Soạn văn Viết bài làm văn số 7: Văn nghị luận

Soạn văn Viết bài làm văn số 7: Văn nghị luận

Viết bài làm văn số 7: Văn nghị luận


Đề 1 (trang 136 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Dân tộc ta có truyền thông “Tôn sư trọng đạo”. Theo anh (chị), truyền thống ấy được nối tiếp như thế nào trong thực tế cuộc sông hiện nay?
Lời giải chi tiết:
1. Xác định yêu cầu của đề ra:

- Về thể loại: nghị luận xã hội.
- Nội dung: vấn đề “Tôn sư trọng đạo”, một vấn đề có tính truyền thống của dân tộc.
- Phạm vi tư liệu: dùng cho bài viết rất rộng (từ xưa đến nay)
- Thao tác lập Luận: Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác, lập luận: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.
2. Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
a. Giải thích vấn đề: truyền thống “tôn sư trọng đạo”
- Giải thích các khái niệm: “sư”? “tôn sư”?, “đạo”? “trọng đạo”?
- Giải thích ý nghĩa của vấn đề: “tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Các ý chính:
+ Kính trọng và đề cao vai trò của người thầy.
+ Coi trọng việc học hành.
+ Coi trọng đạo lý làm người, đề cao nhân nghĩa...
b. Truyền thống “tôn sư trọng đạo'” được nối tiếp như thế nào trong thực tế cuộc sống hiện nay:
- Hoàn cảnh, điều kiện sống có những gì thay đổi?
- Những gì được tiếp tục phát huy? Những gì có sự bổ sung, phát triển? Những hiện tượng nào cần lên án?
c. Cần phải làm gì để phát huy truyền thống “Tôn sư trọng đạo” trong thời đại mới?


BÀI VĂN MẪU: Bàn luận về truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam
BÀI LÀM
Dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo. Đó là một truyền thống tốt đẹp của một dân tộc văn hiến và hiếu học. Từ xa xưa đã có câu ca:
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
Hoặc thâm thúy hơn, ông cha ta cũng từng nhắc con cháu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư (Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy).
Tôn sư là đề cao, tôn vinh, coi trọng người thầy. Vì sao vậy? Người thầy dạy chữ, dạy kiến thức cho ta, đem đến cho ta những hiểu biết để ta sống tốt hơn, có ích hơn. Người thầy lại dạy ta đạo lí, nhân cách để ta biết làm người trong xã hội. Vai trò người thầy là hết sức quan trọng, không thể thiếu đối với bất cứ một quốc gia, dân tộc nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thế thì sao lại không tôn vinh, đề cao người thầy? Đây là tôn vinh một con người đã góp phần đem lại lợi ích cho cả một dân tộc. Sự tôn vinh này xuất phát từ chức năng cao quý và trách nhiệm lớn lao của người thầy.
Trọng đạo là gì? Trong kết câu hai vế cân đối tôn sư/trọng đạo, nếu tôn sư là tôn vinh người thầy thì trọng đạo là coi trọng nghề dạy học. Đạo ở đây là đạo làm thầy, là nghề dạy học. Nghề dạy học là nghề đáng được coi trọng vì sản phẩm nó đào tạo ra chính là con người, như ai đó đã nói: “Trong các nghề thì nghề dạy học là nghề cao quý nhất”. Nhân dân ta “trọng đạo” chính là trọng cái nghề “trồng người” cao quý ấy, cũng như họ đã tôn vinh người thầy là những “kĩ sư tâm hồn”.
Tôn sư trọng đạo hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, đó là sự suy nghĩ nhìn nhận đúng đắn và tiến bộ cùa nhân dân ta về một nghề đáng được coi trọng và một con người đáng được tôn vinh. Nó chứng tỏ dân tộc ta là một dân tộc văn hiến và hiếu học, bởi coi trọng nghề dạy học là một biểu hiện sâu sắc của một dân tộc văn hiến và tôn vinh người thầy là bằng chứng hùng hồn của một dân tộc hiếu học. Nhưng ý nghĩa sâu xa của tôn sư trọng đạo chính là nó gắn bó mật thiết với sự nghiệp trồng người để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực. bồi dưỡng nhân lưc; bồi dưỡng nhân tài làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội phát triển tốt đẹp. Xưa, ông cha ta đã nói “hiền tài là nguyên khí quốc gia”; nay, ta lại khẳng định “giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu” - những điều đó không thể không liên quan đến truyền thông tôn sư trọng đạo của dân tộc ta. Tôn sư trọng đạo đã trở thành một đạo lí, một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta chính là như thế. Nó là sức mạnh tinh thần, tình cảm lớn lao và bền vững của dân tộc để góp phần xây dựng nên một nước Việt Nam văn hiến và giàu mạnh.

Truyền thống tốt đẹp đó đã được nhân dân ta kế thừa và phát huy trong cuộc sống hiện nay. Trên khắp đất nước, ở đâu cũng vậy, từ thành thị đến nông thôn, miền xuôi đến miền ngược, người dân Việt Nam đều yêu quý, tôn trọng ông thầy, đều dành cho thầy những tình cảm ưu ái nhất, đặc biệt là lòng biết ơn sâu sắc thầy, đã dạy con cái họ nên người. Trong hoàn cảnh nước nhà còn nghèo, đời sống thầy giáo còn nhiều khó khăn, họ đã tận tình giúp đỡ thầy một cách chân thành và cảm động. Các dân tộc vùng cao đã coi các thầy giáo, cô giáo miền xuôi lên dạy học như người con của quê hương minh. Người thầy được tôn vinh thì nghề dạy học cũng được coi trọng. Không phải ngẫu nhiên mà giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, và ngày 20-11 hằng năm đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân đế tôn vinh người thầy và nghề dạy học cao quý. Hình ảnh cha mẹ học sinh tặng hoa các thầy, cô giáo trong ngày 20- 11 và cả những cán bộ cấp cao của Đàng và Nhà nước đến thăm thầy giáo cũ đã nói lên sâu sắc truyền thông và đạo lí cao đẹp đó. Từ một đạo lí truyền thống của dân tộc, tôn sư trọng đạo đã mang một ý nghĩa cách mạng mới trong thời đại ngày nay gắn liền với tư tưởng “trồng người” cua Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó không chỉ là đạo lí, tình cảm mà còn là tinh thần, sức mạnh, hành động cách mạng để đưa đất nước đi lên ngày càng giàu mạnh, văn minh. Đó là nét mới của truyền thống tôn sư trọng đạo trong cuộc sống hiện nay của nhân dân ta.


Bước sang thế kỉ XXI, cuộc sống có nhiều đổi mới kéo theo sự đổi mới của giáo dục, của vai trò người thầy và nghề dạy học. Trên cơ sở kế thừa, giữ gìn những mặt tốt đẹp của truyền thống, chúng ta cần biết phát huy và vận dụng đạo lí tôn sư trọng đạo một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng mới để đạt kết quả tốt đẹp nhất.


Đề 2 (trang 136 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Có ý kiến cho rằng: Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính.
Anh (chị) thấy ý kiến này như thế nào?
Lời giải chi tiết:
1. Xác định yêu cầu của đề ra:

- Về thể loại: nghị luận xã hội.
- Nội dung: quá trình hình thành, phát triển của những thói xấu ở con người.
- Phạm vi tư liệu: những kiến thức đời sống, xã hội
- Thao tác lập luận: Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác lập luận: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.
2. Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
a. Giải thích:
- Thế nào là những thói xấu của con người?
- Tại sao nói: Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính.
b. Phân tích, chứng minh và bình luận ý kiến:
- Trong mỗi con người bao giờ cũng có những đức tính tốt và những thói tật xấu.
- Nếu con người không biết tự rèn luyện, hướng tới những gì tốt đẹp, bị những thói xấu làm chủ thì “Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính” (khía cạnh đúng của ý kiến).
- Nếu con người biết tự rèn luyện, biết hướng tới những gì tốt đẹp, nhận ra những thói hư tật xấu để từ bỏ thì không những thói xấu không có cơ hội phát triển mà dần dần con người đó sẽ trở nên hoàn thiện (khía cạnh chưa đúng của ý kiến).
c. Hướng rèn luyện của bản thân nói riêng và của mọi người nói chung.
BÀI LÀM MẪU: "Tập quán xấu ban đầu là khách qua đường, sau trở thành ngựời bạn thân ở chung nhà và cuối cùng trở thành ông chủ nhà khó tính" - Ngữ Văn 12


Khi mà những thành tựu khoa học kĩ thuật ngày càng nhiều, khi mà xã hội phát triển vượt bậc, con người khám phá ra nhiều điều mới lạ thì vai trò của đời sống đạo đức tinh thần, tính nhân văn của con người ngày càng được coi trọng. Chống lại những thói quen xấu là điều hết sức cần thiết, bởi vì: “Tập quán xấu ban đầu là khách qua đường, sau trở thành người bạn thân ở chung nhà và cuối cùng trở thành ông chủ nhà khó tính".
Ý kiến trên là một lời nhận định hết sức đúng đắn cho cuộc sống và đáng để chúng ta tìm hiểu, bàn luận.
Trước hết, về mặt nội dung ý nghĩa, nó chứa đựng một hàm ý hết sức sâu xa mà càng đọc lâu, càng suy ngẫm kĩ ta càng nhận ra cái hay của nó. Chỉ với ba từ ngắn gọn súc tích “tập quán xấu", đã nói lên tât cả những thói quen xấu, những hành vi cử chỉ không tốt đã thành nếp của con người. Những “tập quán xấu" ấy lúc “ban đầu" chỉ đơn thuần là “khách qua đường" là "người” mà trong lúc tình cờ, trong một khoảnh khắc vô tình, tự nhiên gặp, không hề hẹn ước. Vị khách ấy đến và đi nhanh chóng cũng như một vài tính xấu, đôi lời nói dối, vài ba hành động lầm lỗi mà nhiều khi vô tình hay cố ý ta đã làm. Tuy nhiên, tai hại không chỉ dừng lại mà thường thì nó còn tiến triển, và nhân rộng ra hơn. Từ chỗ lạ, nó (tật xấu của con người) dần dần "trở thành người bạn ở chung nhà”, trở nên quá gần gũi và quen thuộc với chúng ta. Chúng ta xem điều đó như là một việc bình thường, những thói hư tật xấu ấy lập đi lập lại trở thành quá quen, thành một nếp sống tự nhiên bám chặt lấy ta. Để rồi đến "cuối cùng trở thành ông chủ nhà khó tính". Từ địa vị một người “bạn thân" cùng sống chung với nhau, cùng gắn bó không rời, rồi đã trở thành "ông chủ nhà khó tính". Nội dung lời nhận định thật sâu sắc. Với lối so sánh ngầm sử dụng những hình ảnh ngôn từ gần gũi thân thuộc, vị trí của "tập quán xấu" dần đưực nâng lên thật cao, chiếm vị trí độc quyền trong ngôi nhà hay nói rộng ra là trong con người, trong suy nghĩ nhận thức và hành động của chúng ta. Nó “khó tính", ra lệnh cho chúng ta, bắt phải phục theo ý muốn của nó, làm những việc xấu hoặc đồng lõa cùng nó và tội lỗi mà nó gây ra. Với từ ngữ thân quen, dễ hiểu cùng cách diễn đạt khéo léo mà không kém phần sâu sắc, lời nhận định trên tạo một chuỗi hình ảnh liên quan chặt chẽ với nhau, thành một chuỗi móc xích những tình huống diễn ra hằng ngày, thật sự đã phản ánh được hiện thực của cuộc sống hết sức khách quan.
Thật vậy, trong thực tế, xã hội ngày nay có biết bao nhiêu điều hay điều tốt nhưng tồn tại song song với nó vẫn còn vô số những tệ nạn xã hội đang diễn ra hằng ngày. Đó thật sự cũng là kết quả của quá trình tiếp cận với cái xấu lâu ngày và dần dần không những không bài trừ được mà còn chịu ảnh hưởng để rồi tiếp nhận nó như những chuyện rất bình thường, không có gì phải lưu tâm. Không phải sinh ra, ai cũng có thói xấu, có tội lỗi. Ban đầu cái xấu ở bên ngoài, ở xa như người qua đường thôi. Khi đã nhiễm phải rồi thì nó dần dần kết với ta, ra lệnh cho ta, biến ta thành đầy tớ của một ông chủ nhà khó tính, xấu tính. Nếu ta đủ bản lĩnh, khôn ngoan thì kẻ qua đường nguy hại kia sẽ không bao giờ vào được nhà ta. Cụ thể một số thực tế cho ta thấy những điều trên. Nạn ma túy đang được xã hội quan tâm chống lại mỗi ngày, đối với ai đó bắt đầu một cuộc vui đua đòi, ham chơi thử một lần cho biết. Lúc ban đầu chỉ là một vài điếu thuốc, một mũi chích, chứng tỏ mình là người từng trải, đó chính là lúc đã gặp “khách qua đường" tai hại rồi. Thế nhưng, sự việc đâu chỉ đơn giản là ngừng lại tại đây, cái xấu thường có sức quyến rũ, nó còn trở lại, trở thành “người bạn thân" cho đến lúc kẻ nghiện hút trở thành nạn nhân của nó, mặc sức cho nó hoành hành thì từ cái giới hạn “người bạn thân", nó đã chuyển sang ông chủ nhà khó tính.
Quay trở lại với cuộc sống của tuổi trẻ. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi mà hầu hết ai cũng năng động, cũng tích cực hăng hái đồng thời cũng dễ bồng bột lao đầu vào những cuộc vui một cách mù quáng. Ban đầu chỉ là lời nói dối cha mẹ, thầy cô trốn học xem phim, đi chơi cùng bạn bè, sau tham gia vào những cuộc vui quá giới hạn của tuổi học sinh và dần dần sa sút về mặt học tập, đạo đức cũng xuống thấp trầm trọng. Tới lúc đó “ông chủ nhà khó tính" ấy liệu buông tha cho không? Không đâu, những thói hư tật xâu ấy ngày càng gia tăng và lấn át những phẩm chất tốt đẹp từng được trau dồi trước đấy của ta. Để rồi kết quả là một ngày nào đó ta không còn là người con ngoan, trò tốt hữu dụng cho đất nước, không là người mà xã hội đang cần. Ta chỉ là những người xấu bị phê bình chỉ trích, đôi khi bước ra khỏi ngưỡng cửa tốt đẹp của cuộc sống. Chỉ một lần tò mò, thử cho biết có thể ta đã mở toang cánh cửa ngăn cách bản chất con người mình với thế giới của muôn ngàn tệ nạn đang chực chờ, là chính ta đã tự hủy hoại con người mình và gián tiếp hủy hoại những mầm xanh của cuộc sống. Đừng tự cho rằng mình có thể lúc nào cũng tỉnh táo trước cám dỗ, đừng nghĩ rằng đối với mình "tập quán xấu" chỉ là “khách qua đường" và duy chỉ như vậy mà thôi. Không đâu, ông bà ta đã chẳng từng dạy: “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng” hay sao? Nếu không biết cách loại trừ, kiên quyết từ bỏ những cái xấu đã và đang dần hình thành trong con người của mình thì trước hay sau, sớm hay muộn ta sẽ trở thành tên nô lệ, thuộc dưới quyền sai khiến của tội lỗi, của tập quán xấu mà thôi. Không ai là người hoàn thiện, không ai từ lúc bé cho đến lớn lên mà không có lầm lỗi, tuy nhiên đối diện với những mặt yếu đó của con người mình, chúng ta phải mạnh dạn quyết định khai trừ cái xấu, không để nó ăn sâu vào tiềm thức, không để nó trở thành thói quen thành bản chất của con người và về sau rất khó sửa đổi. Đương đầu với thói hư tật xấu với những tâm tư không tốt luôn có sẵn trong mỗi con người, chúng ta cần lên án, phê bình những hành động những biểu hiện trái ngược với cái thiện, với mặt tốt của nhân cách và cần khuyến khích học tập những điển hình những cá nhân đóng góp tích cực trong việc bài trừ tính độc hại của những tội lỗi, các tệ nạn của xã hội diễn ra hằng ngày. Để “ông chủ nhà khó tính” sẽ là chúng ta, khó tính trong việc rèn luyện, trau dồi phẩm hạnh của mình, khó tính để không cho phép mình thua trong trận chiến gay gắt giữa cái thiện và cái ác.

Tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày có biết bao chuyện diễn ra xung quanh ta. Vui có, buồn có, và đó không phải là vấn đề then chốt, quan trọng. Cái quan trọng là chúng ta cần thẳng thắn trực diện để đối mặt và tìm ra phương hướng giải quyết cho những rắc rối. Lời nhận định trên thật sự rất đúng và rất sát hợp với thực tiễn cuộc sống con người. Dù tật xấu là “ông chủ khó tính", “người bạn thân ở chung nhà" hay là “khách qua đường” đi chăng nữa thì chúng ta không được phép chấp nhận mà cần phải quyết tâm thật cao để loại trừ cái xấu ra khỏi cuộc sống nhằm vun trồng, xây đắp cho mình cũng như những người xung quanh những điều tốt lành và hạnh phúc.
Chỉ bằng vài dòng ngắn với lối thể hiện đặc sắc, lời nhận định “Tập quán xấu ban đầu là khách qua đường, sau trở thành người bạn thân ở chung một nhà và cuối cùng trở thành ông chủ nhà khó tính" thật sự là một lời nhận định hết sức đúng đắn cho mọi người và cho mọi thời đại. Ngày nay, ta cần tiếp nhận nó như một câu châm ngôn, một lời cảnh báo sống cho mình trong việc hoàn thiện nhân cách cũng như làm vũ khí sắc bén đâu tranh cho việc chống cái xấu, cái ác, bảo vệ cái đẹp, cái thiện và vươn lên. Đó cũng chính là điều mà chúng ta hôm nay và mai sau cần đạt đến: "Đối diện với cái tốt anh hãy là người tốt và đối diện với cái xấu anh buộc phải là người tốt”.



Đề 3 (trang 136 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Hưởng ứng đợt thi đua xây dựng môi trường xanh, sạch đẹp do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động, chi đoàn 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: Hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp.
Anh (chị) hãy viết bài tham gia hội thảo đó.
Lời giải chi tiết:
1. Xác định yêu cầu của đề ra:

- Về thể loại: nghị luận văn học
- Nội dung: vấn đề nghị luận là hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp, một vấn đề đang được đặt ra một cách bức thiết hiện nay.
- Phạm vi tư liệu: Những kiến thức về mồi trường
- Thao tác lập luận: Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác lập luận: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.
2. Bài viết cần làm nổi bật được những ý cơ bản sau:
a. Ý nghĩa của đợt thi đua xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp là gì?
b. Vấn đề môi trường hiện nay ra sao? Mái trường của chúng ta đang trong tình trạng như thế nào?
c. Muốn có “một mái trường xanh, sạch, đẹp”, cần thực hiện những biện pháp gì?


Đề 4 (trang 136 SGK Ngữ văn 10 tập 2)
Học bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, có người cho rằng: sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì. Ngược lại, có người ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước.
Hãy cho biết ý kiến của anh (chị).
Lời giải chi tiết:
1. Xác định yêu cầu của đề ra:

- Về thể loại: nghị luận văn học.
- Nội dung: bàn luận về hai vấn đề trái ngược nhau khi đọc bài thơ Thuật hoài với sự hổ thẹn của tác giả thể hiện ở hai câu cuối
- Phạm vi tư liệu: bài thơ Thuật hoài là những hiểu biết về xã hội, đặc biệt là thời đại của nhà thơ Phạm Ngũ Lão.
- Thao tác lập luận: Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác lập luận: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.
2. Học sinh có thể tham khảo dàn ý sau:
a. Mở bài:
- Giới thiệu bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và sự hổ thẹn của tác giả thể hiện tập trung trong hai câu thơ cuối bài.
- Giới thiệu hai ý kiến trái ngược nhau về sự hổ thẹn của tác giả và định hướng ý kiến của bản thân.
b. Thân bài:
- Giải thích ý kiến thứ nhất
- Giải thích ý kiến thứ hai.
- Ý kiến của bản thân: Dùng lí lẽ và dẫn chứng để phê phán sự hồ đồ, thiếu hiểu biết của ý kiến thứ nhất, đồng tình với ý kiến thứ hai (hoặc có những ý kiến khác nhưng phải lập luận một cách thuyết phục)
c. Kết bài:
- Tổng hợp các luận điểm đã triển khai.
- Bài học về việc tiếp cận, đánh giá nội dung tư tưởng của một tác phẩm văn học.
BÀI LÀM MẪU:


Dàn ý
I. Mở bài:

- Giới thiệu bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và sự hổ thẹn của tác giả thể hiện tập trung trong hai câu thơ cuối bài.
- Dẫn dắt vào vấn đề và trích dẫn hai câu thơ cuối.
II. Thân bài:
* Khái quát chug:

- Hoàn cảnh sáng tác

- Nội dung chính:
* Giải thích:
- Giải thích ý kiến thứ nhất: sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì
- Giải thích ý kiến thứ hai: đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước.
- Nhận xét hai ý kiến trên:
+ Theo cách nhìn nhận của cá nhân, ý kiến thứ nhất có phần hơi chủ quan, theo cách nhìn nhận, đánh giá về chủ thể trữ tình của bài thơ.
+ Ý kiến thứ hai: là một cách nhìn nhận đúng đắn và hợp lý. Bởi khi con người ta ý thức cao về hành động, giá trị của mình thì mới cảm thấy "hổ thẹn" với chình bản thân mình.
=> Sự "thẹn" trong hai câu thơ cuối không phải là kiêu kì, thái quá hay một sự thể hiện nhằm mục đích nâng cao giá trị bản thân, mà đó chính là tấm lòng, là hoài bão lớn lao của một tấm lòng yêu nước.
- Ý kiến của bản thân: Đồng tình với ý kiến thứ hai, bỏi hai câu thơ cuối chính là sự tự vấn lương tâm của nhân vật trữ tình về vai trò của mỗi người con đối với dân tộc, đối với đất nước.
Đó còn là khát khao, là hoài bão, là ước mơ được cống hiến, xây dựng đất nước.
- Phân tích hai câu thơ cuối
III. Kết bài:
- Khái quát và mở rộng vấn đề
BÀI LÀM MẪU
Thuật hoài là một trong những tác phẩm của văn học thời Lí Trần, với thể Đường luật ngắn gọn, súc tích, bài thơ đã nói lên được ước mơ của trang nam nhi trong xã hội phong kiến.
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).​
Học bài thơ này, có bạn cho rằng: sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ca ngợi và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Vậy, ý kiến nào đúng?
Hai câu thơ trên bày tỏ nỗi lòng tác giả, cũng là cái chí, cái tâm của người anh hùng. Ý kiến chê bai cho rằng sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì cũng có lí do của nó. Vũ Hầu là ai? Là Gia Cát Lượng (tức Khổng Minh), một nhân vật thời tam quốc nổi tiếng về mưu lược, tài trí hơn người. Ông đã hi sinh trọn đời cho nhà Hán, là vị quân sư - cố vấn tài ba của Lưu Bị, giúp Lưu Bị đánh bại bao đối thủ tài giỏi, góp công lớn trong việc tạo lập và cùng cố nhà Hán. Có thể coi Gia Cát Lượng là một “chính quân tử”, là tấm gương trung nghĩa kiệt xuất điển hình, một tài năng quân sự. Mơ ước như Gia Cát Lượng là đúng nhưng hổ thẹn vì mình không được như Gia Cát Lượng là không tự lượng sức mình, là quá kiêu căng, thái quá, đề cao mình chăng? Nếu các bạn có suy nghĩ như vậy thì chỉ là cách nhìn một phía, mang nặng ý thức chủ quan. Đúng là không có ai có thể trở thành Khổng Minh (Gia Cát Lượng), nhưng Khổng Minh là người thông minh xuất chúng, không phải là thần linh nên ai cũng có thể cố gắng để noi gương. Hơn thế nữa, noi gương Khổng Minh là noi gương những gì? Đó là lòng trung thành, trung quân, ái quốc, là lập công giúp vua, giúp nước. Đây cũng chính là lí tưởng của những đấng nam nhi trong xã hội phong kiến.
Có thể khẳng định rằng, ý kiến thứ hai mới là ý kiến đúng: Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão biểu hiện một hoài bão lớn của người thanh niên yêu nước.
Công danh nam tử còn vương nợ
Quan niệm “nợ công danh” đã trở thành lí tưởng sống của người anh hùng trong xã hội xưa. Thời đại Phạm Ngũ Lão, chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà xây dựng lợi ích của giai cấp phong kiến, “công danh” là một khát vọng lập công, lập danh, hoàn thành nghĩa vụ đối với đất nước.
Sau này, Nguyễn Công Trứ cũng đã khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.

“Công danh” được xem là dấu hiệu của thành đạt, là món nợ đời phải trả của kẻ làm trai. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với đời, với dân-, với nước. Đồng thời chí làm trai thời bấy giờ có tác dụng cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sần sàng hi sinh cuộc đời cho sự nghiệp lớn lao, sự nghiệp cứu nước, cứu dân để cùng trời đất muôn đời bất hủ. Phạm Ngũ Lão đã cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông mấy thu rồi mà vẫn còn thấy mình chưa trả xong nợ công danh là bởi vì cái chí ông quá lớn và cái tâm ông đẹp quá.
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Nghĩ đến Vũ Hầu là ước muốn trở thành người có tài cao, chí lớn, đắc lực trong việc giúp vua, giúp nước. Ở đây Phạm Ngũ Lão cảm thấy thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu Gia Cát Lượng, vì chưa có tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng để từ giặc, cứu nước, khôi phục giang sơn cũng có nghĩa là thấy mình chưa xứng đáng là một đấng nam nhi quân tử. Theo tư tưởng Nho giáo, có thể thấy Phạm Ngũ Lão rất có ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Đó cũng là biểu hiện khát vọng muốn góp sức mình vào sự nghiệp chung.
Hoài bão lớn của Phạm Ngũ Lão thông qua nỗi thẹn không chỉ thể hiện qua món nợ mà còn ở việc ông không hề nói suông. Ông có ước mơ lớn và đã cố gắng thực hiện hoài bão ấy. Từ một chàng trai không tiếng tăm nơi thôn xóm, ông trở thành một tướng tài, ông trả xong nợ công danh với lịch sử, lịch sử đã gọi tên ông. Thế hệ sau nhớ mãi đến ông cùng với Thuật hoài và tiếp bước lí tưởng sống của tổ tiên. Thanh niên Việt Nam ngày nay phải biết xác định con đường, ước mơ và cố gắng thực hiện ước mơ đó. Tuy nhiên, cần đặt sự tồn tại và phát triển của đất nước lên hàng đầu, rèn luyện đạo đức, tài năng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ kiên trì với mục đích đúng đắn của mình.
Mặc dù ra đời cách chúng ta tám thế kỉ song Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão vẫn luôn mới mẻ và hấp dẫn. Bài thơ có tác dụng giáo dục về nhân sinh quan, về lẽ sống đối với thanh niên. Đặc biệt, qua nỗi thẹn của mình, Phạm Ngũ Lão đã cho chúng ta thấy hoài bão lớn lao và cao đẹp của cuộc đời ông. “Khi lẽ sống thiết tha đến mức trở thành tình cảm, người ta sẽ thực hiện được ước mơ của mình cho dù khó khăn đến đâu”.
Bài thơ nói lên quan niệm sống trong thời kì phong kiến của những người quân tử. Bài thơ chịu ảnh hưởng ý thức hệ phong kiến và mang rõ tính chất “thi dĩ ngôn chí”, đồng thời mang tính chất thời sự: Khi đất nước lâm nguy, vai trò của người anh hùng vô cùng quan trọng. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, Người anh hùng chính là người góp phần làm nên lịch sử luôn trọng danh dự và bảo toàn danh tiết với non sông đất nước, với xã tắc, sơn hà. Vì vậy mà cái thẹn của Phạm Ngũ Lão sẽ sống mãi với lịch sử dân tộc.
L

\
 
503
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top