Vận dụng cặp phạm trù "khả năng - hiện thực" trong triết học để tìm hiểu truyện cổ tích

Vận dụng cặp phạm trù "khả năng - hiện thực" trong triết học để tìm hiểu truyện cổ tích

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 32 đến từ Nam Định
Trong kho tàng truyện cổ tích phong phú của Việt-nam, chúng ta đã có thể nhận ra được đây đó một số nét mang tính đặc thù. Tìm hiểu đầy đủ các biểu hiện đặc thù này là việc cần thiết, cũng là việc có thể làm, nhưng muốn khái quát thành các đặc trưng tiêu biểu chỉ riêng truyện cổ tích Việt Nam mới có thì không phải dễ. Bởi lẽ truyện cổ tích là một thể loại phổ cập có ý nghĩa nhân loại, ra đời trước khi nhân loại hình thành các cộng đồng dân tộc rất lâu. Đem những đặc điểm có tính chất "hậu sinh" đó quy định một hiện tại tồn tại trước, e có khi sẽ dẫn đến những ngộ nhận sai lầm.

Phần 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG HIỆN THỰC

1.1 Khái niệm


- Hiện thực bao gồm tất cả những gì đang tồn tại. Hiện thực khách quan và Hiện thực chủ quan.Nghĩa là, bao gồm những cái tồn tại khách quan (vật chất) và những gì tồn tại một cách chủ quan (ý thức).

- Khả năng là những gì chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng.

Ví dụ : Thực trạng kinh tế – xã hội của đất nước ta là cái đang tồn tại, trong đó có những cái thuộc phạm trù vật chất, có cái thuộc phạm trù ý thức. Đó là hiện thực.

- Khả năng vận động của đất nước trong tương lai: 4 nguy cơ ( diễn biến hòa bình, tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng); Hội nhập khu vực, thế giới.

Phân loại khả năng :

+ Tất cả mọi khả năng đều tồn tại thực sự do hiện thực sản sinh ra, đều hình thành và lớn lên ở ngay trong lòng bản thân hiện thực. Theo nghĩa này, khả năng bao giờ cũng là khả năng thực tế.

Ví dụ : Mỗi người sống đều chứa đựng khả năng trở thành người tốt…
“Nhân chi sơ tính bản thiện”.

+ Khả năng tất nhiên : được gây nên bởi các tương tác tất nhiên của hiện thực.

+ Khả năng ngẫu nhiên : được gây nên bởi các tương tác ngẫu nhiên của hiện thực.
Ví dụ : Gieo đồng tiền kim loại: Nhất định xuất hiện 1 trong 2 mặt là khả năng tất nhiên Xuất hiện mặt nào là khả năng ngẫu nhiên.

+ Khả năng gần : là khả năng đã đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực.

Ví dụ : Chúng ta đang học tập tại trường, vậy khả năng là cử nhân là khả năng gần, còn đỗ thạc sĩ hay tiến sĩ là khả năng xa.

1.2 Mối quan hệ biện chứng

- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời, luôn chuyển hóa cho nhau.Vì hiện thực được chuẩn bị từ khả năng, được hình thành từ khả năng trước đó. Quá trình vận động, phát triển chính là quá trình khả năng biến thành hiện thực.Hiện thực trong quá trình phát triển nội tại của mình lại sản sinh ra các khả năng mới, và trong những điều kiện nhất định lại biến thành hiện thực mới… Cứ như thế tạo thành dây chuyền vô tận của sự phủ định lẫn nhau giữa khả năng và hiện thực.

Ví dụ : Theo quy luật phủ định của phủ định.

- Một sự vật, trong cùng một điều kiện nhất định có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng.

Ví dụ : Khi hòa bình lập lại đất nước ta có khả năng đi lên CNXH hoặc CNTB, thậm chí dậm chân tại chỗ (sản xuất nhỏ).

- Khi có điều kiện mới bổ sung thì sự vật có thêm những khả năng mới. Vì lúc đó điều kiện mới bổ sung đã làm cho hiện thực mới xuất hiện nên khả năng mới cũng xuất hiện theo.

Ví dụ : Nền kinh tế của nước ta đà phát triển thì khả năng xóa đói giảm nghèo là khả năng gần.

Nhưng gặp thiên tai, địch họa sẽ gây tổn thất cho nền kinh tế và xuất hiện khả năng mới trong việc chống chọi với thiên tai, địch họa.

- Mỗi khả năng cũng có sự biến đổi tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.

Ví dụ: Như ví dụ trên thì khả năng xóa đói, giảm nghèo đã thay đổi.
- Khả năng biến thành hiện thực phải có điều kiện : khách quan và chủ quan

+ Trong tự nhiên, quá trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là quá trình khách quan : chủ yếu là tự phát, có trường hợp cần có sự can thiệp của con người.

Đó là quá trình vũ trụ và địa chất , hình thành, biến đổi địa chất… là quá trình hoàn toàn tự nhiên.Con người thay đổi điều kiện sống, gây đột biến gen, lai tạo v.v… Làm cho quá trình biến khả năng thành hiện thực (giống loài mới).

Đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển thì khả năng can thiệp vào các quá trình tự nhiên của con người càng sâu sắc, hiệu quả để tạo vật liệu mới, máy móc tự động hóa cao…

+ Trong xã hội : khả năng biến thành hiện thực nhất thiết phải có sự tham gia của con người. Sự tham gia đó tương tự như quy luật trong xã hội.Vai trò của hoạt động ý thức của con người trong việc biến khả năng thành hiện thực là rất to lớn : có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm, có thể điều khiển cho khả năng phát triển theo hướng này hay hướng khác bằng cách tạo ra điều kiện thích ứng.

Ví dụ : “tung cầu, đo gió”; “rung chậu, cá nhảy”.

Như vậy, khả năng biến thành hiện thực là sự kết hợp của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Theo qui luật trên, trong thực tiễn dựa vào hiện thực để vạch ra đường lối chứ không phải là khả năng. Vì khả năng tồn tại trong sự vật nên tìm nó ở trong bản thân sự vật để dự kiến sự phát triển của nó trong tương lai.

Khi xác định được khả năng phát triển của sự vật thì phải lựa chọn và tiến hành thực hiện khả năng. Trong quá trình đó cần chú ý:

Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực để định ra kế hoạch, phương hướng hành động vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì sẽ dễ rơi vào ảo tưởng. Lênin cho rằng: Chủ nghĩa Mác dựa vào hiện thực, chứ không dựa vào khả năng để vạch ra đường lối chính trị của mình và chủ nghĩa Mác căn cứ vào sự thật chứ không phải dựa vào khả năng.

Phải tính đến các khả năng để việc đề ra kế hoạch hành động sát thực và hợp lý nhất vì khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại khả năng gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu nhiên... Từ đó mới tạo được các điều kiện thích hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển. Lênin phát biểu rằng: Người Mác xít chỉ có thể sử dụng để làm căn cứ cho chính sách của mình những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được.

Phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển vì việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một cách tự động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người.

Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến khả năng thành hiện thực, có thể điều khiển khả năng phát triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. Không thấy vai trò của nhân tố chủ quan sẽ rơi vào tình trạng chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh hay phó mặc, buông xuôi tuy nhiên nếu tuyệt đối hóa chủ quan thì dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm, duy ý chí.

Phần 2. VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG HIỆN THỰC ĐỂ TÌM HIỂU TRUYỆN CỔ TÍCH

2.1 Khái quát về truyện cổ tích

2.1.1 Định nghĩa truyện cổ tích


Truyện cổ tích là loại truyện xuất hiện từ rất xưa, chủ yếu do các tầng lớp bình dân sáng tác, trong đó óc tưởng tượng (bao gồm cả huyễn tưởng) chiếm phần quan trọng.

Có thể có yếu tố hoang đường, kì diệu hoặc không, truyện cổ tích trình bày – với một phong cách thường kết hợp hiện thực với lãng mạn – cuộc sống với những con người trong những tương quan của xã hội có giai cấp (quan hệ địa chủ với nông dân, quan lại với nhân dân; quan hệ gia đình, quan hệ thầy trò,…). Khái quát hiện thực xã hội, truyện cổ tích trình bày con người với tư cách “tổng hòa những quan hệ xã hội”. Nhưng yếu tố lãng mạn phản ánh nguyện vọng, ước mơ của nhân dân – là ở chỗ tác giả không chỉ trình bày cái hiện có mà còn trình bày cái chưa có và cái có thể có. Chính do sự kết hợp hai yếu tố đó trong việc phản ánh hiện thực mà dáng dấp thường thấy của truyện cổ tích là sự trình bày cuộc sống trong trạng thái động của nó, phù hợp với quy luật phát triển nội tại của nó, và phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân về cuộc sống đó.

2.1.2 Phân loại truyện cổ tích

Trong hệ thống phân loại VHDG, truyện cổ tích thường được xác định là một thể loại. Đây là một thể loại lớn gồm ba tiểu loại: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích về loài vật, truyện cổ tích sinh hoạt (hoặc truyện cổ tích thế sự).

  • Truyện cổ tích về loại vật (truyện cổ tích động vật)
Nhóm đề tài nói về con vật nuôi trong nhà. Loại truyện này khi miêu tả đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các đặc điểm đó (kế thừa các motif suy nguyên luận của thần thoại) (Trâu và ngựa, Chó ba cẳng ...).

Nhóm đề tài nói về con vật hoang dã, thường là các con vật sống trong rừng Nổi bật trong nhóm này là hệ thống truyện về con vật thông minh, dùng mẹo lừa để thắng các con vật mạnh hơn nó. Nhóm truyện này có ý nghĩa ca ngợi trí thông minh của người bình dân

Nhìn chung, truyện cổ tích loài vật nêu lên những nhận thức, hiểu biết của con người về thế giới các con vật Một bộ phận truyện cổ tích loài vật có nhân vật là con người tham gia, một bộ phận khác nhân vật trong truyện hoàn toàn là các con vật. Những nhân vật chính thường là các con vật gần gũi( trâu ,ngựa, bồ câu, sáo) các con vật trong rừng tuy hoang dã nhưng lại quen thuộc( hổ, khỉ, thỏ ,rùa...) các con vật ở vùng sông nước( sấu, cá...), Những con vật nầy ít nhiều có ảnh hưởng đến đời sống con người.

Truyện dân gian về loài vật không chỉ có cổ tích mà còn có thần thoại và ngụ ngôn. Với ba thể loại trên, con vật đều được nhân cách hóa. Nhưng nếu nhân cách hóa trong thần thoại gắn với quan niệm vạn vật hữu linh, vạn vật tương giao của người cổ đại thì trong truyện cổ tích sự kế thừa tư duy thần thoại đó còn nhằm phản ánh xã hội loài vật. Ðối với truyện ngụ ngôn, tác giả dân gian đã có ý thức dùng câu chuyện để diễn đạt ý niệm trừu tượng. Tuy nhiên , cũng cần lưu ý đến hiện tượng 2-3 mang của một số tác phẩm. Chẳng hạn, truyện “Cóc kiện Trời” vừa là thần thoại vừa là cổ tích loài vật, truyện Công và quạ vừa là thần thoại, cổ tích vừa là ngụ ngôn.

Trong kho tàng truyện dân gian Nam Bộ về loài vật, có thể tìm thấy thể loại truyền thuyết( Tại sao có địa danh Bến Nghé, Sự tích rạch Mồ Thị Cư, Sự tích cù lao Ông Hổ...). Ngoài ra, truyện loài vật còn bị hút vào chuỗi Truyện Bác Ba Phi (Cọp xay lúa).

  • Truyện cổ tích thần kì
Ðặc điểm chung

Cổ tích thần kỳ kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội của con người.Ðó có thể là những mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân , những quan hệ xã hội ( Tấm Cám, Cây khế, Sự tích con khỉ...)Nói cách khác, nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là đời sống xã hội và số phận con người. Ðối tượng chính của sự miêu tả, phản ánh là con người. Nhân vật thần kỳ không phải và không thê ølà đối tượng chính ( Nếu vai trò của nhân vật thần kỳ lớn hơn con người thì truyện kể sẽ trở thành thần thoại ) Tuy nhiên, cần nhớ rằng, lực lương thần kỳ cũng giữ một vai trò quan trọng trong sự diễn biến và đi đến kết thúc của câu chuyện.

Thế giới trong cổ tích thần kỳ là thế giới huyền ảo và thơ mộng ,có sự xâm nhập lẫn nhau giữa thế giới trần tục và thế giới siêu nhiên. Ở đó, con người có thể đi váo thế giới siêu nhiên, thần linh có thể xuất hiện trong thế giới trần tục.

Do có sự giống nhau về cốt truyện nên có những kiểu truyện trong cổ tích thần kỳ (kiểu truyện Tấm Cám, Thạch Sanh).

Nhóm truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ :

Nhân vật có tài đặc biệt, phi thường về một lãnh vực nào đó (bắn cung, lặn, võ nghệ, chữa bệnh ...).

Nội dung kể lại những cuộc phiêu lưu ly kỳ của nhân vật chính. Cuối cùng nhân vật chính lập chiến công, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người (Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ chằng).


Nhóm truyện về các nhân vật bất hạnh :

Nhân vật bất hạnh thường là người mồ côi, người em út, người con riêng, người đi ở, người xấu xí. Về mặt xã hội, họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi. Về mặt tính cách, họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng (biểu hiện xu hướng hoài cổ) trừ nhân vật xấu xí mà có tài ( Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc ...). Nhân vật chính trải qua thử thách ( thử thách của các trở lực và có khi của nhân vật trợ thủ ) và đổi đời, được hạnh phúc dài lâu.

Bên cạnh nhân vật chính còn có nhân vật đế vương và lực lượng thần kỳ. Nhân vật đế vương có liên quan tới phần thưởng dành cho nhân vật chính Lực lượng thần kỳ ( bên thiện ) là nhân vật trợ thủ, có khi phải thử thách nhân vật chính trước khi giúp đỡ.

  • Truyện cổ tích thế tục
Ðặc điểm chung :

Truyện cũng kể lại những sự kiện khác thường ly kỳ, nhưng những sự kiện này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kỳ, nếu có, thì không có vai trò quan trọng đối với sự phát triển câu chuyện như trong cổ tích thần kỳ.

Nhân vật trung tâm trong cổ tích thế tục thường chủ động và tích cực hơn so với nhân vật trung tâm trong cổ tích thần kỳ cho dù một số nhân vật bất hạnh thường gặp bế tắc và kết cục bi thảm . Bế tắc ở đây là bế tắc của hiện thực khác với cái đổi đờicủa mơ ước, ảo tưởng trong cổ tích thần kỳ.Nếu xung đột trong cổ tích thần kỳ được giải quyết trong cõi huyền ảo thì xung đột trong cổ tích thế tục được giải quyết theo logic của hiện thực. Chính vì vậy mà chàng Trương Chi phải ôm mối sầu xuống mộ còn anh Sọ Dừa hạnh phúc daì lâu .

Nhóm truyện có đề tài nói về nhân vật bất hạnh :

Ðây là nhóm truyện kế thừa truyện cổ tích thần kỳ về nhân vật bất hạnh nhưng không kết thúc có hậu (Trương Chi , Sự tích chim hít cô , Sự tích chim quốc...).

Nhóm truyện có nội dung phê phán những thói xấu, những hành vi độc ác của con người : bất hiếu, khoe giàu, hách dịch...( Ðứa con trời đánh , Gái ngoan dạy chồng ...)

Nhóm truyện về người thông minh :

Nhân vật dùng sự thông minh của mình để phân xử, ứng xử (Xử kiện tài tình , Em bé thông minh ...) Nhân vật dùng mẹo lừa để thể hiện trí thông minh (Cái chết của bốn ông sư, Nói dối như Cuội...).

Nhóm truyện về người ngốc nghếch :

Nhân vật chính ngốc nghếch thực sự, hành động máy móc, đôi khi gặp may mắn nên thành công, nhưng thông thường phải trả giá đắc cho hành vi ngu xuẩn của mình ( Chàng ngốc được kiện , Làm theo vợ dặn...)

Nhân vật giả vờ ngốc để đạt được mục tiêu nào đó. Ðây là dạng đặc biệt của nhân vật thông minh Nhân vật chẳng những không ngốc mà còn đóng vai chàng ngốc thành công (làm cho công chúa nói được).

2.1.3 Nội dung truyện cổ tích

a. Những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội

Truyện cổ tích phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Những mâu thuẫn này mang tính chất riêng tư nhưng lại phổ biến trong toàn xã hội có giai cấp : xung đột giữa anh em trai (Cây khế, Hầm vàng hầm bạc),xung đột giữa chị em gái (Sọ Dừa, Chàng Dê).xung đột giữa dì ghẻ con chồng, giữa chị em cùng cha khác mẹ (Tấm Cám),xung đột giữa con ruột và con nuôi (Thạch Sanh),xung đột có tính bi kịch về hôn nhân, gia đình (Trầu cau, Ba ông Bếp, Sao hôm - sao mai, Ðá vọng phu).

Những xung đột xã hội diễn ra bên ngoài gia đình được phản ánh muộn hơn, ít tập trung hơn. Do vậy ít tác phẩm tiêu biểu hơn (Cái cân thủy ngân, Của trời trời lại lấy đi , Diệt mãng xà).Một số truyện chứa đựng cả xung đột gia đình và xung đột xã hội (Thạch Sanh).

Dù gắn với đề tài gia đình hay đề tài xã hội, ý nghĩa xã hội của truyện cổ tích cũng rất sâu sắc. Nó phản ánh được những xung đột, mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa các tầng lớp trong một xã hội phân chia giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội phụ quyền thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và " bề dưới, đàn anh và đàn em.

Truyện cổ tích có khuynh hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật bề dưới, đàn em , lên án nhân vật " bề trên " , " đàn anh " (trong thực tế không phải người em, người con nào cũng tốt , người mẹ ghẻ , người anh trưởng nào cũng xấu) nghĩa là chống cái bất công, vô lý của xã hội phụ quyền nói chung (không đi vào từng số phận riêng) , thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả.

b. Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân

Truyện cổ tích cho thấy sự bế tắc của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ. Nhân vật đàn em, bề dưới càng có đạo đức bao nhiêu, càng thật thà bao nhiêu thì càng thiệt thòi bấy nhiêu. Ðây là thực trạng của xã hội có giai cấp và có áp bức giai cấp.

Tác giả dân gian , trong cổ tích , đã giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng. Họ nhờ vào lực lượng thần kỳ và nhân vật đế vương. Lực lượng thần kỳ là phương tiện nghệ thuật giúp tác giả dân gian đạt tới một xã hội lý tưởng , một xã hội có đạo lý và công lý. Lực lượng thần kỳ đứng về phía thiện, trợ giúp cho nhân vật đau khổ, đưa họ tới hạnh phúc. Trong quá trình đó, lực lượng thần kỳ cũng giúp nhân vật cải tạo xã hội. Nhân vật đế vương vừa là phương tiện nghệ thuật vừa là biểu tượng cho lý tưởng xã hội của nhân dân. Vua Thạch Sanh, hoàng hậu Tấm là hiện thân của một xã hội tốt đẹp , xã hội lý tưởng.

c. Triết lý sống, đạo lý làm người và ước mơ công lý của nhân dân

Triết lý sống của tác giả dân gian trong truyện cổ tích trước hết là chủ nghĩa lạc quan .Tinh thần lạc quan trong cổ tích chính là lòng yêu thương quý trọng con người, từ đó mà yêu đời , tin vào cuộc đời cho dù cuộc sống hiện tại đầy khổ đau, người ta vẫn luôn hướng về cuộc sống ngày mai tốt đẹp.

Kết thúc có hậu là biểu hiện dễ thấy của tinh thần lạc quan, nhưng không phải là biểu hiện duy nhất.

Kết thúc bi thảm vẫn chứa đựng tinh thần lạc quan. Nhân vật chính chết hoặc ra đi biệt tích. Nhưng cái chết hoặc ra đi của nó để lại niềm tin vào phẩm giá con người, niềm tin vào cuộc đời (trong truyện Hầu Tạo, Chàng Lía...)

Hầu hết truyện cổ tích đều gián tiếp hoặc trực tiếp nêu lên vấn đề đạo đức . Ðạo đức luôn gắn với tình thương , lấy tình thương làm nền tảng (Ðứa con trời đánh , Giết chó khuyên chồng ...)

Niềm tin Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác vừa là triết lý sống lạc quan vừa là đạo lý, ước mơ công lý của nhân dân trong cổ tích.

2.1.4 Thi pháp truyện cổ tích

a. Cốt truyện

Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện cổ tích là tính chất bịa đặt của câu chuyện kể. Cần nói thêm rằng, tính chất tưởng tượng của cốt truyện cổ tích ngoài nghĩa nói trên còn là tính khác thường" của sự kiện và hành động cổ tích.

Cốt truyện cổ tích thường được xây dựng theo một vài sơ đồ chung,có thể tìm thấy các kiểu cốt truyện quen thuộc như kiểudũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp, người xấu xí mà có tài...

b. Nhân vật

Nhân vật trong cổ tích là hành động của nó. Từ hành động của nhân vật ta có thể rút ra tính cách. Nhân vật cổ tích chưa được cá thể hóa, tâm lý hóa.

Trong kho tàng truyện cổ tích có những kiểu nhân vật (nhân vật bất hạnh, nhân vật tài giỏi...).

c.Motif

Ðó là những motif trong truyện cổ tích: Những chi tiết nghệ thuật có mặt trong nhiều truyện cổ tích của nhiều dân tộc (vật báu mang lại hạnh phúc, Cái mâm thần, chém chằn tinh...). Các motif nầy là những đơn vị hợp thành của cốt truyện.

Thế giới cổ tích có những yếu tố của thực tế hòa lẫn với yếu tố hư cấu tạo thành thế giới huyền ảo, thơ mộng. Ðể giải mã thế giới cổ tích thường người ta dựa vào dân tộc học.

2.1.5 Đặc điểm

Bên cạnh yếu tố hư cấu, tưởng tượng như một đặc điểm chủ yếu của thể loại, truyện cổ tích vẫn bộc lộ sự liên hệ với đời sống hiện thực, thông qua những đặc điểm về nội dung, ngôn ngữ, tính chất của cốt truyện, motif, hình tượng nghệ thuật ... Nhiều truyện cổ tích xuất xứ từ xa xưa phản ánh được các quan hệ xã hội nguyên thủy và các biểu tượng, tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Trong khi đó, các truyện cổ tích hình thành giai đoạn muộn hơn, như thời phong kiến, thường có những hình tượng vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa. Sang thời tư bản chủ nghĩa, truyện cổ tích thường chú ý hơn đến thương nhân, tiền bạc và các quan hệ xã hội liên quan đến mua bán, đổi chác, sự tương phản giàu nghèo v.v.

Về nội dung tư tưởng, truyện cổ tích thường mang tinh thần lạc quan, có hậu, trong đó kết thúc truyện bao giờ cái thiện cũng chiến thắng hoặc được tôn vinh, cái ác bị tiễu trừ hoặc bị chế giễu

Là một thể loại truyền miệng, truyện cổ tích thường có nhiều dị bản. Sự dị bản hóa tác phẩm có thể được nhìn nhận do các dân tộc trên thế giới có những điểm chung nhất về văn hóa, lịch sử, sinh hoạt, lối sống; đồng thời cũng có những đặc điểm riêng trong nếp sống, đặc điểm lao động, sinh hoạt, điều kiện tự nhiên tùy từng dân tộc. Thêm vào đó những người kể truyện cổ tích thường mang vào các truyện họ kể những nét cá tính riêng, sự thêm thắt nội dung theo những ý đồ nhất định.

2.2 Biểu hiện của phạm trù hiện thực trong truyện cổ tích

Trong truyện cổ tích, mặc dù hư cấu tưởng tượng là một đặc điểm nổi bật để nhận diện truyện cổ tích song nó vẫn bộc lộ tính hiện thực trong đó. Phạm trù hiện thực được biểu hiện qua không gian, nhân vật và mối quan hệ xã hội giữa các nhân vật,

  • Không gian
Không gian hiện thực là không gian của cuộc sống trần thế, biểu hiện cụ thể trong truyện cổ tích người Việt là không gian làng quê. Dấu ấn làng quê Việt Nam in đậm trong nhiều truyện cổ tích, “đem lại cho thế giới cổ tích hơi ấm nhân sinh, màu sắc dân tộc, dân dã”. Đặc điểm này cho thấy, truyện cổ tích người Việt là sản phẩm tinh thần đích thực của nhân dân lao động, mang đậm thế giới quan, cách nhìn của người nông dân. Màu sắc cung đình, những dấu hiệu của triều đại phong kiến ít có mặt trong truyện cổ tích người Việt. Trong truyện cổ tích người Việt, ít có sự lộng lẫy tráng lệ màu sắc của không gian cung đình mà nổi bật lên vẫn là không gian làng quê. Thậm chí trong những truyện có nhiều chặng thử thách đặt ra với nhân vật như Người lấy cóc thì anh học trò và vợ trải qua rất nhiều thử thách nhưng bối cảnh chỉ diễn ra trong làng quê của nhân vật: từ nhà đến cánh đồng, đến trường học, trong truyện “Tấm Cám”, dù Tấm có trở thành hoàng hậu thì không gian nàng xuất hiện vẫn là bên tấm cửi, sào phơi, nhà vua xuất hiện trong vườn xoan, quán trà ven đường (để từ đó ăn trầu Tấm têm và nhận ra Tấm).

  • Nhân vật và mối quan hệ giữa các nhân vật
Hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích cũng phản ánh thực trạng tầng lớp xã hội ở thời kì phong kiến khi truyện cổ tích xuất hiện. Nó cũng thể hiện các mối quan hệ giữa các nhân vật: đó có thể là quan hệ gia đình, cũng có thể là quan hệ xã hội, bao gồm nhiều loại nhân vật thuộc các giới tính, các lứa tuổi, các nghề nghiệp phổ biến, các thành phần giai cấp khác nhau trong xã hội người Việt thời kì Hùng Vương dựng nước đến cuối thời kì phong kiến tự chủ (trước cánh mạng tháng tám năm 1945). Đáng chú ý là những loại nhân vật sau đây:

Những người lao động nghèo khổ, lương thiện bị đối xử bất công, phổ biến là những nhân vật mồ côi, những người bề dưới chịu nhiều thiệt thòi nhất trong gia đình và xã hội. Loại nhân vật này thường đóng vai trò chính – nhân vật trung tâm của truyện cổ tích.

Các nhân vật bề trên, đàn anh (chị) trong gia đình phụ quyền. Dù xuất thân trong gia đình giàu hay nghèo, họ cũng đều giống nhau ở tính tham lam, độc ác, ích kỷ, coi của hơn người.

Các nhân vật giàu có (trưởng giả, phú ông, phú thương…) xuất hiện khá thường xuyên trong truyện cổ tích nhưng ít khi có tên riêng, phần lớn là nhân vật phản diện, tham lam, độc ác.

Các nhân vật đế vương, quan lại: hệ thống nhân vật này khá đa dạng, có những nhân vật tốt và cũng có những nhân vật xấu. Những nhân vật đế vương tốt được xây dựng theo quan niệm và mong ước của nhân dân, thường sống giản dị và gần gũi dân chúng. Đây là những nhân vật lí tưởng chỉ có trong niềm tin và sự ước mơ của tác giả cổ tích mà thôi. Tuy nhiên, niềm tin này cũng có cơ sở hiện thực từ những vị vua anh minh trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc Việt.

Mối quan hệ trong gia đình thường xảy ra những xung đột giữa anh cả- em út, giữa chị em cùng cha khác mẹ, giữa mẹ ghẻ con chồng ....đây là những mâu thuẫn gây nhức nhối và đáng lưu ý từ xưa đến nay. Trên bình diện mối quan hệ giữa vợ và chồng, nhân vật phản diện thường thấy là người vợ. Người vợ trong các câu chuyện thường giết chồng hoặc phụ bạc người chồng để đến với người mới. Có thể thấy rõ hình ảnh người vợ bạc ác qua nhân vật Nhan Diệp trong truyện “Sự tích con muỗi”. Nhan diệp vốn là người đàn bà lười biếng xa hoa, thỏa thuê sung sướng. Nhan Diệp chết nhưng nhờ người chồng thương yêu quá cảm động lòng trời nên cho nàng sống lại với lời dặn dò phải chung thủy với chồng. Nhưng khi gặp chủ thuyền lái buôn sống đời sống xa hoa thì Ngọc Diệp quên cả tình cũ nghĩa xưa đã phụ bạc chồng. Sau khi trả lại ba giọt máu cho chồng thì thị chết và hóa kiếp thành loài muỗi quanh năm tìm cách hút máu người để mong được lại hóa thành người. Kiểu nhân vật người vợ bạc ác chúng ta có thể tìm thấy trong các truyện khác như “Thịt gà giết chồng”, “Giã tràng xe cát biển đông”… Nhìn chung trong mối quan hệ vợ - chồng trong cổ tích Việt Nam thì không chỉ có người vợ mà cũng có những người chồng ghen tuông, bạc bẽo như “Sự tích đá bà rầu”, “Đồng tiền vạn lịch”, “Quan âm thị Kính”… Tuy nhiên, người vợ vẫn thường được khắc họa là người phụ bạc hoặc giết chồng nhiều hơn. Điều này cho thấy ảnh hưởng của chế độ phụ quyền và đa thê trong thực tế xã hội. Do quan niệm nhân dân coi trọng vai trò người đàn ông trong gia đình và chấp nhận quyền thống trị gia đình thuộc về đàn ông nên vấn đề đàn ông bội bạc không bị xem là việc sai trái và không bị lên án do đó không đề cập nhiều trong chuyện kể.

Nhân vật phản diện trong mối quan hệ cha mẹ - con cái: nhân vật được miêu tả trong mối quan hệ này khá đa dạng và trong hầu hết các câu chuyện có thể thấy nhân vật phản diện thường ở vai trò người con. Những người con được cha mẹ nuôi dưỡng trong tình yêu thương nhưng khi lớn lên, được dựng vợ gả chồng rồi thì lại đối xử với cha mẹ không ra gì. Năm người con trai trong truyện “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ con tính tháng kể ngày” là những nhân vật tiêu biểu. Chúng kì kèo, năn nỉ cha mẹ chia của cho bọn chúng và hứa hẹn sẽ nuôi dưỡng cha mẹ đàng hoàng. Nhưng khi cha mẹ già yếu thì chúng đùn đẫy, hơn thua nhau từng ngày trong việc phụng dưỡng, đối đãi với cha mẹ thậm tệ. Người con trong “Tiếc gà chôn mẹ” hay năm cô con gái trong “Sự tích chiếc khăn tang” cũng tương tự như thế và cuối cùng khi cha chết, các cô phải xấu hổ trùm mặt để đưa tang cha. Nhìn chung, tác giả dân gian thường miêu tả hình ảnh người con trong những câu chuyện này đều là kẻ hoặc keo kiệt, hoặc xem thường cha mẹ đẻ ra mình. Kết thúc những câu chuyện các nhân vật thường không bị trả giá đắt có lẽ do quan niệm dân gian đề cao sự bao dung của cha mẹ với con cái.

Một kiểu nhân vật phản diện khác trong mối quan hệ cha mẹ - con cái đó chính là những nhân vật người mẹ ghẻ. Tiêu biểu là nhân vật người mẹ ghẻ trong truyện “Tấm cám”. Hình ảnh người mẹ ghẻ trong câu chuyện này được khắc họa khá đậm nét. Luôn căm ghét người con riêng của chồng, mụ tìm mọi cách để hãm hại cô Tấm tội nghiệp. Hành động ác nghiệt của mụ tăng theo cấp độ. Mụ bắt tấm đi chăn trâu ở đồng xa để bắt con cá bống – người bạn duy nhất của Tấm làm thịt, mụ trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt để không được đi dự hội, chặt cây cau giết chết Tấm và tiếp tục triệt tiêu các dạng hóa thân của Tấm: làm thịt chim vàng anh, chặt cây xoan, đốt khung cửi…hình ảnh người mẹ ghẻ được khắc họa qua những hành động dã man, tiêu diệt đến tận gốc rễ đứa con riêng của chồng. Hình ảnh người mẹ ghẻ trong “Sự tích chim đa đa”, “Sự tích con dế” hay “Mụ dì ghẻ độc ác”…cũng được khắc họa tương tự. Đa phần họ sợ người con riêng lớn lên sẽ thừa kế tài sản hoặc do ghen ghét với vẻ đẹp, sự may mắn của người con nên tìm cách giết hại. Tuy nhiên, đa phần những đứa con ấy đều thoát chết và khi trở về thì hoặc người mẹ ghẻ sợ quá mà chết “Tấm cám”, “Sự tích con dế” hoặc xấu hổ mà trốn đi biệt tích như trong “Mụ dì ghẻ độc ác”.

Những câu chuyện về mối quan hệ giữa anh chị em cũng xuất hiện khá nhiều các nhân vật phản diện. Kiểu loại nhân vật này khá phong phú nhưng lại được khắc họa khá giống nhau. Họ thường là những người anh, người chị lớn trong gia đình, khi cha mẹ chết đi họ dùng quyền huynh trưởng để chèn ép người em trong việc chia gia tài như những người anh trong truyện “Cây Khế”, “Bính và Đinh”, “Hà rầm hà rạc”, “Hai anh em và con chó đá”…hoặc họ là những người chị ganh tị với sự may mắn của em ruột mình. Hầu hết họ đều quá tham lam tiền của và coi nhẹ tình thân ruột thịt. Họ chiếm trọn bộ gia sản và hưởng cuộc sống sung túc trong khi mặc kệ em mình nghèo đói, hẩm hiu. Có trường hợp họ còn tìm cách giết chết chính em ruột của mình như hai cô chị trong truyện “Sọ Dừa”. Đa phần họ đều có chung một kết cục là chết bởi chính lòng tham (Cây khế, Hà rầm hà rạc), trả giá bằng sự tán gia bại sản (Bính và Đinh) hoặc xấu hổ bỏ làng ra đi biệt tích (Sọ Dừa)…

Mối quan hệ xã hội: tầng lớp thống trị (vua, quan, trưởng giả...) và tầng lớp bị trị (tầng lớp nhân dân lao động); giữa người với người ... Kiểu loại nhân vật này là các phú ông, trưởng giả, quan lại và cả vua chúa. Đặc trưng chung của họ là giàu sang, quyền thế nhưng cũng rất tham lam, háo sắc, hách dịch và khinh người. Trong truyện cổ, các nhân vật này thường lợi dụng quyền lực và sự giàu có của mình để chèn ép, bóc lột những người lao động nghèo. Lão trưởng giả trong “Cây tre trăm đốt” là điển hình cho kiểu nhân vật này. Hắn vốn là một tên gian ác, xảo trá. Hắn dùng đủ mọi thủ đoạn để bóc lột người ở và người làm thuê. Hắn hứa gả con gái để lợi dụng sự thật thà hiền lành của anh Khoai biến anh thành kẻ làm không công cho hắn. Thế nhưng cuối cùng hắn lại tính gả con cho nhà tên cai tổng. Nhân vật ông quan trong truyện “Nàng Xuân Hương” tán tỉnh cô gái không được thì lại tìm cách vu oan cho người ta để hạ ngục. Rồi lại tiếp tục dụ dỗ cô gái, không đạt được ý nguyện nên hắn khép người ta vào tội trọng và đem ra pháp trường. Hoàng tử trong truyện “Công chúa Liễu Hạnh” và ông vua trong truyện “Ai mua hành tôi”…thì háo sắc, dùng uy quyền của mình để chiếm đoạt người khác. Kết quả với những nhân vật này cũng thường giống như những tên bạn bất nghĩa. Tùy theo tính chất ác độc đã làm mà nhân vật phải lãnh nhận những hậu quả xứng đáng. Hoặc phải chấp nhận theo yêu cầu của những người nghèo “Cây tre trăm đốt”, “Mũi dài”, hoặc phát điên, phát khùng như hoàng tử “Công chúa liễu hạnh” hoặc phải chết như nhân vật vua trong “Ai mua hành tôi”.

Đối với quan hệ bạn bè, xuất hiện những nhân vật tham lam, vô ơn và bất nghĩa với những người bạn có ơn với mình. Nhân vật Thiên trong “Của Thiên trả Địa” là tiêu biểu cho kiểu nhân vật này. Hai chàng trai đều nghèo và đều có chung chí hướng phấn đấu. Địa chăm chỉ thật thà, Thiên thông minh, mưu mẹo. Mười mấy năm trời Địa cật lực cày thuê cuốc mướn để nuôi Thiên dùi mài kinh sử. Nhưng khi đã vinh quy bái tổ Thiên lại lật lọng, quên đi lời thề xưa và bạt bẽo với người bạn đầy ơn với mình. Nhân vật Tứ trong truyện “Tam và Tứ” cũng tương tự như vậy, khi Tứ buôn vặt hết vốn, đang tìm chỗ làm thuê nuôi miệng thì được Tam giúp đỡ cho theo mình buôn trống. Nhưng với tính tham lam hắn lại lừa bạn nhốt xuống giết và lấy sạch vốn liếng của bạn. Trong truyện “Ngậm ngãi tìm trầm” thì cả hai người bạn cùng tham lam như nhau, cả hai đều muốn lừa gạt người bạn thân để chiếm đoạt của quý. Truyện “Cứu vật vật trả ơn, cứu người người trả oán” hoặc truyện “Giáp và Ất”… cũng xuất hiện những người bạn vô ơn, bội nghĩa như trên. Và kết thúc câu chuyện, hầu hết các nhân vật bất nghĩa này đều trả giả đắt cho những hành động tội lỗi của mình bằng việc chịu cảnh tán gia bại sản hoặc chịu cảnh chết thảm: toàn bộ gia sản của Thiên trả về cho Địa, Ất và vợ phải ra pháp trường, Nhân vật Tứ thì bị quỷ bóp cổ chết… Điều này phản ánh các mối quan hệ trong xã hội, luôn có kẻ tốt người xấu, người tham lam, kẻ tốt bụng...

c. Tôn giáo, tín ngưỡng

Tôn giáo trong thực tế bao giờ cũng xuất hiện trong văn học muộn hơn thực tế. Khi nó hiện diện trong tác phẩm văn học, điều đó có nghĩa là tôn giáo đó đã ăn sâu vào văn hóa nhân dân. Tôn giáo trong truyện cổ tích thể hiện qua sự xuất hiện của các nhân vật thần linh: Bụt ( Budha hay Phật, biểu hiện cho sự xâm lấn của Phật giáo vào trong văn hóa dân gian), ông Tiên, Ngọc Hoàng, Bà Chúa Kho, thổ địa, Táo quân, Diêm vương, vua Thủy Tề ....trong tín ngưỡng thờ mẫu, thờ thành hoàng của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra còn có các nhân vật yêu quái thù ghét, hãm hại con người như: Trằn tinh (trong truyện Thạch Sanh), Hổ Tinh, ...

2.3 Biểu hiện của phạm trù khả năng

Truyện cổ tích phản ánh khả năng của con người trong việc miêu tả không gian, mơ ước đến các thế lực siêu nhiên để giúp đỡ giúp nhân vật vượt qua khổ nạn. Văn học cho đến ngày nay vẫn thế, thiên về phản ánh cái khả nhiên của đời sống, bởi đặc điểm con người là không chỉ quan tâm thực tại mà còn quan tâm hơn tới khả năng, tương lai. Người ta có thể chịu khổ, hi sinh, nếu điều đó có ý nghĩa đối với tương lai của đất nước, con cháu mình hoặc loài người nói chung. Trong triết học duy vật biện chứng người ta hiểu hiện thực là một cặp phạm trù đối lập và chuyển hoá cho nhau. Hiện thực là cái tồn tại với tư cách là kết quả thực hiện của một khả năng nào đó, còn khả năng là khuynh hướng phát triển tiềm tại của một hiện thực nào đó. Hiện thực thì không phải khả năng, còn khả năng thì chưa phải là hiện thực. Nhìn bề ngoài thì rõ ràng người ta đã loại bỏ khả năng ra ngoài hiện thực, hạn chế văn học trong việc phản ánh các sự việc, con người hiện tồn. Nếu hiểu đúng, thì về thực chất hiện thực bao hàm cả cái khả năng, và thiếu tính khả năng thì hiện thực chưa phải là hiện thực của văn học. Chính vì là cái khả năng, nghĩa là cái chưa trở thành hiện thực, cho nên nhà văn mới có thể dùng hư cấu sáng tạo để làm cho cái khả năng tiềm tại hiện hình lên mặt giấy cho mọi người quan sát, thể nghiệm, thực hiện chức năng dự báo của văn học. Con người không chỉ quan tâm hiện tại, nó còn quan tâm tương lai gấp trăm nghìn lần. Nó sợ nhất là hiện thực không thay đổi hoặc thay đổi bất lợi cho nó. Nó không lo sợ cái hiện thực vì nó đã có rồi, biết rồi, mà sợ nhất sự bất trắc của tương lai. Hiện thực vốn đã vô cùng phức tạp, song khả năng là lĩnh vực còn rộng lớn và phong phú hơn nhiều. Các khả năng hiện thực và khả năng phi hiện thực, văn học đều quan tâm. Trong hiện thực tồn tại vô vàn khả năng, nhưng do điều kiện cụ thể, hiện thực chỉ là sự thực hiện của một trong các khả năng nào đó. Các khả năng khác tuy đã mất cơ hội được thực hiện, nhưng chúng vân có ý nghĩa để suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Như thế hiện thực của văn học rộng lớn gấp nhiều lần so với hiện thực của lịch sử. Cái khả nhiên còn là hiện thực độc nhất vô nhị của văn học, bởi vì nó là những khả năng, cho nên thích hợp cho nghệ sĩ lựa chọn về mặt lí tưởng, tinh thần, nhận thức, tình cảm, thích hợp với trí tưởng tượng, với hư cấu sáng tạo. Phản ánh cái khả nhiên ngoài chức năng dự báo còn có chức năng giải phóng tư duy con người khỏi những khuôn mẫu cứng nhắc, bất di dịch.

Về mặt không gian: do truyện cổ tích được sáng tạo bởi nhân dân lao động, những người quanh năm gắn bó với ao làng, mảnh ruộng, con trâu, giếng nước, vì vậy cho dù họ có tưởng tượng ra cho phần thưởng cho nhân vật của mình trở thành hoàng hậu, phò mã, được vào cung vua thì nhân dân lao động chỉ có thể miêu tả cung vua giống như nơi mà họ vẫn ở: cũng có xen cửi, hoàng hậu vẫn giặt áo, xe cửi cho chồng, nhà vua vẫn mắc võng nằm gốc xoan (biểu hiện rõ trong truyện Tấm Cám), những không gian của âm phủ, thiên đình, cung vua....đều là sản phẩm của trí tưởng tượng chứ không được tạo ra bởi sự mô tả từ kinh nghiệm. Từ đó cho thấy trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng của người xưa rất phong phú.

Về mối quan hệ xã hội: Nhân dân lao động chính là người sáng tạo ra truyện cổ tích, họ là tầng lớp thấp trong xã hội, phải làm lụng vất vả quanh năm không đủ ăn, lại bị các tầng lớp thống trị hà hiếp (ví như trong truyện “Cây tre trăm đốt”), do đó khả năng chống lại, khả năng thực hiện mơ ước của họ gần như không có, những điều được thể hiện trong truyện cổ tích như: vị vua hiền lành, anh minh; chàng trai chân chất, chăm chỉ, dũng cảm; cô gái út hiền lành, không tham lam....sẽ nhận được những phần thưởng xứng đáng cho mình như: lấy được chồng giàu, lấy vua, lấy được công chúa, trở nên giàu có....đều là khả năng xa, hiếm xảy ra thành hiện thực trong thực tế. Do thuộc tầng lớp bé cổ thấp họng, họ thể hiện ý muốn đấu tranh, phản kháng với những thế lực xấu xa, tầng lớp trên hà hiếp dân lành, ví như anh trai trong Cây tre trăm đốt với câu chú Khắc nhập, khắc xuất để trừng trị lão địa chủ thất hứa; cô Tấm cũng ra tay trừng trị đứa em ác độc.... hay khả năng chống lại thiên nhiên khắc nghiệt: Thạch Sanh giết chết chằn tinh....

Nhân vật cũng là một trong những yếu tố cho thấy khả năng tạo lập vô cùng to lớn của con người, một đội ngũ nhân vật to lớn xuất hiện trong truyện cổ tích và phần lớn là hư ảo: Tiên, Bụt, thánh, con cóc- cậu ông trời, hổ biết nói, ong, muỗi, con Sam....đến Chằn tinh, Mộc tinh, Hồ tinh...

Khả năng thực hiện của con người là có hạn chế, song bằng trí óc sáng tạo, tưởng tượng của mình, nhân dân lao động đã cho thấy không khả năng nào là không trở thành hiện thực theo quan niệm về lẽ phải và công lí của người xưa.

2.4 Mối quan hệ và ý nghĩa của cặp phạm trù trong việc biểu hiện ước mơ của nhân dân lao động qua truyện cổ tích

Do khả năng của người lao động ít ỏi, những điều để trở thành hiện thực rất khó xảy ra nếu chỉ bằng sức lao động, sự can thiệp của con người, vì vậy họ hướng đến các thế lực thần linh trợ giúp, vận may để biến khả năng thành hiện thực, trả giá xứng đáng cho nhân vật của mình.

Người tốt, người chăm chỉ, hết lòng vì bạn bè, chính nghĩa sẽ được sống hạnh phúc, giàu có. Ngược lại, những kẻ tham lam, ích kỉ, mưu mô sẽ chỉ nhận lấy kết cục bi thảm, thậm chí là cái chết. Kết cục của các nhân vật phản diện thường là cái chết hoặc chịu sự thay đổi vị thế của mình trong xã hội: người giàu sang trở nên nghèo khó, kẻ quyền thế trở thành hèn mọn, một số nhân vật phải hóa thân thành những loài vật, đồ vật kinh tởm (Lý Thông biến thành bọ hung, người vợ không chung thủy biến thành con muỗi….). Thực tế điều này không thể xảy ra, và khả năng của nhân dân lao động cũng không thể tự mình tiêu diệt kẻ xấu, tiêu diệt cái ác, song nó thể hiện quan niệm, ước mơ của nhân dân về một xã hội công bằng, xấu xa bị tiêu diệt, giữa người với người chỉ còn sự tốt đep, kết cục này là một trong những cách thể hiện niềm tin vào lẽ công bằng và triết lí sống “ở hiền gặp lành, sống ác gặp ác” của dân tộc Việt Nam cũng như quan niệm của dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới.


KẾT LUẬN

Tóm lại, qua kho tàng truyện cổ tích phong phú của Việt Nam, chúng ta đã có thể nhận ra được đây đó một số nét mang tính đặc thù. Tìm hiểu đầy đủ các biểu hiện đặc thù này là việc cần thiết, cũng là việc có thể làm, nhưng muốn khái quát thành các đặc trưng tiêu biểu chỉ riêng truyện cổ tích Việt-nam mới có thì không phải dễ. Bởi lẽ truyện cổ tích là một thể loại phổ cập có ý nghĩa nhân loại, ra đời trước khi nhân loại hình thành các cộng đồng dân tộc rất lâu. Đem những đặc điểm có tính chất "hậu sinh" đó quy định một hiện tại tồn tại trước, e có khi sẽ dẫn đến những ngộ nhận sai lầm. Trong quan hệ giao lưu rộng lớn của kho tàng cổ tích thế giới xưa nay, khó có thể nói có một sự đặc thù nào mà lại không hiện diện ở nhiều dân tộc khác, trong nhiều môi trường sinh hoạt tương tự. Bốn đặc điểm rút ra được ở trên, vì thế, luôn luôn có ý nghĩa tương đối, và cần được nhìn nhận một cách tương đối. Có thể tóm lược lại như sau:

1. Yếu tố tưởng tượng của người Việt Nam trong sáng tác cổ tích gần như ít xa lạ với nhân tính. Truyện thần kỳ của chúng ta nói chung khá lý thú, là kết quả của sự phối hợp khéo léo giữa hai nhân tố thực và ảo, nhưng số lượng lại không nhiều.

2. Truyện cổ tích Việt-nam thường bắt rễ từ môi trường sinh hoạt của một xã hội quân chủ kiểu phương Đông, lấy làng xã làm nền tảng. Nó thường toát lên vẻ đẹp cân bằng, cái hiền hòa, cái nhân đạo.

3. Nhân vật tích cực trong cổ tích Việt Nam thường tỏ ra không bằng lòng với hiện thực; luôn luôn hướng tới một thế giới mới, với những hệ giá trị mới, công bằng hơn, hợp lý hơn.

4. Nhiều truyện đề cập đến vai trò năng động của người nữ, và thường phản ánh khát vọng tình yêu và hôn nhân tự do.

Bốn đặc điểm trên vừa bao quát cả nội dung tư tưởng lẫn phương thức tư duy nghệ thuật, cấu trúc và hình tượng của truyện cổ tích Việt-nam. Tựu trung, truyện cổ tích Việt-nam phản ánh bằng hình thức thẩm mỹ dân gian - dân tộc ước mơ hạnh phúc nhiều đời của quần chúng nhân dân. Đó là cuộc đấu tranh thầm lặng, lâu dài giữa lý tính ngày càng trỗi dậy, chống với mọi thành kiến giáo điều, "hóa giải" mọi sự cực quyền vô lý và bảo thủ. Đó cũng là tất cả ý nghĩa, giá trị của truyện cổ tích Việt-nam.

Qua việc vận dụng phạm trù khả năng, hiện thực của phép biện chứng duy vật, có thể thấy được phần nào truyện cổ tích là sự kết hợp khéo léo giữa khả năng và hiện thực của nhân dân lao động xưa. Lý luận của Mác – Lênin về cặp phạm trù khả năng, hiện thực giúp chúng ta nhận ra bản chất và hoàn cảnh thực tế của nhân dân lao động lúc bấy giờ.

- Phong Cầm tổng hợp-
 
Từ khóa
cặp phạm trù hiện thực khả năng mối quan hệ biện chứng nội dung truyện cổ tích phạm trù hiện thực trong truyện cổ tích thi pháp truyện cổ tích triết học với văn học đặc điểm truyện cổ tích
2K
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Top