Chia Sẻ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA IVAN BUNIN

Chia Sẻ  HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA IVAN BUNIN

Chương 1. MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT CHÍNH
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN

1.1. Thuật ngữ “Hình tượng nghệ thuật”

1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật


Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng” [12, tr. 147].

“Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sao chép y nguyên những hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại được ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho người khác” [12, tr.147].

1.1.2. Đặc điểm của hình tượng nghệ thuật

Theo Lí luận văn học tập 1, hình tượng nghệ thuật mang 5 đặc điểm cơ bản:

Thứ nhất, hình tượng nghệ thuật như một khách thể tinh thần đặc thù: “Gọi là khách thể bởi vì đó là thế giới tinh thần đã được khách thể hóa thành một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người sáng tạo hay người thưởng thức nữa, cũng không gắn liền với quá trình tâm lý, thần kinh của tác giả như trong quá trình sáng tạo” [13, tr.67].

Thứ hai , hình tượng nghệ thuật với tính tạo hình và biểu hiện:

“Tạo hình là việc làm cho khách thể có được một tồn tại cụ thể cảm tính bên ngoài qua chất liệu, là phú cho thế giới những hình tượng khái quát một thể xác, hình hài. Nó bao gồm tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những quan hệ, và rất quan trong là tạo dựng được những con người có nội tâm, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ” [13, tr. 69 - 70].

“Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm thầm kín trong tâm hồn. Biểu hiện gợi lên sự toàn vẹn, đầy đặn của hình tượng, và nhất là thể hiện khuynh hướng tư tưởng tình cảm của con người, của tác giả trước các hiện tượng đời sống” [13, tr.70].

Thứ ba, hình tượng nghệ thuật là một loại kí hiệu đặc biệt: “Hình tượng nghệ thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tượng kí hiệu giao tiếp. Bản chất của hiện tượng ký hiệu có xu hướng cố định hóa, trở thành công thức, sáo mòn. Bản chất sự phản ánh nhận thức có xu hướng tìm tòi cái mới, phát hiện ra cái độc đáo. Từ đó diễn ra quá trình thường xuyên đổi mới và cắt nghĩa lại kí hiệu, sáng tạo ký hiệu mới” [13, tr. 73 - 74].

Thứ tư, hình tượng nghệ thuật là một quan hệ xã hội - thẩm mỹ: “Trước hết là quan hệ giữa thế giới nghệ thuật với hiện tại mà nó phản ánh, thứ đến, quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan hệ tác giả với người đọc, quan hệ hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa, cuối cùng, quan hệ của các yếu tố của bức tranh đời sống. Chính cái phức hợp quan hệ tạo thành hạt nhân cấu trúc của tác phẩm” [13, tr.74].

Thứ năm, tính nghệ thuật của hình tượng: “Tính nghệ thuật làm tích cực hóa khả năng cảm thụ của con người, nâng họ lên hàng nghệ sĩ, khẳng định vai trò chủ thể của con người trước thế giới (...) Tính nghệ thuật đa dạng như bản thân nghệ thuật. Tiêu chuẩn cuối cùng của nó là sự thống nhất hoàn mỹ của nội dung và hình thức nghệ thuât, là sức gây ấn tượng mang tính tư tưởng của hiện thực đời sống, phản ánh được hiện thực nhiều mặt và vận dụng biến hóa không ngừng” [13, tr.78 - 79].

Nếu không có hình tượng thì sẽ không có nghệ thuật. Hình tượng đối với một tác phẩm văn học có vai trò quan trọng, nó không chỉ tái hiện thế giới khách quan, góp phần truyền tải thông điệp của tác giả tới mọi người. Không những thế, nó còn là tâm hồn, là bản ngã của người nghệ sĩ, là cái tôi, là phong cách của người nghệ sĩ.

1.2. Hình tượng người phụ nữ Nga

Trong những năm gần đây, hình tượng người phụ nữ đã được xây dựng khá toàn diện bởi các nhà văn, nhà thơ. Người phụ nữ xuất hiện với hai nét nổi bật. Thứ nhất, phụ nữ là hiện thân của sắc đẹp. Thứ hai, người phụ nữ cũng là hiện thân cho những số phận bất hạnh. Đọc truyện ngắn của Bunin, ta thường nghĩ ngay tới thế giới nhân vật của ông. Thế giới nhân vật của Bunin xuất hiện nhiều những con người bình thường, họ chỉ xuất hiện trong một vài dòng hoặc xuất hiện trong một vài trang truyện và hầu hết độc giả ấn tượng với người phụ nữ. Khi viết về người phụ nữ, đó là một hành trình khám phá những bí ẩn trong thế giới nội tâm của các nhân vật. Trong văn học, người phụ nữ vừa là chủ thể sáng tác, vừa là trung tâm của đối tượng miêu tả. Mỗi người phụ nữ đều mang trong mình những nét đẹp riêng, không trùng lặp với bất kì ai. Nếu Ph. Đôtxtôiepxki cho rằng “cái đẹp cứu rỗi thế giới” thì I.Bunin lại quan niệm “tình yêu là nhựa sống của con người”. Với quan niệm ấy, vẻ đẹp của những người phụ nữ trong những trang văn của ông được nhìn qua đôi mắt của những chàng trai trẻ và thường gắn liền với tình yêu. Qua đó, người nghệ sĩ có thể viết nên những trang truyện độc đáo mà qua việc đọc các tác phẩm , người đọc có thể thấy được hình tượng những người phụ nữ với những nét đẹp về ngoại hình cũng như những nét đẹp trong tính cách của họ. Trong các tác phẩm của mình, Bunin đã viết rất nhiều về người phụ nữ. Qua khảo sát, chúng ta có thể đề cập đến những truyện ngắn đặc biệt viết về người phụ nữ, cụ thể như sau: “Hơi thở nhẹ, Say nắng, Natali, Một chuyện tình nho nhỏ, Cuộc đời tươi đẹp, Ruxia, Những tấm danh thiếp,..”.

Trong truyện ngắn Ruxia, vẻ đẹp của Ruxia tượng trưng cho nét mỏng manh, trong trắng và trẻ trung của người con gái. Nàng xuất hiện với ngoại hình: “Cô ta tết đuôi sam dài sau lưng, mặt ngăm đen lấm tấm những nốt ruồi đen, mũi dọc dừa thanh thanh, mắt đen, lông mày đen... Mái tóc khô cứng, hơi quăn” [4, tr.239]; “Cả mắt cá chân và bàn chân cô ta đều gày gò trong đôi giày bện, với những khớp xương trồi lên dưới làn da mỏng ngăm đen” [4, tr.240]. Và trong mắt chàng trai đang yêu, những đặc điểm ấy thật đáng yêu. Bên cạnh đó, nhà văn cũng viết về trang phục của nàng: “Nàng đi đôi giày mềm, không có đế, nên toàn thân nàng phập phồng trong tấm xiêm áo dài cụt tay màu vàng ấy. Tấm xiêm rộng, nhẹ nhàng, nên tấm thân thanh nữ thon mảnh của nàng được thoải mái xiết bao” [4, tr.241]. Ngoài những nét đẹp về ngoại hình, vẻ đẹp của Ruxia còn được thể hiện qua việc miêu tả tình yêu của chàng trai dành cho Ruxia. Trong “một hôm dầm mưa ướt cả chân, nàng từ ngoài vườn chạy vào phòng khách, chàng thấy vậy bèn chạy vội đến cởi giày cho nàng và hôn lên đôi bàn chân bé nhỏ, ướt át của nàng và cảm thấy suốt đời mình chưa bao giờ có được niềm hạnh phúc như thế” [4, tr.241]. Ruxia còn giúp người đọc thấy được sự ngại ngùng và bối rối của cô: “Lúc đầu nàng luôn chăm chú nhìn chàng, mỗi khi chàng bắt chuyện thì nàng đỏ mặt một cách kín đáo và lúng búng đáp lại với vẻ giễu cợt” [4, tr.242]. Vẻ e thẹn, nhút nhát này của Ruxia là nét đẹp thường thấy của mỗi người con gái trong tình yêu. Trong con mắt tràn đầy tình yêu của chàng khi ấy: “Trong không gian bóng tối lờ mờ xuất hiện, cặp mắt đen và mái tóc kết thành bím của nàng thật tuyệt diệu. Chàng chẳng dám đụng vào người nàng nữa, chỉ hôn đôi tay nàng và im lặng vì sung sướng vô biên” [4, tr.248]. “Và chàng lại áp môi mình lên tay nàng, đôi khi hôn lên bô ngực lạnh ngắt của nàng như hôn một vật gì thiêng liêng vậy” [4, tr.248]. Khi đang trò chuyện với chàng, Ruxia bỗng hét lên sợ hãi, kéo váy lên đến tận đầu gối, giậm chân hét “Rắn! Rắn”. Chính nỗi sợ hãi của nàng khiến cho chàng cảm thấy choáng váng, ngây ngất và chàng nghĩ rằng nàng còn trẻ con quá. Phụ nữ vốn là phái yếu và sự sợ hãi của Ruxia khiến cho chàng có mong muốn được bảo vệ và che chở cho nàng. Tình yêu của Ruxia đến một cách tự nhiên và trong sáng. Nàng cũng là người con gái chủ động và bạo dạn trong tình yêu, điều đó được thể hiện qua chi tiết nàng chủ động rủ chàng trai hôm nào đó đi bơi thuyền và mạnh dạn hỏi chàng trai “Anh có yêu em không?” [4, tr.246]. Nàng cũng thừa nhận rằng mình cũng yêu chàng trai và giải thích ban đầu nàng cũng ghét anh, được thể hiện qua chi tiết: “Cả em cũng thế, - nàng nói. - Mà không đâu, mới đầu em ghét anh đấy, em ngỡ là anh chẳng chú ý gì đến em cả. Nhưng, ơn Chúa, tất cả những cái đó đều đã qua rồi” [4, tr.246]. Qua đó cho thấy nàng là người phụ nữ chủ động, say đắm trong tình yêu.

Ruxia còn được tái hiện như một thiên thần qua chi tiết : “Mọi chuyện mùa hè năm ấy đều dị thường. Thật lạ lùng rằng chúng chỉ cho mỗi mình nàng lại gần, cúi cong cái cổ dài thanh thanh, từ phía trên nhìn xuống nàng với vẻ rất nghiêm nghị nhưng đầy tò mò hiền lành, khi nàng nhẹ nhàng thanh thoát chạy đến bên chúng, chân đi hài sặc sỡ. Bất thần, nàng ngồi xổm trước đôi sếu, tấm váy xaraphan màu vàng xòe ra trên bãi cỏ xanh ven đầm ẩm ướt, ấm áp; với vẻ say sưa thơ trẻ nàng nhìn vào đôi mắt đẹp đen dữ tợn của chúng, đôi mắt lọt vào giữa mép vòng viền màu xám sẫm”[2, tr.32].

Tất cả những vẻ đẹp trên cho thấy Ruxia là một cô gái hiền từ và thật đặc biệt được thể hiện qua chi tiết chỉ có cô mới có thể lại gần những con sếu. Ruxia là một cô gái trẻ trung, ngây thơ, trong sáng, là biểu tượng cho khát vọng tình yêu, khát vọng được yêu thương. Trong truyện ngắn này, Bunin đã xây dựng hình tượng Ruxia với những nét đẹp tự nhiên, trong sáng, thánh thiện với khát vọng yêu thương bởi tình yêu của nàng với chàng trai trong câu chuyện không thành, họ yêu nhau nhưng không đến được với nhau do sự ngăn cản của mẹ Ruxia. Bà ta coi chàng trai là thằng đểu và không cho phép chàng trai ấy lấy con gái bà và bà đã đe dọa dùng cái chết nếu như Ruxia bỏ nhà theo chàng trai. Tình yêu là thứ tình cảm luôn tồn tại song song trong cuộc sống của mỗi con người, nhưng thay vì lựa chọn tình yêu với chàng gia sư thì Ruxia đã chọn chữ “hiếu” thay vì chữ “tình”. Với Ruxia trong câu chuyện này, chữ “hiếu” nặng hơn chữ “tình”. Nàng chấp nhận hi sinh hạnh phúc của mình để ở bên cạnh và chăm sóc mẹ bởi nếu cô bỏ đi lấy chồng, mẹ cô sẽ phát điên và không thể chịu nổi. Mặc dù yêu nhau nhưng không đến được với nhau, nhưng trong trái tim chàng gia sư kia, nàng mãi mãi là mối tình duy nhất của cuộc đời mình.

Bunin biết khơi dậy trong mỗi nhân vật sự say đắm của tình yêu lứa đôi, khiến cho mỗi nhân vật đều mang trong mình những khát vọng yêu thương và một tình yêu đẹp, thuỷ chung nhưng không kém phần mãnh liệt. Nhưng bên cạnh đó, cũng phải nói đến những cái dang dở của tình yêu, thể hiện ở việc Ruxia và chàng gia sư yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Như trong câu thơ của Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình của văn học Việt Nam đã viết : “Yêu là chết trong lòng một ít” và chúng ta thấy “tình chỉ đẹp khi còn dang dở” nên nhân vật trong truyện ngắn của Bunhin, cụ thể là nàng Ruxia đến với tình yêu mãnh liệt bao nhiêu thì thời gian hạnh phúc và giây phút chia tay càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Đến cuối cùng, thay vì chọn tình yêu, nàng đã chọn người mẹ điên và cô gái này đã ám ảnh chàng suốt cả cuộc đời khiến người vợ phát ghen bởi Ruxia chính là người đầu tiên mang đến cho anh ta hạnh phúc của một tình yêu hồn nhiên và trong sáng.

Trong truyện ngắn Hơi thở nhẹ, I.Bunin đã xây dựng nhân vật Olia Meserskaia là nhân vật trẻ tuổi nhất, xinh đẹp, ngây thơ và vui tươi như một bông hoa rực rỡ trong nắng mai, vẻ đẹp của nàng tượng trưng cho sự thuần khiết, tự nhiên và đầy sức sống của cô gái đang sống trong những năm tháng thanh xuân tươi đẹp. Olia xinh đẹp, đầy sức sống, nhưng nàng lại có cuộc đời bất hạnh. Nhà văn đã khéo léo sử dụng nhiều tính từ để miêu tả vẻ đẹp của cô, trong đó đôi mắt được miêu tả rất nhiều lần và sức thu hút của Olia được khắc họa thành công: “Đôi mắt đầy vui sướng và vô cùng linh lợi”; “ánh mắt sáng long lanh”; “cặp mắt sáng tinh lợi”; “ánh mắt trong sáng”. Vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp không cần chải chuốt mà đó là vẻ đẹp tự nhiên sẵn có. Vẻ đẹp của Olia khiến nhiều người si mê. Nét đẹp tự nhiên, sẵn có ấy được thể hiện ở chi tiết : “Olia thì chẳng e sợ gì, kệ cho có vết mực dây ra ngón tay, kệ cho mặt đỏ gay gắt, đầu tóc rối bù, và khi chạy ngã chân hở ra quá đầu gối cô cũng mặc. Tuy chẳng phải chăm sóc hay cố gắng đặc biệt gì, trong hai năm qua tất cả những gì đã khiến cô nổi bật lên trong trường dường như đã cũng đến với cô một cách hết sức tự nhiên: nào là duyên dáng, thanh lịch, yểu điệu và cặp mắt sáng long lanh”[4,tr. 192]. Olia là hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên, đằm thắm, quyến rũ nhưng vô cùng trong sáng và đầy sức sống.

Chân dung của Olia được Bunin xây dựng trên phông nền đám đông khi cô hòa mình vào đám nữ sinh mặc đồng phục, khi thì nổi bật lên trong vũ hội, trên sân băng bởi: “Trong các cuộc vũ hội chẳng ai nhảy đẹp bằng Olia, chẳng ai trượt băng nhanh như cô, trong vũ hội cũng chẳng ai được săn đón nhiều như cô, và cũng chẳng hiểu vì sao chẳng ai được các lớp dưới yêu chuộng bằng cô”[4, tr.192]. Xinh đẹp, quyến rũ nhưng cũng có nhiều tiếng xì xào bàn tán nàng nông nổi và không thể sống thiếu những chàng trai dành tình cảm mến mộ cho mình. Bên cạnh đó, hình ảnh Olia còn được Bunin. khắc họa trong khung cảnh khu vườn, trong không gian cứng nhắc, đầy khuôn phép của căn phòng bà hiệu trưởng. Bằng tài năng của mình, tác giả đã tạo nên sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên. Bunin đã vẽ nên không khí trong lành, tươi mát của khu vườn sau cơn mưa, sự tươi mát ấy phù hợp với sự trẻ trung, hạnh phúc của Olia và nàng cảm thấy thế giới này chỉ có một mình nàng. Không khí tươi mát của khu vườn trái ngược với căn phòng cứng nhắc, đầy khuôn phép của bà hiệu trưởng: “sạch như ly như lau” với “đường ngôi đều đặn”, “mái tóc uốn rất khéo của bà hiệu trưởng”, với những lời nhắc nhở nghiêm khắc, mỉa mai của bà. Những chi tiết xung quanh ngoại hình và tính cách của bà hiệu trưởng càng làm nổi bật lên sự trẻ trung, hồn nhiên, ngây thơ và ngời sáng của Olia. Dường như nhân vật là sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên đất trời, bởi những bước ngoặt trong cuộc đời của Olia đều có sự xuất hiện của thiên nhiên. Những rung động đầu đời của nàng thiếu nữ Olia cũng diễn ra trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình, mộng mơ. Nàng đã trao thân cho một người đàn ông lịch lãm đã từng trải qua bao sóng gió cuộc đời tại cái khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy. Là người có sắc đẹp, nàng tự cho mình cái quyền được đùa cợt tình cảm với người khác. Và rồi, nàng đã chết dưới họng súng của Kazak, cái chết diễn ra bất ngờ nhưng có lẽ cô gái ấy sẽ không hối hận vì bản thân đã được sống thật với cảm xúc của mình.Vào mùa đông cuối cùng của Olia “có tuyết rơi, có nắng đẹp”. Như vậy, có thể thấy cuộc sống cũng như cái chết của Olia đều có sự xuất hiện của thiên nhiên như để minh chứng cho một tâm hồn người thiếu nữ trong sáng, tươi vui và tràn ngập sự sống. Thậm chí ngay cả trong bức chân dung trên mộ Olia, ánh mắt trong trẻo, vui tươi của Olia dường như đã làm lu mờ, xua đi sự ảm đạm của những tấm bia đá trong nghĩa trang vào những ngày mùa đông lạnh lẽo.

Hình ảnh hơi thở nhẹ kết thúc câu chuyện, một câu kết thúc rất gợi hình: “Giờ đây cái hơi thở nhẹ ấy lại một lần nữa lan đi trong thế gian này, trong bầu trời đầy mây này, trong làn gió xuân giá lạnh này”[4,tr.201]. Hình ảnh Olia đã trở thành yếu tố cân bằng, khẳng định sức sống bất diệt, vượt qua cái chết của tuổi trẻ. Olia là hiện thân cho vẻ đẹp của tuổi thanh xuân, với những vẻ đẹp trong trẻo, hồn nhiên, vui tươi, ngời sáng, tràn đầy sức sống và thánh thiện. Không ai có thể ngờ rằng, sự thẳng thắn, mạnh mẽ, bồng bột của một cô gái đang còn ở lứa tuổi học trò lại có thể trở thành lí tưởng sống cho bà giáo viên chủ nhiệm của nàng. Những vẻ đẹp ấy lại có thể mang đến ý nghĩa lớn lao, mang đến sức sống cho tất cả mọi người.

Khác với những nhân vật nữ trong các truyện ngắn khác, nhân vật Naxtia trong truyện ngắn Cuộc đời tươi đẹp hiện lên là một người con gái có ngoại hình đẹp, nhưng khác biệt ở chỗ đó là vẻ đẹp tháo vát, chất phác, đầy sức sống của một cô gái nghèo bị chèn ép, không có nơi bấu víu. Với hoàn cảnh khó khăn, không biết nương tựa bấu víu vào ai, Naxtia phải tìm cách để đứng vững, để sống sót và tự bảo vệ mình trước cuộc sống đói nghèo. Ở truyện ngắn này, người phụ nữ đã xưng “tôi” và kể lại cuộc đời mình. Bunin đã cho người đọc tự hình dung về người phụ nữ qua ngôn ngữ, hành động, những biến cố trong cuộc đời nàng và qua những diễn biến tâm trạng của nàng. Sau khi chứng kiến bố bị bắt đi đày, nàng đã nghĩ: “Rõ ràng là sống với lẽ phải là không được rồi, và rõ ràng là phải tính toán thận trọng mới được” [4,tr.52]. Nàng đã suy nghĩ tới việc phải mau mau lấy chồng, nàng thích một người, rất thích, nhưng anh ta nghèo chẳng kém gì nàng và cuối cùng nàng đã quyết định từ bỏ người mình thích để lấy một người bạn của bố trong thành phố: “Tôi nghĩ đi nghĩ lại rồi bằng lòng, mặc dù dĩ nhiên tôi biết là ông ta đã luống tuổi, rượu chè, tính hay nóng nảy, nó quả đáng là một ông ăn cướp..”[4,tr.52]. Nàng lấy chồng và trở thành một thị dân trong thành phố. Với nàng, tiền là thứ duy nhất đáng được chú ý, nhưng cuộc sống với ông chồng ấy khiến nàng khổ sở, mang tiếng là thị dân nhưng lại nghèo chẳng hơn gì nông dân. “Ờ, may mờ trời cũng còn thương tôi, đem ông ấy đi”[4, tr.53] sau 9 năm khổ sở. Cuộc đời Naxtia là những chuỗi ngày khó khăn và đầy biến động, cha bị đi đày, mất cả ruộng bắp cải sắp đến mùa thu hoạch. Sau khi cha bị đi đày, nàng quyết định lấy một ông chồng đã luống tuổi, tưởng như sẽ được hưởng hạnh phúc với cuộc sống giàu sang. Thực chất lại không phải như vậy, người nàng lấy là một người đàn ông mê rượu chè, tính nóng nảy, nghèo. Người đàn ông ấy đã đeo bám người phụ nữ này suốt 9 năm trời. Tên truyện ngắn là Cuộc đời tươi đẹp, chính nhân vật cũng tự nhận cuộc đời mình tươi đẹp và xưng “tôi” kể lại, nhưng thực chất đó là cuộc sống khổ sở, đầy nỗi đau. Trong truyện hiện lên là nàng Naxtia bản lĩnh, tháo vát nhưng khá tàn nhẫn: Nàng đã làm ngơ trước tình yêu của cậu công tử tàn tật mới qua tuổi 14, tên là Nikanor Matvêits, làm ngơ trước lời van xin của chàng trai đó. Chàng công tử đó mê Naxtia, thậm chí còn cho Naxtia số tiền mà mẹ cậu cho bao năm qua với điều kiện cô hôn chàng một cái. Nàng tàn nhẫn tới mức bình thản trước lời đe dọa sẽ tự tử của cậu và nàng vẫn rời khỏi nhà chủ, mở quán rượu và xây dựng một cuộc sống mới. Naxtia còn ngăn cản con trai bà yêu Phenka - một cô gái theo bà nghĩ đó là “con đĩ trăm thằng”. Sau đó, Naxtia được làm mối cho một ông góa vợ nhưng ông này yêu cầu bà phải từ bỏ đứa con trai của mình và Naxtia đã nhẫn tâm đuổi con trai của mình là Vania đi để có thể thực hiện cuộc hôn nhân này. Đằng sau cái giọng kể lạnh lùng ấy chỉ là vỏ bọc để giấu đi sự khổ đau của cuộc đời người phụ nữ. Đuổi con đi để cưới một người đàn ông góa vợ có điều kiện, nhưng Naxtia vẫn là người mẹ đầy yêu thương dành cho con của mình. Điều đó được thể hiện qua chi tiết: “còn tôi, tuy vốn không phải người mau nước mắt mà đã phải tuôn trào nước mắt. Ngày hôm trước khóc, ngày hôm sau khóc, cứ nghĩ làm sao nó có thể nói với mình những lời lẽ như vậy, thế là lại không cầm được nước mắt” [3, tr. 95]; “Tôi nhìn, nhìn mãi, nghe ngóng rồi đi ra. Và một nỗi buồn khôn tả xâm chiếm lòng tôi! Tôi cố ăn cho xong bữa chiều, dọn dẹp bàn ăn, tắt đèn...Tôi không sao ngủ được và cứ mãi như thế, nằm mà toàn thân rung lên”; “Thế nhưng đôi lúc tôi cũng thấy nhức nhối trong tim(...) cũng lại có lúc tôi buồn nhớ đến thằng Vania” [3, tr.98]. Mặc dù Naxtia đuổi con đi để thực hiện cuộc hôn nhân đầy toan tính với ông chồng khá giả, nhưng trong bà vẫn có tình yêu thương con da diết, khi một mình lại chan chứa nước mắt khóc thầm, do hoàn cảnh đã bắt bà phải lựa chọn từ bỏ đứa con của mình. Chính cuộc sống khắc nghiệt, nghèo khổ đã đẩy người phụ nữ ấy tới sự lạnh lùng, tới những lựa chọn, những mong cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nói đến Bunin, nói đến người phụ nữ, chúng ta không thể không kể đến truyện ngắn Natali. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng hai nhân vật nữ: Natali và Xônhia. Bên cạnh đó, nhà văn cũng khắc họa thành công nhân vật “tôi” trong mối quan hệ tình cảm với hai nhân vật nữ. Những cảm xúc tình yêu hay những dục vọng xác thịt đều được tái hiện qua mùa hè năm ấy. Xônhia hiện lên là một người quyết liệt chiếm giữ tình cảm của chàng trai. Đối lập với Xônhia lại là hình ảnh cô nàng Natali xinh đẹp, nhẹ nhàng và dịu dàng. Ở nhân vật “tôi” đối với hai người con gái này lại có những cảm xúc hoàn toàn khác nhau. Đối với Xônhia chỉ xuất hiện tình yêu xác thịt, đắm đuối và mệt nhọc mỗi đêm nhưng đối với Natali thì khác, nhân vật “ tôi” dành sự quan tâm của mình đối với Natali, theo dõi từng cử chỉ cũng như từng bước đi của Natali và giữa họ tồn tại tình yêu trong sáng nhưng cũng rất đau đớn, bởi Natali biết được người con trai mình yêu đang trong mối quan hệ song song với một người con gái khác. Ở nhân vật “tôi” này xuất hiện thứ ý nghĩ muốn được kết hôn với Natali, nhưng hằng đêm nhân vật “tôi” này vẫn chìm đắm trong những ân ái xác thịt với Xônhia. Nhà văn đã tạo nên thành công cho tác phẩm khi xây dựng được những nhân vật đều đẹp và hết sức quyến rũ, họ là những cô gái trẻ trung và rất thu hút ánh nhìn, sự để tâm của mọi người xung quanh.

Hầu hết trong các truyện ngắn của mình , Bunin đã xây dựng những người phụ nữ luôn bị đẩy vào những thái cực cảm xúc trái ngược nên họ có những hành động khó hiểu. Cụ thể, trong truyện ngắn Say nắng hiện lên một thiếu phụ mà ở nàng mọi nét đều rất có duyên. Truyện ngắn này kể về câu chuyện tình yêu ngắn ngủi nhưng tự nhiên giữa chàng trung úy với người thiếu phụ. Câu chuyện tình yêu này diễn ra và kết thúc rất nhanh chóng, chỉ vỏn vẹn trong vòng một ngày, từ trưa ngày hôm trước và kết thúc vào sáng ngày hôm sau. Nàng đã tình nguyện tiến tới cuộc tình chốc lát với chàng trung úy trẻ, để rồi hôm sau lại quay trở về với cuộc sống thường ngày của mình mà không để lại cho chàng trung úy ngay cả cái tên và nàng tự gọi đùa mình là một “người đẹp không quen biết”. Ban đầu, họ chỉ tình cờ gặp nhau và giữa họ chỉ xuất hiện những đam mê về thể xác chứ không hề có tình yêu. Dường như họ chỉ coi đó là giải trí, người phụ nữ còn không hiểu tại sao mình lại có thể đi theo chàng trai và ở cùng chàng trai một đêm. Nhưng sau đó tình yêu bất ngờ trỗi dậy - người ta gọi đó là say nắng, nhưng chính cái say nắng ấy lại ám ảnh anh sĩ quan trẻ tuổi. Chàng trung úy ấy đã yêu người thiếu phụ, yêu một cách si mê, say đắm. Chính sự ra đi của người thiếu phụ ấy đã khiến trái tim chàng trai tan nát, để lại chàng trung úy một trái tim đầy đau khổ với những thiếu hụt và trống trải trong tâm hồn. Dường như, sự gặp gỡ tình cờ giữa chàng trung úy và người thiếu phụ, phải chăng chỉ là cái cớ để Bunin diễn tả sự phong phú trong thế giới nội tâm của con người. Có lẽ Say nắng chính là truyện tình ấn tượng và bất ngờ nhất của Bunin, ở đó người đọc ngạc nhiên, bàng hoàng về một tình yêu trỗi dậy chỉ sau một lần gặp gỡ và ra đi sau một đêm gần gũi.

Hay hình tượng một người phụ nữ nghèo nàn, chất phác trong truyện ngắn Những tấm danh thiếp. Nàng đã có chồng, là một người hiền lành, tốt bụng nhưng không thú vị và nàng không hề yêu chồng mình. Khi nàng trò chuyện với nhà văn lừng danh, nàng đã châm thuốc hút một cách dũng cảm, rít những hơi nhanh theo kiểu phụ nữ. Do tác dụng của rượu, khuôn mặt nàng đỏ ửng lên, đôi môi cũng hồng hào, cặp mắt mơ màng. Nàng đã đón nhận tình yêu của nhà văn trẻ.Tình yêu của họ đã nảy sinh trên một chuyến tàu tốc hành, ban đầu chỉ là những đam mê thấp hèn, sự đùa cợt, nhưng đến khoảnh khắc phải chia li, chàng đã nhận ra tình cảm của mình.

Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, Bunin cũng khắc họa thành công hình tượng về một cô tiểu thư giàu có đã dứt khoát gạt bỏ về câu chuyện tương lai, nàng luôn dửng dưng, lạnh lùng với anh chàng bảnh trai ấy. Dường như nàng là một cô gái chẳng thiết cái gì cả, bởi những lần chàng trai tặng cô hoa, socola và những quyển sách thì nàng chỉ chìa tay ra cho chàng trai hôn rồi nói cám ơn. Nàng được xây dựng với vẻ đẹp: “khuôn mặt nàng ngăm ngăm màu hổ phách, mớ tóc nàng đẹp tuyệt vời mà lại có phần dữ dội vì vừa đen lại vừa rậm, đôi hàng lông mày của nàng vừa mềm mại vừa bóng lên, đôi mắt đen, miệng nàng quyến rũ với đôi môi đỏ thắm mịn màng” [4, tr. 266]. Xuyên suốt truyện ngắn này là hình tượng của người phụ nữ với tình yêu mỏng manh, thoáng chốc có thể tan vỡ và biến mất. Nhà văn đã xây dựng lên hình tượng một cô tiểu thư giàu có luôn dửng dưng, lạnh lùng để rồi lại bất ngờ chấp nhận hiến dâng cho chàng trai ấy với cuộc ái ân chớp nhoáng trong một đêm và từ đó về sau không bao giờ gặp lại anh ta nữa

Bunin đã xây dựng hình tượng những người phụ nữ không muốn xưng tên như “người thiếu phụ vô danh nhỏ nhắn”, “là người đẹp không quen biết” như trong Say nắng. Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, nhân vật người phụ nữ cũng được gọi là “nàng” mà không hề có tên. Những người phụ nữ trong truyện ngắn của Bunin còn rất đặc biệt, họ luôn có những tính cách và những hành động khó lí giải, mỗi người đều có dấu ấn và cách sống riêng nhưng đều là điển hình cho phụ nữ Nga với tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng thương yêu và tràn đầy sức sống nhưng cũng đầy bản lĩnh. Viết về người phụ nữ, Bunin luôn dành cho họ những tình cảm chân thành và thái độ trân trọng qua những số phận và tính cách của mỗi nhân vật. Kết thúc truyện thường là nỗi buồn man mác, nhưng trong truyện ngắn của Bunin, cái buồn ở đây là cái buồn của tình yêu không trọn vẹn. Tình yêu và hạnh phúc trong truyện ngắn của Bunin không bao giờ trọn vẹn, nó luôn bị khiếm khuyết, thậm chí là rơi vào bi kịch, nhưng điều nhà văn hướng tới đôi khi không phải một cái kết có hậu mà là những khoảnh khắc hạnh phúc được sống, được yêu. Nhân vật trong truyện ngắn của I. Bunin thường đến với nhau một cách tình cờ và say mê, chìm đắm trong tình yêu nhưng lại nhanh chóng rời đi, trở về cuộc sống thường ngày của mình một cách lí trí, thậm chí có phần lạnh lùng. Mặc dù chỉ là những cơn say nắng, những tình yêu đến bất chợt, nhưng lại để lại trong trái tim họ những kí ức về tình yêu thật đẹp đẽ, ngọt ngào và để lại dấu ấn đặc biệt trong tâm trí người đọc.

Xuyên suốt các truyện ngắn của Bunin là những câu chuyện tình yêu với khát khao về một tình yêu đẹp, khát khao hạnh phúc cháy bỏng.Vì thế, giai điệu tình yêu trở thành âm thanh chủ đạo trong truyện ngắn của Bunin, có sự cộng hưởng và lan tỏa mạnh mẽ. Nhà văn biết làm thế nào để khơi dậy trong nhân vật của mình sự say mê tình yêu, ham muốn tình yêu và một tình yêu mãnh liệt, chung thủy. Đồng thời, nhà văn cũng đau lòng khi nói đến những điều còn dang dở, buồn, thậm chí là bi kịch của tình yêu. Đắm chìm trong những truyện ngắn về tình yêu của Bunin là nỗi buồn và sự chia ly. Mỗi câu chuyện lại mang trong mình những sắc thái tình yêu khác nhau. Chẳng hạn như cuộc tình thoáng qua trong truyện ngắn Những tấm danh thiếp; mối tình thực dụng trong Chiếc cốc đời, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối; bên cạnh đó cũng có một tình yêu ngây ngất như Hơi thở nhẹ. Những khoảnh khắc hạnh phúc trong tình yêu của các nhân vật thường rất ngắn ngủi và hầu hết quãng đời còn lại của họ chỉ sống trong nỗi nhớ của những kí ức cũ. Với họ, hạnh phúc trong tình yêu là điều quan trọng nhất. Bởi vậy, người phụ nữ trong truyện ngắn của Bunin luôn mang trong mình khát khao hạnh phúc đến cháy bỏng.

Bên cạnh những khát khao về hạnh phúc ấy, Bunin cũng xây dựng nên những nhân vật mang trong mình những nỗi buồn không tên với những nỗi u sầu mà chỉ đọc tác phẩm mới có thể cảm nhận được. Tóm lại, Bunin đã thể hiện được cái nhìn chiều sâu về con người, đó là những con người thiên về cảm xúc, thường đứng trước nhiều tình huống cảm xúc bất chợt khiến người đọc cũng như nhân vật rơi vào trạng thái ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Người phụ nữ được hiện lên với tất cả những điều chân thật nhất. Nhà văn đã nắm bắt được tâm lí của người phụ nữ nên những nhân vật nữ trong truyện ngắn của ông đều gắn với tình yêu, dưới con mắt của những chàng trai, để họ tự bộc lộ được những vẻ đẹp cũng như góc khuất trong tâm hồn mình.

1.3. Hình tượng thiên nhiên

Bên cạnh việc khắc họa hình tượng người phụ nữ, những truyện ngắn của Bunin còn xây dựng được những bức tranh phong cảnh man mác buồn, nhưng rất đẹp. Nhà văn đã vẽ được bức tranh thiên nhiên nước Nga không phải đơn thuần như các họa sĩ khác, mà ông vẽ nên bức tranh ấy bằng ngôn ngữ.

1.3.1. Sự trù phú của vùng quê nay chỉ còn trong kí ức

Viết về phong cảnh nông thôn Nga là một đề tài khá quen thuộc đối với các nhà văn Nga, trong đó có I. Bunin, có lẽ người đọc chỉ cần đọc Những quả táo Antonov là thấy được sự say mê cảnh vật, say mê thiên nhiên Nga của Bunin. Khi đọc đến những đoạn văn mà Bunin miêu tả về một vùng quê nào đó, người đọc dễ có cảm giác chân thật, dường như đang được đứng trước nước Nga, đất nước mà mình chưa hề được đặt chân đến. Nhà văn say mê, đắm đuối cảnh sắc thiên nhiên, ông được xem là người “viết về nông thôn Nga, chưa có ai viết sâu sắc được đến thế, có tính chất lịch sử đến thế” [4, tr. 9].

Từ mở đầu đến khi kết thúc tác phẩm, Những quả táo Antonov đã vẽ nên một bức tranh trong tâm tưởng của nhân vật “tôi” về những năm tháng tươi đẹp về quá khứ đã qua: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời, trong tháng Tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp và những trận mưa này dường như cố tình rơi xuống cho dân cày cấy...Tôi nhớ lại một buổi sớm sủa, tươi mát, yên tĩnh...Tôi nhớ một khu vườn lớn đã khô và thưa lá, toàn bộ màu vàng óng; nhớ những lối đi giữa hai hàng cây phong, mùi thơm nhẹ nhàng của lá rụng và cả mùi táo Antonov, mùi mật ong và mùi của tiết thu tươi mát. Không khí trong trẻo đến nỗi hệt như hoàn toàn không có nó nữa, khắp khu vườn âm vang tiếng người nói, tiếng xe ngựa tải kẽo kẹt” [4, tr.11]. Chỉ với 30 trang truyện, nhà văn đã vẽ nên những bức tranh làng quê, những khu vườn trong kí ức bằng ngôn từ.

Hình ảnh làng quê trong Những quả táo Antonov là một làng quê trù phú, tươi vui và hạnh phúc. Đó là một thế giới huyền diệu tràn ngập mùi vị, hương sắc và âm thanh: “mùi lúa thơm ngát tỏa ra từ những đống rơm mới và những đống thóc lép trên sân phơi”; “mùi khói thơm nức của những cành anh đào tỏa ra nồng nặc”; “bừng bừng một ngọn lửa đỏ ối giữa tăm tối trập trùng”..Những bức tranh thiên nhiên trong truyện ngắn của I.Bunin hiện lên đa sắc màu, đẹp và buồn gắn với tâm trạng con người. Mùi vị, hương sắc, ánh sáng, âm thanh đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên thanh thoát, trữ tình. Bằng tài năng của mình, Bunin đã hòa được màu sắc và ánh sáng để tạo nên những tác phẩm sinh động, tinh tế.

Cảnh vật cứ hiện lên tầng tầng, lớp lớp, theo dòng kí ức cái nọ gọi cái kia về. Truyện ngắn này không có thời gian cụ thể, chỉ là những mốc thời gian rất chung chung: “tôi hồi tưởng lại một năm được mùa ấy”; “và tôi còn nhớ hồi ấy”...diễn tả khoảng thời gian xảy ra mọi chuyện nhưng là hoài niệm của tác giả về khoảng thời gian đã qua. Với lối viết này, mặc dù đang sống ở hiện tại, nhưng nhà văn có thể trở lại quá khứ với vùng quê trù phú ấy một cách dễ dàng thông qua những hồi ức, kỉ niệm. Phải là người có tình cảm dạt dào với quê hương đất nước, hiểu được những quy luật của tạo hóa và có tâm hồn nhạy cảm như Bunin mới có thể viết được những trang truyện về con người và thiên nhiên sâu sắc đến như vậy.

Trong truyện ngắn Những quả táo Antonov, nhà văn đã vẽ nên nhiều bức tranh, có thể kể đến bức tranh vườn táo vào mùa thu hoạch, bức tranh làng quê khi màn đêm buông xuống hay bức tranh vào ngày mùa, bức tranh về một cuộc đi săn và bức tranh miêu tả sự tàn tạ của vùng quê đã từng giàu có, phát triển. Ở phần một, táo Antonov hiện ra trong không gian mùa thu trong lành. Ở phần hai, táo Antonov xuất hiện trong sự hồi tưởng của nhân vật tôi về một năm được mùa: “Táo Antonov mẩy, cả năm thảy đều vui. Nếu táo Antonov sai quả thì công việc nông thôn sẽ tốt, bởi vì có nghĩa là lúa cũng sẽ được mùa... Tôi hồi tưởng lại một năm được mùa ấy” [4, tr.16]. Trong phần ba, khi lang thang trong khu vườn vào một buổi sáng ngủ quên đi săn, nhân vật “tôi” cảm nhận được hương vị của quả táo dường như đã bị lãng quên: “Trước mắt ta là cả một ngày yên tĩnh trong khu điền trang đã im lìm trong những ngày đông. Ta sẽ thong thả mặc quần áo, đi dạo trong vườn, vớ được trong đám lá ẩm một quả táo, ngẫu nhiên bị bỏ quên, đã ướt lạnh và không hiểu tại sao ta thấy quả táo này ngon khác thường, hoàn toàn không giống như những quả táo khác” [4,tr.30]. Những bức tranh được nhà văn vẽ nên bằng ngôn ngữ tưởng như không liên quan tới nhau, nhưng không, tất cả những bức tranh được bao trùm bởi nỗi tiếc nuối và man mác buồn. Mặc dù có sự xáo trộn về không gian, thời gian nhưng mỗi bức tranh dường như đều có sự tách biệt. Các gam màu trong những bức tranh ấy thống nhất trên những phông nền. Các bức tranh được đặt cạnh nhau, đối sánh nhau, không chồng chất lên nhau cho thấy sự biến đổi âm thầm nhưng rõ nét đến xót xa của làng quê Vyselki. Với việc vẽ nên những bức tranh gắn liền với tâm trạng, nhà văn đã thể hiện được những suy ngẫm của mình về quá khứ và tương lai, về nỗi buồn và sự suy thoái của nước Nga.

Mặc dù tác giả không nêu tên địa danh cụ thể nhưng ông đã để cho những cô gái và những người đàn bà xuất hiện, đó là những gương mặt vừa lạ lại vừa quen: “Những cô gái thuộc các hộ tiểu nông vẻ hoạt bát, mặc những tấm xiêm cụt tay nức mùi thuốc nhuộm (...) và có mặt cả một bà lí trưởng trẻ măng, đang có chửa, mặt phèn phẹt, bơ phờ và bộ điệu quan trọng như một con bò cái vùng đồi núi” [4, tr.13]. Nhà văn đã để cho nhân vật của mình đột nhiên xuất hiện, xuất hiện như thể chính người đọc cũng quen biết họ từ rất lâu rồi. Họ được miêu tả khá cụ thể nhưng lại không có tên, mà được gọi bằng những cụm từ chung chung: “người thị dân”, “bà lí trưởng”, “bác nông dân được giao việc đổ táo”... Có thể hiểu đây chính là những người dân ở vùng quê của nhà văn. Việc miêu tả quê hương với sự góp mặt của những người ông từng quen khiến cho truyện ngắn trở nên gần gũi với người đọc.

Xuyên suốt truyện ngắn này ta có thể nhận thấy tình cảm dạt dào, thiết tha, trìu mến của nhà văn đối với quê hương mỗi khi nhớ về. Khi vùng quê ấy trù phú hay khi nó trở nên tàn tạ thì đó vẫn là những hình ảnh đầy yêu thương, khắc sâu trong trái tim người nghệ sĩ xa quê hương. Qua cái nhìn của một nhà văn lưu vong, những hồi ức về một làng quê đã được khái quát hóa trở thành biểu tượng của làng quê nước Nga. Sau chiến tranh, ông đã nhiều lần có ý định trở về với mảnh đất quê hương, nhưng tuổi tác đã không cho phép ông thực hiện được nguyện vọng của mình. Và người ta vẫn luôn nhớ tới câu nói của ông trước khi chết: “Làm sao chúng ta có thể quên Tổ quốc? Con người có thể quên Tổ Quốc được không? Tổ Quốc ở trong tâm hồn mình. Tôi là một người rất Nga. Điều đó dù bao nhiêu năm cũng không mất đi được” [4, tr.7]. Những dòng văn trên cho ta thấy được những tâm sự chất chứa trong lòng Bunin, dường như đến khi chết, ông vẫn không thể quên được quê hương dù cho bao nhiêu năm về sau bởi quê hương luôn ở trong tâm hồn mỗi con người chúng ta. Bởi quê hương không chỉ là nơi sinh ra, nuôi ta khôn lớn mà còn là cái nôi hun đúc nên bản chất của mỗi con người. Với tài năng của mình, Bunin đã khiến cho Gorki phải thừa nhận rằng: Bunin là “bậc thầy hàng đầu trong văn học Nga hiện đại?” [4, tr.9].

Viết về những bức tranh phong cảnh nông thôn nước Nga sống động, đẹp ngỡ ngàng, ta có thể dễ dàng tìm thấy trong nhiều truyện ngắn của Bunin: “Làn không khí trong lành, ánh mặt trời nhợt nhạt còn vương lại, những đám mây trắng bồng bềnh cuộn tròn mờ mờ hiện ra trên nền trời và dưới mặt nước xen giữa những đám cỏ gấu và hoa súng; trên hồ chỗ nào cũng nông đến nỗi có thể nhìn rõ đáy với đám rong rêu mọc ngầm dưới nước, tuy nhiên đáy nông cũng không làm mất đi vẻ sâu thăm thẳm của bầu trời và mây đã in hình trong đó” [2, tr.26 ].

1.3.2. Sự tiêu điều xơ xác

Trong truyện ngắn Những quả táo Antonov, hình ảnh khu vườn được xây dựng như hình ảnh tượng trưng cho nước Nga, nổi bật lên hương thơm khác thường của táo Antonov. Hương vị ngọt ngào của quá khứ trở thành sợi dây liên kết truyện ngắn này thành một chỉnh thể. Ở đầu chương bốn, Bunin viết: “Trong trang trại của các điền chủ nay đã không còn mùi thơm của táo Antonov nữa rồi”[4, tr.33], điều đó khiến người đọc nghĩ tới tất cả đã thay đổi và tất cả dường như đã lùi vào dĩ vãng xa xăm và bắt đầu cho sự xuất hiện của một thời đại mới.

Truyện có kết cấu mở đầu - kết thúc khá đặc biệt. Mở đầu truyện là chi tiết: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời, trong tháng Tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp...” và kết thúc bằng chi tiết: “Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi...”. Qua hai chi tiết trên thấy được, nhà văn hướng cái nhìn của mình ra cảnh vật, hướng về bức tranh phong cảnh không phải là đứng yên mà là đang vận động. Bức tranh có sự vận động từ mùa thu tươi mát tới tuyết phủ lớp lớp trong mùa đông. Đó cũng chính là sự vận động của làng quê nơi nhà văn sinh ra đang ngày càng tiêu điều, xơ xác. Nếu như mở đầu nhà văn có những hồi tưởng đẹp về mùa thu nước Nga với giọng điệu phấn khích thì về sau âm điệu dường như chùng xuống với nỗi xót xa và nuối tiếc về sự trù phú trước kia: “Và những người khác rời rạc, làm ra vẻ đùa cợt bắt giọng hát theo với điệu ngang tàng, ủ dột và tuyệt vọng:

Cánh cổng ta mở toang hoang

Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi...” [4, tr.38]

Có thể hiểu con đường tuyết phủ này là hình ảnh tượng trưng cho con đường trở về với cuộc sống trong quá khứ. Cuộc sống tươi đẹp và trù phú ấy bây giờ dường như đã trở nên xa lạ và chỉ còn được tái hiện qua hồi ức của con người. Hoặc cũng có thể hiểu con đường tuyết phủ này là con đường tương lai chưa thể đoán trước được. Bên cạnh đó, con đường tuyết khiến người đọc có cảm giác về một không gian lạnh lẽo, mờ mịt, hơn nữa nó còn có tác dụng tô đậm không khí buồn, tiếc nuối và hụt hẫng của Bunin. Truyện không có khởi đầu, cũng không có kết thúc, nó đang và sẽ tiếp tục trong không gian của kí ức.

Viết về vẻ tiêu điều của những nông trại có thể thấy được trong nhiều tác phẩm của Bunin. Rõ nét nhất phải nói tới truyện ngắn Ngày cuối cùng. Cuộc sống giàu có trước đây chỉ còn mờ nhạt trong những mảnh giấy dán tường đã bị xé rách, trong hình ảnh nền nhà gỗ nứt nẻ, những mảnh kính nứt vỡ, những bức tranh tối xỉn... bị chính con người cố tình tàn phá, vùi dập. Trong truyện ngắn Lần gặp gỡ cuối cùng, Những tấm danh thiếp, chỉ với một vài chi tiết nhỏ, nhà văn đã hé mở cho người đọc thấy được cảnh phá sản của một tầng lớp, kéo theo nó là những liên tưởng tưởng tượng về một thời đại đã là dĩ vãng và không thể lấy lại được.

Bằng tài năng của mình, Bunin đã vẽ nên những khung cảnh bằng ngôn từ, hiện lên cho người đọc thấy được những bức tranh sống động, quen thuộc khiến người đọc ngạc nhiên đến ngỡ ngàng bởi đã gặp ở đâu đó, thậm chí ngỡ như đó là khung cảnh nơi mình đang sinh sống. Với những chi tiết cụ thể, chân thực nhưng lại không thuộc về địa danh nào, nó có thể là một vùng quê bất kì trên đất nước Nga: “Nhưng rồi xe cũng lên tới đỉnh dốc và chạy lộc cộc trên đường phố, qua một quảng trường nho nhỏ nào đó, những công sở, tháp cao, cái ấm áp và mùi vị của một phố huyện vào một đêm hè” [2, tr.36]. Không gian và thời gian vừa cụ thể vừa mơ hồ góp phần đem lại sức sống lâu bền cùng với những thế hệ sau.
 
  • Like
Reactions: Vanhoctre
2K
1
1
Trả lời
1.4. Hình tượng người nông dân

Không phải ngẫu nhiên mà người đọc gọi Bunin là nhà văn của nông thôn Nga. Nếu như Êxênhin được mệnh danh là “nhà thơ cuối cùng của đồng ruộng Nga” thì Bunin lại thành công khi viết về thể loại truyện ngắn . Vốn sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nga tươi đẹp, hẳn Bunin phải là người am hiểu rất rõ về đời sống, con người Nga, trong đó phải kể tới những người nông dân nghèo nhưng hiền lành, chất phác.

Với truyện ngắn Meliton, nhà văn đã phác thảo được chân dung của người nông dân Nga độc thân, cô đơn trong khu rừng già với “đôi mắt màu xanh lam mờ nhạt, vóc người bác to cao, thân hình bác gày gò, xương xẩu. Cặp lông mày rậm, xám, và cả bộ ria màu xám tua tủa lan ra cả hai bên má giống như người để râu quai nón, tất cả đều khiến bác có vẻ khắc nghiệt” [4, tr.40]. Nhưng cuộc sống của bác lại là cuộc sống hiền lành, ẩn dật được thể hiện qua chi tiết: “ Thế nhưng cái đầu hói, cặp mắt màu ngọc lam và chiếc áo sơ mi nông dân sạch sẽ của bác thường xuyên cho thấy bất kỳ lúc nào bác cũng sẵn sàng lăn mình “dưới các tượng thánh” [4, tr. 40]. Ngay từ ngoại hình đã khiến người đọc thấy được sự cô đơn, khổ cực của một người đàn ông không vợ, không con cái. Cô đơn cùng cực là thế, nhưng lúc nào bác cũng tỏ ra bình thản để cố giấu nỗi buồn và người nông dân ấy đã sống một cuộc đời thanh bạch, giản dị, nghèo nàn.

Khác với truyện ngắn Meliton, truyện ngắn Cỏ gày đã thể hiện được đời sống nội tâm phong phú và những khát vọng của nhân vật. Ngay từ những dòng mở đầu, Bunin đã khắc họa được hình ảnh một người nông dân nghèo khổ, phải đi làm thuê làm mướn ngay cả khi ốm đau bệnh tật. Vẻ khắc khổ được thể hiện ngay từ ngoại hình : “rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói chung to nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt”; “đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, ươn ướt, bộ râu đang ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gày rộc” [4, tr.116]. Trong khi đấu tranh để giành giật sự sống, bác nông dân Averki đã trôi dòng kí ức: “Ở lưng trời trong vắt, một vằng trăng khuyết mảnh như sợi chỉ lung linh trên khoảng đồng bằng thoai thoải đen ngòm bên kia sông. Ở thôn xóm xa xa, các cô gái đang véo von, ngân dài giọng hát một bài ca tán tụng cổ xưa” [4, tr.124]. Tất cả đã làm tăng nghị lực sống của bác nông dân yếu ớt đang phải đối mặt với cái chết.

Bunin đã khắc họa thành công những người nông dân nghèo khổ nhưng hồn nhiên và đôn hậu. Hai nhân vật Meliton và Averki qua ngòi bút của Bunin đã trở nên sống động trong trí tưởng tượng của người đọc, họ biểu tượng cho con người Nga, tâm hồn Nga, nghị lực của họ đã chiến thắng mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống.

1.5. Hình tượng những con người nhỏ bé

Con người nhỏ bé là tầng lớp dưới đáy xã hội, là sản phẩm, đồng thời là nạn nhân của xã hội mà chế độ phong kiến bị chủ nghĩa tư bản lấn át. Viết về hình tượng những con người nhỏ bé không còn là điều xa lạ đối với Bunin. Trong nền văn học Nga, không chỉ có Bunin, mà Puskin, A. Chekhov cũng dành sự quan tâm của mình đối với hình tượng những con người nhỏ bé. Bunin viết về những thân phận nhỏ bé, yếu ớt và ít có tiếng nói trong xã hội. Mặc dù ông dành cho họ sự nâng niu, trân trọng, xót xa, nhưng đó không phải sự thương xót đơn thuần. Nhà văn không chỉ nhận thấy được những thiệt thòi, khổ đau của nhân vật mà còn thấy được vẻ đẹp ẩn giấu sau vẻ ngoài xù xì, lặng lẽ của họ.

Trong truyện ngắn Meliton, nhà văn đã xây dựng nên một con người buồn bã, cô đơn, lặng lẽ và đáng thương: “Bác làm ngay ra vẻ bình thản, dường như để cố giấu nỗi buồn thường có trong đôi mắt xanh lam mờ nhạt của mình”[4,tr.40]. Nỗi đau của bác Meliton là nỗi đau của một kẻ cô đơn khi sống một mình. Nỗi đau ấy được thể hiện qua “đôi gò má nhăn nheo”, “đôi mí mắt sụp xuống” và nỗi đau ấy còn ẩn giấu qua tiếng thở dài, trong hình ảnh “đầu cúi xuống, từ tốn vò dúm thuốc lá”, trong giọng hát “nghe buồn rượi” của nhân vật. Bác là một người cô đơn, cả cuộc đời chỉ quẩn quanh chăm sóc mảnh rừng cho điền chủ với sự lễ phép và cung phụng. Nhà văn không đi sâu vào cuộc sống, vào thân phận nghèo hèn của bác, mà nhà văn hướng người đọc về quá khứ, thấy được thời gian trong quá khứ cũng như sự hoài niệm của nhân vật qua những lời kể đứt đoạn, bình thản của nhân vật về quá khứ: “Trước cũng có vợ, nhưng lâu rồi, chả nhớ được ; “Cũng có cả con cái nữa đấy ạ, mà Chúa cũng đã đem chúng đi từ hồi nào ấy rồi..”[4,tr.41]. Quãng thời gian trong quá khứ của bác Meliton còn được thể hiện qua lời hát than thở về những khu vườn xanh tươi, về mối tình xưa, những vòng hoa tết không biết để cho ai. Những chi tiết trên đã hé mở cuộc sống trong quá khứ của bác Meliton, hé mở cho người đọc thấy được đời sống nội tâm phong phú của nhân vật ẩn dưới lớp vỏ lặng lẽ, đơn giản của bác. Chỉ với những chi tiết đó thôi cũng đủ thấy phải có một trái tim biết trân trọng những giá trị tâm hồn mới khơi ra được những vẻ đẹp ẩn giấu nơi những kiếp người nhỏ bé như bác Meliton trong truyện ngắn cùng tên.

Với Cỏ gày, đọc truyện ngắn này, ta thấy hình tượng con người nhỏ bé là hình tượng duy nhất và xuyên suốt truyện. Ngay tiêu đề và đề từ đã cho ta phần nào thấy được dụng ý của nhà văn: “Cỏ gày thì bay khỏi bãi”. Từ những dòng mở đầu truyện, nhà văn đã khắc họa hình ảnh bác Averki - một người nông dân nghèo khổ, sức khỏe không tốt nhưng vẫn phải đi làm thuê. Vẻ khắc khổ được thể hiện ngay ở ngoại hình nhân vật: “Người bác to cao và cục mịch: rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói chung to nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt” [4, tr.116]; “Đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, ươn ướt, bộ râu ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gày guộc” [4, tr.116]. Ngay từ vẻ bề ngoài đã cho thấy cái nghèo khổ của người nông dân lam lũ, ốm đau bệnh tật nhưng vẫn phải đi làm thuê làm mướn kiếm sống. Qua đó cũng cho thấy vẻ yếu ớt, bạc nhược xuất phát từ thân phận những con người nhỏ bé không có tiếng nói trong xã hội. Tại sao lại có sự trái ngược trong ngoại hình của bác Averki: “cái vẻ cục mịch nơi đồng ruộng ấy lại được kết hợp với cái vẻ đáng mến của bác”[4, tr.116]. Tất nhiên, đó không phải là Bunin vô tình nhấn mạnh mà đó là dụng ý của nhà văn. Cách hành xử của nhân vật cũng có sự mâu thuẫn ai bảo gì cũng làm mặc dù bản thân có ý kiến riêng của mình. Điều đó có nghĩa dường như chính thân phận cơ cực, nghèo khổ đã đẩy bác đến chỗ nhẫn nhục và bất lực , bởi bác sinh ra vốn không hề bạc nhược, yếu hèn, chính hoàn cảnh đã thay đổi bác nông dân ấy.

Cảm giác của người đọc từ đầu tới cuối truyện là sự xót xa. Những ngày tháng ốm đau bệnh tật lại là thời gian để bác nhìn lại cuộc đời mình, nghĩ về những người thân yêu nhất. Cuộc đời của bác cũng dần được hé mở. Một số kỉ niệm đẹp cũng xuất hiện với mật độ thưa thớt nhưng nó không đủ xoa dịu thực tế cay đắng mà nó như nhấn sâu thêm thực tế cay đắng cũng như dài liên miên trong những ngày vất vả của cuộc đời. Những kỉ niệm đẹp đó dường như đã trở thành những thứ đồ quý hiếm mà bác nâng niu, trân trọng và lặp đi lặp lại trong cuộc đời đến phút cuối. Người nông dân ấy, ngay cả khi cái chết cận kề vẫn lo lắng chuyện miếng ăn, mà nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của bác cũng là miếng ăn: “Những nỗi gian lao cuối cùng trước khi chết đã đến với bác, nhưng dù sao bác cũng vẫn cố không để mất những món ăn ngọt ấy khi bác lê bước tới căn nhà gỗ này”[4, tr.117]. Cuộc sống của những người nông dân nghèo đói luôn là như vậy, họ luôn phải lo lắng đủ điều, từ miếng cơm, đến những bộ quần áo hay những chi tiêu khác. Tưởng như sự lo lắng không bao giờ rời bỏ bác bởi cuộc sống khổ cực bắt bác phải lo cả cái điều: “Nếu mau mau chóng chóng mà chết, thì dĩ nhiên chẳng có gì phải suy nghĩ nữa rồi. Thế nhưng ngộ nhỡ chưa chết ngay thì sao?” [4, tr.119].

Cuộc sống khó khăn, ốm đau bệnh tật đeo bám, nhưng cuộc đời còn đem đến cho bác một bất hạnh nữa đó chính là việc chứng kiến sự ích kỉ, thô lỗ, phóng đãng của chàng rể. Cả cuộc đời bác chỉ có vợ và con gái là hai người thân yêu nhất. Nhưng khi đối diện với cái chết, bác lại trở nên cô độc bởi những người xung quanh bỏ quên bác, càng buồn tủi hơn khi vào thời điểm bác từ giã cuộc đời thì cô con gái không ở bên cạnh bác mà cô còn bận đi dự lễ đính hôn của một người bạn còn vợ của bác cũng không biết gì cả. Đó là nỗi bất hạnh của một con người sống khổ cực cả một đời nhưng khi chết vẫn cô độc không ai bên cạnh, kể cả những người thân yêu nhất cũng không có mặt. Những bất hạnh trong cuộc đời đói nghèo, cơ cực, cô độc khiến cái chết của bác trở nên nhẹ nhàng hơn bao giờ hết. Bác Averki là biểu tượng cho nỗi bất hạnh của những con người nhỏ bé, sự bất hạnh được tái hiện cụ thể qua một con người tồn tại có thực.

Mặc dù hình tượng những con người nhỏ bé xuất hiện không nhiều nhưng nó cũng đủ tạo nên một dấu ấn đặc trưng. Xuất hiện trong những truyện ngắn của I. Bunin là những con người có cuộc đời bất hạnh nhưng ở họ vẫn thấp thoáng những kỉ niệm tươi đẹp, nội tâm phong phú, một tấm lòng chân thành và một trái tim nhân hậu. Hình tượng này đã góp phần thể hiện rõ khuynh hướng sáng tác của Bunin.

1.6. Hình tượng quý tộc nhỏ sa sút

I.Bunin xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhỏ sa sút, bởi thế ông có những trải nghiệm về cuộc sống của tầng lớp này. Khi ông còn nhỏ, gia đình của ông cũng phải quay về một vùng quê ở Orlov. Ông lớn lên giữa nghèo khó, thiếu thốn cũng như những kỷ niệm, dấu vết về một quá khứ vàng son của gia đình. Nỗi buồn, sự hối tiếc và cả nỗi đau khi chứng kiến gia đình, ngôi làng của mình ngày càng cạn kiệt và đổ nát là những cảm xúc rất thật mà nhà văn đã trải qua.Trong những truyện ngắn của Bunin, hình tượng quý tộc nhỏ sa sút không xuất hiện thường xuyên và nổi bật như hình tượng người phụ nữ; không khiến người đọc cảm thấy xót thương như hình tượng những con người nhỏ bé. Nhưng hình tượng này lại là hình tượng đem lại giá trị hiện thực rất rõ nét. Dưới ngòi bút của Bunin, tầng lớp này được khắc họa khá đậm nét khi đang sống trong nỗi lo bị phá sản.

Hình ảnh điền chủ, quý tộc nhỏ sa sút gắn với khung cảnh của những trang trại xơ xác, tiêu điều. Khung cảnh ấy là khung cảnh còn xót lại của một quá khứ tươi đẹp: “cổng lò rèn và kho chứa củi, vựa thóc và chuồng ngựa, đều đã mở tan hoang: đâu đâu cũng đều trống rỗng, trơ trụi; trong sân cũng thảy đều hết sạch trơn cả rồi” [3, tr.119]; “Giấy đã phai, đã bạc màu, nhưng còn mang nhiều hình bầu dục, hình vuông sâm. Căn buồng này trước đây bao giờ cũng treo các ảnh in trên kim loại và vài bức tranh khắc cổ kính nho nhỏ và ở một góc buồng là những tượng thánh” [3, tr.120]. Trong không gian ấy, chân dung người điền chủ được khắc họa méo mó, thảm hại, ngay từ ngoại hình: “bộ mặt ngăm đen, nặng trịch, một bộ mặt đầy những đường hằn và những vết nhăn hằn học, với bộ ria nhuộm màu xanh đen; đôi mắt long lanh một cách khắc nghiệt”[3, tr.121] và cả tâm hồn cũng trở nên méo mó vì sự giận dữ, hận thù vô cớ: “Voeikov lấy gậy phang vào một khung cửa sổ rồi phang sang chiếc khác..Kính vỡ rơi loảng xoảng”[3, tr.120]. Ở đây, ta thấy hành động ra lệnh xử tử lũ chó là đỉnh cao của sự tức giận. Bên cạnh đó, ta thấy hình ảnh lũ chó giãy giụa, chống chọi được ví như sự giãy chết của tầng lớp này. Cái kết dành cho chúng đau đớn đến tuyệt vọng: “con chó bị lôi hẫng hai chân sau lên co giật và quằn quại hai chân trước, cố níu lấy đám đất lổn nhổn (...) cái lưỡi tím đen của nó thè ra, mặt nó nhăn nhó để lộ ra hai hàng lợi màu san hô, ánh nắng ban ngày phản chiếu trong cặp mắt màu nho lờ đờ của nó đã bắt đầu mờ mịt đi” [3, tr.124]. Và rút ra những kết luận: “Chó thì cũng như người, người hơn chó nhiều mà còn bị xử tử nữa là” [3, tr.125]. Như vậy có thể thấy hình tượng quý tộc nhỏ sa sút này chính là hiện thân của một kẻ hết thời, khánh kiệt, phải từ bỏ vị thế của mình và phải bán đi mảnh đất cha ông để lại. Quá khứ lừng lẫy đã khép lại.

Tiểu kết

I.Bunin là nhà văn đem lại sự đổi mới cho thể loại truyện ngắn nước Nga, mỗi truyện ngắn của ông vừa là một áng văn xuôi vừa là một bài thơ. Những nhân vật trong truyện ngắn của Bunin được nhìn nhận và tiếp cận từ những giá trị tinh thần. Dù không được đặt vào những tình tiết hay sự kiện hấp dẫn, những bi kịch lớn, nhưng không vì thế mà nhân vật trong truyện ngắn của ông mờ nhạt, những nhân vật ấy được khắc họa rõ nét khiến cho người đọc hiểu hơn về con người Nga , tâm hồn Nga.

Những nhân vật xuất hiện nhiều lần, lặp đi lặp lại, đó là nhân vật người phụ nữ, nhân vật người nông dân, nhân vật những con người nhỏ bé. Họ được nhà văn xây dựng nên không chỉ đơn thuần là nhân vật trong truyện, mà nó được nhà văn biến thành những biểu tượng. Bên cạnh đó, Bunin còn vẽ nên bức tranh thiên nhiên Nga chỉ còn trong kí ức khiến cho người đọc mặc dù chưa từng được đặt chân đến mảnh đất Nga cũng có thể hình dung ra được những nét đẹp về thiên nhiên trên vùng đất này.

Qua việc xây dựng những hình tượng con người, hình tượng thiên nhiên, ta thấy được tài năng của một nhà văn hiện thực, ông đã cho người đọc thấy được hiện thực xã hội Nga cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX qua các trang văn của mình.
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.