép tương phản và tăng cấp tạo kịch tính cho câu chuyện, Phạm Duy Tốn đã làm nổi bật hình ảnh tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm, vô lương tâm, lòng lang dạ thú, thể hiện thái độ mỉa mai châm biếm phê phán lên án sự táng tận lương tâm của bọn chúng trước sinh mạng của người dân. Đồng thời, tác giả còn phản ánh và thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với tình cảnh khốn cùng, nghìn sầu muôn thảm của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền gây nên.

TÌM HIỂU VĂN BẢN: SỐNG CHẾT MẶC BAY (Phạm Duy Tốn)

1. Tác giả

* Tiểu sử

- Nhà văn Phạm Duy Tốn sinh (1883 – 1924) tại Thành phố Hà Nội.
- Phạm Duy Tốn là một nhà văn tiên phong của văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Ông có một số bút danh như Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ A. Ông là cha của nhà văn, nhà báo Phạm Duy Khiêm và nhạc sĩ Phạm Duy.
- Nhà văn Phạm Duy Tốn từng viết bài cho 11 tờ báo khác nhau, trong đó có tờ Đông Dương tạp chí, với bút hiệu Ưu Thời Mẫn. Các tờ báo khác như, Trung Bắc tân văn, Lục tỉnh tân văn, Công thị báo, Nam phong, Nông cổ mín đàm, (bút hiệu Đông Phương Sóc), Thực nghiệp dân báo, Đăng cổ tùng báo, Đông Pháp thời báo...
- Trong lĩnh vực báo chí, Phạm Duy Tốn đã gây được dấu ấn mạnh mẽ với bài "Hoạn nạn tương cứu". Đây là một bài viết về trận lũ lụt ở Bắc Kì năm 1915 đã làm 60.000 người thiệt mạng. Sau bài báo này, đã có một hội từ thiện được thành lập để gây quỹ gửi cho người dân gặp nạn ở miền bắc.
- Nhà văn Phạm Văn Tốn qua đời ngày 25 tháng 2 năm 1924, tại nhà riêng ở số 54, đường Felloneau, Hà Nội.

*. Sự nghiệp văn học

Phạm Duy Tốn sáng tác văn rất ít, chỉ có 4 tác phẩm. Tuy nhiên, ông vẫn được xem là một nhà văn có sức ảnh hưởng đến nền văn học Việt Nam. Ông được xem là người tiên phong mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau này.

- Bực mình hay Câu chuyện thương tâm (Ðông Dương tạp chí số 55, Hà Nội, 1914)
- Sống chết mặc bay! (báo Nam Phong, Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 1918)
- Con người Sở Khanh (báo Nam Phong, Hà Nội, tháng 2 năm 1919)
- Nước đời lắm nỗi (báo Nam Phong, Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 1919)
- Tiếu lâm An Nam (bút danh Thọ An, hai tập, nhà xuất bản Ích Ký, Hà Nội, 1924).

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- “Sống chết mặc bay” được sáng tác tháng 7 năm 1918, in trên báo Nam Phong số 18.
- Đây là tác phẩm được xem là thành công nhất của Phạm Duy Tốn

b. Bố cục (3 phần)

- Phần 1 (từ đầu đến “khúc đê này vỡ mất”): Nguy cơ vỡ đê và sự chống đỡ của người dân
- Phần 2 (tiếp đó đến “Điếu, mày!”): Cảnh quan phụ mẫu đánh tổ tôm khi “đi hộ đê”
- Phần 3: Còn lại: Cảnh đê vỡ

c. Tóm tắt

Gần một giờ đêm nước sông Nhị Hà lên cao khúc Đêm làm ích của thích xem chừng Đúng thế lắm hai ba đoạn đã thẩm lậu nguy cơ vỡ đê đang đến rất gần trong khi những người dân đen đang từng giờ từng phút lấy chút sức tàn để cố giữ cho con dê khỏi vỡ thì quan phụ mẫu được giao trọng trách là hộ đê cứu dân lại đang cùng đám tay chân chơi bời cờ bạc hưởng thụ ở trong mình để dân sống chết mặc bay ai khi có người và báo tin đê vỡ ngày đe dọa cách cổ của tùy người báo tin ra ngoài và vẫn say sưa với bản sắc của to niềm vui tàn bạo phi nhân tính của viên quan khi được phổ thông Tôn chi này cũng là lúc đê vỡ dân chơi nhân dân lâm vào tình cảnh nghìn sầu muôn thảm

d. Giá trị nội dung và nghệ thuật

*. Nội dung

- Giá trị hiện thực: Phản ánh cuộc chống chọi với thiên tai của nhân dân lao động và bộ mặt vô trách nhiệm của bọn quan lại thời Pháp thuộc, bỏ mặc nhân dân đói rét, lầm than.
- Giá trị nhân đạo:
+ Phê phán, tố cáo thái độ bàng quan, thờ ơ, vô trách nhiệm của bè lũ thống trị, đại diện là tên quan phụ mẫu.
+ Đồng cảm, xót xa trước tình cảnh thê thảm của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền lên.

b. Nghệ thuật
- Kết hợp nghệ thuật tương phản và tăng cấp khéo léo
- Lời văn cụ thể, sinh động, giàu cảm xúc
- Miêu tả nhân vật sắc nét.
3. Phân tích tác phẩm

A. MỞ BÀI:

Thủy-hỏa-đạo-tặc, trong bốn thứ giặc ấy nhân dân xếp giặc nước, giặc lụt lên hàng đầu. Cho đến nay đã hàng bao thế kỷ, người dân vùng châu thổ sông Hồng miền Bắc Việt Nam đã luôn phải đương đầu với cảnh “thủy thần nổi giận”: lũ lụt, vỡ đê, nhà trôi, người chết. Hệ thống đê điều, dù đã được gia cố hàng năm, nhưng nhiều đoạn, nhiều chỗ vẫn không chống nổi sức nước hung bạo. Lại thêm sự bàng quan, vô trách nhiệm của không ít tên quan lại cầm quyền, thiên nạn ấy càng thêm thê thảm. Nhà văn Phạm Duy Tốn, một người con của vùng châu thổ sông Hồng đã tái hiện lại bức tranh hiện thực đầy đau xót ấy qua truyện ngắn “Sống chết mặc bay”để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh.

- Tác phẩm sáng tác năm 1918, in trên Tạp chí Nam Phong số 18, được coi là bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại. Bằng lời văn cụ thể, sinh động, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phụ lòng lang dạ thú và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

B. THÂN BÀI:
* Nguy cơ vỡ đê và sự chống đỡ của người dân.

- Truyện ngắn lấy bối cảnh là khúc đê làng X, phủ X vào thời điểm “gần một giờ đêm”. Đây là thời điểm khuya khoắt, là lúc mà lẽ ra mọi người đang nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả. Xác định thời gian nửa đêm như thế, phải chăng nhà văn muốn nói với chúng ta rằng: cuộc hộ đê của người dân ở đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, tới tận đêm khuya mà giờ vẫn chưa được nghỉ ngơi. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Vậy mà, trong khi đó, mưa gió mỗi lúc một mạnh “mưa tầm tã” rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao: “nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “dưới sông nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Thiên tai mỗi lúc một dữ dằn, bạo liệt. Tác giả thốt lên như tai họa của chính mình: Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất. Nỗi lo lắng không làm sao kể xiết bởi lẽ đê có làm sao thì người dân nơi đây cũng không còn đường sống.

- Trong tình thế vô cùng nguy nan, khẩn cấp ấy, để bảo thủ lấy tính mạng và gia tài, những người dân đen đang từng giờ, từng phút lấy chút sức tàn để cố giữ cho con đê khỏi vỡ: “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Bằng việc sử dụng hiệu quả nhiều động từ, từ láy, phép liệt kê, phép so sánh, tác giả đã tái hiện khung cảnh hộ đê nhốn nháo, căng thẳng, vất vả và nguy hiểm vô cùng. Kết hợp với phép tương phản và tăng cấp, các câu văn bình luận, bộc lộ cảm xúc; tác giả đã tô đậm sự bất lực của sức người trước sức trời, sự yếu kém của thế đê trước thế nước. Từ đó, làm nổi bật cuộc sống lầm than, bi thảm của nhân dân, đồng thời thể hiện thái độ cảm thông, thương xót của nhà văn.

- Đoạn văn như như 1 thước phim quay chậm đưa người đọc ngược dòng thời gian trở về quá khứ của XH Việt Nam đầu TK XX, để tận mắt chứng kiến hiện thực xã hội phong kiến thối nát mà những người dân đen chính là nạn nhân trực tiếp của xã hội đó. Bằng việc sử dụng khéo léo ngòi bút tả thực với biểu cảm và trữ tình, kết hợp với NT tương phản và tăng cấp , PDT đã dẫn người đọc đến một cuộc hộ đê hết sức khẩn trương, vất vả của những người dân chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu mà chống với sức mưa to, gió lớn của trời. Và cảnh tượng ấy đã lay động lòng người, đánh thức những tình cảm sâu sắc trong mỗi chúng ta. Ai mà không xót thương trước những tai họa đang giáng xuống đầu những người dân vô tội. Biết bao tình cảnh bi thảm sẽ xảy ra nếu đê vỡ...

* Cảnh “hộ đê” của quan phủ.

- Trong hoàn cảnh nghìn cân treo sợi tóc ấy, quan phụ mẫu người được coi là “cha mẹ dân”, được giao trọng trách là hộ đê cứu dân lại đang làm gì và ở đâu? Thưa rằng, ngài cũng đi hộ đê đấy, cơ mà hộ đê ở ... trong đình “đình ấy cũng ở trên mặt đê nhưng cao và vững chãi, dẫu nước to thế nữa cũng không việc gì”. Trong khi ngoài đê trăm họ đang vất vả gội gió, tắm mưa như đàn sâu, lũ kiến thì ở trong đình, quang cảnh, không khí vô cùng tĩnh mịch, trang nghiêm, đường bệ, nguy nga.

- Nổi bật lên trong khung cảnh đó là hình ảnh quan phụ mẫu: “Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi”. Quả là một dáng ngồi oai vệ, đường bệ và nhàn nhã làm sao!

- Đâu chỉ có thế, ngài đi hộ đê mà mang theo bao nhiêu đồ dùng sang trọng, quý giá, đắt tiền như đi dự tiệc: bát yến hấp đường phèn khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông”. Đúng là hình ảnh của 1 kẻ giàu sang phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, đi để khoe khoang của cải...đi hộ đê mà mang theo cả một bầy đoàn, đồ dùng lỉnh kỉnh, sang trọng, bay biện sắp đặt trong ngoài , trên dưới, tôn ti trật tự như chốn công đường, giữa buổi thái bình thịnh trị.Ta có cảm giác QPM rất nhàn nhã. Nhưng đó là cái dáng nhàn nhã của một kẻ thất phu, lỗ mãng, khoe của.

- Thức ăn toàn của ngon vật lạ, đồ dùng sang trọng,quý phái, quan phủ ung dung, nhàn nhã vui sướng cuộc tổ tôm trong lúc nhân dân đang gội gió tắm mưa. Chỉ bằng một vài chi tiết miêu tả nhưng nhà văn đã biến QPM thành nhân vật trung tâm của một bức tranh biếm họa. Bức tranh vẽ cảnh đi hộ đê cứu dân của QPM nhưng thực chất lại đang đi hưởng thụ một cuộc sống xa hoa nhàn nhã. Đó không chỉ là hình ảnh của một viên quan phụ mẫu mà đó còn là bản chất chung của tất cả bọn quan lại, những kẻ tự cho mình cái quyền là cha, mẹ của dân trong xã hội phong kiến thối nát trước kia.

- Không chỉ là một kẻ béo tốt, nhàn hạ, hách dịch, thích hưởng lạc mà QPM còn là kẻ ham mê cờ bạc. Trong khi ngoài kia, người dân đang phải chịu cảnh lầm than như đàn sâu lũ kiến thì ở trong đình, QPM lại ung dung cùng đám nha lại tay chân đắm mình trên chiếu bạc, để dân sống chết mặc bay.

+ Trong đình, có đông và đủ những kẻ có trách nhiệm với cuộc hộ đê. Nhưng lạ thay, không ai tỏ ra lo lắng, không ai đả động gì đến chuyện hộ đê ra sao. Tất cả đều mải mê với cuộc tổ tôm. Quan lại địa phương thì nín thin thít, ra sức bợ đỡ, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc bởi vì “quan ù ấy là hạnh phúc”

+ Từ giọng văn xót xa thương cảm ở phần đầu, tác giả chuyển sang giọng chế giễu, mỉa mai và cả những lời bình luận. Đặc biệt lời bình luận: Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh" thật chua chát, đầy hàm ý mỉa mai. Những tưởng QPM là vì phúc tinh sẽ đem lại bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng không, hắn chỉ là kẻ ham mê cờ bạc, bàng quan, vô trách nhiệm trước cuộc sống và tính mạng của nhân dân. Hắn là sản phẩm, là công cụ của chế độ thực dân nửa phong kiến, là điển hình cho sự thối nát của chế độ quan trường thời Pháp thuộc:

Chữ y, chữ chiểu không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ tiền


- Thói ham mê cờ bạc của viên quan phụ mẫu mỗi lúc một tăng gắn với bản chất vô trách nhiệm, vô lương tâm. Mê bài bạc mà không trực tiếp chứng kiến cảnh hộ đê đã đành, nhưng ngay cả khi trước sân đình, mưa đổ xuống mỗi lúc 1 to mà ngài vẫn không hề hay biết.

- Khi ngoài xa có tiếng kêu vang trời, dậy đất, mọi người ai nấy ở trong đình đều giật nảy mình, duy chỉ có quan vẫn ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc, “lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to”.

- Khi có người khẽ nói: "Bẩm! Dễ có khi đê vỡ”, ngài cau mặt gắt: “Mặc kệ”. Thật là vô trách nhiệm. Quan ham mê tới mức chỉ vì chờ 1 con bài ù mà quên hết nhiệm vụ. Ngài đặt toàn tâm, toàn ý vào ván bài. Ngoài đánh bài ra, mọi việc đối với quan lúc này dường như không quan trọng. Cho nên quan mới cáu, gắt vì có kẻ vào phá đám cuộc vui đang dở. Gắt xong, quan lại quay gối, dựa sang bên tay phải, thái độ rất điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra, nghiêng mình bảo thầy đề: Có ăn không thì bốc chứ....

- Trong khi đó, ngoài kia điều khủng khiếp nhất cũng đã xảy ra: Đê vỡ thật: “tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía” . Cảnh diễn ra khi đê vỡ được tác giả miêu tả bằng một loạt hình ảnh, âm thanh, song có một tác động ngoại cảnh bằng xương, bằng thịt để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh. Đó là hình ảnh người nhà quê “mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời”. Hình ảnh người nhà quê xuất hiện như là một minh chứng cho tình cảnh thảm sầu mà người dân đang phải đối mặt. Họ đã rơi xuống tận cùng của vực thẳm, họ đã không cứu đc con đê, điều đó đồng nghĩa với việc c/s và tính mạng của họ đang trong cảnh nghìn cân treo sợi tóc. Và chỗ dựa cuối cùng của họ lúc này là quan - người mang danh là cha mẹ của những con dân khốn khổ kia. Họ tìm đến quan như tìm đến một vì phúc tinh.

+ Khi ấy, thầy đề tay run cầm cập thò vào đĩa nọc, ít ra hắn vẫn còn chút nhân tính biết động lòng trước thảm cảnh của nhân dân, nhưng vẫn phải theo lệnh quan chơi bài như một cái máy. Sự vô trách nhiệm của viên quan PM đã vô tình tiếp tay và trở thành mệnh lệnh cho cấp dưới.

+ Còn quan lớn thì đỏ mặt tía tai, quay ra quát tháo, đe dọa cách cổ, bỏ tù, đuổi người báo tin ra ngoài và vẫn say sưa với ván bài sắp ù to.

- Niềm vui tàn bạo phi nhân tính của viên quan phủ khi vừa được ù ván bài “thông tôm chi chi nảy” cũng là lúc đê vỡ, dân trôi, nhân dân lâm vào tình cảnh thảm sầu.

- Đến đây diễn biến thật truyện thật là căng thẳng, sự tương phản đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hòa. Từ thái độ “mặc kệ” khi đê sắp vỡ đến thái độ “đỏ mặt tía tai”, lên giọng quát nạt bọn tay chân khi đê vỡ thật, rồi đuổi người báo tin ra ngoài và rồi quay lại tiếp tục đánh tổ tôm cho đến lúc “Ù thông tôm, chi chi nảy” trong một niềm vui sướng cực độ. Tất cả đã cho thấy bản chất vô trách nhiệm, vô lương tâm nói như tác giả là “lòng lang dạ thú” của viên quan phụ mẫu. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy thật căng thẳng, ngột ngạt, bức bối và tràn đầy nỗi tức giận căm ghét tên quan vô trách nhiệm, vô lương tâm, lòng lang dạ thú. Ta cũng tràn đầy tình cảm xót thương cho tình cảnh thảm thương của những người dân khốn khổ, bị lãng quên, bị bỏ mặc: Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!

* Khái quát: Tóm lại, bằng ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn, những câu văn cảm thán xen lẫn những lời bình luận, đặc biệt sự kết hợp khéo léo hai phép tương phản và tăng cấp tạo kịch tính cho câu chuyện. Phạm Duy Tốn đã làm nổi bật hình ảnh tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm, vô lương tâm, lòng lang dạ thú, thể hiện thái độ mỉa mai châm biếm phê phán lên án sự táng tận lương tâm của bọn chúng trước sinh mạng của người dân. Đồng thời, tác giả còn phản ánh và thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với tình cảnh khốn cùng, nghìn sầu muôn thảm của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền gây nên.
 
Từ khóa
cảm thương sâu sắc nhà cầm quyền vô trách nhiệm phạm duy tốn quan phủ tàn bạo sống chết mặc bay tình cảnh khốn cùng trận lũ 1915
539
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top