Newsfeed

forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...
I - GỢI DẪN

1. Nhật kí trong tù là tập thơ có giá trị văn học rất lớn của Hồ Chí Minh, được viết bằng chữ Hán nên có rất nhiều điểm gần với thơ Đường. Với những bài Đường luật xinh xắn về hình thức, nồng nàn về cảm xúc,... tác phẩm thể hiện tài năng, tấm lòng, tâm huyết và nhân cách Hồ Chí Minh với cả hai tư cách nghệ sĩ và chiến sĩ.

2. Bài thơ Chiều tối đã thể hiện đầy đủ và khá điển hình đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ cuốn nhật kí bằng thơ của Hồ Chí Minh, đó là vẻ đẹp cổ điển về hình thức và hiện đại về cảm hứng, toát lên phong thái ung dung tự tại của một người Cộng sản. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, Người cũng phát hiện được những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý của cuộc sống.

3. Bài thơ tả cảnh chiều tối ở một sơn thôn. Bức tranh phong cảnh ấy được bố cục làm hai phần :

- Hai câu đầu: tả cảnh vật trong buổi chiều tối. Tất nhiên đây là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù, vì vậy nó là cảnh thật nhưng có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất hoạ, vừa có khả năng gợi cảm. Sự mệt mỏi của cánh chim, sự cô đơn của đám mây chiều là tâm trạng của người tù đang tha phương.

- Hai câu sau: bức tranh bừng sáng bởi "lô dĩ hồng". Bản lĩnh cứng cáp đã giúp người tù nhanh chóng thoát khỏi cô đơn và mệt mỏi để phát hiện ra sức sống. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.

Bài thơ thể hiện tài năng sáng tạo thơ "thi trung hữu hoạ" của Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện bản lĩnh của người cộng sản.

II - KIẾN THỨC CƠ BẢN

Chiều tối là bài thơ tiêu biểu rút trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại một cách chân thực cảnh người tù sau một ngày chuyển lao mệt nhọc. Ở đó người đọc nhận ra thế giới tâm hồn người tù Hồ Chí Minh là tình yêu thiên nhiên cuộc sống tha thiết, là khao khát ý chí và bản lĩnh người cách mạng. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh: vừa cổ điển, vừa hiện đại.

Hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên mở ra những hình ảnh cụ thể: cánh chim, chòm mây, bầu trời, núi rừng.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không ;


(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không ;)

Không gian rừng núi có vẻ âm u hoang vắng gợi ra sự rộng lớn mênh mông. Thời gian chiều ngả dần về tối là thời gian nghệ thuật quen thuộc trở đi trở lại trong các tác phẩm thi ca. Nghệ sĩ xưa thường mượn thời gian chiều tối để gửi gắm tiếng lòng mình, để nương náu nỗi buồn của mình. Ca dao xưa có câu :
Chim bay về núi tối rồi​

hay trong Truyện Kiều :
Chim hôm thoi thót về rừng,

Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.​

Đọc câu thơ của Hồ Chí Minh khiến người đọc nhớ tới những tứ thơ của người xưa, ý thơ mang đậm sắc thái cổ điển.

Nỗi lòng, tâm trạng người tù sau một ngày chuyển lao vất vả, nhọc nhằn, mệt mỏi được hiện lên qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt. Nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" được sử dụng thành công khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tiếng nói của tâm trạng con người. Chòm mây trong cái nhìn của người tù là chòm mây cô đơn. Người đọc không chỉ cảm nhận được sự nhọc nhằn, mệt mỏi của người tù mà còn thấy được cả nỗi cô đơn, buồn khổ của người tù trong cảnh ấy. Bản dịch thơ chưa dịch hết nghĩa nguyên tác, không dịch được chữ trong cô vân. Bởi vậy lời dịch không làm bật lên sự cô đơn lẻ chiếc của cảnh vật cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Từ láy mạn mạn được dịch là "trôi nhẹ" gợi cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Trong cảm nhận của người tù, áng mây chầm chậm, lững lờ trôi trên bầu trời trong cảm giác cô đơn. Người ta tưởng chừng áng mây như ngưng đọng giữa bầu trời chiều. Có một sự vận động mệt mỏi, ý thơ khác hẳn với cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lãng mạn mà "trôi nhẹ" đem lại. Bức tranh thiên nhiên có vẻ hoang vắng, tĩnh lặng, thấm nỗi buồn cô đơn của con người. Hai câu thơ không có một từ nào trực tiếp miêu tả người tù và tâm trạng người tù nhưng qua đó vẫn ẩn chứa hình ảnh người tù trong sự mệt mỏi, nhọc nhằn, trong nỗi buồn và sự cô đơn.

Tất cả cảnh vật thiên nhiên : cánh chim, chòm mây, bầu trời đều là những cảnh vật được cảm nhận từ trên cao, trong không gian cao rộng, khoáng đạt. Người ta nhận ra tư thế người tùtư thế của một con người luôn ngẩng cao đầu với một ý chí, nghị lực mạnh mẽ, với một tâm hồn rộng mở đón nhận vạn vật vào trong lòng mình. Hai câu đầu diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nhưng không gợi cảm giác bi luỵ bế tắc mà vẫn hé mở bản lĩnh, ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng.

Nếu như hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thì hai câu sau miêu tả bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người :​

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.


(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.)​

Hình ảnh "cô em xóm núi" trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh. Hình ảnh con người xuất hiện trở thành tâm điểm của sự sống làm ấm áp cả bức tranh chiều tối hoang vắng, lạnh lẽo. Vẻ đẹp của bức tranh chiều tối được toát lên từ chính vẻ đẹp hoạt động của con người, thể hiện sự khoẻ khoắn, niềm tin và khát vọng mạnh mẽ của con người. Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn : ma bao túc, bao túc ma. Hoạt động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. Ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng điều kì diệu chính ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà cùng nhịp điệu trong cuộc sống lao động của con người. Nhịp thời gian trở thành nhịp của sự sống. Tứ thơ của Hồ Chí Minh có sự vận động mạnh mẽ, tự nhiên mà khoẻ khoắn.

Câu thơ thứ ba của bản dịch thơ dịch thừa chữ tối. Bài thơ không có từ tối nhưng thời gian tối của bức tranh được gợi ra từ chính hình ảnh "lò than rực hồng". Có một sự đối lập tương phản giữa ánh sáng của lò than với bóng tối của xóm núi. Chỉ cần nhìn lò than đỏ, người ta cũng nhận ra bóng tối đã về bao trùm vạn vật. Bút pháp "vẽ mây nảy trăng" được sử dụng thành công.

Bức tranh chiều tối đến đây không buồn bã, thê lương, ảm đạm mà tràn đầy sự sống ấm áp tươi sáng, từ nỗi buồn thương đến niềm tin vui thể hiện một hồn thơ luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai.

Bài thơ kết lại bằng chữ hồng. Bài thơ mang tên Chiều tối nhưng không kết thúc bằng bóng tối mà kết thúc bằng ánh sáng màu sắc rực rỡ. Chữ hồng chính là nhãn tự của bài thơ, thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ hồng.

Bài thơ Chiều tối kết lại bằng niềm tin tưởng, bằng khát vọng dâng đầy của người cộng sản. Đặt trong thân phận tù ngục, người ta vẫn nhận ra hình ảnh một con người Hồ Chí Minh với tình yêu thiên nhiên rộng lớn, với một khao khát sự sống mạnh mẽ và một ý chí, nghị lực kiên cường, một niềm tin cháy bỏng.​
Thêm
2K
2
1
Đây là bài thơ rất nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi người còn bị giam giữ bất hợp pháp ở Trung Quốc.
Mình rất thích chất trữ tình triết luận của Bác trong tập thơ.
 
  • Like
Reactions: Văn Học
Viết trả lời...
Lai tân là một trong những tác phẩm đặc sắc trong “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh. Cùng đến với những bài cảm nhận bài thơ Lai tân hay nhất để hiểu rõ hơn những hiện thực cuộc sống và cảm xúc Hồ Chí Minh truyền tải qua câu chữ.

Cảm nhận bài thơ Lai tân hay nhất.png

1. Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Lai tân (Chuẩn)​

Nguyễn Ái Quốc, một tượng đài chính trị và văn học trong lịch sử dân tộc Việt Nam, người đã có công cống hiến một số lượng khổng lồ thơ ca vào văn hóa nhân loại. Nổi bật nhất trong sự nghiệp của Người là tập thơ “Nhật kí trong tù” được sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại Quảng Tây. Lai Tân là một trong những bài thơ hay nhất được trích từ tập thơ này. Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực và trào phúng xã hội Trung Hoa dưới chế độ Tưởng Giới Thạch, một xã hội thối nát, xập xệ, tệ nạn đầy rẫy từ những kẻ được coi là “công nhân viên chức ăn lương nhà nước”.

Toàn bài thơ là giọng văn mỉa mai, châm biếm, vừa tả thực, vừa trào phúng nhằm tái hiện hiện thực xã hội đương thời.

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc.

Tác giả cố ý khắc họa sự mâu thuẫn trong không gian bé nhỏ, nhà lao nơi bản thân bị giam cầm. Mâu thuẫn ở đây được xây dựng dựa trên danh phận và hành động đối lập của những quan chức trong nhà giam. Bộ máy thống trị thu nhỏ lại còn “ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng”, có nhiệm vụ là quản lý các phạm nhân, trông coi trại giam và báo cáo những sai phạm về cấp trên. Nghe có vẻ thật quan trọng, đạo mạo và vất vả, nhưng thực tế, đó chỉ là cái mác cho hàng loạt những hành động khuất tất, phi pháp. Từng “ông quan” hiện lên với những chức vụ to tát nhưng hành động lại đớn hèn, mạt rệp, khoác lên mình vỏ bọc “trưởng” này “trưởng nọ”, chức quyền vọng trọng để dễ bề thống trị.

Đầu tiên là “ban trưởng”, một cái ghế to như thế nhưng kẻ ngồi trên nó hóa ra là tay “chuyên đánh bạc”; tiếp theo là “cảnh trưởng” làm nhiệm vụ giải người, nhưng công việc chính của hắn ta qua con mắt quan sát của tác giả là “kiếm ăn quanh”, bóc lột của phạm nhân, tham nhũng, nhận hối lộ; cuối cùng là tên “huyện trưởng” mẫu mực “chong đèn”, “làm công việc”, nhưng cái công việc đó chính là hút thuốc phiện. Quả là những công việc đầy trách nhiệm! Tưởng chừng như những đầu não chính quyền được cử xuống đất Lai Tân với mục đích quán xuyến dân chúng, trông coi và cải tạo phạm nhân, nhưng chính bọn chúng lại là những tên tội phạm ngang nhiên hoành hành. Ở cái nơi giam cầm những kẻ phạm tội, những tên tội phạm lại thản nhiên hoành hành. Bộ mặt thật đằng sau cái mác hào nhoáng của Trung Quốc, ba nhân vật biểu tượng cho các tầng lớp quan chức trong chế độ Tưởng Giới Thạch, những con người được coi là cánh tay đắc lực của chính quyền, trông coi, cải tạo và áp giải tù nhân phạm tội thực chất là những kẻ mạt rệp, những tên tội phạm với nhân cách tha hóa được nhà nước bảo trợ. Viết như vậy, tác giả không chỉ mỉa mai, lên án ba tên quan kia mà muốn nhắc đến cả một hệ thống, một bộ máy chính quyền thối nát, mục rữa dưới thời Tưởng Giới Thạch. Để cho những kẻ như vậy nắm quyền cai trị, quản lý huyện Lai Tân, phải chăng, ngay đến cả Trung Hoa Đại lục cũng đang bị thống trị bởi những kẻ dốt nát, đớn hèn và độc ác. Qua vài câu thơ vừa tả thực vừa châm biếm, Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày những góc khuất, những mặt trái tối tăm của xã hội thời bấy giờ, nơi một tên bạo chúa được mặc sức tung hoành, áp đặt, dân chúng lầm than, đói khổ, chính quyền tha hóa, cặn bã.

Chính trong hoàn cảnh bị những kẻ ngu dốt lộng quyền, “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” là một câu nói đầy sâu cay và mỉa mai. Xã hội được cai quản bằng những kẻ như vậy nhưng vẫn yên ổn, “thái bình”. Thái bình ở đây là cái vỏ bọc bên ngoài nhằm đánh lừa dân chúng, ẩn sâu bên trong là bộ máy thống trị ngu dốt, thối nát, ngay cả quan lại cũng tha hóa, cặn bã. Mảnh đất Lai Tân thái bình thịnh trị êm ấm thì ra bên trong là như vậy, mở rộng ra là cả xã hội Trung Quốc mục ruỗng đến xương tủy nhưng ngoài mặt vẫn phải tỏ ra thờ ơ, làm như những tệ nạn kia không hề tồn tại. Từ “vẫn” vừa thể hiện thái độ ngạc nhiên, vừa như đã biết trước, chẳng có gì lạ kì trước sự “thái bình” một cách phi lý. Một chế độ loạn lạc, một bộ máy dột từ nóc như vậy nhưng vẫn cai quản được cả vùng đất thái bình, thái bình ở đây là như thế nào, hay tất cả chỉ là bộ mặt lừa lọc, giả dối, tạo điều kiện cho những tên quan lại phạm tội được mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu dân chúng, bòn rút tiền của nhân dân. Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp lên án và đả kích thậm tệ Tưởng Giới Thạch và chế độ quân chủ tập quyền tàn ác, xấu xa, giống như một cái tát vào những lời dối trá của Trung Hoa dân quốc. Một câu thơ rõ ràng là khen ngợi, nhưng đặt trong hoàn cảnh đó, không chỉ là một lời bóc mẽ mà sâu xa hơn nữa, đó là lời lên án, là tiếng nói thay mặt cho nhân dân, những nạn nhân của chủ nghĩa độc tài cay nghiệt và tàn bạo.

Bài thơ hàm súc, ngắn gọn với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã vạch trần bộ mặt thật của đám quan lại tham ô, bẩn tưởi nói riêng và cả bộ máy chính quyền Trung Hoa nói chung thời bấy giờ. Tiếng cười bật thốt lên đã thay cho tiếng tố cao mạnh mẽ nhất, quyết liệt nhất. Tác gỉả cực kì thành công trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh đối lập, mâu thuẫn, qua đó khắc họa chân thực và rõ nét toàn cảnh chế độ đương thời.


2. Cảm nhận bài thơ Lai tân hay nhất - Bài văn mẫu số 2​

Qua bài “Lai Tân” ta cảm nhận được ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đấu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ. bài thơ đã cho ta hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác và hiểu thêm xã hội Tưởng Giới Thạch.
“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố’”trữ tình” và “hiện thực”,”Lai Tân” là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.

Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:

“Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”


Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có ‘thể thẳng tay đập vào mặt bọn thống trị những cái tát giáng trời:

“Ớ phố Hàng Song thật lắm -quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn”
(Lắm quan)


Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm .biếm sâu cay bọn thống trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngóc ngách bên trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả “Lai Tân” đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”,”cảnh trưởng”, “huyện trưởng cái chức “trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chữ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “có tình” dùng phép lặp của Bác trong vỉệc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải”.

Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý’ để làm những việc “bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm.

Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.

Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì.

Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”. Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “io việc riềng”, “chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chính quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).

Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!

Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh cũng là một bài văn mẫu mà các em có thể tham khảo, qua đó nắm rõ được cảm nhận của tác giả về sự thối nát của nhà tù Trung Quốc thời bấy giờ để vận dụng vào viết bài.

3. Bài văn mẫu cảm nhận ngắn gọn về bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh​

Ở tập thơ Nhật kí trong tù có rất nhiều bài thơ viết dưới hình thức Nhật kí. Ở đó, Bác đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, tập hợp những điều này ta được một bức tranh hiện thực về chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch (bài Bốn tháng rồi, Chia nước, Trăng). Điều đáng nói là tác giả không chỉ ghi lại một cách vô tình dửng dưng mà qua những bài thơ này người đọc cảm nhận được thái độ lên án tố cáo sâu sắc. Lai Tân là một bài thơ như vậy. Ba câu thơ đầu là hiện thực được quan sát bằng trực giác: 3 con người, 3 chức vị, 3 hành động rất khác nhau. Đây chính là bức tranh đa dạng nhưng nhốn nháo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. “Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ – Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Đánh bạc là hành động quốc cấm vậy mà ban trưởng lại chuyên đánh bạc (thiên thiên đổ). Ngày nào cũng phạm tội, phạm pháp nhưng lại là người duy trì luật pháp.

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền – Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”. Cảnh trưởng tìm cách bòn rút móc túi tù nhân bằng cách đe dọa chuyển lao, giải sang phòng khác. “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự – Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”. Huyện trưởng chong đèn làm công sự. Hình ảnh này có hai cách hiểu: thứ nhất, huyện trưởng thường xuyên chong đèn hút thuốc phiện suốt đêm. Thứ hai huyện trưởng chong đèn làm việc vào ban đêm gợi người đọc liên tưởng đến sự khuất tất, tăm tối bất chính chứ không hề mẫn cán. 3 hình ảnh trên đã tạo lên một bức tranh toàn cảnh rất độc đáo về bộ mặt của bọn quan lại Tưởng mà nét nổi bật là sự vụ lợi, hoàn toàn vô trách nhiệm. Đây chính là sự thối nát, mục ruỗng của chế độ Tưởng Giới Thạch.

Câu thơ kết với vị trí là lời kết luận là một cách nhận xét cách đánh giá chung về bộ máy cai trị của chế độ Tưởng Giới Thạch với ý nghĩa mỉa mai châm biếm rất sâu xa. “Lai Tân y cựu thái bình thiên – Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Câu thơ nghe có vẻ dửng dưng vô cảm nhưng nó lại chứa đựng một tiếng cười một sự mỉa mai thâm thúy. Nó bóp trần bộ mặt của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Học giả Hoàng Trung Thông từng nhận xét: “Chữ thái bình có thể coi là nhãn tự của nhà thơ. Chỉ một chữ “thái bình” mà xé toang tất cả sự dối trá để người đọc thấy được sự đại loạn bên trong”. Tất cả những sự thối nát kể trên là chuyện bình thường không có gì là bất thường. Từ đây ta có thể suy ra chế độ của Tưởng là đánh bạc bóc lột người tù, hút thuốc phiện ăn đút lót.

Tất cả những điều đó đã trở thành công việc hàng ngày trở thành nề nếp ở đây. Mặt khác bài thơ này ra đời năm 1942, lúc ấy phát xít Nhật đang xâm chiếm Trung Quốc, nhân dân đang chiến đấu hi sinh vì vận mệnh đất nước Trung Quốc đang lâm nguy. Vậy mà bọn quan lại ở đây vẫn ung dung, dửng dưng mặc kệ sự đời mà ra sức vơ vét cho cá nhân, ta càng thấy rõ sự thối nát vô trách nhiệm trước nhân dân, Tổ quốc, của bộ phận quan lại chế độ này. Lai Tân là một bài thơ châm biếm thể hiện rất rõ cốt cách thơ trào phúng của Hồ Chính Minh. Không đao to búa lớn, không chỉ trích gay gắt, cứ nhẹ nhàng mà hiệu quả lại rất cao. Bài thơ cũng thể hiện tài sử dụng ngôn ngữ rất tinh tế, nhẹ mà sâu của tác giả trong bối cảnh lao tù.

4. Cảm nhận về bài thơ Lai Tân trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh​

Một nội dung của tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là ghi chép những điều tai nghe mắt thấy hàng ngày của tác giả trong nhà tù và trên đường chuyển lao, đem đến cho nhiều bài thơ tính hướng ngoại và yếu tố tự sự, tả thực. Nhờ thế, tác phẩm đã tái hiện được bộ mặt đen tối của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc rất tỉ mỉ, chi tiết như một cuốn phim tư liệu có sức phê phán mạnh mẽ. Tập thơ còn cho thấy một phần của tình trạng xã hội Trung Quốc vào những năm 40 của thế kỉ XX. Bài thơ Lai Tân là một trong những bài thơ trong tập thơ có nội dung hiện thực như vậy.

Lai Tân là nơi mà Hồ Chí Minh đã trải qua trên con đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây. Bài thơ mang tên địa danh này là bài thơ thứ 97 trong số 134 bài thơ của tập Nhật kí trong tù, nó cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt đẹp.

Một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật thường có bốn phần, mỗi phần một câu có chức năng nhất định trong việc kết cấu và biểu đạt ý nghĩa của bài thơ.

Bài thơ Lai Tân thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật nhưng có kết cấu khá đặc biệt. Tính chất đặc biệt này bắt nguồn từ dụng ý châm biếm của tác giả, đồng thời thể hiện tài năng của tác giả trong việc kết cấu một bài thơ châm biếm theo thể thơ vốn rất trang trọng và nghiêm ngặt.

Bài thơ chia làm hai phần rõ rệt, chứ không phải bốn phần như thể Đường luật. Phần đầu gồm ba câu đầu, viết theo lối tự sự. Phần hai chỉ có câu cuối mang tính chất biểu cảm. Phần tự sự kể lại việc Ban trưởng ngày ngày đánh bạc, Cảnh trưởng giải tù và bóc lột họ, Huyện trưởng đêm đêm chong đèn hút thuốc phiện. Phần biểu cảm là thái độ của nhà thơ trước những hiện thực được chứng kiến.

Xét về kết cấu, hai phần trên có liên hệ với nhau rất chặt chẽ và vững chắc. Nếu chỉ có một phần thì kết cấu sẽ bị phá vỡ, bài thơ không còn nhiều ý nghĩa, nhất là nếu mất đi câu cuối thì sẽ mất ý nghĩa châm biếm, đả kích, mặc dù ba câu đầu đã thể hiện sự phê phán. Tính liên kết chặt chẽ trong kết cấu đã làm nổi bật mâu thuẫn giữa sự bất an và thái bình, tạo nên tiếng cười chua cay trước hiện thực sống.

Bài thơ được viết vào giai đoạn đất nước Trung Quốc bị phát xít Nhật xâm lược, nhân dân Trung Quốc phải rên xiết dưới sự thống trị của ngoại bang và sâu mọt trong bộ máy quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch. Ba câu đầu trong bài thơ ghi lại hiện thực trong nhà tù. Đó là công việc thường ngày của ba viên quan lại tiêu biểu cho bộ máy chính quyền ở Lai Tân. Ban trưởng nhà giam thì ngày ngày đánh bạc, Cảnh trưởng bòn rút ngay cả của người tù, Huyện trưởng siêng năng đến độ phải chong đèn vào ban đêm để hút thuốc phiện. Đọc câu thơ cứ ngỡ là Huyện trưởng siêng năng đang làm việc vào ban đêm, nhưng đặt công việc vào hoàn cảnh chung của Ban trưởng và Cảnh trưởng thì rõ ràng Huyện trưởng đang làm công việc bất thường. Cảnh tượng hoàn toàn không bình thường đối với một bộ máy quan lại của chính quyền nghiêm chỉnh. Câu kết bài thơ lại tạo ra một nghịch lí: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Câu thơ không có gì là bất thường cả, guồng máy cai trị ở Lai Tân xưa nay vẫn phán công việc một cách rành mạch: Ban trưởng đánh bạc, Cảnh trưởng hối lộ, Huyện trưởng hút thuốc phiện. Cả bộ máy là một sự yên ổn, thái bình.

Sự thối nát của bộ máy chính quyền đã hết sức trầm trọng, cái xấu, cái vô kỉ cương đã trở thành phổ biến, thậm chí đã trở thành một nếp sống thường ngày. Và đó chính là sự thái bình trong cuộc sống của quan lại Lai Tân.

Bộ mặt quan lại nhà tù Lai Tân được Hồ Chí Minh khắc họa đầy đủ, rõ nét với chỉ bốn câu thơ. Không những thế, bài thơ còn phê phán tình trạng thối nát phổ biến của bọn quan lại và xã hội Trung Quốc dưới thời cẩm quyền của Quốc dân đảng. Nghệ thuật châm biếm của bài thơ được tạo nên từ hai yếu tố cơ bản là mâu thuẫn và giọng điệu.

Một trong những bút pháp để tạo ra tiếng cười trong nghệ thuật trào phúng là khai thác mâu thuẫn trái tự nhiên. Ở đây, mâu thuẫn được tạo dựng bởi kết cấu bài thơ. Ba câu đầu kể về những việc bất bình thường theo lẽ thường. Lẽ ra với những gì trình bày trong ba câu trên, tác giả phải kết luận bằng một câu phơi bày thực trạng xã hội, nhưng ngược lại, tác giả lại kết luận Trời đất Lai Tân vẫn thái bình, cái bất thường bỗng chốc trở thành cái bình thường. Đó là tiếng cười được tạo ra một cách chua cay.

Để tiếng cười trở nên mạnh mẽ, sâu sắc và độc đáo, tác giả đã đưa ra tới ba hình tượng (Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng) gắn liền với ba hiện tượng (đánh bạc, ăn hối lộ, hút thuốc phiện) và không dùng lại ở đó, Hồ Chí Minh còn nâng sự việc lên tầm phổ quát và phổ biến bằng các từ lập lại như ngày ngày, đêm đêm, y nguyên như cũ.. Những hiện tượng đó đủ để chúng ta kết luận xã hội Lai Tân đang rối loạn. Nhưng bất ngờ thay, tác giả lại kết luận là đang thái bình. Hóa ra, rối loạn hay thái bình không còn phụ thuộc ở hiện thực khách quan theo logic tự nhiên nữa mà phụ thuộc vào cách nhìn hiện thực khách quan đó. Nếu người khác nhìn thì cho đó là loạn nhưng với bộ máy quan lại Lai Tân thì cho đó là thái bình. Người đọc luôn cười nhưng lại là điệu cười chua chát vì sự thật đã bị bóp méo một cách trần trụi, lẽ thường cuộc sống đã bị chà đạp không thương tiếc.

Giọng điệu thơ chính là giọng điệu tâm hồn nhà thơ, nhà thơ không bao giờ tạo nên tiếng cười dễ dãi. Hồ Chí Minh chắc hẳn đã rất bất bình khi chứng kiến những cảnh tượng như thế. Vậy tại sao tác giả không dùng giọng điệu đanh thép, phẫn nộ mà có vẻ bình thản, nhẹ nhàng? Với bút pháp hiện thực, hơn nữa đây là hiện thực trào phúng nên tác giả đã giữ đúng thái độ khách quan nhằm mang lại giá trị phản ánh lớn nhất. Sự bình thản của Hồ Chí Minh cho ta cảm giác Người không có ý phê phán hoặc trào phúng gì cả. Tuy nhiên, với giọng thơ ấy, tác giả đã tạo ra sự đả kích mạnh mẽ, quyết liệt. Đó chính là nét độc đáo của bút pháp Hồ Chí Minh trong bài thơ.
Thêm
  • Like
Reactions: Triều Anh
1K
1
0
Viết trả lời...
Trong cảnh tù đày, Hồ Chí Minh đã chứng kiến bao sự thật về xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Lai Tân là nơi mà Người đã trải qua trên con đường từ Thiên Gian đến Liễu Châu thuộc tĩnh Quảng Tây. Bài thơ mang tên địa danh này là bài thơ thứ 97 trong số 134 bài thơ của tập Nhật kí trong tù, nó cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là êm ấm, tốt lành. Cùng tới với bài viết Soạn bài Lai tân cùng phân tích, tìm hiểu nội dung bài học để hiểu rõ hơn về tác phẩm này.

Soạn bài Lai tân và phân tích thơ.png

(Soạn bài Lai tân và phân tích thơ)

1. Bài thơ Lai tân​

Lai Tân 來賓​

監房班長天天賭,
警長貪吞解犯錢。
縣長燒燈辨公事,
來賓依舊太平天。

Lai Tân​

Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.

Dịch nghĩa​

Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.


Dịch thơ​

Phòng giam Ban trưởng ngày ngày bạc,
Cảnh trưởng tham ăn giải phạm vòi.
Huyện trưởng đốt đèn xem công việc.
Lai Tân như cũ thái bình thôi.


Dịch thơ 2​

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trướng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.


NAM TRÂN dịch

2. Bố cục:​

Chia làm 2 phần:
+ Phần 1 (3 câu thơ đầu) thực trạng quan lại ở Lai Tân
+ Phần 2 ( câu cuối): nghịch lý, sự mỉa mai của tác giả với thực trạng đó

Xem thêm: Những nét chính về tác giả Hồ Chí Minh và tác phẩm Chiều tối

3. Soạn bài Lai tân​

Câu 1 (trang 45 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Bộ máy quan lại ở Lai Tân được miêu tả:
- Hàng loạt các quan đứng đầu của bộ máy nhà nước được miêu tả chân thực:
+ Ban trưởng nhà lao thường xuyên đánh bạc làm pháp phạm- Người đánh bạc ở ngoài bị bắt vào nhà giam nhưng trưởng ban nhà lao đánh bạc nhiều hơn ai hết
+ Cảnh trưởng tham ăn tiền của phạm nhân bị giải
+ Huyện trưởng chong đèn – đốt đèn bàn không chú ý tới công việc

Câu 1 và câu 2 tác giả thẳng thắn lên tiếng nói về hiện trạng của những kẻ cầm đầu chính quyền nhưng không có trách nhiệm, không làm đúng chức trách
→ Hình ảnh bộ máy cai trị của chính quyền Tưởng Giới Thạch đều thối nát, mục ruỗng. Quan trên lo hưởng lạc, quan dưới tham nhũng, ăn chơi.

Câu 2 (trang 45 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Câu thơ cuối đối lập hoàn toàn với 3 câu thơ đầu tiên, bài thơ kết thúc bằng câu thơ cuối nhẹ nhàng
- Khi bộ máy chính quyền thối nát, lộng hành mà “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
- “Thái bình” chính là nhãn tự, là trục hút châm biếm của cả bài thơ.
+ Tình trạng đó là chuyện bình thường, bản chất của bộ máy cai trị. Chỉ một chữ mà nêu bật lên bản chất dối trá, đại loạn bên trong
- Lối châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay, có tác dụng lật tẩy bản chất của cả bộ máy chính quyền Lai Tân
→ Đòn đả kích độc đáo, bất ngờ, sâu cay

Câu 3 (trang 45 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Kết cấu của bài thơ chặt chẽ, logic, tạo bất ngờ:
- Ba câu đầu để kể sự việc
- Điểm nhấn mạnh câu thứ tư, nêu bật toàn bộ tư tưởng của bài thơ.
→ Mở ra những ý mỉa mai châm biếm, hướng tới sự thối nát tận cùng của xã hội Tưởng Giới Thạch.
- Bài thơ in đậm cái bút chấm phá của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, súc tích nhưng có tính bao quát
- Chất “thép” của bài thơ nằm ở sức chiến đấu, lời thơ nhẹ nhàng mà sức chiến đấu quyết liệt

4. Đọc hiểu văn bản Lai Tân

1. Ba câu đầu
- Ba câu thơ tự sự (kể), ghi lại hình ảnh một cách tự nhiên, như chụp lại hiện thực, giúp ta thấy rõ cảnh tượng, hoạt động của nhà giam Lai Tân.
- Ban trưởng nhà giam – con người thực thi pháp luật nơi nhà tù cai quan tù nhân lại chuyên đánh bạc.
- Cảnh trưởng kiếm ăn quanh – hành động của một kẻ cướp cạn, trấn lột xương tủy của tù nhân, rất dơ bẩn và tàn nhẫn.
- Huyện trưởng chong đèn làm công việc – cứ ngỡ là đang thâu đêm suốt tháng để lo công việc, đắm chìm trong công việc quên cả nghỉ ngơi. Nhưng không – đó là đang hút thuốc phiện – người có chức vụ lớn thì lại thờ ơ, vô trách nhiệm, chìm ngập trong tận cùng của tệ nạn.
⇒ Sự thực của bộ máy chính quyền Lai Tân: thối nát, vô trách nhiệm. Tạo mâu thuẫn (tiếng cười châm biếm chỉ bật lên khi tạo được mâu thuẫn) với câu cuối.

2. Câu cuối
- Ba tiếng thái bình thiên một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, bất ngờ (người đọc chờ một câu kết tựa như một cú đòn sấm sét, hạ gục đối thủ).
- Giọng điệu có vẻ dửng dưng, nhưng hiệu quả châm biếm thật thâm thuý sâu sắc, đâu cứ phải đao to búa lớn, mới hại gục được đối phương.

5. Phân tích bài thơ Lai tân​

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tôi “trữ tình” và “hiện thực”, Lai Tân là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.

Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:
Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:

Ở phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn
(Phố Hàng Song)

Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngóc ngách bên trong của bộ máy thông trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả Lai Tân đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng", cái chức “trưởng” của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chữ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “cố tình” dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mỗi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng. Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải”.

Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý” để làm những việc “bất công lý” một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sông hình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đổ phạm”. Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.

Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự” vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”. Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “lo việc riêng”, “chong đèn” hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích toả sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).

Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả Lai Tân đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người”. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mỉa kéo dài bắt đầu từ chữ “vẫn” ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao một quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng đó chỉ là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng.

Với “nghệ thuật vẽ đường tròn đồng tâm” tác giả Lai Tân đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương... đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ “Lai Tân” dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”. Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thống; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xấu xa, bỉ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tố cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lên” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”.

Không phải chỉ ở Lai Tân mà ở rất nhiều bài thơ khác của Nhật kí trong tù Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như Trưng binh gia quyến, Đổ, Đổ phạm. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thuý mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”. Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẫm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.

Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế:

Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên
(Đùa ông phủ)


Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. Lai Tân là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác
Thêm
996
0
0
Viết trả lời...
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên từng nói: Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng cũng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng lại càng đẹp. Và thi phẩm Chiều tối của Hồ Chí Minh là một bài thơ như thế. Nhắc đến thơ ca Hồ Chí Minh thì không ai có thể quên được tập thơ Nhật kí trong tù. Đây là tập hợp những bài thơ đặc sắc viết về một hành trình đầy gian khó và thách thức trong cuộc đời hoạt động của Người. Tuy phải sống trong hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt nhưng ở Bác vẫn ngời sáng những phẩm chất tốt đẹp về ý chí và nghị lực. Điều này được bộc lộ xuyên suốt trong tập thơ này, và Chiều tối có thể xem là một trong những trường hợp tiêu biểu:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Những nét chính về tác giả Hồ Chí Minh và tác phẩm Chiều tối.png

Những nét chính về tác giả Hồ Chí Minh và tác phẩm Chiều tối​

Cảm nhận bài thơ Chiều tối với vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật cần nắm được những nét cơ bản về tác giả cũng như tác phẩm.

I. Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh​

Hồ Chí Minh là người con ưu tú của vùng đất Nghệ An. Đây cũng là nơi sinh thành của rất nhiều những tên tuổi nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu Nhắc đến Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam chắc hẳn cảm thấy luôn tự hào và kính trọng bởi Người đã dành cả cuộc đời của mình để đồng hành cùng với nhân dân trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do cho đất nước.

Từ thuở thiếu thời, ngay từ khi còn là một chàng thành niên, Bác đã nuôi trong mình chí lớn được đi ra nước ngoài để học tập những điều tiến bộ có thể giúp đất nước thoát khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm. Ý nghĩ đó đã thôi thúc và giúp Bác đưa ra quyết định vào năm mình vừa 21 tuổi 1911. Thế là Người bắt đầu cuộc hành trình bôn ba khắp các châu lục và hành trình ấy kéo dài đằng đẵng suốt ba mươi năm.

Sau khi lĩnh hội những bài học quý giá từ nước bạn, Bác trở về nước và trực tiếp làm nhiệm vụ lãnh đạo dẫn đường và đến tháng 8 năm 1945, mọi sự nỗ lực và cố gắng của Bác và quân dân đã được đền đáp bằng thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Sau đó, Bác cũng chính là người hiên ngang đứng trước quảng trường Ba Đình để thay mặt nhân dân Việt Nam, tuyên bố với thế giới về sự khai sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự kiện trọng đại trong năm 1945 trong ngày 2 tháng 9 ấy sẽ mãi mãi in sâu vào trong tâm trí của mọi người con Việt Nam. Những năm tháng sau đó, Người vẫn nhiệt thành trong vai trò là người lãnh đạo để tiếp tục giúp dân ta đánh đuổi đế quốc Mĩ thế nhưng khi chưa kịp nhìn thấy nhân dân Nam Bắc sum họp một nhà thì năm 1969, Người đã ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho con cháu ở lại. Tuy nhiên, những cống hiến của Hồ Chí Minh cho nền độc lập nước nhà vẫn sẽ trường tồn cùng năm tháng.

Cùng với những cống hiến cho cách mạng, Hồ Chí Minh cũng để lại cho văn học Việt Nam một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng, thuộc nhiều thể loại khác nhau, một số tác phẩm có thể kể đến như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Tuyên ngôn Độc lập (1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925), Nhật kí chìm tàu (1931), Nhật kí trong tù (1942 1943).

- Hồ Chí Minh (1890 - 1969) xuất thân trong gia đình nhà nho yêu nước
- Thuở bé học chữ Hán sau đó học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, rất am hiểu văn hóa, văn học phương Đông (Trung Quốc) và văn hóa, văn học phương Tây (Pháp) ⇒ hai dòng phương Đông và Phương Tây quyện chảy trong huyết mạch văn chương.
- Quá trình hoạt động cách mạng:
+ 1911: ra đi tìm đường cứu nước.
+ 1918 – 1922: hoạt động Cách mạng trên đất Pháp, tích cực viết báo, viết sách tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa.
+ 1923 – 1941: chủ yếu hoạt động ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.
+ 1942-1943: bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ ở các nhà ngục Quảng Tây, Trung Quốc.
+ 2- 9 – 1945: đọc bản Tuyên ngôn độc lập…
⇒ Vị lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quí giá.

- Các tác phẩm chính:
+ văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quí hơn độc lập tự do (1966)…
+ truyện và kí: Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923), Những trog lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925)…
+ thơ ca: tập thơ Nhật kí trong tù và nhiều bài thơ sáng tác tại Việt Bắc

- Phong cách nghệ thuật
+ Hồ Chí Minh xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp Cách mạng
+ Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức
+ Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật.
+ Hồ Chí Minh đòi hỏi nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.

II. Đôi nét bài thơ Chiều tối​

Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy tác phẩm này được Hồ Chí Minh sáng tác trong hoàn cảnh trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên bảo vào cuối mùa thu năm 1942. Đây là bài nằm ở vị trí thứ 31 của tập thơ Nhật kí trong tù, một tập thơ bao gồm 134 bài thơ được sáng tác bằng chữ Hán nhằm tố cáo sự tàn bạo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Đồng thời bài thơ cũng phần nào khắc họa bức chân dung tự họa của người tù cộng sản Hồ Chí Minh trong thời gian bị bắt giam vô cớ từ mùa thu năm 1942 1943 tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Để thể hiện những nội dung nói trên, trong bài thơ nói riêng và tập thơ nói chung, tác giả đã sử dụng lời thơ cô đọng, hàm súc và đặc biệt là cho thấy sự khéo léo trong việc kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại.
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, tập thơ sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Gới Thạch bắt giam trong suốt 13 tháng
- Cảm hứng được gợi lên bởi cuộc chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo

2. Bố cục bài thơ Chiều tối
- Phần 1 (hai câu đầu): bức tranh thiên nhiên
- Phần 2 (hai câu cuối): bức tranh đời sống con người

3. Giá trị nội dung
- Bài thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh

4. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại

III. Cảm nhận chi tiết bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh​

Thiên nhiên và con người trong Chiều tối là những hình tượng chủ đạo trong bài thơ. Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy Hồ Chí Minh dường như đã phác họa ra trước mắt người đọc bức tranh tuyệt đẹp trong thời điểm chiều tối. Và để tạo nên sự kì diệu ấy là nhờ có sự hiện diện của cả thiên nhiên và con người trong bức tranh.

Cánh chim cô đơn lạc lõng giữa không trung​

Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh viết:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Dịch nghĩa:
Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ

Câu thơ đầu đã cho người đọc hình dung về một không gian mênh mông, rộng lớn của núi rừng khi về chiều. Trong không gian ấy, cánh chim trời xuất hiện để tầm túc thụ. Có lẽ, chúng đang tìm về tổ ấm của mình trong trạng thái mỏi mệt sau một ngày mải miết, rong ruổi bay lượn trên không trung. Đó là hình ảnh rất có sức gợi về buổi chiều tà và không gian bao la của núi rừng. Cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy trong thời gian ấy, không gian ấy, sự hiện diện của cánh chim như chơi vơi hơn, lạc lõng hơn và lòng người tự nhiên cũng có cảm giác bộn bề, man mác.

Chòm mây mỏi mệt lững lờ trôi​

Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ tiếp tục vẽ ra một hình ảnh thiên nhiên khác, nhưng cũng lại là hiện thân của sự mỏi mệt, đó là hình ảnh chòm mây lững lờ trôi trên bầu trời:

Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch nghĩa:
Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không

Không khác gì cánh chim trên không trung, giữa tầng không nổi bật hình ảnh đám mây lững lờ trôi như mang tâm trạng cô đơn. Chính hình ảnh này cũng góp phần tạo cho không gian bầu trời trở nên bất tận hơn và thời gian dường như đã ngừng trôi theo trạng thái chùng chình của đám mây ấy.

Với hình ảnh cánh chim chòm mây, tác giả đã cho thấy sự tinh ý của mình khi đã cảm nhận sự vật từ trạng thái, tính chất của nó, đó là sự cảm nhận có cơ sở, có điểm tựa. Riêng với hình ảnh cô vân, nếu đem đối chiếu với bản dịch thơ có thể thấy một số điều như sau. Trong bản dịch thơ (Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không), từ (cô đơn, lẻ loi) dường như chưa được dịch, điều này đương nhiên đã làm mất đi tính cô độc, lẻ loi của áng mây.

Không chỉ vậy, bản dịch này cũng đã không dịch từ mạn mạn (lững lờ) nên chưa cho thấy được tư thế chậm chạp, ngập ngừng như không muốn trôi của áng mây. Dù tinh thần của ý thơ bị giảm đi ít nhiều nếu như không có từ ngữ thể hiện các ý cô đơn, lững lờ, thế nhưng cũng cần ghi nhận nỗ lực của người dịch.

Đặc biệt khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, người đọc cũng nhận thấy trong hai hình ảnh nổi bật của thiên nhiên được sử dụng trong hai câu thơ đầu này, tác giả như tái hiện trước mắt người đọc hình ảnh thiên nhiên vừa mang tính cổ điển, vừa mang tính hiện đại. Hình ảnh cánh chim là hình ảnh rất quen thuộc trong thơ xưa:

Chim bay về núi tối rồi
(Ca dao)

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chim hôm thoi thóp về rừng
(Nguyễn Du)

Với việc nhân hóa hai hình ảnh trên trong trạng thái mỏi mệt, cô đơn, lững lờ trôi, nhà thơ cũng đồng thời cho thấy nghệ thuật tương phản giữa sự tìm về của cánh chim và sự trôi đi của chòm mây, giữa đích đến là núi rừng và sự vô định của tầng không. Chính vì thế bức tranh thiên nhiên bỗng trở nên gần gũi, yên ả lạ thường.

Sự xuất hiện của con người trong bài thơ​

Sang câu thơ thứ ba, nhà thơ đã bổ sung vào bức tranh thiên nhiên sự hiện hữu của con người:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Dịch nghĩa:
Thiếu nữ xóm núi xay ngô

Không gian bao la của núi rừng ở hai câu thơ đầu bỗng thu lại trong không gian nhỏ của xóm núi. Điểm nhìn từ trên trời ca di chuyển xuống lưng núi và bắt gặp hình ảnh sơn thôn thiếu nữ trong công việc xay ngô. Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy giữa sự mênh mang, buồn vắng, người con gái miền sơn cước xuất hiện trong việc lao động như đại diện cho vẻ đẹp của sức trẻ đầy nhiệt huyết và của người làm chủ thiên nhiên và cả vũ trụ. Chính điều đó đã mang lại hơi ấm cho sự sống của người đi đường.

Ý nghĩa này sẽ được thể hiện độc đáo hơn nếu bản dịch không thêm vào từ tối vì việc thêm vào này đã làm lộ ý thơ vì người đọc có thể nên cảm nhận được thời gian được nhắc đến trong câu thơ thứ ba này là thời gian đã chuyển sang tối bằng sự thông báo ngầm của hình ảnh đốt lò than ở câu thứ tư.

Trước đó, nếu như hình ảnh chim trời và chòm mây dễ làm cho nhân vật trữ tình cảm thấy sự khác biệt, có phần đối lập giữa thiên nhiên và chính mình. Nếu như cánh chim mỏi mệt, chòm mây cô đơn nhưng chúng lại được tự do, còn người tù thì đang trong hoàn cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng.

Tuy nhiên, dù hoàn cảnh có nghiệt ngã như thế nào thì ở nhân vật cũng toát lên những vẻ đẹp đáng trân trọng. Đó là vẻ đẹp của con người yêu thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên và luôn có khát vọng tự do, ước mong được sum họp nơi quê nhà. Đó chính là tinh thần tự chủ, lạc quan, không chịu khuất phục trước nghịch cảnh rất đáng được ca ngợi.

Còn trong câu thơ thứ ba này, sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật như được xoa dịu hơn bởi sự xuất hiện của bóng dáng con người trong hoạt động lao động. Cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy với hình ảnh đó, người tù lại cho thấy ở mình có sự tồn tại của tinh thần thần lạc quan đã tìm thấy niềm vui, sự an ủi cho mình nơi cuộc sống người lao động.

Ánh sáng sưởi ấm lòng người chiến sĩ​

Sự xuất hiện của hình ảnh lò than ở câu thứ cuối cùng của bài như đã nói chinh slaf sự thông báo ngầm của bước chuyển biến thời gian từ chiều sang tối:

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Dịch nghĩa:
Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ

Ý thơ trong câu cuối nếu đặt trong kết cấu của câu hai câu thơ ba và bốn đã tạo nên cấu trúc điệp vòng ma bao túc bao túc ma hoàn. Cấu trúc này có tác dụng rất lớn trong việc diễn tả được vòng quay của chiếc cối xay và đồng thời cũng diễn tả được nhịp điệu lao động hăng say, khỏe khoắn của con người.

Đặc biệt, khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy từ hồng cuối bài đã hiện diện như một nhãn tự làm bừng sáng cả bài thơ. Nó góp phần xua đi cái lạnh lẽo của núi rừng và sưởi ấm người chiến sĩ. Giữa không gian núi rừng chiều tối u ám, heo hút, hình ảnh con người lao động tuy vất vả mà tự do đã mang lại chút niềm vui và hạnh phúc cho người tù chuyển lao.

Chấm lửa đỏ rực lên nơi lò than đã làm nên thần sắc cho toàn cảnh nếu ví bài thơ là một bức tranh. Bức tranh vốn đẹp vì có hình ảnh thiên nhiên, nay càng lại được tô điểm thêm bởi cuộc sống lao động của con người. Có lẽ, để hòa nhịp và có thể vui niềm vui cùng với người lao động như Bác thể hiện thì đó phải là một tâm hồn thật sự nghệ sĩ.

Bởi trong hoàn cảnh xiềng xích trói buộc tự do, con người ta khó lòng có thể tìm vui trong cảnh vật thế nhưng Bác đã làm được điều đó và làm thật cảm động. Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta cũng nhận thấy dù cảnh tù đày khổ sở nhưng dường như Bác vẫn dành sự quan tâm tới con người. Không những thế, Bác còn cho thấy một tinh thần cách mạng tích cực: luôn rực lên sắc hồng tha thiết, tin yêu vào cuộc sống.

Đánh giá tác phẩm khi cảm nhận bài thơ Chiều tối​

Một cách khái quát, khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy Bác đã rất thành công khi phác họa được bức tranh tuyệt đẹp giữa thiên nhiên và con người. Qua đó, ta có thể thấy ở Người những nét đẹp tâm hồn cao quý của một nghệ sĩ nhân đạo. Đó là tình yêu thiên nhiên tha thiết và sự trân trọng giá trị con người. Đồng thời ở nhà thơ ấy còn toát lên tinh thần thép của người chiến sĩ: đương đầu với khó khăn, thử thách bằng phong thái ung dung, tự tại và đầy lạc quan, tin tưởng.

Tất cả những nội dung này đã được Bác thể hiện thành công nhờ sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại cùng với hệ thống từ ngữ cô đọng, hàm súc, thủ pháp đối lập có sự vận dụng tinh tế và đặc biệt là phát huy vai trò của phép điệp liên hoàn.

Kết bài: Cảm nhận bài thơ Chiều tối, người đọc thấy được thi phẩm là sự kết hợp tuyệt mĩ không chỉ là dựa trên nội dung và nghệ thuật mà Bác thể hiện trên bề mặt câu chữ mà nó còn là minh chứng rõ rệt nhất cho tinh thần, ý chí tuyệt vời của Hồ Chí Minh. Những vần thơ hướng về ánh sáng cũng chính là tâm hồn lạc quan của Người.

Các bài viết liên quan tới bài học Chiều tối:
Tìm hiểu và phân tích Chiều tối hay nhất
10 mở bài hay nhất về bài thơ "Chiều tối" - Hồ Chí Minh

Chất "thép" và chất "tình" trong bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
1K
1
0
Viết trả lời...
Với bút pháp vừa cổ điển vừa hiện đại, bằng một vài nét chấm phá, Bác đã khắc họa được một bức tranh trời chiều xinh xắn nơi núi rừng có ánh lửa hồng của lò than nhà ai chiếu sáng hình ảnh cô gái lao động. Từ bức tranh thơ bừng sáng lên một tấm lòng lạc quan, đôn hậu đối với con người và đặc biệt nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên của Bác. Đó chính là nét đặc sắc nhất của bài thơ “ Chiều tối”.

Thân bài:

Hoàn cảnh sáng tác:

Trong tác phẩm “ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” tác giả Trần Dân Tiên có cho biết hoàn cảnh sáng tác của bài thơ như sau: “ Người ta giải Cụ Hồ đi nhưng không cho biết Cụ đi đâu.Tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xích, có sáu người lính mang súng giải đi, đi mãi nhưng vẫn không cho biết đi đâu. Dầm mưa, dãi nắng, trèo núi, qua truông. Mỗi buổi sáng gà gáy đầu, người ta đã giải Cụ Hồ đi, mỗi buổi chiều, khi chim về tổ, người ta dừng lại ở một địa phương nào đó giam Cụ vào trong một xà lim, trên một đống ra bẩn, không cởi trói cho Cụ ngủ”.

Sự hài hòa giữ cảnh và tình: ( Biểu hiện tâm trạng trong cảnh vật)

Phải gắn bài thơ,với cảnh tù đày, chuyển lao đầy gian khổ của Bác như thế, chúng ta mới thấy hết ý nghĩa sâu xa của bài thơ. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ, gần về tối, người tù ngẩng đầu lên đỉnh trời rồi bất chợt nhận ra cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ và làn mây lẻ loi lững lờ trôi. Dù lâm vào cảnh ngộ bị đọa đày, Hồ Chí Minh vẫn thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha và thái độ đồng cảm, chia sẻ với tạo vật thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Bởi: “ Bác yêu trăng như thể yêu người”. Đối với Bác hoa với trăng là bạn.

Hình ảnh thơ của Bác xuất hiện thật tự nhiên. Tuy là hình ảnh thơ mang màu sắc ước lệ của thơ cổ điển, nhưng vẫn phù hợp với cảnh thực, tâm trạng thực của nhà thơ. Bởi cũng như tâm trạng con người đang mệt mỏi cô đơn, hình ảnh cánh chim xuất hiện ở câu thơ đầu tiên gợi cho ta một cái gì đó mệt mỏi, chán chường

“ Quyên Điểu quy lâm tầm túc phụ”

Ở đây đã có sự hòa hợp cảm thông giữa con người và cảnh vật. Điều đó cũng được thể hiện rõ hơn ở câu thơ thứ hai bởi từ “ Cô vân mạn mạn độ thiên không”. Bản dịch chưa lột tả được hết ý, hết tình trong hình ảnh “ cô vân” và từ “ mạn mạn” trong nguyên tác. Hình ảnh “ cô vân” nói lên làn mây lẻ loi cô đơn gợi nỗi buồn đơn côi của cảnh chiều. Từ “mạn mạn” nghĩa là chậm chậm cũng gợi lên sự uể oải, lững lờ của đám mây chiều. Điều đó làm cho làn mây cũng trở nên có tâm trạng hơn,dường như nó cũng mang nỗi buồn như con người.

Thơ ca cổ điển xưa nay hay sử dụng thủ pháp lấy không gian để miêu tả thời gian. Cho nên trong cảnh chiều muộn thường xuất hiện hình ảnh cánh chim, làn mây:

Chim hôm thoi thót về rừng

(Nguyễn Du)

“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”


(Lý Bạch)

Xuân Diệu dịch:

“Chim rừng một loạt cao bay
Trên trời lơ lửng đám mây một mình”


Ở đây thơ Bác cũng có hình ảnh chim bay mỏi nhưng lại có thêm hình ảnh cỏ vân. Song không phải là cô vân độc khứ nhàn, gợi sự nhàn nhã, cô độc, thanh cao, phiêu diêu, thoát tục mà là “Cô vân mạn mạn độ thiên không” làm cho khung cảnh buổi chiều thêm cô đơn, mệt mỏi buồn thương hơn. Đúng là câu thơ của một tù nhân vào buổi chiều tà nơi xa xứ. Bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn vì xa tổ quốc quê hương, bạn bè đồng chí, trong khi Cách mạng đang mong chờ, buồn vì bị mất tự do không biết bao giờ mới được ra khỏi tù. Người trong cảnh ấy, cảnh trong tình này Bác vui sao được? Chưa kể cảnh ngộ trong bài thơ chiều tối của Bác còn là điểm tiếp nối hai sự đoạ đầy của người tù. Sự đoạ đầy ban ngày chưa qua, sự đoạ đầy ban đêm đang chờ đợi phía trước.

Hai câu sau: ý thơ của Bác rất hiện đại luôn luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Nhưng nếu bài thơ của Bác chỉ dừng lại ở đó thì nhà thơ Hồ Chí Minh của chúng ta có hơn gì các nhà thơ cổ điển như Bà Huyện Thanh Quan, Đỗ Phủ, Lý Bạch, đặc biệt là nhà thơ Liễu Tống Nguyên với bài thơ “Giang Tuyết” hết sức tĩnh lặng và lạnh lẽo.

“Ngàn non bóng chim tắt
Muôn nẻo dấu người không
Thuyền đơn, ông tơi nón
Một mình câu tuyết sông”


Song thơ Bác rất cổ điển mà cũng rất hiện đại cho nên đến hai câu sau Bác viết:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hàng”


Đến hai câu thơ này bức tranh trữ tình về cảnh trời mây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt gần gũi ấm áp của con người. Câu thơ chỉ là một lời lẽ bình thường. Nhưng ý thơ thì sinh động và đẹp đẽ biết bao trong nguyên văn “Sơn thôn thiếu nữ”, mà dịch thành “có em xóm núi” thì lời dịch đã làm sai lệch mất ý thơ rất hay trong nguyên tác. Với câu thơ ấy, bác đã đưa hình ảnh cô gái lao động lên vị trí trung tâm, đẩy lùi về phía sau nền trời chiều với cánh chim bay mỏi và làn mây trôi nhẹ. Ta nên nhớ rằng trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người, và con người bị hoà vào thiên nhiên:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”


Bài thơ “Chiều tối” được kết thúc bằng một hình ảnh thật tự nhiên mà bất ngờ thú vị “xay hết lò than đã rực hồng”. Ngọn lửa hồng ấm áp đã bừng sáng.

Như thế là bài thơ tứ tuyệt của Bác đã diễn tả được sự vận động của thời gian từ chiều đến tối hẳn. Tìm hiểu trong câu thơ nguyên tác của Bác, chúng ta thấy câu thơ không có chữ “tối” mà nói được cái tối, bởi thời gian cứ trôi dần theo cánh chim bay, làn mây, cùng nhịp vòng quay cối xay ngô. Điệp từ “bao túc” được Bác dùng theo trật tự đảo gợi được sự đều đều của vòng quay, cối xay ngô của sự tuần hoàn luân chuyển của thời gian và cho đến khi cối xay dừng lại lò than đã rực hồng, tức là thời gian đã tối hẳn. Có thế mới làm nổi rõ được cái rực hồng của lò than vốn đã hồng từ lúc nào. Ở đây, tưởng dùng cái sáng để nói cái tối. Đó là một thủ pháp rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Thế mà bản dịch đã đưa thêm một chữ tối vào làm giảm tính hàm xúc và mất đi vẻ đẹp cổ điển tinh tế có màu sắc rất Đường Tống này của hình ảnh thơ Bác.

Cùng với sự vận động của thời gian ấy là sự vận động của cảnh sắc, tư tưởng tính chất của tác giả. Sự vận động và chuyển biến thật bất ngờ khoẻ khoắn. Từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo đến cô đơn đến ấm nồng. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ vượt vúi băng rừng, lội suối; còn phía trước biết đâu một số tối nhà ngục lạnh giá đầy muỗi rệp, xích xiềng đang chờ đợi. Đã thế, cảnh chiều buông nơi miền sơn cước tỉnh Quảng Tây lại dễ khêu gợi nỗi sầu tha hương, vậy ý thơ của Bác đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ buồn đến vui, một cái vui tràn đầy trong cuộc sống (Hoài Thanh). Điều này được thể hiện rõ nhất ở chữ “hồng” cuối bài thơ. Đây chính là chỗ đẹp nhất của bài “Chiều tối”.

“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bản chung thành đáo kháng huyền
”.

Không phải là hình ảnh “Lửa trại cây bến, sầu vương giấc hồ” trong thơ “Trương kể” mà là ánh lửa hồng đầm ấm reo vui hạnh phúc, ánh lửa hồng của sự sống, niềm lạc quan. Với một chữ “hồng” Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ đã làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, vội vã, nặng nề đã diễn tả trong 3 câu thơ đầu, đã làm sáng rực lên gương mặt cô gái sau khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật đời thường, người ta gọi là nhãn tự (chữ con mắt). Một mình chữ “hồng” đã làm cân bằng sinh khớ cho cả bài thơ, đúng như Hoàng Trung Thông đã nhận xét: “Với chữ “hồng” đó, có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm nhân ái, lạc quan Bác Hồ“. Chữ “hồng” cũng góp phần tạo nên chất hội hoạ cho bài thơ, khắc hoạ được một bức tranh có cảnh vật có con người, có gam màu tối sáng. Như vậy Bác Hồ đã vượt lên trên cái cảnh ngộ khổ đau buồn bã của bản thân để hướng tâm hồn mình đến quan tâm chia sẻ với niềm vui giản dị của cô gái là xay ngô nơi xóm núi. Mới biết mọi vui buồn sướng khổ của chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều khi không thể giải thích được bằng cảnh ngộ riêng của Người mà phải căn cứ vào cảnh ngộ của người khác; của nhân dân, của nhân loại. Đây là một tấm lòng nhân đạo lớn đã đạt đến mức “nâng niu tất cả chỉ quên mình”.

“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”


Kết Luận:

“Chiều tối” là một bài thơ nhỏ mà đã thể hiện một phong cách lớn: phong cách Bác Hồ:

“Tinh hoa trái đất, chất kim cương
Con người đẹp nhất trong nhân loại
Trí tuệ tình yêu của bốn phương”


Bài thơ đã toả sáng một tấm lòng nhân đạo bao la. Chính tấm lòng ấy đã làm cho bài thơ “Chiều tối” không phải là kết thúc bằng hình ảnh bóng đêm tăm tối mà bừng sáng một ngọn lửa hồng ấm áp.

5422

(Chiều tối - Ảnh minh họa)
Bài mẫu: Phân tích "Chiều tối" đạt giải HSG thành phố 2007

“Chiều tối” là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng – cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại.

Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ở đây, bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)


“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.

Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên

Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)


Như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơ đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.

Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)


“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Hay:

“Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”

(Chiều Hôm Nhớ Nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

… còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.

Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.

“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.


Bài phân tích của bạn Nguyễn Nguyễn Thái Bảo, Lớp 11D2 khối chuyên ngữ, trường THPT chuyên Hùng Vương – Thành phố Việt Trì – tỉnh Phú Thọ
(Giải nhất cuộc thi HSG toàn thành phố năm 2007).
Thêm
  • chieu toi.jpg
    chieu toi.jpg
    7.2 KB · Lượt xem: 116
1K
0
0
Viết trả lời...
Mở bài là một trong những phần quan trọng của bài văn. Để đạt kết quả cao nhất cần chuẩn bị kĩ lưỡng từng mở bài
Dưới đây là 10 mở bài cảm nhận về bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh mời các em cùng tham khảo

Mở bài 1:
Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc. Khi nhắc đến Người, chúng ta ắt sẽ kính cẩn nghiêng đầu bằng một tấm lòng kính yêu và sự biết ơn vô hạn đối với những hy sinh lớn lao của Bác để đổi lấy sự tự do cho Tổ Quốc. Trong những năm tháng chiến tranh, Bác đã phải trải qua biết bao nhiêu gian khó, hiểm nguy, phải ngồi hết nhà tù này đến nhà tù khác. Suốt quãng thời gian ngồi tù, Bác đã sáng tác nên tập thơ “Nhật kí trong tù” nổi tiếng. “Chiều tối” là một bài nằm trong tập thơ ấy, thể hiện tinh thần lạc quan và khát khao chiến thắng kẻ thù của Bác giữa cuộc sống ngục tù đầy hiểm nguy.

Mở bài 2:
Một tác phẩm hay là tác phẩm hàm chứa giá trị tư tưởng sâu sắc. Ở đó, ta không chỉ thấy được tài năng của người viết mà còn chứa đựng cả một tâm hồn, một cốt cách của thi nhân. Bài thơ Chiều tối là một bài thơ như thế, Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của đất nước, một nhà thơ của dân tộc mang một tình cảm lớn lao với Tổ Quốc đã viết nên những vần thơ chạm vào đáy hồn nhân thế.

Mở bài 3:
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã hy sinh biết bao nhiêu năm tháng cả cuộc đời để cống hiến cho Tổ Quốc. Người không chỉ là một người chiến sĩ Cách Mạng mà còn là một nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong suốt những năm tháng bị bắt giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, phải chuyển nhà giam nhiều lần, Bác đã bắt gặp những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Say lòng trước những vẻ đẹp ấy, Người viết lên bài thơ Mộ (Chiều tối). Bài thơ là khung cảnh thiên nhiên và vẻ đẹp của con người lao động trong thời buổi lúc bây giờ. Đọc bài thơ, ta thấy được tinh thần ung dung, lạc quan, vẫn cảm nhận và rung động trước cái đẹp của Hồ Chủ Tịch dù đang phải sống trong ngục tù tối tăm, bẩn thỉu.

Mở bài 4:
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài viết Hồ Chủ tịch - hình ảnh của dân tộc có nói đại ý: Hồ Chủ tịch là Người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình cảm mà Người đi làm cách mạng. Trong thế giới tình cảm bao la của Người dành cho nhân dân cho các cháu nhỏ, cho bầu bạn gần xa, hẳn có một chỗ dành cho tình cảm gia đình. Bài Chiều tối có lẽ hé mở cho ta nhìn thấy một thoáng ước mơ thầm kín một mái nhà ấm, một chỗ dừng chân trên con đường dài muôn dặm.

Mở bài 5:
Chiều tối là một trong những bài thơ tức cảnh sinh tình tinh giản nhất mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại trong Nhật ký trong tù. Thơ của Bác thường là vậy, thoạt nhìn xem tưởng không có gì sáng tạo, vẫn chỉ là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong lối đường thi.

Mở bài 6:
Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh là bài thơ thể hiện bức tranh hoàng hôn và bức tranh miêu tả người thiếu nữ lao động vô cùng tươi đẹp. Bài thơ được tác giả Hồ Chí Minh viết trong những ngày tháng bị bắt giam tại nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch khi bị áp giải chuyển từ nhà giam này tới nhà giam khác.

Mở bài 7:
Nhật kí trong tù (1942 - 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc lòng nhà thơ - người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.

Mở bài 8:
Bài thơ "Chiều tối" chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng lại miêu tả hai bức tranh hoàn toàn khác nhau. Đó là bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người hoàn toàn đối lập. Thông qua bài thơ ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn bị giam cầm, tù đày nhưng tác giả Hồ Chí Minh vẫn thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc sống của mình.

Mở bài 9:
Hồ Chí Minh là một vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, là một vị anh hùng lỗi lạc của đất nước. Bên cạnh tài làm chính trị, Bác còn có một kho tàng những tác phẩm văn học quý giá và to lớn. Bác đã để lại cho dân tộc rất nhiều các tác phẩm văn học đặc sắc, trong đó nổi bật là bài thơ Chiều tối nằm trong tập Nhật ký trong tù. Bài thơ thể hiện cảm hứng về thiên nhiên, về tinh thần tự do dù trong hoàn cảnh Bác chuyển lao tù chẳng hề kém phần vất vả.

Mở bài 10:
Bài thơ "Chiều tối" của tác giả Hồ Chí Minh được viết trong tập thơ Nhật ký trong tù, ghi lại những ngày tháng tác giả chịu cảm tù đày ở nhà lao của Tưởng Giới Thạch.
Trong hoàn cảnh bị giải đi hết nhà tù này tới nhà tù khác, thân thể mệt mỏi bởi tay chân bị gông cùm xiềng xích nhưng tâm hồn của tác giả vẫn vô cùng ý chí, sắt đá, thể hiện sự lãng mạn và lòng yêu đời của nhà thơ.

Chúc các em học tập tốt!
Thêm
2K
0
1
Viết trả lời...
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người chiến sĩ quốc tế luôn mang trong mình tình yêu quê hương đất nước và khát khao giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời Bác dành cho sự nghiệp cách mạng không chỉ vậy Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn chương. Cảm hứng thi sĩ đến bất cứ lúc nào với người chiến sĩ cộng sản dù cho khi bị giam bắt, tù đày nhưng không thể giam cầm được tâm hồn của Người. Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm được sáng tác khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ nhưng vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng của Hồ Chí Minh.

Vào tháng 8 năm 1942 Bác sang Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, sau nửa tháng đi bộ đến Túc Vinh tỉnh Quảng Tây và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt mười ba tháng, những tháng ngày bị tù đày ấy Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” bằng chữ Hán với số lượng 134 bài. Trong đó bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 khi Người bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo năm 1942. Trong khoảnh khắc chiều tà mênh mông cùng với tâm hồn thi nhân đã tạo cảm hứng để người tù sáng tác gửi gắm vào thơ ca tâm trạng, tình cảm của mình. Nổi lên trong bài thơ là hình ảnh thiên nhiên và con người lao động nơi đất khách quê người.

“Chiều tối” được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu thơ đầu Bác đặc tả cảnh thiên nhiên núi rừng với hai hình ảnh tiêu biểu cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ tượng trưng mang đậm chất cổ điển của thi pháp phương Đông Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang bay tìm chốn ngủ. Đó là chi tiết gợi không gian mênh mông, gợi ý niệm thời gian buổi chiều đã về. Trong thơ ca không ít lần ta có bắt gặp hình ảnh cánh chim ấy là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi thót về rừng” hay của bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” rồi trong “Tràng Giang” của Huy Cận là hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”. Từ “quyện” trong câu thơ mang nghĩa mỏi mệt chỉ tâm thế tồn tại của con người, là định ngữ cho danh từ “điểu”, được dùng để đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim ở đây không chỉ được Bác quan sát trong sự vận động mà còn được cảm nhận từ bên trong là “Chim mỏi”. Nhà thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn của bầu trời. Trong khoảng trời mênh mông ấy chỉ có cánh chim nhỏ nhoi bay với đôi cánh mệt mỏi. Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận, tâm trạng của mình. Ở đây vừa có sự đối lập vừa có nét tương đồng. Đối lập là nếu con chim bị lạc đàn, bay mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả nhưng vẫn thoải mái tự do vào rừng tìm chốn ngủ còn nhà thơ vẫn bị kìm kẹp, giam cầm. Tương đồng tâm trạng giữa người tù và cánh chim chiều. Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước “Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.

Không chỉ vậy Người còn quan sát thấy hình ảnh đám mây trôi chầm chậm trên nền trời mênh mông, bao la gợi ý niệm lữ thứ, cô đơn. Đây cũng là một thi liệu rất quen thuộc trong thơ xưa. Thôi Hiệu đã từng viết: “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay) hay đó là đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến với câu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Tuy nhiên mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn mà mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người khách băn khoăn không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu nhưng trong bản dịch chưa thực sự lột tả được ý nghĩa của từ “cô”. Chỉ với vài nét đặc tả, chấm phá lấy linh hồn của thiên nhiên mà vẽ nên một bức tranh buổi chiều tối ảm đạm, yên ả. Cánh chim và đám mây đã từng xuất hiện trong thơ Lý Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn”. Đó là nét cổ điển mà Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại thể hiện ước muốn được tự do, được nghỉ ngơi như cánh chim, như đám mây trên trời cao.

Trong hai câu thơ đầu chỉ đặc tả cảnh thiên nhiên nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ đó là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Ta không thấy có chân dung của người tù khổ ải mà chỉ thấy phong thái ung dung, tao nhã của thi nhân mặc khách dù chân vướng xiềng lê từng bước trên đường đi, cảnh chiều mênh mông rợn ngợp nhưng tâm hồn Bác vẫn hướng về thiên nhiên, quát sát từng chi tiết vận động của cảnh vật. Nếu không phải là một người yêu thiên nhiên tha thiết, một con người có nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh làm sao có được sự tự do về tinh thần. Nhà lao, xiềng xích có thể giam cầm thân thể Bác chứ không thể trói buộc được tâm hồn thi nhân.

Trên nền cảnh của thiên nhiên hình ảnh con người bỗng hiện lên trong thơ Bác. Con người ở đây là thiếu nữ đang lao động giữa chốn núi rừng mênh mông như một điểm sáng làm cho bức tranh đời sống trở nên có hồn có thần sắc vui tươi hơn:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)

Hình ảnh con người và cuộc sống được nối tiếp hiện lên qua hai câu thơ. Thiếu nữ ở đây là người con gái (bé gái) trong lứa tuổi dưới thanh nữ chứ không phải như bao bài phân tích khác là cô gái. Hình ảnh bé gái đang xay ngô trong đêm tối là để hô ứng với cánh chim cô đơn, lẻ loi bên trên cô độc đối diện với cối xay. Ngòi bút của Bác hướng đến sự vận động của con người. Đây là một nét hiện đại, mới mẻ trong thơ Hồ Chí Minh. Thiếu nữ miền sơn cước toát giữa núi rừng mênh mông không những không bị hòa tan với thiên nhiên mà nổi bật chói lòa trong không gian ấy. Không giống như những bài phân tích khác tôi nhận thấy qua cấu trúc liên miên đối ở các từ “ma bao túc” câu trên và “bao túc ma hoàn” câu dưới cho thấy con người ở đây đang phải lao động vất vả, nặng nề, triền miên, kéo dài trong đêm. Trong mạch vận động của của thời gian ở nguyên tác không hề nhắc đến chữ “tối” nhưng với bản dịch thơ người dịch cho thêm vào làm mất đi sự thú vị của ý thơ, khiến cho câu thơ mất đi nét đẹp của ý tại ngôn ngoại không cần nhắc đến nhưng vẫn hiện ra là một đêm tối bao phủ. Trong câu thơ “Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” theo tôi đó là sự nối tiếp công việc, kết thúc một công việc lại mở ra một công việc mới, nhà thơ đã dùng hình ảnh bếp lửa được đốt lên để nói sự vận động của thời gian. Từ xưa nay đa số mọi người đều hiểu theo nghĩa là hồng tính từ, làm sáng rực lên hình ảnh con người trong đêm nhưng theo nguyên tác chữ Hán đó hồng của động từ mang ý nghĩa hành động là đốt để đối với từ “ma” (xay). Đây là hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán, nếu không cẩn thận tìm hiểu sẽ khiến cho mọi người nhầm lẫn với ý nghĩa khác. Qua hình ảnh con người trong đêm cho thấy cuộc sống nơi đây cơ cực, khó khăn khiến cho tác giả đồng cảm, đồng điệu. Bác đã dùng vòng xoay của cối xay để nói lên tâm trạng nặng nề của mình, dùng hình ảnh bé gái để nói lên cảm nhận cuộc sống. Nam Cao đã từng viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” nhưng đối với Hồ Chí Minh thì đi ngược lại với điều đó. Bác là một con người có tấm lòng thương yêu đồng loại đến vô cùng không chỉ là đối với nhân dân Việt Nam mà còn là biết bao những con người cơ cực trên hành tinh này. Đúng như Tố Hữu đã từng viết:

“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”.

Bài thơ là thành công của nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và sự cách tân hiện đại trong ý thơ. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được coi là nhãn tự, là con mắt thần của tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc được Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: “Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối”. Đồng thời chữ “hồng” ấy cũng thể hiện cho niềm tin, hy vọng của Bác vào một tương lai tươi sáng ở ngày mai, đó là điều đáng quý, đáng trân trọng. Dù ở trong hoàn cảnh ngục từ nhưng con người ấy không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, số phận. Trong thơ Hồ Chí Minh luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ hồng được xuất hiện rất nhiều lần như trong bài “Tảo giải” hiện lên: “Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn sớm sạch không” hay có câu Bác viết: “Trong ngục giờ đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” đó là sự lạc quan, niềm tin của Bác vào con đường cách mạng nước nhà, vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai.

Như vậy chỉ với 28 chữ thất ngôn tứ tuyệt được kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ với trái tim thép người chiến sĩ, bài thơ đã làm xúc động người đọc trước tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống và sự cảm thông, thương yêu con người của vị cha già dân tộc. Con người Bác là tấm gương sáng để cho biết bao thế hệ đồng bào Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Thêm
1K
0
0
Viết trả lời...