1.4. Hình tượng người nông dân
Không phải ngẫu nhiên mà người đọc gọi Bunin là nhà văn của nông thôn Nga. Nếu như Êxênhin được mệnh danh là “nhà thơ cuối cùng của đồng ruộng Nga” thì Bunin lại thành công khi viết về thể loại truyện ngắn . Vốn sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nga tươi đẹp, hẳn Bunin phải là người am hiểu rất rõ về đời sống, con người Nga, trong đó phải kể tới những người nông dân nghèo nhưng hiền lành, chất phác.
Với truyện ngắn Meliton, nhà văn đã phác thảo được chân dung của người nông dân Nga độc thân, cô đơn trong khu rừng già với “đôi mắt màu xanh lam mờ nhạt, vóc người bác to cao, thân hình bác gày gò, xương xẩu. Cặp lông mày rậm, xám, và cả bộ ria màu xám tua tủa lan ra cả hai bên má giống như người để râu quai nón, tất cả đều khiến bác có vẻ khắc nghiệt” [4, tr.40]. Nhưng cuộc sống của bác lại là cuộc sống hiền lành, ẩn dật được thể hiện qua chi tiết: “ Thế nhưng cái đầu hói, cặp mắt màu ngọc lam và chiếc áo sơ mi nông dân sạch sẽ của bác thường xuyên cho thấy bất kỳ lúc nào bác cũng sẵn sàng lăn mình “dưới các tượng thánh” [4, tr. 40]. Ngay từ ngoại hình đã khiến người đọc thấy được sự cô đơn, khổ cực của một người đàn ông không vợ, không con cái. Cô đơn cùng cực là thế, nhưng lúc nào bác cũng tỏ ra bình thản để cố giấu nỗi buồn và người nông dân ấy đã sống một cuộc đời thanh bạch, giản dị, nghèo nàn.
Khác với truyện ngắn Meliton, truyện ngắn Cỏ gày đã thể hiện được đời sống nội tâm phong phú và những khát vọng của nhân vật. Ngay từ những dòng mở đầu, Bunin đã khắc họa được hình ảnh một người nông dân nghèo khổ, phải đi làm thuê làm mướn ngay cả khi ốm đau bệnh tật. Vẻ khắc khổ được thể hiện ngay từ ngoại hình : “rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói chung to nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt”; “đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, ươn ướt, bộ râu đang ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gày rộc” [4, tr.116]. Trong khi đấu tranh để giành giật sự sống, bác nông dân Averki đã trôi dòng kí ức: “Ở lưng trời trong vắt, một vằng trăng khuyết mảnh như sợi chỉ lung linh trên khoảng đồng bằng thoai thoải đen ngòm bên kia sông. Ở thôn xóm xa xa, các cô gái đang véo von, ngân dài giọng hát một bài ca tán tụng cổ xưa” [4, tr.124]. Tất cả đã làm tăng nghị lực sống của bác nông dân yếu ớt đang phải đối mặt với cái chết.
Bunin đã khắc họa thành công những người nông dân nghèo khổ nhưng hồn nhiên và đôn hậu. Hai nhân vật Meliton và Averki qua ngòi bút của Bunin đã trở nên sống động trong trí tưởng tượng của người đọc, họ biểu tượng cho con người Nga, tâm hồn Nga, nghị lực của họ đã chiến thắng mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
1.5. Hình tượng những con người nhỏ bé
Con người nhỏ bé là tầng lớp dưới đáy xã hội, là sản phẩm, đồng thời là nạn nhân của xã hội mà chế độ phong kiến bị chủ nghĩa tư bản lấn át. Viết về hình tượng những con người nhỏ bé không còn là điều xa lạ đối với Bunin. Trong nền văn học Nga, không chỉ có Bunin, mà Puskin, A. Chekhov cũng dành sự quan tâm của mình đối với hình tượng những con người nhỏ bé. Bunin viết về những thân phận nhỏ bé, yếu ớt và ít có tiếng nói trong xã hội. Mặc dù ông dành cho họ sự nâng niu, trân trọng, xót xa, nhưng đó không phải sự thương xót đơn thuần. Nhà văn không chỉ nhận thấy được những thiệt thòi, khổ đau của nhân vật mà còn thấy được vẻ đẹp ẩn giấu sau vẻ ngoài xù xì, lặng lẽ của họ.
Trong truyện ngắn Meliton, nhà văn đã xây dựng nên một con người buồn bã, cô đơn, lặng lẽ và đáng thương: “Bác làm ngay ra vẻ bình thản, dường như để cố giấu nỗi buồn thường có trong đôi mắt xanh lam mờ nhạt của mình”[4,tr.40]. Nỗi đau của bác Meliton là nỗi đau của một kẻ cô đơn khi sống một mình. Nỗi đau ấy được thể hiện qua “đôi gò má nhăn nheo”, “đôi mí mắt sụp xuống” và nỗi đau ấy còn ẩn giấu qua tiếng thở dài, trong hình ảnh “đầu cúi xuống, từ tốn vò dúm thuốc lá”, trong giọng hát “nghe buồn rượi” của nhân vật. Bác là một người cô đơn, cả cuộc đời chỉ quẩn quanh chăm sóc mảnh rừng cho điền chủ với sự lễ phép và cung phụng. Nhà văn không đi sâu vào cuộc sống, vào thân phận nghèo hèn của bác, mà nhà văn hướng người đọc về quá khứ, thấy được thời gian trong quá khứ cũng như sự hoài niệm của nhân vật qua những lời kể đứt đoạn, bình thản của nhân vật về quá khứ: “Trước cũng có vợ, nhưng lâu rồi, chả nhớ được ; “Cũng có cả con cái nữa đấy ạ, mà Chúa cũng đã đem chúng đi từ hồi nào ấy rồi..”[4,tr.41]. Quãng thời gian trong quá khứ của bác Meliton còn được thể hiện qua lời hát than thở về những khu vườn xanh tươi, về mối tình xưa, những vòng hoa tết không biết để cho ai. Những chi tiết trên đã hé mở cuộc sống trong quá khứ của bác Meliton, hé mở cho người đọc thấy được đời sống nội tâm phong phú của nhân vật ẩn dưới lớp vỏ lặng lẽ, đơn giản của bác. Chỉ với những chi tiết đó thôi cũng đủ thấy phải có một trái tim biết trân trọng những giá trị tâm hồn mới khơi ra được những vẻ đẹp ẩn giấu nơi những kiếp người nhỏ bé như bác Meliton trong truyện ngắn cùng tên.
Với Cỏ gày, đọc truyện ngắn này, ta thấy hình tượng con người nhỏ bé là hình tượng duy nhất và xuyên suốt truyện. Ngay tiêu đề và đề từ đã cho ta phần nào thấy được dụng ý của nhà văn: “Cỏ gày thì bay khỏi bãi”. Từ những dòng mở đầu truyện, nhà văn đã khắc họa hình ảnh bác Averki - một người nông dân nghèo khổ, sức khỏe không tốt nhưng vẫn phải đi làm thuê. Vẻ khắc khổ được thể hiện ngay ở ngoại hình nhân vật: “Người bác to cao và cục mịch: rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói chung to nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt” [4, tr.116]; “Đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, ươn ướt, bộ râu ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gày guộc” [4, tr.116]. Ngay từ vẻ bề ngoài đã cho thấy cái nghèo khổ của người nông dân lam lũ, ốm đau bệnh tật nhưng vẫn phải đi làm thuê làm mướn kiếm sống. Qua đó cũng cho thấy vẻ yếu ớt, bạc nhược xuất phát từ thân phận những con người nhỏ bé không có tiếng nói trong xã hội. Tại sao lại có sự trái ngược trong ngoại hình của bác Averki: “cái vẻ cục mịch nơi đồng ruộng ấy lại được kết hợp với cái vẻ đáng mến của bác”[4, tr.116]. Tất nhiên, đó không phải là Bunin vô tình nhấn mạnh mà đó là dụng ý của nhà văn. Cách hành xử của nhân vật cũng có sự mâu thuẫn ai bảo gì cũng làm mặc dù bản thân có ý kiến riêng của mình. Điều đó có nghĩa dường như chính thân phận cơ cực, nghèo khổ đã đẩy bác đến chỗ nhẫn nhục và bất lực , bởi bác sinh ra vốn không hề bạc nhược, yếu hèn, chính hoàn cảnh đã thay đổi bác nông dân ấy.
Cảm giác của người đọc từ đầu tới cuối truyện là sự xót xa. Những ngày tháng ốm đau bệnh tật lại là thời gian để bác nhìn lại cuộc đời mình, nghĩ về những người thân yêu nhất. Cuộc đời của bác cũng dần được hé mở. Một số kỉ niệm đẹp cũng xuất hiện với mật độ thưa thớt nhưng nó không đủ xoa dịu thực tế cay đắng mà nó như nhấn sâu thêm thực tế cay đắng cũng như dài liên miên trong những ngày vất vả của cuộc đời. Những kỉ niệm đẹp đó dường như đã trở thành những thứ đồ quý hiếm mà bác nâng niu, trân trọng và lặp đi lặp lại trong cuộc đời đến phút cuối. Người nông dân ấy, ngay cả khi cái chết cận kề vẫn lo lắng chuyện miếng ăn, mà nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của bác cũng là miếng ăn: “Những nỗi gian lao cuối cùng trước khi chết đã đến với bác, nhưng dù sao bác cũng vẫn cố không để mất những món ăn ngọt ấy khi bác lê bước tới căn nhà gỗ này”[4, tr.117]. Cuộc sống của những người nông dân nghèo đói luôn là như vậy, họ luôn phải lo lắng đủ điều, từ miếng cơm, đến những bộ quần áo hay những chi tiêu khác. Tưởng như sự lo lắng không bao giờ rời bỏ bác bởi cuộc sống khổ cực bắt bác phải lo cả cái điều: “Nếu mau mau chóng chóng mà chết, thì dĩ nhiên chẳng có gì phải suy nghĩ nữa rồi. Thế nhưng ngộ nhỡ chưa chết ngay thì sao?” [4, tr.119].
Cuộc sống khó khăn, ốm đau bệnh tật đeo bám, nhưng cuộc đời còn đem đến cho bác một bất hạnh nữa đó chính là việc chứng kiến sự ích kỉ, thô lỗ, phóng đãng của chàng rể. Cả cuộc đời bác chỉ có vợ và con gái là hai người thân yêu nhất. Nhưng khi đối diện với cái chết, bác lại trở nên cô độc bởi những người xung quanh bỏ quên bác, càng buồn tủi hơn khi vào thời điểm bác từ giã cuộc đời thì cô con gái không ở bên cạnh bác mà cô còn bận đi dự lễ đính hôn của một người bạn còn vợ của bác cũng không biết gì cả. Đó là nỗi bất hạnh của một con người sống khổ cực cả một đời nhưng khi chết vẫn cô độc không ai bên cạnh, kể cả những người thân yêu nhất cũng không có mặt. Những bất hạnh trong cuộc đời đói nghèo, cơ cực, cô độc khiến cái chết của bác trở nên nhẹ nhàng hơn bao giờ hết. Bác Averki là biểu tượng cho nỗi bất hạnh của những con người nhỏ bé, sự bất hạnh được tái hiện cụ thể qua một con người tồn tại có thực.
Mặc dù hình tượng những con người nhỏ bé xuất hiện không nhiều nhưng nó cũng đủ tạo nên một dấu ấn đặc trưng. Xuất hiện trong những truyện ngắn của I. Bunin là những con người có cuộc đời bất hạnh nhưng ở họ vẫn thấp thoáng những kỉ niệm tươi đẹp, nội tâm phong phú, một tấm lòng chân thành và một trái tim nhân hậu. Hình tượng này đã góp phần thể hiện rõ khuynh hướng sáng tác của Bunin.
1.6. Hình tượng quý tộc nhỏ sa sút
I.Bunin xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhỏ sa sút, bởi thế ông có những trải nghiệm về cuộc sống của tầng lớp này. Khi ông còn nhỏ, gia đình của ông cũng phải quay về một vùng quê ở Orlov. Ông lớn lên giữa nghèo khó, thiếu thốn cũng như những kỷ niệm, dấu vết về một quá khứ vàng son của gia đình. Nỗi buồn, sự hối tiếc và cả nỗi đau khi chứng kiến gia đình, ngôi làng của mình ngày càng cạn kiệt và đổ nát là những cảm xúc rất thật mà nhà văn đã trải qua.Trong những truyện ngắn của Bunin, hình tượng quý tộc nhỏ sa sút không xuất hiện thường xuyên và nổi bật như hình tượng người phụ nữ; không khiến người đọc cảm thấy xót thương như hình tượng những con người nhỏ bé. Nhưng hình tượng này lại là hình tượng đem lại giá trị hiện thực rất rõ nét. Dưới ngòi bút của Bunin, tầng lớp này được khắc họa khá đậm nét khi đang sống trong nỗi lo bị phá sản.
Hình ảnh điền chủ, quý tộc nhỏ sa sút gắn với khung cảnh của những trang trại xơ xác, tiêu điều. Khung cảnh ấy là khung cảnh còn xót lại của một quá khứ tươi đẹp: “cổng lò rèn và kho chứa củi, vựa thóc và chuồng ngựa, đều đã mở tan hoang: đâu đâu cũng đều trống rỗng, trơ trụi; trong sân cũng thảy đều hết sạch trơn cả rồi” [3, tr.119]; “Giấy đã phai, đã bạc màu, nhưng còn mang nhiều hình bầu dục, hình vuông sâm. Căn buồng này trước đây bao giờ cũng treo các ảnh in trên kim loại và vài bức tranh khắc cổ kính nho nhỏ và ở một góc buồng là những tượng thánh” [3, tr.120]. Trong không gian ấy, chân dung người điền chủ được khắc họa méo mó, thảm hại, ngay từ ngoại hình: “bộ mặt ngăm đen, nặng trịch, một bộ mặt đầy những đường hằn và những vết nhăn hằn học, với bộ ria nhuộm màu xanh đen; đôi mắt long lanh một cách khắc nghiệt”[3, tr.121] và cả tâm hồn cũng trở nên méo mó vì sự giận dữ, hận thù vô cớ: “Voeikov lấy gậy phang vào một khung cửa sổ rồi phang sang chiếc khác..Kính vỡ rơi loảng xoảng”[3, tr.120]. Ở đây, ta thấy hành động ra lệnh xử tử lũ chó là đỉnh cao của sự tức giận. Bên cạnh đó, ta thấy hình ảnh lũ chó giãy giụa, chống chọi được ví như sự giãy chết của tầng lớp này. Cái kết dành cho chúng đau đớn đến tuyệt vọng: “con chó bị lôi hẫng hai chân sau lên co giật và quằn quại hai chân trước, cố níu lấy đám đất lổn nhổn (...) cái lưỡi tím đen của nó thè ra, mặt nó nhăn nhó để lộ ra hai hàng lợi màu san hô, ánh nắng ban ngày phản chiếu trong cặp mắt màu nho lờ đờ của nó đã bắt đầu mờ mịt đi” [3, tr.124]. Và rút ra những kết luận: “Chó thì cũng như người, người hơn chó nhiều mà còn bị xử tử nữa là” [3, tr.125]. Như vậy có thể thấy hình tượng quý tộc nhỏ sa sút này chính là hiện thân của một kẻ hết thời, khánh kiệt, phải từ bỏ vị thế của mình và phải bán đi mảnh đất cha ông để lại. Quá khứ lừng lẫy đã khép lại.
Tiểu kết
I.Bunin là nhà văn đem lại sự đổi mới cho thể loại truyện ngắn nước Nga, mỗi truyện ngắn của ông vừa là một áng văn xuôi vừa là một bài thơ. Những nhân vật trong truyện ngắn của Bunin được nhìn nhận và tiếp cận từ những giá trị tinh thần. Dù không được đặt vào những tình tiết hay sự kiện hấp dẫn, những bi kịch lớn, nhưng không vì thế mà nhân vật trong truyện ngắn của ông mờ nhạt, những nhân vật ấy được khắc họa rõ nét khiến cho người đọc hiểu hơn về con người Nga , tâm hồn Nga.
Những nhân vật xuất hiện nhiều lần, lặp đi lặp lại, đó là nhân vật người phụ nữ, nhân vật người nông dân, nhân vật những con người nhỏ bé. Họ được nhà văn xây dựng nên không chỉ đơn thuần là nhân vật trong truyện, mà nó được nhà văn biến thành những biểu tượng. Bên cạnh đó, Bunin còn vẽ nên bức tranh thiên nhiên Nga chỉ còn trong kí ức khiến cho người đọc mặc dù chưa từng được đặt chân đến mảnh đất Nga cũng có thể hình dung ra được những nét đẹp về thiên nhiên trên vùng đất này.
Qua việc xây dựng những hình tượng con người, hình tượng thiên nhiên, ta thấy được tài năng của một nhà văn hiện thực, ông đã cho người đọc thấy được hiện thực xã hội Nga cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX qua các trang văn của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà người đọc gọi Bunin là nhà văn của nông thôn Nga. Nếu như Êxênhin được mệnh danh là “nhà thơ cuối cùng của đồng ruộng Nga” thì Bunin lại thành công khi viết về thể loại truyện ngắn . Vốn sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nga tươi đẹp, hẳn Bunin phải là người am hiểu rất rõ về đời sống, con người Nga, trong đó phải kể tới những người nông dân nghèo nhưng hiền lành, chất phác.
Với truyện ngắn Meliton, nhà văn đã phác thảo được chân dung của người nông dân Nga độc thân, cô đơn trong khu rừng già với “đôi mắt màu xanh lam mờ nhạt, vóc người bác to cao, thân hình bác gày gò, xương xẩu. Cặp lông mày rậm, xám, và cả bộ ria màu xám tua tủa lan ra cả hai bên má giống như người để râu quai nón, tất cả đều khiến bác có vẻ khắc nghiệt” [4, tr.40]. Nhưng cuộc sống của bác lại là cuộc sống hiền lành, ẩn dật được thể hiện qua chi tiết: “ Thế nhưng cái đầu hói, cặp mắt màu ngọc lam và chiếc áo sơ mi nông dân sạch sẽ của bác thường xuyên cho thấy bất kỳ lúc nào bác cũng sẵn sàng lăn mình “dưới các tượng thánh” [4, tr. 40]. Ngay từ ngoại hình đã khiến người đọc thấy được sự cô đơn, khổ cực của một người đàn ông không vợ, không con cái. Cô đơn cùng cực là thế, nhưng lúc nào bác cũng tỏ ra bình thản để cố giấu nỗi buồn và người nông dân ấy đã sống một cuộc đời thanh bạch, giản dị, nghèo nàn.
Khác với truyện ngắn Meliton, truyện ngắn Cỏ gày đã thể hiện được đời sống nội tâm phong phú và những khát vọng của nhân vật. Ngay từ những dòng mở đầu, Bunin đã khắc họa được hình ảnh một người nông dân nghèo khổ, phải đi làm thuê làm mướn ngay cả khi ốm đau bệnh tật. Vẻ khắc khổ được thể hiện ngay từ ngoại hình : “rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói chung to nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt”; “đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, ươn ướt, bộ râu đang ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gày rộc” [4, tr.116]. Trong khi đấu tranh để giành giật sự sống, bác nông dân Averki đã trôi dòng kí ức: “Ở lưng trời trong vắt, một vằng trăng khuyết mảnh như sợi chỉ lung linh trên khoảng đồng bằng thoai thoải đen ngòm bên kia sông. Ở thôn xóm xa xa, các cô gái đang véo von, ngân dài giọng hát một bài ca tán tụng cổ xưa” [4, tr.124]. Tất cả đã làm tăng nghị lực sống của bác nông dân yếu ớt đang phải đối mặt với cái chết.
Bunin đã khắc họa thành công những người nông dân nghèo khổ nhưng hồn nhiên và đôn hậu. Hai nhân vật Meliton và Averki qua ngòi bút của Bunin đã trở nên sống động trong trí tưởng tượng của người đọc, họ biểu tượng cho con người Nga, tâm hồn Nga, nghị lực của họ đã chiến thắng mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
1.5. Hình tượng những con người nhỏ bé
Con người nhỏ bé là tầng lớp dưới đáy xã hội, là sản phẩm, đồng thời là nạn nhân của xã hội mà chế độ phong kiến bị chủ nghĩa tư bản lấn át. Viết về hình tượng những con người nhỏ bé không còn là điều xa lạ đối với Bunin. Trong nền văn học Nga, không chỉ có Bunin, mà Puskin, A. Chekhov cũng dành sự quan tâm của mình đối với hình tượng những con người nhỏ bé. Bunin viết về những thân phận nhỏ bé, yếu ớt và ít có tiếng nói trong xã hội. Mặc dù ông dành cho họ sự nâng niu, trân trọng, xót xa, nhưng đó không phải sự thương xót đơn thuần. Nhà văn không chỉ nhận thấy được những thiệt thòi, khổ đau của nhân vật mà còn thấy được vẻ đẹp ẩn giấu sau vẻ ngoài xù xì, lặng lẽ của họ.
Trong truyện ngắn Meliton, nhà văn đã xây dựng nên một con người buồn bã, cô đơn, lặng lẽ và đáng thương: “Bác làm ngay ra vẻ bình thản, dường như để cố giấu nỗi buồn thường có trong đôi mắt xanh lam mờ nhạt của mình”[4,tr.40]. Nỗi đau của bác Meliton là nỗi đau của một kẻ cô đơn khi sống một mình. Nỗi đau ấy được thể hiện qua “đôi gò má nhăn nheo”, “đôi mí mắt sụp xuống” và nỗi đau ấy còn ẩn giấu qua tiếng thở dài, trong hình ảnh “đầu cúi xuống, từ tốn vò dúm thuốc lá”, trong giọng hát “nghe buồn rượi” của nhân vật. Bác là một người cô đơn, cả cuộc đời chỉ quẩn quanh chăm sóc mảnh rừng cho điền chủ với sự lễ phép và cung phụng. Nhà văn không đi sâu vào cuộc sống, vào thân phận nghèo hèn của bác, mà nhà văn hướng người đọc về quá khứ, thấy được thời gian trong quá khứ cũng như sự hoài niệm của nhân vật qua những lời kể đứt đoạn, bình thản của nhân vật về quá khứ: “Trước cũng có vợ, nhưng lâu rồi, chả nhớ được ; “Cũng có cả con cái nữa đấy ạ, mà Chúa cũng đã đem chúng đi từ hồi nào ấy rồi..”[4,tr.41]. Quãng thời gian trong quá khứ của bác Meliton còn được thể hiện qua lời hát than thở về những khu vườn xanh tươi, về mối tình xưa, những vòng hoa tết không biết để cho ai. Những chi tiết trên đã hé mở cuộc sống trong quá khứ của bác Meliton, hé mở cho người đọc thấy được đời sống nội tâm phong phú của nhân vật ẩn dưới lớp vỏ lặng lẽ, đơn giản của bác. Chỉ với những chi tiết đó thôi cũng đủ thấy phải có một trái tim biết trân trọng những giá trị tâm hồn mới khơi ra được những vẻ đẹp ẩn giấu nơi những kiếp người nhỏ bé như bác Meliton trong truyện ngắn cùng tên.
Với Cỏ gày, đọc truyện ngắn này, ta thấy hình tượng con người nhỏ bé là hình tượng duy nhất và xuyên suốt truyện. Ngay tiêu đề và đề từ đã cho ta phần nào thấy được dụng ý của nhà văn: “Cỏ gày thì bay khỏi bãi”. Từ những dòng mở đầu truyện, nhà văn đã khắc họa hình ảnh bác Averki - một người nông dân nghèo khổ, sức khỏe không tốt nhưng vẫn phải đi làm thuê. Vẻ khắc khổ được thể hiện ngay ở ngoại hình nhân vật: “Người bác to cao và cục mịch: rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói chung to nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt” [4, tr.116]; “Đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, ươn ướt, bộ râu ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gày guộc” [4, tr.116]. Ngay từ vẻ bề ngoài đã cho thấy cái nghèo khổ của người nông dân lam lũ, ốm đau bệnh tật nhưng vẫn phải đi làm thuê làm mướn kiếm sống. Qua đó cũng cho thấy vẻ yếu ớt, bạc nhược xuất phát từ thân phận những con người nhỏ bé không có tiếng nói trong xã hội. Tại sao lại có sự trái ngược trong ngoại hình của bác Averki: “cái vẻ cục mịch nơi đồng ruộng ấy lại được kết hợp với cái vẻ đáng mến của bác”[4, tr.116]. Tất nhiên, đó không phải là Bunin vô tình nhấn mạnh mà đó là dụng ý của nhà văn. Cách hành xử của nhân vật cũng có sự mâu thuẫn ai bảo gì cũng làm mặc dù bản thân có ý kiến riêng của mình. Điều đó có nghĩa dường như chính thân phận cơ cực, nghèo khổ đã đẩy bác đến chỗ nhẫn nhục và bất lực , bởi bác sinh ra vốn không hề bạc nhược, yếu hèn, chính hoàn cảnh đã thay đổi bác nông dân ấy.
Cảm giác của người đọc từ đầu tới cuối truyện là sự xót xa. Những ngày tháng ốm đau bệnh tật lại là thời gian để bác nhìn lại cuộc đời mình, nghĩ về những người thân yêu nhất. Cuộc đời của bác cũng dần được hé mở. Một số kỉ niệm đẹp cũng xuất hiện với mật độ thưa thớt nhưng nó không đủ xoa dịu thực tế cay đắng mà nó như nhấn sâu thêm thực tế cay đắng cũng như dài liên miên trong những ngày vất vả của cuộc đời. Những kỉ niệm đẹp đó dường như đã trở thành những thứ đồ quý hiếm mà bác nâng niu, trân trọng và lặp đi lặp lại trong cuộc đời đến phút cuối. Người nông dân ấy, ngay cả khi cái chết cận kề vẫn lo lắng chuyện miếng ăn, mà nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của bác cũng là miếng ăn: “Những nỗi gian lao cuối cùng trước khi chết đã đến với bác, nhưng dù sao bác cũng vẫn cố không để mất những món ăn ngọt ấy khi bác lê bước tới căn nhà gỗ này”[4, tr.117]. Cuộc sống của những người nông dân nghèo đói luôn là như vậy, họ luôn phải lo lắng đủ điều, từ miếng cơm, đến những bộ quần áo hay những chi tiêu khác. Tưởng như sự lo lắng không bao giờ rời bỏ bác bởi cuộc sống khổ cực bắt bác phải lo cả cái điều: “Nếu mau mau chóng chóng mà chết, thì dĩ nhiên chẳng có gì phải suy nghĩ nữa rồi. Thế nhưng ngộ nhỡ chưa chết ngay thì sao?” [4, tr.119].
Cuộc sống khó khăn, ốm đau bệnh tật đeo bám, nhưng cuộc đời còn đem đến cho bác một bất hạnh nữa đó chính là việc chứng kiến sự ích kỉ, thô lỗ, phóng đãng của chàng rể. Cả cuộc đời bác chỉ có vợ và con gái là hai người thân yêu nhất. Nhưng khi đối diện với cái chết, bác lại trở nên cô độc bởi những người xung quanh bỏ quên bác, càng buồn tủi hơn khi vào thời điểm bác từ giã cuộc đời thì cô con gái không ở bên cạnh bác mà cô còn bận đi dự lễ đính hôn của một người bạn còn vợ của bác cũng không biết gì cả. Đó là nỗi bất hạnh của một con người sống khổ cực cả một đời nhưng khi chết vẫn cô độc không ai bên cạnh, kể cả những người thân yêu nhất cũng không có mặt. Những bất hạnh trong cuộc đời đói nghèo, cơ cực, cô độc khiến cái chết của bác trở nên nhẹ nhàng hơn bao giờ hết. Bác Averki là biểu tượng cho nỗi bất hạnh của những con người nhỏ bé, sự bất hạnh được tái hiện cụ thể qua một con người tồn tại có thực.
Mặc dù hình tượng những con người nhỏ bé xuất hiện không nhiều nhưng nó cũng đủ tạo nên một dấu ấn đặc trưng. Xuất hiện trong những truyện ngắn của I. Bunin là những con người có cuộc đời bất hạnh nhưng ở họ vẫn thấp thoáng những kỉ niệm tươi đẹp, nội tâm phong phú, một tấm lòng chân thành và một trái tim nhân hậu. Hình tượng này đã góp phần thể hiện rõ khuynh hướng sáng tác của Bunin.
1.6. Hình tượng quý tộc nhỏ sa sút
I.Bunin xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhỏ sa sút, bởi thế ông có những trải nghiệm về cuộc sống của tầng lớp này. Khi ông còn nhỏ, gia đình của ông cũng phải quay về một vùng quê ở Orlov. Ông lớn lên giữa nghèo khó, thiếu thốn cũng như những kỷ niệm, dấu vết về một quá khứ vàng son của gia đình. Nỗi buồn, sự hối tiếc và cả nỗi đau khi chứng kiến gia đình, ngôi làng của mình ngày càng cạn kiệt và đổ nát là những cảm xúc rất thật mà nhà văn đã trải qua.Trong những truyện ngắn của Bunin, hình tượng quý tộc nhỏ sa sút không xuất hiện thường xuyên và nổi bật như hình tượng người phụ nữ; không khiến người đọc cảm thấy xót thương như hình tượng những con người nhỏ bé. Nhưng hình tượng này lại là hình tượng đem lại giá trị hiện thực rất rõ nét. Dưới ngòi bút của Bunin, tầng lớp này được khắc họa khá đậm nét khi đang sống trong nỗi lo bị phá sản.
Hình ảnh điền chủ, quý tộc nhỏ sa sút gắn với khung cảnh của những trang trại xơ xác, tiêu điều. Khung cảnh ấy là khung cảnh còn xót lại của một quá khứ tươi đẹp: “cổng lò rèn và kho chứa củi, vựa thóc và chuồng ngựa, đều đã mở tan hoang: đâu đâu cũng đều trống rỗng, trơ trụi; trong sân cũng thảy đều hết sạch trơn cả rồi” [3, tr.119]; “Giấy đã phai, đã bạc màu, nhưng còn mang nhiều hình bầu dục, hình vuông sâm. Căn buồng này trước đây bao giờ cũng treo các ảnh in trên kim loại và vài bức tranh khắc cổ kính nho nhỏ và ở một góc buồng là những tượng thánh” [3, tr.120]. Trong không gian ấy, chân dung người điền chủ được khắc họa méo mó, thảm hại, ngay từ ngoại hình: “bộ mặt ngăm đen, nặng trịch, một bộ mặt đầy những đường hằn và những vết nhăn hằn học, với bộ ria nhuộm màu xanh đen; đôi mắt long lanh một cách khắc nghiệt”[3, tr.121] và cả tâm hồn cũng trở nên méo mó vì sự giận dữ, hận thù vô cớ: “Voeikov lấy gậy phang vào một khung cửa sổ rồi phang sang chiếc khác..Kính vỡ rơi loảng xoảng”[3, tr.120]. Ở đây, ta thấy hành động ra lệnh xử tử lũ chó là đỉnh cao của sự tức giận. Bên cạnh đó, ta thấy hình ảnh lũ chó giãy giụa, chống chọi được ví như sự giãy chết của tầng lớp này. Cái kết dành cho chúng đau đớn đến tuyệt vọng: “con chó bị lôi hẫng hai chân sau lên co giật và quằn quại hai chân trước, cố níu lấy đám đất lổn nhổn (...) cái lưỡi tím đen của nó thè ra, mặt nó nhăn nhó để lộ ra hai hàng lợi màu san hô, ánh nắng ban ngày phản chiếu trong cặp mắt màu nho lờ đờ của nó đã bắt đầu mờ mịt đi” [3, tr.124]. Và rút ra những kết luận: “Chó thì cũng như người, người hơn chó nhiều mà còn bị xử tử nữa là” [3, tr.125]. Như vậy có thể thấy hình tượng quý tộc nhỏ sa sút này chính là hiện thân của một kẻ hết thời, khánh kiệt, phải từ bỏ vị thế của mình và phải bán đi mảnh đất cha ông để lại. Quá khứ lừng lẫy đã khép lại.
Tiểu kết
I.Bunin là nhà văn đem lại sự đổi mới cho thể loại truyện ngắn nước Nga, mỗi truyện ngắn của ông vừa là một áng văn xuôi vừa là một bài thơ. Những nhân vật trong truyện ngắn của Bunin được nhìn nhận và tiếp cận từ những giá trị tinh thần. Dù không được đặt vào những tình tiết hay sự kiện hấp dẫn, những bi kịch lớn, nhưng không vì thế mà nhân vật trong truyện ngắn của ông mờ nhạt, những nhân vật ấy được khắc họa rõ nét khiến cho người đọc hiểu hơn về con người Nga , tâm hồn Nga.
Những nhân vật xuất hiện nhiều lần, lặp đi lặp lại, đó là nhân vật người phụ nữ, nhân vật người nông dân, nhân vật những con người nhỏ bé. Họ được nhà văn xây dựng nên không chỉ đơn thuần là nhân vật trong truyện, mà nó được nhà văn biến thành những biểu tượng. Bên cạnh đó, Bunin còn vẽ nên bức tranh thiên nhiên Nga chỉ còn trong kí ức khiến cho người đọc mặc dù chưa từng được đặt chân đến mảnh đất Nga cũng có thể hình dung ra được những nét đẹp về thiên nhiên trên vùng đất này.
Qua việc xây dựng những hình tượng con người, hình tượng thiên nhiên, ta thấy được tài năng của một nhà văn hiện thực, ông đã cho người đọc thấy được hiện thực xã hội Nga cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX qua các trang văn của mình.