Newsfeed

forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...
Hòa bình đối với bạn là gì?

Hòa bình liệu có phải thứ được sinh ra ngay khi bạn vừa có mặt trên cuộc đời này, trong vòng tay cha, trong bầu ngực nóng của mẹ, trong tiếng ru thơm hương trầu của bà? Không, hòa bình có được không phải dễ. Phía sau khung cảnh bình yên của đời thường
là cả câu chuyện đau thương phía sau. Hoà bình Hôm nay có được là nhờ sự hi sinh của cả một thế hệ đau thương và điêu tàn.

Buổi sáng trời thu ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn như một lời khẳng định viết bằng máu của hàng triệu nhân dân Việt Nam về Hòa Bình mà chúng ta có được. Nhân dân ta quyết hy sinh bằng máu thịt, đánh đổi sinh mạng tất cả vì tổ quốc thân yêu. Hàng trăm triệu dân quân Việt Nam đã lấy thân mình dựng nên tượng đài Tổ quốc hôm nay. Hoà bình do vậy mà cũng chỉ là “thứ cây mọc lên từ máu thịt anh em mình” (Nỗi buồn chiến tranh).

Hòa Bình hôm nay có được là do sự hi sinh kiên cường, bất khuất của hàng bao thế hệ từ già trẻ gái trai. Chiến sĩ Việt Nam hầu hết đều là những người trẻ còn đang nắm mình trong đam mê, hi vọng, còn khao khát một nụ hôn đầu với một mối tình lãng mạn. Nhưng phát súng quân thù đã giật họ dậy khỏi hiện thực, biến những chàng trai trẻ trở thành trò chơi cho số phận. giữa trận mạc, những phút yếu lòng, họ chỉ đánh gác lại tất cả để tập trung hướng về một mục tiêu quan trọng nhất: đền nỗi nước trả thù nhà. Nhưng họ cũng là con người, cũng có lúc ủy mị, hèn nhát và đa đoan. Chút ủy mị ấy như dấu chấm hết cuối cùng cho cuộc đời tươi nguyên của họ. Cầu nguyện cho linh hồn người lính được an nghỉ, đất nước đã đứng lên từ ngày các anh chọn ngã xuống.

Hoà Bình hôm nay có được là nhờ sự hy sinh của hậu phương. Đất nước hoà bình nhưng thứ trở về bên mẹ, bên vợ chỉ còn là tấm giấy bao tử. Vẫn cái tên ấy, nhưng giờ đây anh lính chỉ còn là cái xác ngã xuống dưới đạn thù. Viên đạn dù xuyên qua trái tim bên nào cũng đều là xuyên qua trái tim người mẹ. Người mẹ hậu phương có đứa con đi lính luôn chết hai lần, một lần khi tiễn con đi, một lần khi nhận tấm giấy báo tử con trở về. Để con đi, mẹ sợ khi trở về con chỉ là một nắm tàn tro. Nhưng giữ con ở lại thì đất nước hóa tro tàn.

Hoà mình hôm nay có được là nhờ những di tích chiến tranh. Nỗi đau của thời chiến hiện nguyên hình sau khi bom đạn đã ngừng rơi. Đất Nước đã Hòa Bình nhưng đâu đó vẫn còn tiếng xung phong. Những âm thanh điên đảo trong trận mạc, tiếng bom rơi, máu chảy và cái chết đã khiến bao người lính không còn đủ minh mẫn. Ngày đất nước hòa bình cũng là lúc họ sống trong những di chứng của thời loạn, giày vò mình trong những nỗi đau không thể giải thoát. Cơn đau chiến tranh ám ảnh họ, để đến họ cho đến tận khi họ chết. Đau đớn hơn nữa là khi hôm nay thế hệ trẻ đã lãng quên đi một thế hệ đau thương cúi xuống vì hòa bình dân tộc. Một thế hệ kiên cường giờ đây phải lụi cụi ăn mày dĩ vãng, sống trong thiếu thốn chỉ vì xã hội đang lãng quên họ đầy tàn nhẫn. Một thế quay lưng lại với lịch sử sẽ không có quá khứ và cũng không có tương lai.

Chiến tranh không đáng sợ, chỉ sợ người trẻ quên mất đất nước.
Thêm
13
0
0
Viết trả lời...
Bên trong mỗi chúng ta bất cứ khi nào đều tồn tại một phần quê do sự ảnh hưởng từ nền văn minh, văn hóa. Tuy nhiên, trải qua giai đoạn toàn cầu hóa tiến tới hội nhập, các nền văn hóa bị giao thoa, dẫn tới việc bản sắc quê nhà bị lãng quên. Nguyễn Bính, một nhà thơ lạ mà quen, đã từng bước đánh thức hồn Việt trong lòng người đọc. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã viết “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”.

Nguyễn Bính có những chất liệu thì cá riêng tạo nên hình ảnh thơ ca cho riêng mình. Quê hương trong Nguyễn Bính là quê hương của rất nhiều con người Việt Nam, nhưng được ông tái hiện dưới một thế giới quan riêng. Hồn quê trong thơ Nguyễn Bính biểu hiện trong cảnh vật và hồn người. Đọc thơ chỉ cần thấy mưa xuân, cánh bướm, giàn trầu không, hàng cau liên phòng, cô lái đò, cô hàng xóm - rất dễ để nhận ra đó là tín hiệu thơ ông. Nguyễn Bính gọi dậy hồn quê trong tâm thế hoài cổ, chỉ có quá khứ là vàng son rực rỡ, còn hiện tại đã bị nhuộm màu công nghiệp thị thành. Có thể nói, nhà thơ là người luôn cố níu giữ chất quê mộc mạc, bình dị, những cảm xúc đã phai mờ bên trong mỗi con người hiện đại.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay

Quê hương trong mắt Nguyễn Bính luôn mang một hình sắc riêng. Giọng thơ Nguyễn Bính phảng phất theo từng cơn “mưa xuân phơi phới bay”. Hình ảnh mưa xuân là chất liệu thi ca ưa thích của ông. Mưa Xuân ở làng quê là một thứ mưa xao xuyến gieo rắc nhớ thương trong lòng người. Đứa con đi xa chỉ mong ngày tết được quay trở về quê nhà, được ngửa bàn tay hứng những làn mưa chấm li ti ấy. Nhưng liệu có phải cũng chính là mưa ấy lại cuốn trôi đi tất cả hồn quê, hồn người mà Nguyễn Bính đang cố níu giữ? Chèo từ lâu đã là một nét đẹp văn hóa trong nghệ thuật diễn xướng Việt Nam, nhưng theo thời, nét đẹp văn hóa dân gian ấy bị phai mờ, quên lãng. Nguyễn Bính trong tâm thế hoài cổ vẫn dẫn dụ người ta về với chèo, với những nét đẹp văn hóa dân gian thân thuộc nhất. Sự tinh tế trong nghệ thuật dẫn dắt của Nguyễn Bính cho ta hiểu được giá trị trường tồn của chèo. Chèo là bản sắc văn hóa Việt Nam, là cầu nối gắn kết giữa anh và em, thôn anh và thôn em trong một điệu hát vấn vương cảm xúc.

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Hồn quê Nguyễn Bính thể hiện ngay trong cả tình yêu với cô gái làng bên. Tình quê trong ông không chỉ là tình cảm giữa con trai với người con gái, đó là nâng lên và tình cảm giữa hai thôn làng. Tình yêu quá họ là sự kết tinh giữa hai làng với nhau. Nguyễn Bính đem sợi chỉ đỏ nối liền hai con người xa lạ lại gần nhau, vô tình kết nối mối giao hảo giữa làng anh - làng em. Tình yêu của họ là thứ tình cảm của thời ông bà ta, dịu dàng mà e ấp. Mối tình đơn phương của chàng trai không dám bộc lộ trực tiếp với người mình yêu. Nguyễn Bính có lối viết ví von mang đậm hồn quê trong văn học dân gian. Người ta khao khát được quay trở lại mảnh đất quê mình, để được chứng kiến “Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”.

Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi

Truyền thống sống nghĩa tình, nhân ái đã trở thành khuôn vàng thước ngọc trong lối sống của người dân Việt xưa. Xã hội hiện đại phát triển cũng kéo theo những rào cản, vách ngăn cho mối quan hệ giữa người với người. Viết về người quê, tình quê là cách Nguyễn Bính níu giữ những phần nhà quê còn đang le lói bên trong mỗi con người. Muối mặn gừng cay, dây trầu là đầu câu chuyện đã trở thành những quan niệm xưa trong tư tưởng người Việt. Kĩ thuật sáng tác của Nguyễn Bính có khả năng khơi dậy những phần hồn quê đã đánh mất bên trong mỗi con người.

Nhà phê bình Văn học Hoài Thanh đã từng viết: “Nhà thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối, là hoàn cảnh tự nhiên của ta, và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta”. Hơn 80 năm một giọng thơ Nguyễn Bính, hơn 80 năm hồn quê Việt Nam được lưu giữ bên trong những trang thơ nghĩa tình.
Thêm
13
0
0
Viết trả lời...
1. “Họ nhìn thấy máu đổ, thấy những thây người ngã xuống, rách toác, óc vỡ, ruột đùn ra như ruột lợn, những ống xương thòi thụt nham nhở, trắng hếu… Họ nghe thấy tiếng thét, tiếng hộc, tiếng rên la và cả tiếng rú khoái trá man dại…”

2. “Dường như nghe thấu được những tiếng nói vang ra từ lồng ngực ngột ngạt ấy, đôi mắt mù mịt của bảo khẽ nhắm lại một chút rồi liền đó lại mở ra và.. không bao giờ nhắm lại nữa! Người chiến sĩ ấy đã chết thật sự, mang theo vào lòng đất cả cái cán đạn màu xanh để yên lòng đồng đội”.

3. “Thà đến viên mình ngay đi còn hơn ngày nào cũng chờ đợi một kết cục không tài nào tránh thoát, như một định mệnh đã an bài rồi”.

4. “Vả lại, thiên hạ bây giờ ở tuổi bác, không ai mặc đồ lính như thế. Chỉ có dân cựu trào hay dân ở ngoài kia vào đây làm ăn sinh sống mới mặc vậy thôi. Cháu nói thiệt, dòm tội lắm! Vận đồ quân phục mà tội ư?”

5. “Ở giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!”

6. “Nhân cách đã xuống tới đáy rồi, có gồng lên thì vẫn là đáy mà thôi”.

7. “Trái tim khổ đau, tan rã nhưng chưa được chết để phải chứng kiến cái biến đi của toàn thể. Trái tim chết hai lần”.

8. “Ngày xưa oánh nhau vỡ mặt, bây giờ không oánh nữa thì là bạn, bạn sòng phẳng, đến nhà sẽ được tiếp đón cẩn thận, nhưng dù muốn hay không, mi cũng phải nhớ rằng ngày xưa mi là thằng bại trận”.
Thêm
15
0
0
Viết trả lời...
1. “Họ nhìn thấy máu đổ, thấy những thây người ngã xuống, rách toác, óc vỡ, ruột đùn ra như ruột lợn, những ống xương thòi thụt nham nhở, trắng hếu… Họ nghe thấy tiếng thét, tiếng hộc, tiếng rên la và cả tiếng rú khoái trá man dại…”

2. “Dường như nghe thấu được những tiếng nói vang ra từ lồng ngực ngột ngạt ấy, đôi mắt mù mịt của bảo khẽ nhắm lại một chút rồi liền đó lại mở ra và.. không bao giờ nhắm lại nữa! Người chiến sĩ ấy đã chết thật sự, mang theo vào lòng đất cả cái cán đạn màu xanh để yên lòng đồng đội”.

3. “Thà đến viên mình ngay đi còn hơn ngày nào cũng chờ đợi một kết cục không tài nào tránh thoát, như một định mệnh đã an bài rồi”.

4. “Vả lại, thiên hạ bây giờ ở tuổi bác, không ai mặc đồ lính như thế. Chỉ có dân cựu trào hay dân ở ngoài kia vào đây làm ăn sinh sống mới mặc vậy thôi. Cháu nói thiệt, dòm tội lắm! Vận đồ quân phục mà tội ư?”

5. “Ở giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!”

6. “Nhân cách đã xuống tới đáy rồi, có gồng lên thì vẫn là đáy mà thôi”.

7. “Trái tim khổ đau, tan rã nhưng chưa được chết để phải chứng kiến cái biến đi của toàn thể. Trái tim chết hai lần”.

8. “Ngày xưa oánh nhau vỡ mặt, bây giờ không oánh nữa thì là bạn, bạn sòng phẳng, đến nhà sẽ được tiếp đón cẩn thận, nhưng dù muốn hay không, mi cũng phải nhớ rằng ngày xưa mi là thằng bại trận”.
Thêm
13
0
0
Viết trả lời...
1. “Thì ra một khi đã già, đã đánh tuột hết lượng sinh khí ra phía sau đuôi, người ta đâm dở chứng ưa than thân trách phận, ưa đục khoét ngược vào hang hố trong mình”.

2. “Một lớp người xa lạ ở đâu đến hay vừa mới nhớn nhao lên đã nghiễm nhiên thay thế họ rồi”.

3. “Có lẽ giống như tôi, con bé không uống được nhưng phải cố mà uống. đây là trận đánh giành giật chỗ đứng, đây là yếu tố tiên quyết để tạo nên tư cách của một nhân viên nhà hàng, nôn mửa cũng phải móc họng ra mà uống, chết cũng phải uống”.

4. “Và cái bóng buốt kia biết đâu lại chả hết sức tội tình, dấu hiệu chân tình của một đứa con gái nhà lành phải lao vào bụi bặm để quậy quả kiếm ăn, để nuôi em, nuôi mẹ”

5. “19 bồng gạo đổi lấy một mạng người 19 tuổi! Đau quá! Vô nghĩa quá! Nhưng dẫu sao cũng còn đổi lại được. Trong những cánh rừng và trên những dòng sông này, còn biết bao những cái chết ngớ ngẩn, hoàn toàn vô nghĩa khác mà phải chịu”.

6. “Ít nhất trên hai lần, xã ủy, huyện ủy bảo cô viết đơn vào Đảng nhưng cô đều lắc đầu, Đảng điếc gì, cô nói. Vào rồi cứ phải làm ra vẻ đứng đắn, đạo mạo, cáu cũng cáu giả, buồn cũng buồn giả, ngứa ngáy chân tay lắm, tôi hứa sẽ không thua kém một đứa Đảng nào hết”.
Thêm
20
0
0
Viết trả lời...
Nghệ thuật là sự vận động tự thân của ý thức xã hội trước đời sống hiện thực. Nó ra đời do nhu cầu phản ánh hiện thực, bày tỏ cảm quan cá nhân của người nghệ sĩ. Bởi vậy, văn chương nghệ thuật cũng phục vụ nhu cầu tinh thần của con người. ra đời vào giai đoạn 45 - 75, văn học cách mạng tồn tại như một thứ vũ khí chống chọi trước những xâm hại của cuộc kháng chiến, vực dậy khao khát chiến đấu của người chiến sĩ. đất nước vén màn hòa bình, sau bấy nhiêu năm, văn học cách mạng vẫn hào hùng như trang sử vàng son của dân tộc.

từ năm 1945 đến năm 1975, nhiều sự kiện lịch sử liên tục diễn ra, làm thay đổi cơ cấu xã hội và đời sống sinh hoạt của con người. 35 gắn liền với cuộc kháng chiến Đánh Pháp đuổi Nhật diệt Mỹ cũng kéo theo 30 năm văn học trở thành vũ khí, chỗ dựa của con người. Văn học giai đoạn này chủ yếu phục vụ kháng chiến, phơi bày bản chất thật của chiến tranh đồng thời kích thích tinh thần chiến đấu. do đó, những khía cạnh riêng tư, những cảm xúc cá nhân ít được thể hiện, thay vào đó tính cộng đồng được đề cao, tôn vinh hình ảnh người chiến sĩ được lý tưởng hóa.

Giai đoạn đầu tiên trong phong trào văn học cách mạng bắt đầu từ năm 1945 đến năm 1954. Sau cách mạng tháng tám chấm dứt hơn 80 năm dưới ách thống trị, Đảng và Nhà nước dân chủ ra đời, đề ra nhiều đường lối chính trị và xã hội. Do đó, nhu cầu khẳng định chủ quyền, đề cao tiếng nói tập thể càng được chú trọng. Hình ảnh đất nước buổi đầu thành hình, người anh hùng, cuộc kháng chiến của những tâm tư của người cầm bút được phản ánh như những đề tài chính. Có lẽ bởi vậy mà đây là thời kỳ hoàng kim của văn học Việt Nam. Đây là giai đoạn thơ ca phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa, đề ca tiếng nói nội tâm cá nhân trên nền xã hội nhân văn nói chung. Một số nhà thơ tiêu biểu trong giai đoạn này phải kể đến là Nguyễn Khoa Điềm, Nguyên Ngọc, Tố Hữu,...

Giai đoạn thứ hai trong văn học cách mạng bắt đầu từ năm 1955 đến năm 1975. Đây là thời điểm đất nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy đau thương và anh dũng. Bối cảnh hiện thực trở thành phông nền và xuất hiện như một đề tài chính trong thơ văn. Văn học nghệ thuật chịu sự lãnh đạo tư tưởng từ Đảng và Nhà nước. Do đó tiếng nói cá nhân hay những xúc cảm riêng tư ủy mị bị đẩy lùi lại phía sau. Những tác phẩm đề cao cảm xúc yêu đương nam nữ hay phản ánh cái chết trở thành tác phẩm mang tư tưởng không hợp thời, bị lãng quên mãi cho đến khi nhân dân thời hậu chiến chứng tỏ được giá trị của nó. Con người trong thơ văn cách mạng là con người được sử thi hóa, thấm đẫm tư tưởng cộng đồng, đôi khi được phóng đại hoặc lý tưởng hóa. Đó là khuynh hướng sử thi tôn cao tầm vóc người chiến sĩ - người anh hùng hi sinh vì chính nghĩa.

Nền văn học Việt Nam sau cách mạng Tháng tám đến năm 1975 mang những dấu ấn của một thời chiến tranh oanh liệt, trang sử rọi dấu vàng son của đất nước Việt Nam. Trong giai đoạn này, mỗi nhà văn đều là một chiến sĩ, mỗi người dân đều có thể là một nhà văn tạo nên một mô hình mang tính xuyên suốt. Có thể thấy rõ đặc trưng này khác biệt hoàn toàn với văn học trung đại, khi tầng lớp tiếp nhận bị bó hẹp trong một trình độ nhất định, chỉ có bậc tao nhân mặc khách mới đủ trí tuệ để tiếp cận nghệ thuật. Khuynh hướng tư tưởng chủ đạo chính là tư tưởng cách mạng, phục vụ cho mục đích kháng chiến. Cảm hứng lãng mạn và tư tưởng sử thi hòa quyện đầy tính nhân văn - người cầm bút vừa có thể là thi sĩ vừa có thể là chiến sĩ. Người anh hùng có thể mang dáng dấp các vị anh hùng nhưng vẫn mang nặng nỗi đời nỗi người. Đối tượng của văn học cách mạng hướng đến là toàn thể đồng bào công chúng. Giai đoạn 45 - 75 là giai đoạn văn học Việt Nam có nhiều bước phát triển vượt bậc, mang đặc trưng và dấu ấn riêng.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều từng kể một câu chuyện về những người lính cắm chốt ở đùi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngay khi ý thức được mình đang chạm tới ranh giới giữa sinh và tử, những người lính không còn khát cầu phương thức tự vệ hay sự hỗ trợ về vật chất mà chỉ dõng dạc trả lời: “Chúng tôi cần thơ Phạm Tiến Duật”. Đời cần Thơ như cần hồn chiến trận. Thơ là cuộc cách mạng lớn mà người cầm bút như một người chiến sĩ, vừa thay đổi thơ vừa thay đổi đời. 30 năm xã hội Việt Nam chứng kiến nhiều chuyển biến mới trong công cuộc dựng nước và giữ nước, kéo theo đó là 35 vàng son của văn học cách mạng Việt Nam.
Thêm
24
0
0
Viết trả lời...
Liệu em có đến cùng mùa thu không, khi những cơn gió đầu mùa nhè nhẹ thổi? Khi những cánh hoa dại miên man tan theo gió? Khi hương hoa sữa bắt đầu làm cay mũi em? Trung thu này, chúng ta không còn lớn nữa, nhưng đã đủ để hoài niệm lại mùa trăng tròn năm xưa.

Hồi ấy, phố thị xô bồ quá, mẹ cho tôi về quê sống với bà ngoại. Trung thu ở quê mộc mạc có gì cầu kỳ đâu. Mấy đứa trẻ con trong xóm tíu tít đêm nào cũng trốn bố mẹ ra gốc vườn ngắm trăng với nhau. Các cô trong xóm thương lũ trẻ nghèo năm nào cũng ngóng trăng tròn lên. Trung thu này, thôi thì làm một bữa cỗ bé bé cho lũ trẻ phá cỗ. Ăn cơm xong, thế là chạy tụt ra ngõ, chẳng kịp rửa cái miệng tèm lem cá mắm. Chúng nó tụ lại nơi nhà văn hóa xóm. Cái đèn ông sao giấy bọc đỏ làm tàng tàng đứng ở góc trang trọng nhất, làm lũ trẻ cứ cười khành khạch. Mâm cỗ bằng những trái bưởi bòng vỏ xanh, trái cam tròn lẳn, những gói kẹo rẻ tiền nhưng lại là niềm vui tuổi thơ không dễ đánh đổi của đám trẻ. Con Bí cứ hụ hị ôm chặt quả dưa hấu khắc mà tranh giành với thằng Bi. Mấy anh chị giả làm chú Cuội chị Hằng đến phát quà cho lũ trẻ con.

Tôi không còn bé để thích thú với những giấc mơ ngây dại ấy nữa, chỉ đứng một góc trông đám trẻ mà cười thầm trong lòng. Chị Thao, cô chị nhà bên dịu dàng ngồi bên cạnh tôi. Chúng tôi chơi cùng nhau và thân lúc nào không biết. Chiều nào tôi chẳng tuốt sang nhà chị xem chị cho gà, cho bò ăn rồi leo lên đồi hóng gió, như chị em một nhà. Hai đứa im lặng ngửa mặt lên ánh trăng đêm, không ai nói một lời nào. Khung cảnh lúc ấy kì lạ và có chút lãng mạn. Chị cầm bàn tay tròn tròn của tôi, bàn tay chị xương xương thương quá. Chị bảo Sóc lại đây với chị. Chị quàng tay qua vai tôi, mắt long lanh “Đón Trung thu cuối cùng với mấy đứa thôi, ngày kia chị lên thành phố rồi, chả biết bao giờ mới về”. Tôi tưởng chị đùa, chị bảo chị thương bà ngoại lắm mà, sao chị lại bỏ bà mà đi. Mắt chị càng ươn ướt, chị thương bà lắm nhưng bố mẹ chị làm ăn khá giả, không cho chị ở đây nữa em à. Chị lên thành phố kiếm cái chữ. Lúc ấy, chẳng muốn nghĩ gì nhiều, tôi nhào vào lòng chị, hai tay ôm lấy cổ chị.

Ngày hôm sau, chỉ còn một ngày nữa, bố mẹ chị Thao sẽ đón chị lên Thành phố. Sáng hôm ấy, tôi rủ chị lên đồi, để chẳng làm gì cả. Hai chị em im lặng thế mà ngắm đồi, ngắm gió, lòng vẫn bâng khuâng một nỗi gì khó tả. Xế trưa, chị em tôi lại kéo nhau về nhà, chẳng nói với nhau một câu nào. Nói cũng thế thôi.

Thế là chị Thao lên thành phố thật rồi. Chỉ còn mình tôi và lũ trẻ ở lại hoài mong về cái ánh sáng lòa của thành phố.

Ba năm sau, chị Thao theo bố mẹ về thăm bà nội. Ôi! Còn đâu cái vẻ dịu hiền đằm thắm của cô con gái quê ngày xưa nữa. Chị ăn mặc điệu đà hơn, ánh mắt kiêu kỳ khó gần. Xe chị dừng ở đầu cửa nhà bà nội, tôi chạy ra muốn chào chị một tiếng. Chị hờ hững nhìn tôi như người lạ, dừng mắt vài giây rồi quay bước vào nhà. Thế là chị quên tôi rồi. Lũ trẻ trong xóm ghé lại rủ chị ra đồng chơi, nhưng chị chẳng muốn đáp, vẫy vẫy tay phẩy chúng tôi ra ngoài. Từ sau lần ấy, chị chẳng về quê nữa. Chị Thao của ngày trước và chị Thao bây giờ như hai con người trái ngược nhau, dù vẫn là cái tên ấy, nét mặt ấy, hình hài dáng vóc ấy. Ba năm trên thành phố thế mà thay đổi chị đến không ngờ. Vài năm nữa thôi, bố mẹ tôi cũng sẽ đón tôi lên thành phố. Tôi - chị - chúng ta, phải chăng tất cả chúng ta đều không thoát nổi cái cám dỗ khó cưỡng ấy của phố thị để trở thành người vô cảm?
Thêm
39
0
0
Viết trả lời...
Hóa ra, giữa cõi đời hỗn tạp này, tình thương mới là thứ xa xỉ nhất.

Đã lâu lắm, tôi không còn nhìn thấy nụ cười của những người cô bác trong họ hàng. Ông nội mất giữa một ngày giá rét, sau tết chỉ tầm dăm hôm. Hôm ấy, các cô bác tụ họp đông đủ trong nhà để nhìn ông lần cuối. Sau đám tang, họ bắt đầu bàn chuyện chia gia tài của ông để lại. Bác hai đòi căn nhà chính, cô tư đòi mảnh đất sau vườn. Mọi chuyện nhốn nháo, chỉ vì gia tài mà anh em ruột cũng có thể ngoảnh mặt lại với nhau. Mẹ tôi ôm tôi vào lòng, che mắt tôi trước cuộc cãi cọ ngày càng kịch liệt của các cô bác. Hai năm nay, chỉ đến ngày đám giỗ ông bà nội mới thấy đủ mặt. Mỗi người một phương, lấy danh nghĩa “bận” để che đi cái uất ức còn chưa nguôi của ngày chia gia sản. Một mảnh đất đánh đổi lấy tình người - liệu có đáng?

Năm nay, tôi đã lớn, quay trở về nhà ăn đám giỗ với tấm áo sinh viên. Lại là những gương mặt ấy, chỉ khác là họ già đi nhiều quá. Những gương mặt hom hom, gầy gầy, mái tóc điểm bạc gợi cho tôi nhớ đến ông bà năm xưa. Giờ thì họ không còn đủ sức để đấu đá, tranh giành hay cãi cọ nhau nữa rồi. Đời mà, đến một lúc nào đó không thể tranh giành được nữa thì đành phải buông những tranh giành mà thôi. Ngày hôm ấy, những câu chuyện về tiền bạc được cất lẹm đi, mọi người kể cho nhau nghe những buồn vui mưu sinh, những câu chuyện về thuở bé, cái ngày thời “bao cấp” ấy. Những ngày xưa ấy có lẽ giờ đã xa lắm rồi, chẳng còn quay lại được nữa, nhưng điều duy nhất khiến người ta nuối tiếc lại là tình cảm, sự đùm bọc của những con người ngày xưa. Đã lâu lắm, tôi mới thấy một nụ cười nhẹ nhõm hiện lên gương mặt họ, khi một câu chuyện cũ được khơi mở ra.

Cuộc đời này vô thường, nay sống mai đã trôi thành hạt cát dĩ vãng, chẳng ai nói trước điều gì. Vì một đồng bạc lạnh mà quay lưng với nhau, từ chối cả hai tiếng “tình người” và quên cả những ngày khốn khó bên nhau - liệu có để lại gì? Tay ai giữ được khói trời? Tay ai đem theo được hư vinh thuở còn sống về với mặt đất đâu? Đấu đá tranh giành, đến lúc dừng lại thôi.
Thêm
34
0
0
Viết trả lời...
Tôi là ngọn lửa. Ngọn lửa là hình ảnh biểu tượng của tất cả những gì đẹp đẽ nhất, rực rỡ và chói lòa, là khi con người thực sự đốt cháy chính mình để sống với đam mê, ước mơ. Ngọn lửa có thể rực sáng trong mọi giai đoạn và thời điểm, nhưng thường chói sáng mạnh mẽ nhất là khi con người còn trẻ, dám khát khao, dám hoài bão và dám SỐNG. Cảm giác được đắm mình trong ngọn lửa ấy là một cảm giác xa xỉ của tuổi trẻ, bởi không phải ai cũng rực rỡ hết mình, rút cạn tinh lực cho một lần cháy. Thực chất, mỗi chúng ta đều là một tia lửa được đời thắp sáng, nhưng quyết định “sáng” hay không đều là do chúng ta. Được tỏa sáng là cơ hội để ta được sống hết mình với niềm khao khát cá nhân. Ngọn lửa sẽ trở thành động cơ, động lực thúc đẩy chúng ta hướng về phía trước. Thời gian không còn nhiều, không dám cháy lên thì sẽ có một ngày ôm mộng mà nuối tiếc. Bởi vậy, NGỌN LỬA là minh chứng cho tất cả những gì rực rỡ nhất mà người ta luôn khát khao. Điều quan trọng khiến người ta không dám cháy lên chính là bởi họ sợ mình sẽ trở thành tro tàn. Nhưng có ai hiểu được rằng “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu). Tôi là ngọn lửa, cháy hết mình với không gian và thời gian để đem lại ánh sáng cho đời. Một ngày mai, khi ánh sáng vụt tắt, tôi sẽ trở lại là tro tàn u tối.

Tôi là tro tàn. Tro tàn là hình ảnh biểu tượng của sự tàn lụi, kết thúc, khi tất cả những gì đẹp đẽ nhất đã đi vào quên lãng, chỉ còn lại quá khứ đầy tiếc nuối. Tro tàn chỉ trồi lên khi ngọn lửa nhiệt huyết đã vụt tắt, đem theo ký ức của cả một thời đẹp đẽ trôi vào dĩ vãng. Người ta ghét tro tàn, nhưng đâu biết ý nghĩa của nó lớn như thế. Tro tàn là cách ta hoài niệm, nhung nhớ quá khứ, để ta không bội nghĩa với quá khứ đã làm nên mình, để ta biết yêu sự rực rỡ. Hình ảnh của nó cho ta biết rằng đã đến lúc mình cần phải nghỉ ngơi rồi. Đôi khi, tro tàn không phải là kết thúc mãi mãi. Chỉ còn một đốm lửa còn le lói, lửa sáng sẽ lại phực lên. Kết thúc - tro tàn khiến ta biết chấp nhận lẽ vô thường ở đời. Cảm giác được là tro tàn hoài niệm về những ngày mình đã rút cạn tinh lực rất huy hoàng, cho phép ta được tự hào về chính mình. Đôi khi, cái kết thúc u tàn lại khiến người ta khao khát được “cháy” một lần nữa, chỉ cần trong phút chốc. Tôi là tro tàn, là sự kết thúc điêu linh của tất cả những gì rực rỡ nhất.

“Tôi là tro tàn của thời đại, là ngọn lửa của tương lai”. Chúng ta đều là hiện thân của những gì còn sót lại trong quá khứ. Con người hôm nay ảnh hưởng bởi con người hôm trước những phong tục tập quán, lề lối sống và quan niệm sống. Những quan điểm của thời đại trước đã ảnh hưởng và chi phối chúng ta. Dẫu rằng, thời kỳ truyền thống bắt đầu phai nhạt, mở đầu cho kỉ nguyên vươn mình rộng mở nhưng chúng ta vẫn là hiện thân của một quá khứ xưa cũ, là dấu ấn cho một thời kỳ đẹp đẽ đã trôi vào dĩ vãng. Nhưng chúng ta, cũng là ngọn lửa của ngày mai. Chúng ta đang sống vì lẽ sống của hiện tại. Tất cả những gì ta đang làm đều thắp sáng hy vọng cho tương lai, khởi nguyên của những ngày sau cho hậu thế. Con người sống trong tổng hòa các không thời gian. Do đó, họ vừa là tro tàn của quá khứ, vừa là đốm lửa của tương lai. Tro tàn, hay đốm lửa, quan trọng là ta đã từng “cháy”.
Thêm
36
0
0
Viết trả lời...
Từ năm 1975 đến nay, văn học Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển theo bước đi của xã hội hiện đại. Thời đại mới, con người mới cũng kéo theo những đặc trưng rất khác trong các tác phẩm ở thời kỳ này. Văn học hiện đại cho phép con người được thể hiện cá tính riêng một cách rõ ràng, có sự phân hóa và phân biệt giọng văn, tạo không gian để những cá tính riêng được bộc lộ.

Văn học hiện đại vận động theo hướng dân chủ hóa. Xã hội bước vào thời kỳ xã hội chủ nghĩa, tập trung vào dân quyền và tính dân chủ của con người. Do đó, tính dân chủ cũng trở thành xu hướng vận động bao trùm trong văn học. Tiếng nói cá nhân được bộc lộ rõ nét hơn, phơi bày được những góc khuất của xã hội và dám đấu tranh vì quyền lợi của mỗi cá nhân. Dân chủ hóa đã thấm sâu vào tư tưởng của con người, đi sâu vào từng cấp độ văn học, từ đó nhìn thẳng vào sự thật. Trước đây, nếu văn học cách mạng chỉ tập trung phục vụ kháng chiến và những mục đích lớn lao của dân tộc thì văn học hiện đại lại quan tâm hơn đến những cảm xúc cá nhân của con người, đôi khi mang phần ủy mị. Trong một nền văn học hướng tới tinh thần dân chủ, đòi hỏi và có thể thừa nhận tư tưởng riêng, tư tưởng của nhà văn phải thấm đẫm tư tưởng nhân văn và hòa chung vào với tư tưởng của loài người. Tính dân chủ trong văn chương thể hiện ở khả năng người cầm bút có thể tự do lựa chọn chủ đề, đề tài, những khía cạnh biểu hiện và thế giới hình tượng. Song song với đó, mối quan hệ đa chiều giữa người viết và người đọc cũng bộc lộ rõ tính dân chủ.

Văn học hiện đại giai đoạn này thể hiện rõ ý thức cá nhân bao trùm trên cơ sở tinh thần nhân bản. Người nghệ sĩ giai đoạn này hiểu rõ trách nhiệm của mình trong việc phản ánh thế giới, nhìn thẳng vào những góc u tối và trần trụi của xã hội đương thời. Nghệ sĩ chân chính là người dám đối diện với hiện thực, dám phơi bày bản chất xã hội, không dừng lại trước cái ác và những thế lực đen tối. Dừng lại hay quy hàng trước mọi thế lực thì cũng chỉ là những nhà văn “máu cá” như Nguyễn Minh Châu đã phê bình. Trên cơ sở của tinh thần nhân bản, mọi tác phẩm văn học đều phải hướng tới ý nghĩa, góp phần xây dựng con người, làm đầy phần con bên trong mỗi người.

Đặc biệt, văn học giai đoạn năm 75 đến nay phát triển rất phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại. Ở thời kỳ hậu chiến, những mối quan hệ được mở rộng, con người có nhiều vấn đề suy tư và lo lắng. Khi đó, mỗi bận tâm không phải chỉ là mục đích chung của toàn dân tộc mà còn là những xúc cảm rất riêng tư của mỗi con người. Đôi lúc chỉ là “một ánh mắt”, “một cơn giận”, một tháng ngập ngừng trong cái bắt tay cũng có thể trở thành đề tài được văn học quan tâm phản ánh.

Văn học 75 - nay là nền văn học sau thời kỳ chiến tranh, gắn liền với cuộc sống hiện đại. Do đó mà những tính chất của văn học thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, tập trung vào những suy nghĩ cá nhân của con người trong thời kỳ hiện đại. Con người bắt đầu có cái tôi, có suy nghĩ mạnh mẽ và hơn hết là dám đấu tranh cho chính mình.
Thêm
27
0
0
Viết trả lời...