Mạng xã hội Văn học trẻ

Câu 1 (2 điểm).
Vận dụng kiến thức đã học về từ láy để phân tích nét nổi bật của việc dùng từ trong những câu thơ sau:








Câu 2 (6 điểm).
Danh ngôn có câu:


Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nắm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh

( Nguyễn Du, Truyện Kiều)



“Ý nghĩ là nụ hoa. Lời nói là bông hoa.
Việc làm là quả ngọt.”


Em hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài khoảng hai trang giấy thi bày tỏ suy nghĩ của bản thân về ý kiến trên.
Câu 3 (12 điểm).
Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới.
Bằng những hiểu biết về văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên



Họ và tên thí sinh:............................................................... Số báo danh:........................


Lưu ý: Giám thị coi thi không giải thích gì thêm.



PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ỨNG HÒA

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9 NĂM HỌC 2015 - 2016



HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN 9


CÂU
NỘI DUNG
ĐIỂM
- Các từ láy: nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu.
1,0
Câu 1
- Tác dụng: vừa để tả cảnh vừa tả tâm trạng. Gợi vẻ hoang vắng, trơ trọi, buồn tẻ của
1,0
(2 điểm)
ngôi mộ vô chủ và tâm trạng nao nao buồn của ba chị em Thúy Kièu vào thời điểm
cuối ngày hội đạp thanh. Đồng thời như báo hiệu một sự kiện sắp xảy ra với nhân vật
Thúy Kiều.
1. Yêu cầu về kỹ năng:
Thể hiện vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết của bản thân một cách sâu sắc, tinh tế qua việc nhận thức, bàn luận, bình giá, dẫn chứng cụ thể và bày tỏ quan điểm... một cách hấp dẫn, thuyết phục.
Có kỹ năng viết bài nghị luận xã hội với những lập luận chặt chẽ; trình bày ý mạch lạc, rõ ràng.
Văn viết trong sáng, có cảm xúc, không mắc các lỗi cơ bản về chính tả, dùng từ, đặt câu, diễn đạt.
2. Yêu cầu về nội dung:
* Giải thích ý kiến:
Ý nghĩ: là điều nảy sinh ra trong đầu óc do kết quả của hoạt động trí tuệ của con người.
Lời nói: là những điều con người nói ra do nhu cầu và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Việc làm: là hành động cụ thể của con người.
Nụ hoa, bông hoa, quả ngọt: Là quá trình phát triển tự nhiên, tất yếu theo quan hệ nhân - quả. Trong đó, nụ hoa là vẻ đẹp, giá trị tiềm ẩn; bông hoa là giá trị, vẻ đẹp đã bộc lộ song chỉ tồn tại trong giới hạn thời gian; quả ngọt là giá trị, vẻ đẹp đã được bộc lộ trọn vẹn để tạo ra những hiệu quả viên mãn.
=> Câu danh ngôn trên không chỉ xác định mối quan hệ biện chứng giữa ý nghĩ, lời nói với việc làm mà còn đặt ra một yêu cầu đối với chúng: có suy nghĩ tốt mới có lời
nói hay và từ đó mới có việc làm đẹp, có ý nghĩa, giá trị.

1,0



Câu 2
(6 điểm)

1,0




* Bàn luận vấn đề:
*Ý nghĩ: Thí sinh bàn luận những cơ sở hình thành ý nghĩ (sự hiểu biết, năng lực
nhận thức, bản tính của con người...) Từ đó xác định yêu cầu đặt ra với ý nghĩ là phải
trong sáng, sâu sắc, đúng đắn, tích cực để khởi đầu cho những điều tốt đẹp.
- Mỗi người phải biết tự nâng cao hiểu biết, mở rộng tầm nhận thức, sửa đổi và hoàn
1,0
thiện tâm tính, nhân cách để tránh bị tác động tiêu cực từ cuộc sống làm vẩn đục tâm
hồn.
* Lời nói: Lời nói được hình thành do nhu cầu của bản thân về giao tiếp trong cuộc
sống trong những hoàn cảnh, đối tượng cụ thể và mục đích nhất định.
- Lời nói giúp chúng ta biểu đạt suy nghĩ, cảm xúc, truyền tải thông tin. Nó có tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến người khác.
- Yêu cầu đặt ra là lời nói cần tế nhị, sâu sắc, phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng
1,0
giao tiếp, đạt được hiệu quả cao nhất về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
- Con đường để đáp ứng những yêu cầu đó là tích lũy hiểu biết, có ý thức đầy đủ về
hiệu quả, khả năng tác động của lời nói để thận trọng phát ngôn.
* Việc làm: Là hoạt động thể chất và tinh thần để tạo ra những giá trị về vật chất và
tinh thần phục vụ mọi nhu cầu trong cuộc sống.
- Việc làm thể hiện năng lực, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm của bản thân; là
con đường gắn lý thuyết với thực hành....
- Yêu cầu đặt ra là việc làm phải có mục đích rõ ràng, phương pháp thực hiện chuẩn
xác, hiệu quả cụ thể.
- Phải tích lũy tri thức, rèn luyện kinh nghiệm, kỹ năng, tính thực tiễn cao để làm việc
tốt.
1,0
* Bài học:
- Ý nghĩ gắn với hiểu biết, tâm hồn và nhân cách. Hiểu biết sâu thì tâm hồn phong
phú, nhân cách đẹp mới có được ý nghĩ sâu sắc, có tầm vóc. Đây là cái hạt mầm quan
trọng nhất, là khởi đầu, xuất phát của tất cả. Ý nghĩ đẹp, nói lời hay, làm việc tốt là
biểu hiện cao đẹp của thanh lịch - văn minh, nhất là với học sinh.
- Tuy nhiên, có ý nghĩ tốt chưa chắc đã có lời nói hay và việc làm giá trị. Cần phải
học nói để lời nói được giá trị và giàu sức thuyết phục. Bởi ngôn ngữ là công cụ trực
tiếp của tư duy, ngôn ngữ thể hiện trình độ nhận thức, phẩm chất, tâm hồn của con
1,0




người. Cần phải học làm việc để biết và làm tốt. Cần có ý thức và lòng tự trọng để lời nói đi đôi với việc làm.
1. Yêu cầu về kĩ năng:
Thí sinh xác định được đây là kiểu bài nghị luận chứng minh nhưng vẫn cần có sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa phân tích, chứng minh, bình luận và biểu cảm.
Biết làm bài văn nghị luận văn học.hoàn chỉnh với bố cục 3 phần rõ ràng; kết cấu chặt chẽ, lập luận chắc chắn, có sức thuyết phục
Văn viết lưu loát, có cảm xúc, không mắc các lỗi chính tả, lỗi dùng từ, ngữ pháp, trình bày sạch sẽ, chữ viết rõ ràng..
2. Yêu cầu về kiến thức:

2,0
Câu 3
(12 điểm)
a. Mở bài: (2 điểm)
- Nêu được hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975. Hiện thực đó đã tạo nên vóc dáng người chiến sĩ và vóc dáng của con người mới xây dựng CNXH.



1,0
- Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ




đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 - 1975.
b. Thân bài: (8 điểm)
* Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: họ là những con người nổi bật với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan:
Họ là những con người ở mọi tầng lớp, lứa tuổi như: người nông dân mặc áo lính (Đồng chí của Chính Hữu), những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường (Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật), là em bé liên lạc (Lượm của Tố Hữu)...
Họ là những người lính, người chiến sĩ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. (dẫn chứng)
Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ song họ luôn có tinh thần lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp... (dẫn chứng)
* Hình ảnh người lao động mới: họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước:
Người lao động trong "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy cận mang nhịp thở tươi vui, hăm hở, hoà mình cùng trời cao biển rộng: họ ra khơi với niềm hân hoan trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức lực và trí tụê của mình.(Dẫn chứng).
"Lặng lẽ SaPa" của Nguyễn Thành Long mang nhịp thở của người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say
1,0


0,5

0,5


1,0

1,0

1,0


1,5



1,5



2,0



mê, miệt mài trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp (Dẫn chứng)
* Kết bài: (2 điểm)
Khẳng định lại giá trị và những đóng góp của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh
của con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX.


*Lưu ý:
Giám khảo linh hoạt khi chấm bài của học sinh. Khuyến khích những bài viết diễn đạt tốt, kết cấu chặt chẽ, có sức thuyết phục; bài viết có cá tính, giọng điệu cảm xúc riêng.



Thêm
98
0
0
Câu 1 (2 điểm). Trong bài thơ Bếp lửa, Bằng Việt viết:
… “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”

Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ được dùng trong đoạn thơ trên.
Câu 2 (6 điểm). Suy nghĩ của em về câu chuyện sau (viết bài nghị luận ngắn):
Sau trận động đất và sóng thần kinh hoàng ở Nhật Bản, tại một trường tiểu học, người ta tổ chức phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng chín tuổi, trên người chỉ mặc một bộ quần áo mỏng manh. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt em thì chắc chẳng còn thức ăn nên đến gần và trò chuyện với em.
Em kể thảm họa đã cướp đi những người thân yêu trong gia đình: cha, mẹ và đứa em nhỏ. Em bé quay người lau vội dòng nước mắt. Thấy em lạnh, tôi cởi chiếc áo khoác choàng lên người em và đưa khẩu phần ăn tối của mình cho em: “Đợi tới lượt cháu chắc hết thức ăn rồi, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, cháu ăn đi cho đỡ đói”. Cậu bé nhận túi lương khô, khom người cảm ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng thật bất ngờ, cậu mang khẩu phần ít ỏi ấy đi thẳng đến chỗ những người đang phân phát thực phẩm, để túi thức ăn vào thùng rồi quay lại xếp hàng.
Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao cháu không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Cậu bé trả lời: “Bởi chắc còn có nhiều người bị đói hơn cháu. Cháu bỏ vào đó để cô chú phát chung cho công bằng.”
(Dẫn theo báo Dân trí điện tử)

Câu 3 (12 điểm).


“Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng...”
(Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ)
Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy nói về “ánh sáng riêng” mà truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long đã “rọi vào” tâm hồn em.



Họ tên học sinh: ..................................................................................... ; Số báo danh: ..........................
HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI THI HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2015- 2016
Môn: Ngữ văn – Lớp 9
HƯỚNG DẪN CHUNG:
Giám khảo chấm kĩ để đánh giá một cách đầy đủ, chính xác kiến thức xã hội, kiến thức văn học và kĩ năng diễn đạt, lập luận trong bài làm của học sinh, tránh đếm ý cho điểm.
Hướng dẫn chấm chỉ nêu những nội dung cơ bản, có tính định hướng. Giám khảo vận dụng linh hoạt, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí. Đặc biệt khuyến khích những bài viết có ý tưởng sáng tạo.
Bài viết cần có bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những bài mắc quá nhiều các loại lỗi dùng từ, chính tả, đặc biệt là văn viết tối nghĩa thì không cho quá nửa số điểm của mỗi câu.
Chấm theo thang điểm 20 (câu I: 2 điểm; câu II: 6 điểm; câu III: 12 điểm), cho điểm lẻ đến 0,25.
HƯỚNG DẪN CỤ THỂ:

Câu
Nội dung cần đạt
Điểm
I
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ
2,0
- Giới thiệu đoạn thơ: (0,25 điểm)
Bằng việc lựa chọn và sử dụng các biện pháp tu từ điệp ngữ, hoán dụ, ẩn dụ một
cách đặc sắc, đoạn thơ là dòng suy ngẫm sâu sắc của cháu về “bếp lửa” của bà
0,25​
- Lần lượt chỉ ra và phân tích hiệu quả của từng phép tu từ: (1,75 điểm)
+ Điệp từ nhóm bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa nhấn mạnh công việc nhóm bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo, nhẫn nại, giàu đức hi sinh. Bà không chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để bếp lửa cháy sáng, để có nồi khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo mới. Từ công việc nhóm lửa hàng ngày, bà còn nhóm lên cả những nét đẹp tâm hồn tuổi thơ
cháu, bồi đắp ước mơ và tình yêu thương cho cháu.
0,5​
+ Hoán dụ: khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo mới gợi ra tình cảm gắn bó với
0,5​




những gì giản dị, gần gũi của quê hương. Bà bồi đắp cho cháu tình đoàn kết
xóm làng.
+ Ẩn dụ: bếp lửa vừa tả thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu thương bà dành cho cháu, trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là
hành trang theo cháu suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
0,5​
Þ Các phép tu từ trên đã góp phần thể hiện tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc của
người cháu hiếu thảo phương xa với người bà yêu kính và bếp lửa tuổi thơ.
0,25​
IIViết bài nghị luận xã hội
6,0
Yêu cầu về kỹ năng:
- Đảm bảo là một văn bản nghị luận xã hội: Bố cục và hệ thống ý sáng rõ. Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Hành văn trôi chảy. Lập
luận chặt chẽ. Dẫn chứng chọn lọc, thuyết phục. Không mắc quá năm lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
0,5
Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh có thể có những cách trình bày khác nhau
nhưng cần đảm bảo các ý sau:
5,5
* Nêu được ý nghĩa của câu chuyện:
Thể hiện tình yêu thương ấm áp, sự đồng cảm, sẻ chia giữa những con người đang ở trong hoàn cảnh éo le, hoạn nạn. Điều này có thể thấy qua nghĩa cử cao đẹp của nhân vật “tôi” đối với em nhỏ cũng như suy nghĩ, việc làm
đáng trân trọng của em bé bất hạnh.
1,5​
* Bàn luận về vấn đề tình yêu thương giữa con người với con người trong cuộc sống:
Trong cõi đời, tình yêu thương giữa con người với con người là một giá trị cao quý, là điều cần thiết mà ai cũng phải hướng tới. (VD minh họa)
Trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, lòng nhân ái càng cần thiết để sưởi ấm những mảnh đời bất hạnh. (VD minh họa)
Lẽ “công bằng” trong khó khăn, hoạn nạn là biểu hiện cao nhất của tình yêu thương giữa con người với con người. (VD minh họa)
Phê phán những kẻ sống vô cảm, ích kỉ, thờ ơ với cộng đồng.


0,75

0,75

0,75

0,75
* Liên hệ bản thân và rút ra bài học:
Mỗi người cần biết sống yêu thương, gắn bó, có trách nhiệm với cộng đồng; đặc biệt là cần quan tâm, giúp đỡ những kiếp đời kém may mắn.

1,0​
IIIViết bài nghị luận văn học
12,0
Yêu cầu về kĩ năng: Học sinh hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Đảm bảo là một văn bản nghị luận văn học có bố cục 3 phần rõ ràng, kết cấu chặt chẽ. Biết
phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc quá năm lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
1,0




Yêu cầu về kiến thức: Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau
nhưng cơ bản đáp ứng được những nội dung sau:
11,0
1. Giải thích nhận định: (2,0 điểm)
- “Tác phẩm lớn”: tác phẩm mang dấu ấn của từng giai đoạn, từng thời kì, mở ra trước mắt người đọc những hiểu biết phong phú về cuộc sống xã hội con người, hướng con người đến những điều tốt đẹp. Vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm
làm lay động bao trái tim người đọc và có sức sống lâu bền với thời gian.
0,5​
- “Ánh sáng” của tác phẩm: là cảm xúc, tâm sự, tấm lòng, tinh thần của thời
đại… mà nhà văn đã chuyển hoá vào trong tác phẩm.
0,5​
- “rọi vào bên trong”: là khả năng kì diệu trong việc tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của ta, chiếu toả soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi
mắt ta nhìn, óc ta nghĩ…
0,5​
- Mỗi tác phẩm mang một ánh sáng riêng in đậm dấu ấn, phong cách riêng của nhà văn, từ cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, bày tỏ quan điểm, cách
nhìn cuộc sống đều mang nét riêng độc đáo.
0,5​
2. Chứng minh qua “Lặng lẽ Sa Pa”: (8,0 điểm)
- Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo, giàu chất thơ của Nguyễn Thành Long. Đây là một tác phẩm đẹp từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Trong tác phẩm nhà văn đã xây dựng được những hình tượng
nhân vật độc đáo, giàu lí tưởng tiêu biểu cho phẩm chất của con người Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng quê hương đất nước.
1,0​
- Trước hết về giá trị nội dung: có thể xem tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh
nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ.
1,0​
+ Ánh sáng người đọc đón nhận từ tác phẩm trước hết là âm vang của cuộc gặp gỡ giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư nông nghiệp và anh thanh niên khí tượng. Ở những con người này ánh lên những phẩm chất tốt đẹp đã thành bản chất bền vững, những quan niệm đạo đức trong sáng, cao cả và một ý chí kiên định cách mạng, tất cả đã được tôi luyện trong thử thách của chiến tranh, nay đang
được tiếp tục củng cố, phát huy trong công cuộc xây dựng xã hội mới. (Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng).
1,0​
+ Tác phẩm rọi vào trong lòng người đọc những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống của lao động tự giác về con người và về nghệ thuật. Cuộc sống của mỗi người chỉ thật sự có ý nghĩa khi mọi việc làm của họ đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mến tự hào về mảnh đất mình đang sống. Con người cần phải biết sống có lý tưởng, say mê với công việc, hiểu được ý nghĩa công việc mình làm. Vẻ đẹp của con người lao động chính là mảnh đất
màu mỡ để người nghệ sĩ ươm mầm. (Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng)
1,0​



- Về giá trị nghệ thuật: thứ ánh sáng đặc biệt của Lặng lẽ Sa Pa mà người đọc
cảm nhận được toả ra từ chất thơ bàng bạc xuyên suốt tác phẩm.
1,0​
+ Chất thơ trong cốt truyện, chất thơ thấm đượm trong bức tranh phong cảnh thiên nhiên. Mỗi câu mỗi chữ khắc hoạ bức tranh thiên nhiên đều giàu sức tạo hình, rực rỡ sắc màu, nhịp điệu êm ái như một bài thơ. Cảm xúc trước cảnh mới lạ ấy truyền cho người đọc những rung động thẩm mĩ về vẻ đẹp của tác phẩm, làm dội lên ước muốn một lần được đặt chân lên Sa Pa. (Dẫn chứng và
phân tích dẫn chứng)
1,0​
+ Chất thơ trong nét đẹp tâm hồn của nhân vật, trong ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện nhẹ nhàng trong sáng. Ngôn ngữ truyện như dòng nước mát trôi vào tâm trí người đọc, khơi gợi bao khao khát về một vùng đất lặng lẽ mà thơ
mộng. (Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng)
1,0​
- Ánh sáng toả ra từ Lặng lẽ Sa Pa là một thứ ánh sáng rất riêng. Nó đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ thâm trầm, sâu sắc: Lặng lẽ Sa Pa - mới đọc tên, ngỡ nhà văn nói về một điều gì… im ắng, hắt hiu, giá lạnh; nhưng kì diệu thay trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn ngân lên những âm thanh trong sáng, vẫn ánh lên những sắc màu lung linh, lan toả hơi ấm tình người và sự sống. Từ đó làm cho người đọc thấy tin yêu cuộc sống, bồi đắp lí tưởng
sống cao đẹp - sống cống hiến dựng xây quê hương đất nước.
1,0​
3. Đánh giá và liên hệ bản thân: (1,0 điểm)
- Tác phẩm nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật lớn là con đẻ tinh thần của nhà văn.
Nó được tạo ra bằng quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc và sáng tạo.
0,5​
- Tác phẩm lớn sẽ chiếu tỏa, soi rọi; có khả năng giáo dục, cảm hóa sâu sắc
tới nhận thức và hành động của bạn đọc nhiều thế hệ (liên hệ bản thân)
0,5​


* Lưu ý: Trên đây là những gợi ý và định hướng chung, giám khảo cần vận dụng linh hoạt dựa trên thực tế bài làm của học sinh. Khuyến khích những bài có cảm nhận sâu sắc, có cảm xúc và sáng tạo trong cách viết.
Thêm
80
0
0
Câu 1 (8 điểm) :
Nhà thơ Robert Frost(1874-1963) viết: “Trong rừng có nhiều lối đi, và tôi chọn lối đi không có dấu chân người”.
Nhà văn Lỗ Tấn(1881-1936) lại nói: “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.
Nêu suy nghĩ của em về hai cách chọn đường trên. Câu 2 (12 điểm) :
Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”.
Hãy khám phá “xứ sở của cái đẹp” qua văn bản Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1.



PHÒNG GD&ĐT THANH BA

HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ GIAO LƯU HSG CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2016-2017
Môn: Ngữ văn 9



Câu
Nội dung
Điể
m
1
a.Yêu cầu kĩ năng :
Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học (có suy nghĩ, đánh giá, cảm xúc...)
Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; bố cục rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp. Hành văn lưu loát, trong sáng, có cảm xúc.
b.Yêu cầu về kiến thức:
Mở bài :
Giới thiệu vấn đề và trích dẫn hai ý kiến :
Trong cuộc sống, có nhiều con đường dẫn tới thành công, nhưng quan niệm về con đường của mỗi người người lại khác nhau. Nếu nhà văn Lỗ Tấn từng khẳng định: “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi” thì nhà thơ Robert Frost lại viết: “Trong rừng có nhiều lối đi, và tôi chọn lối đi không có dấu chân người”. Vậy ta sẽ chọn cho riêng mình lối đã có dấu chân hay đường đã có sẵn để bước đi trong cuộc sống?

Thân bài :
Giải thích hai ý kiến:
Lối đi đã được người ta đi mãi thành đường: lối đi cũ, cách làm cũ, dễ dàng, đã quen thuộc, đã nhiều người thực hiện,
Lối đi chưa có dấu chân người: lối đi, cách làm sáng tạo, mạo hiểm, dũng cảm đối đầu với khó khăn
Bằng cách nói hình ảnh, hai câu nói trên nêu lên những lựa chọn khác nhau để làm nên
thành công trong hành trình cuộc sống của mỗi con người. Mỗi người có một lựa chọn riêng, mỗi lối đi đều có những thuận lợi và khó khăn riêng

2.2.Bàn bạc,đánh giá
Mỗi lối đi đều có những thuận lợi và khó khăn riêng
+ Lối đi đã được người ta đi mãi thành đường: đây là lối đi an toàn, nhiều thuận lợi vì đã có người đi trước, mình có thể rút kinh nghiệm để thành công, đến đích sớm. Tuy nhiên con người sẽ không còn nhiều cơ hội để tìm ra cái mới, tìm cơ hội chinh phục và khám phá
+ Lối đi không có dấu chân người: đây là lối đi, cách thức nhiều trở ngại, nhiều khó khăn phải đối đầu, buộc con người phải dũng cảm, phải sáng tao, thậm chí mạo hiểm. Lối đi ấy có thể có rủi ro, nhưng con người phải biết chấp nhận để có được thành công cho lần sau. Nếu thành công, con người có niềm vui, niềm hạnh phúc của người tiên phong, người mở đầu.
Hai ý kiến trên thực chất bổ sung cho nhau, con người sẽ có được thành công khi vừa biết kế thừa kinh nghiệm của người đi trước, tìm lối đi an toàn, lại vừa sáng tạo kiếm tìm cái mới như một sự khởi nghiệp.

HS có thể lấy dẫn chứng để chứng minh
Tuy nhiên, chọn lối đi người ta đi mãi thành đường không có nghĩa là bảo thủ, kì thị cái mới vùi dập tinh thần sáng tạo; chọn “lối đi chưa có dấu chân người” không có nghĩa là liều lĩnh,




dại dột, mạo hiểm đến thất bại một cách vô nghĩa .
Mở rộng vấn đề : phê phán những người sống bảo thủ, dựa dẫm, không có tinh thần sáng tạo. Phê phán những người liều lĩnh, mạo hiểm một cách mù quáng, không biết kế thừa kinh nghiệm , thành tựu của người đi trước, không chịu tiếp thu cái mới,…

* Bài học nhận thức và hành động
Nhận thức được tính đúng đắn trong từng quan niệm sống
Biết tôi luyện và vận dụng các phẩm chất linh hoạt, sáng tạo, dũng cảm trong từng tình huống cụ thể của đời sống để có được thành công

3.Kết bài : khẳng định lại vấn đề












2
a. Yêu cầu về kĩ năng:
Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học (có suy nghĩ, đánh giá, cảm xúc...)
Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; bố cục rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp. Hành văn lưu loát, trong sáng, có cảm xúc.

3.0
b. Yêu cầu về kiến thức:
Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận
Trích dẫn ý kiến

Thân bài
Giải thích khái quát vấn đề
Nhà văn chân chính là nhà văn luôn đặt mục đích sáng tác vào con người và cuộc sống. Đem ngòi bút của mình phục vụ đời sống và có ích cho con người.
Xứ sở của cái đẹp trong tác phẩm văn học được thể hiện ở hai phương diện nội dung và hình thức.
+ Vẻ đẹp nội dung là vẻ đẹp của tự nhiên và con người trong lao động, chiến đấu, các lĩnh vực khác… mà nhà văn mang tới cho người đọc.
+ Vẻ đẹp hình thức là khả năng xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động, độc đáo, hấp dẫn. Là khả năng kết cấu chặt chẽ, tình huống hợp lí và khả năng sử dụng ngôn từ điêu luyện...
=> Nội dung, hình thức đẹp không chỉ đem lại cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ mà còn làm cho con người yêu cuộc sống, khao khát hướng tới những gì đẹp đẽ tốt lành cho cuộc đời.
Để người đọc cảm nhận được xứ sở của cái đẹp đó thì nhà văn chân chính là người dẫn đường cho người đọc khám phá cảm nhận. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của nhà văn.
2.2. Chứng minh qua văn bản Đoàn thuyền đánh cá của nhà văn Huy Cận
a, Xứ sở của cái đẹp trong Đoàn thuyền đánh cá được thể hiện ở trước hết ở phương diện nội dung :
a.1. Xứ sở của cái đẹp trong Đoàn thuyền đánh cá được thể hiện ở vẻ đẹp của thiên nhiên vùng biển Hạ Long :
+ Đó là cảnh thiên nhiên bao la, bát ngát, hùng vĩ khiến cảnh lao động thêm hùng tráng.
+ Thiên nhiên kì ảo, thơ mộng khiến cảnh lao động trở lên thi vị
+ Thiên nhiên đầy sức sống, ấm áp, gần gũi với con người
+ Thiên nhiên giàu có ban tặng bao loài các với vẻ đẹp lộng lẫy và rực rỡ làm nên kết quả tốt đẹp của người lao động, ...


3.0







(Lấy được dẫn chứng, phân tích)
->Tất cả làm nên một bức tranh thiên nhiên đẹp kì lạ, hấp dẫn gợi ra cho ta bao liên tưởng và yêu mến.
a.2. Xứ sở của cái đẹp trong Đoàn thuyền đánh cá còn được thể hiện ở vẻ đẹp hấp dẫn của con người:
+ Làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương, miệt mài, hăng say lao động, không quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước.
+ Tâm hồn phơi phới lạc quan.
+ Lao động đạt kết quả tốt đẹp.
+ Hình ảnh họ được khắc họa trong sự hòa hợp với thiên nhiên, nổi bật ở vị trí trung tâm, gắn với đoàn thuyền đánh cá, trong lao động tập thể hào hùng, đầy niềm vui. Tầm vóc của họ được phóng to trên nền vũ trụ, mang kích thước vũ trụ. Vẻ đẹp của họ vừa thực, vừa lãng mạn.
(Lấy được dẫn chứng, phân tích)
->Tất cả đã tạo nên xứ sở của cái đẹp: thiên nhiên đẹp, con người đẹp
3.0​
b. Xứ sở của cái đẹp trong Đoàn thuyền đánh cá không chỉ đẹp về nội dung mà còn đẹp về nghệ thuật, được thể hiện:
Cảm hứng vũ trụ và cảm hứng lãng mạn cách mạng đã tạo cho bài thơ có nhiều hình ảnh độc đáo, vừa thực, vừa ảo, vừa rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài..
Bài thơ cũng là một khúc ca, khúc ca về lao động, về thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Khúc ca ấy phơi phới, khỏe khoắn, mạnh mẽ, được tạo nên bởi âm hưởng, giọng điệu của bài thơ. Các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần, ... góp phần làm nên âm hưởng ấy. Cách gieo vần có nhiều biến hóa, linh hoạt...
Bút pháp phóng đại khoa trương đạt hiệu quả thẩm mĩ và tạo dấu ấn riêng cho bài thơ...
Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ: liệt kê gợi sự giàu có của biển khơi, các hình ảnh ẩn dụ...nghệ thuật nhân hóa gợi một không gian sống động, lung linh, kì ảo mà gần gũi, ấm áp
2,.0​
3. Kết bài:
Cái đẹp trong tác phẩm văn học đa dạng, phong phú được khơi nguồn kết tinh từ cuộc sống.
Đời sống tự nhiên ấy được khúc xạ qua ánh sáng, cảm quan, quá trình lao động cực nhọc, sáng tạo, mê say của nhà văn để có được sức hấp dẫn, những giá trị đẹp của con người, làm cho con người sống tốt hơn.
Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái
đẹp trong cuộc sống.
1​
Thêm
98
0
0

Câu 1 (4,0 điểm):​


ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI
Môn: Ngữ văn 9 Năm học: 2015 - 2016
Thời gian làm bài: 150 phút


Cảm nhận của em về hai câu thơ sau:
Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
( Trích “ Cảnh ngày xuân” – “Truyện Kiều”–Nguyễn Du)

Câu 2: (6,0 điểm)​

Suy nghĩ của em về câu chuyện sau:
“Sau trận động đất và sóng thần kinh hoàng ở Nhật Bản, tại một trường tiểu học, người ta tổ chức phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng chín tuổi, trên người chỉ mặc một bộ quần áo mỏng manh. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt em thì chắc chẳng còn thức ăn nên đến gần và trò chuyện với em.
Em kể thảm họa đã cướp đi những người thân yêu trong gia đình: cha, mẹ và đứa em nhỏ. Em bé quay người lau vội dòng nước mắt.
Thấy em lạnh, tôi cởi chiếc áo khoác choàng lên người em và đưa khẩu phần ăn tối của mình cho em:“Đợi tới lượt cháu chắc hết thức ăn rồi, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, cháu ăn đi cho đỡ đói”. Cậu bé nhận túi lương khô, khom người cảm ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng thật bất ngờ, cậu mang khẩu phần ít ỏi ấy đi thẳng đến chỗ những người đang phân phát thực phẩm, để túi thức ăn vào thùng rồi quay lại xếp hàng.
Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao cháu không ăn mà lại đem bỏ vào đó.
Cậu bé trả lời:“Bởi chắc còn có nhiều người bị đói hơn cháu. Cháu bỏ vào đó để cô chú phát chung cho công bằng.”
(Dẫn theo báo Dân trí điện tử)

Câu 3 (10 điểm):​

Có ý kiến cho rằng: “Bài thơ “Đồng chí ”của Chính Hữu là một bức tranh tráng lệ, cao cả, thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ.



PHÒNG GD-ĐT THANH OAI
TRƯỜNG THCS XUÂN DƯƠNG



Câu 1:
( 4 điểm)

Yêu cầu về kỹ năng:​


HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI
Môn: Ngữ văn 9 Năm học: 2015-2016
Thời gian làm bài: 150 phút

Học sinh có thể trình bày và lập luận khác nhau song bài viết phải có kết cấu chặt chẽ, có khả năng cảm thụ tốt, phân tích thỏa đáng làm sáng rõ nội dung yêu cầu của đề bài. Văn viết mạch lạc có cảm xúc.

Yêu cầu về kiến thức:​

Hai câu thơ thực là bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân: “Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Ở đây, Nguyễn Du học tập hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa”, nhưng khi đưa vào bài thơ của mình, tác giả đã rất sáng tạo.
Câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh “cỏ thơm” (phương thảo) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ xanh”, cộng thêm sắc trắng của hoa lê tạo cho bức tranh thiên về màu sắc.
Trong bức tranh ấy của ND có thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết sắc trắng của một vài bông hoa lê khiến cho màu sắc có sự hài hoà đền mức tuyệt diệu. Chữ “điểm” làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh tại.
Tất cả đều gợi nên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt mà trong trẻo, nhẹ nhành mà thanh khiết.
Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên của NDu quả là tuyệt bút! Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Qua đó, ta thấy tâm hồn con người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.

Cách cho điểm:​

3,5->4 điểm: Cảm nhận đúng, có ý sâu sắc, tinh tế, diễn đạt tốt.
2,5->3 điểm: Cảm nhận đúng, khá đầy đủ, sâu sắc, tinh tế, diễn đạt khá. 1,5->2 điểm: Cảm nhận được nhưng nhìn chung chưa sâu, mắc ít lỗi diễn

đạt.​


0,5->1 điểm: Cảm nhận còn hời hợt, mắc nhiều lỗi diễn đạt.
0 điểm: Làm lạc đề, bỏ giấy trắng


Câu 2: (6,0 điểm)

êu cầu về kỹ năng:​

Thí sinh thể hiện tốt kĩ năng làm văn nghị luận xã hội.
Bố cục rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, lập luận chặt chẽ, không mắc lỗi ngữ pháp, dùng từ, chính tả.

Yêu cầu về kiến thức:​

Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau song cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
Nêu được ý nghĩa của câu chuyện:
- Thể hiện tình yêu thương ấm áp, sự đồng cảm, sẻ chia giữa những con người đang ở trong hoàn cảnh éo le. Điều này có thể thấy qua nghĩa cử cao đẹp của nhân vật “tôi” đối với em nhỏ cũng như suy nghĩ, việc làm đáng trân trọng của em bé bất hạnh.
Bàn luận về vấn đề tình yêu thương giữa con người với con người trong cuộc sống:
Trong cõi đời, tình yêu thương giữa con người với con người là một giá trị cao quý, là điều cần thiết mà ai cũng phải hướng tới.
Trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, lòng nhân ái càng cần thiết để sưởi ấm những mảnh đời bất hạnh.
- Phê phán những kẻ sống vô cảm, ích kỉ, thờ ơ với cộng đồng.
* Rút ra bài học.
- Mỗi người cần biết sống yêu thương, gắn bó, có trách nhiệm với cộng đồng; đặc biệt là cần quan tâm, giúp đỡ những kiếp đời kém may mắn.

Cách cho điểm:​

Điểm 5,6: Đạt được các yêu cầu nêu trên, lí lẽ thuyết phục, văn viết mạch lạc, không mắc những lỗi diễn đạt thông thường.
Điểm 3,4: Đạt được quá nửa yêu cầu về nội dung. Còn một số lỗi về diễn

đạt. thức.

Điểm 1,2: Đạt được một nửa yêu cầu về nội dung, mắc nhiều lỗi về hình

Điểm 0: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp







Câu 2: (10 điểm):​

Yêu cầu về kỹ năng:
Làm đúng thể loại nghị luận văn học.
Có kỹ năng làm bài văn giải thích kết hợp với chứng minh.


Xây dựng hệ thống lập luận chặt chẽ, lôgic.
Văn viết trong sáng, giàu cảm xúc.

Yêu cầu về kiến thức: I- Mở bài:​

Bài thơ ra đời năm 1948, khi Chính Hữu là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô, là kết quả của những trải nghiệm thực, những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc.
Nêu nhận xét chung về bài thơ (như đề bài đã nêu)

I- Thân bài:​

Giải thích ý nghĩa lời nhận định:
- Lời nhận định trên đã đánh giá chính xác sự thành công của bài thơ “Đồng chí ”.

+ Bởi lẽ, nói tới bức tượng đài tráng lệ là nói tới hình ảnh của một người nào đó được khắc hoạ để bền vững với núi sông, trường tồn với thời gian. Còn nói tới sự tráng lệ là nói tới vẻ đẹp rực rỡ, lộng lẫy.
Như vậy, lời nhận định trên đã khẳng định rằng, nhà thơ chính Hữu đã xây dựng được hình ảnh người chiến sĩ hiện lên trong bài thơ với vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng. Hình tượng nghệ thuật ấy được xây dựng bằng ngôn từ sống mãi với thời gian, sống mãi trong tâm trí bạn đọc.

Chứng minh:​

Trước hết người đọc cảm nhận được vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ là tình đồng chí xuất phát từ cơ sở của sự hình thành tình đồng chí.
Xuất thân nghèo khổ: Nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá
Chung lí tưởng chiến đấu: Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Chia sẻ mọi khó khăn, gian lao cũng như buồn vui của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Kết thúc đoạn là dòng thơ chỉ có một từ : Đồng chí (một nốt nhấn, một sự kết tinh cảm xúc).

Vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ còn được thể hiện ở tình đồng chí gắn bó với nhau trong cuộc sống gian lao:​

Họ cảm thông chia sẻ tâm tư, nỗi nhớ quê: nhớ ruộng nương, lo cảnh nhà gieo neo (ruộng nương… gửi bạn, gian nhà không … lung lay), từ “mặc kệ” chỉ là cách nói có vẻ phớt đời, về tình cảm phải hiểu ngược lại), giọng điệu, hình ảnh của ca dao (bến nước, gốc đa) làm cho lời thơ càng thêm thắm thiết.
Cùng chia sẻ những gian lao thiếu thốn, những cơn sốt rét rừng nguy hiểm: những chi tiết đời thường trở thành thơ, mà thơ hay (tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh,…) ; từng cặp chi tiết thơ sóng đôi như hai đồng chí bên nhau : áo anh rách vai / quần tôi có vài mảnh vá ; miệng cười buốt giá / chân không giày ; tay nắm / bàn tay.



Kết đoạn cũng quy tụ cảm xúc vào một câu: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay (tình đồng chí truyền hơi ấm cho đồng đội, vượt qua bao gian lao, bệnh tật).

Đặc biệt vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng của tình đồng chí còn được thể hiện thật lãng mạn, thơ mộng khi họ sát cánh bên nhau trong chiến hào chờ giặc​

Cảnh chờ giặc căng thẳng, rét buốt : đêm, rừng hoang, sương muối.

Họ càng sát bên nhau vì chung chiến hào, chung nhiệm vụ chiến đấu, chủ động trong tư thế: chờ giặc.

Cuối đoạn mà cũng là cuối bài cảm xúc lại được kết tinh trong câu thơ rất đẹp: Đầu súng trăng treo (như bức tượng đài người lính, hình ảnh đẹp nhất, cao quý nhất của tình đồng chí, cách biểu hiện thật độc đáo, vừa lãng mạn vừa hiện thực, vừa là tinh thần chiến sĩ vừa là tâm hồn thi sĩ,…)

III- Kết bài :​

Khẳng định ý nghĩa lời nhận định....

Đề tài dễ khô khan nhưng được Chính Hữu biểu hiện một cách cảm động, sâu lắng nhờ biết khai thác chất thơ từ những cái bình dị của đời thường. Đây là một sự cách tân so với thơ thời kì kháng chiến cống Pháp viết về người lính.

Viết về bộ đội mà không tiếng súng nhưng tình cảm của người lính, sự hi sinh của người lính vẫn cao cả, hào hùng...

Tiêu chuẩn cho điểm:​

Điểm 9,10: Đạt được các yêu cầu nêu trên. Văn viết mạch lạc, có cảm xúc, thể hiện sự sáng tạo, không mắc lỗi diễn đạt thông thường.

Điểm 7,8: Đạt được các yêu cầu nêu trên. Văn viết mạch lạc, mắc it lỗi diễn đạt thông thường.

Điểm 5,6 Đạt được quá nửa yêu cầu về kiến thức. Còn một số lỗi về diễn

đạt.

Điểm 3,4 Đạt được quá nửa yêu cầu về kiến thức, mắc nhiều lỗi về câu, từ,

chính tả.

Điểm1,2 : Chưa đạt yêu cầu nêu trên. Nội dung sơ sài, diễn đạt yếu, mắc nhiều lỗi về câu, từ, chính tả.

Điểm 0: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp.
Thêm
104
0
0
Câu 1 (2 điểm).
Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
“Ôi, đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong trái tim người Như đá vững bền, như đá tốt tươi…”

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Trần Đăng Khoa)

Câu 2 (6 điểm).
Suy nghĩ của em về câu chuyện sau (viết bài nghị luận ngắn):
Tôi được tặng một chiếc xe đạp leo núi rất đẹp nhân dịp sinh nhật của mình. Trong một lần tôi đạp ra công viên chơi, một cậu bé cứ quẩn quanh ngắm nhìn chiếc xe với vẻ thích thú và ngưỡng mộ thực sự.
Chiếc xe này của bạn đấy à? – Cậu bé hỏi.
Anh mình đã tặng nhân dịp sinh nhật của mình đấy – Tôi trả lời, không giấu vẻ tự hào và mãn nguyện.
Ôi, ước gì tôi... – Cậu bé ngập ngừng.
Dĩ nhiên là tôi biết cậu bé đang nghĩ gì rồi. Chắc chắn cậu ấy ước ao có được một người anh như thế. Nhưng câu nói tiếp theo của cậu bé hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của tôi.
Ước gì tôi có thể trở thành một người anh như thế! – Cậu ấy nói chậm rãi và gương mặt lộ rõ vẻ quyết tâm. Sau đó, cậu đi về phía chiếc ghế đá sau lưng tôi, nơi một đứa em trai nhỏ tật nguyền đang ngồi và nói:
Đến sinh nhật nào đó của em, anh sẽ mua tặng em chiếc xe lăn lắc tay nhé.

(Hạt giống tâm hồn - nhiều tác giả, tập bốn, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr 16-17)




Câu 3 (12 điểm). Vẻ đẹp trong lối sống, tâm hồn của nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long và nhân vật Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.


Họ tên học sinh: ..................................................................................... ; Số báo danh: ..........................

HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI THI CHỌN ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNH NĂM HỌC 2016- 2017​

Môn: Ngữ văn 9 – Bài số 2
HƯỚNG DẪN CHUNG:
Giám khảo chấm kĩ để đánh giá một cách đầy đủ, chính xác kiến thức xã hội, kiến thức văn học và kĩ năng diễn đạt, lập luận trong bài làm của học sinh, tránh đếm ý cho điểm.
Hướng dẫn chấm chỉ nêu những nội dung cơ bản, có tính định hướng. Giám khảo vận dụng linh hoạt, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí. Đặc biệt khuyến khích những bài viết có ý tưởng sáng tạo.
Bài viết cần có bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những bài mắc quá nhiều các loại lỗi dùng từ, chính tả, đặc biệt là văn viết tối nghĩa thì không cho quá nửa số điểm của mỗi câu.
Chấm theo thang điểm 20 (câu 1: 2 điểm; câu 2: 6 điểm; câu 3: 12 điểm), cho điểm lẻ đến 0,25.
HƯỚNG DẪN CỤ THỂ:

CâuNội dung cần đạtĐiểm
1Phát hiện và phân tích giá trị của các biện pháp tu từ2,0
HS kết hợp xác định và phân tích tác dụng
* Các biên pháp tu từ trong đoạn thơ:
Điệp từ : “đảo”,“sinh tồn”, “chúng tôi”.
Nhân hóa: “Đảo vẫn sinh tồn”
So sánh: “Chúng tôi” như “hòn đá ngàn năm trong trái tim người”, như “đá vững bền, như đá tốt tươi”.
* Học sinh phân tích được tác dụng:
Điệp từ “đảo” “sinh tồn” (đảo Sinh Tồn, đảo thân yêu, sinh tồn trên mặt đảo, đảo vẫn sinh tồn) vừa giới thiệu về hòn đảo linh thiêng của Tổ quốc vừa thể hiện được sức sống mãnh liệt của hòn đảo giữa biển khơi cũng như người lính đảo. Điệp từ “chúng tôi” - nhấn mạnh hình tượng trung tâm của đoạn thơ - người lính đảo - những người đang đối mặt với khó khăn khắc nghiệt nơi đảo xa.
Hình ảnh nhân hóa “ Đảo vẫn sinh tồn” sự trường tồn của biển đảo quê hương.
Đặc biệt hình ảnh so sánh: “Chúng tôi” như “hòn đá ngàn năm trong trái tim

0.5



1.5




người”, như “đá vững bền, như đá tốt tươi”. Khẳng định sự kiên cường bất khuất
của những chiến sỹ nơi đảo xa. Dù không có mưa trên đảo, dù khắc nghiệt của gió bão biển khơi nhưng họ vẫn bền gan vững chí để giữ gìn biển đảo quê hương.
2Viết bài nghị luận xã hội6,0
Yêu cầu về kỹ năng:
Đảm bảo một văn bản nghị luận xã hội có bố cục rõ ràng, hợp lí, tổ chức sắp xếp ý một cách lôgic, chặt chẽ, hành văn trôi chảy, mạch lạc, chữ viết rõ ràng, cẩn thận, không có quá 3 lỗi dùng từ, diễn đạt…
Yêu cầu về kiến thức: HS có thể khai thác vấn đề theo nhiều hướng, nhưng cần làm rõ các ý cơ bản sau:
0,5



5,5
b. Yêu cầu về kiến thức :
Giải thích ý nghĩa câu chuyện : ước mơ của cậu bé không phải cũng có được một chiếc xe như vậy cho mình mà cậu ước mơ có được chiếc xe lăn để tặng cho đứa em bé bỏng tật nguyền. Cậu trăn trở và quyết tâm “Đến sinh nhật nào đó của em, anh sẽ mua tặng em chiếc xe lăn lắc tay nhé”. Lời hứa là sự chia sẻ, tình yêu thương sâu sắc, sự hy sinh của người anh muốn bù đắp cho đứa em tật nguyền.
Bàn luận
Câu chuyện ngợi ca tình yêu thương, sự sẻ chia đối với người ta yêu thương. Tình yêu thương của người anh thể hiện bằng việc làm cụ thể, để tạo động lực cho người em vươn lên số phận hoàn cảnh.
Câu chuyện cho người đọc bài học về tình cảm gia đình. Khi chúng ta rơi vào hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh thì không ai khác chính là những người thân yêu, ruột thịt cưu mang, đùm bọc.
Khi ta được yêu thương và yêu thương người khác thì ta sẽ thấy hạnh phúc.
Bên cạnh đó trong cuộc sống nhiều gia đình anh em tranh giành quyền lợi, sống thờ ơ, thiếu quan tâm......
* Bài học nhận thức và hành động:
Bài học đáng quý cho tuổi học trò, đừng đòi hỏi người khác quan tâm, chăm sóc mình mà mỗi người cần quan tâm đến mọi người trong gia đình.
Biết yêu thương là người giàu lòng nhân ái, lối sống cao đẹp.

1,0



3,0








1,5
3Viết bài nghị luận văn học12,0
1. Yêu cầu về kĩ năng:
Đảm bảo một văn bản nghị luận có bố cục rõ ràng, hợp lí; tổ chức sắp xếp hệ thống các ý một cách lôgic, lập luận chặt chẽ; diễn đạt trôi chảy, mạch lạc; chữ viết rõ ràng, cẩn thận; không mắc lỗi dùng từ cơ bản…
Phải huy động những hiểu biết về văn học, đời sống, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ, chủ kiến của mình để làm bài.

- Có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, phải có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
1,0
2. Yêu cầu về kiến thức: HS có thể khai thác vấn đề theo nhiều hướng, nhưng cần
làm rõ các ý cơ bản sau:
11.0
a. Giới thiệu sơ lược về đề tài viết về những con người sống, cống hiến cho đất
1.5




nước trong văn học. Nêu tên 2 tác giả và 2 tác phẩm cùng những vẻ đẹp của anh
thanh niên và Phương Định.
b. Vẻ đẹp của 2 nhân vật trong hai tác phẩm:
8.0
* Vẻ đẹp trong cách sống:
- Nhân vật anh thanh niên: trong Lặng lẽ Sa Pa
2.0​
+ Hoàn cảnh sống và làm việc : một mình trên núi cao, quanh năm suốt tháng​
giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa. Công việc là đo gió, đo mưa đo nắng, tính mây, đo
chấn động mặt đất…
+ Anh đã làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cụ thể, tỉ mỉ, chính xác, đúng​
giờ ốp thì dù cho mưa tuyết, giá lạnh thế nào anh cũng trở dậy ra ngoài trời làm
việc đúng giờ quy định.
+ Anh đã vượt qua sự cô đơn vắng vẻ quanh năm suốt tháng trên đỉnh núi cao​
không một bóng người.
+ Sự cởi mở chân thành, quý trọng mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện​
với mọi người.
+ Tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình một cách ngăn nắp, chủ động: trồng hoa,​
nuôi gà, tự học...
- Cô thanh niên xung phong Phương Định:
+ Hoàn cảnh sống và chiến đấu: ở trên cao điểm giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. Công việc đặc biệt nguy hiểm: Chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình trong vùng máy bay địch bị bắn phá, ước lượng khối lượng đất đá, đếm bom, phá bom.
+ Yêu mến đồng đội, yêu mến và cảm phục tất cả những chiến sĩ mà cô gặp trên tuyến đường Trường Sơn.
+ Có những đức tính đáng quý, có tinh thần trách nhiệm với công việc, bình tĩnh, tự tin, dũng cảm...
2.0​
* Vẻ đẹp tâm hồn:
- Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa:
+ Anh ý thức về công việc của mình và lòng yêu nghề khiến anh thấy được công việc thầm lặng ấy có ích cho cuộc sống, cho mọi người.
+ Anh đã có suy nghĩ thật đúng và sâu sắc về công việc đối với cuộc sống con người.
+ Khiêm tốn thành thực cảm thấy công việc và những đóng góp của mình rất nhỏ bé.
+ Cảm thấy cuộc sống không cô đơn buồn tẻ vì có một nguồn vui, đó là niềm vui đọc sách mà lúc nào anh cũng thấy như có bạn để trò chuyện.
+ Là người nhân hậu, chân thành, giản dị.
- Cô thanh niên Phương Định:
+ Có thời học sinh hồn nhiên vô tư, vào chiến trường vẫn giữ được sự hồn nhiên.
+ Là cô gái nhạy cảm, mơ mộng, thích hát, tinh tế, quan tâm và tự hào về vẻ đẹp của mình.
+ Kín đáo trong tình cảm và tự trọng về bản thân mình.
ÞCác tác giả miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật làm hiện lên một thế

2.0​



1.5​


0.5​



giới tâm hồn phong phú, trong sáng và đẹp đẽ cao thượng của nhân vật ngay trong
hoàn cảnh chiến đấu đầy hi sinh gian khổ.
c. Đánh giá, liên hệ:1.5
- Hai tác phẩm đều khám phá, phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người Việt
Nam trong lao động và trong chiến đấu.
- Liên hệ với người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua bài “Bài thơ về
tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật
- Vẻ đẹp của các nhân vật đều mang màu sắc lí tưởng, họ là hình ảnh của con
người Việt Nam mang vẻ đẹp của thời kì lịch sử gian khổ hào hùng và lãng mạn
của dân tộc.
- Liên hệ với lối sống, tâm hồn của thanh niên trong giai đoạn hiện nay.


* Lưu ý: Trên đây là những gợi ý và định hướng chung, giám khảo cần vận dụng linh hoạt dựa trên thực tế bài làm của học sinh. Khuyến khích những bài có cảm nhận sâu sắc, có cảm xúc và sáng tạo trong cách viết.
Thêm
65
0
0
Câu 1 (2 điểm).
Vận dụng kiến thức đã học về từ láy để phân tích nét nổi bật của việc dùng từ trong những câu thơ sau:








Câu 2 (6 điểm).
Danh ngôn có câu:


Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nắm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh

( Nguyễn Du, Truyện Kiều)



“Ý nghĩ là nụ hoa. Lời nói là bông hoa.
Việc làm là quả ngọt.”


Em hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài khoảng hai trang giấy thi bày tỏ suy nghĩ của bản thân về ý kiến trên.
Câu 3 (12 điểm).
Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới.
Bằng những hiểu biết về văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên



Họ và tên thí sinh:............................................................... Số báo danh:........................


Lưu ý: Giám thị coi thi không giải thích gì thêm.



PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ỨNG HÒA

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9 NĂM HỌC 2015 - 2016



HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN 9


CÂU
NỘI DUNG
ĐIỂM
- Các từ láy: nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu.
1,0
Câu 1
- Tác dụng: vừa để tả cảnh vừa tả tâm trạng. Gợi vẻ hoang vắng, trơ trọi, buồn tẻ của
1,0
(2 điểm)
ngôi mộ vô chủ và tâm trạng nao nao buồn của ba chị em Thúy Kièu vào thời điểm
cuối ngày hội đạp thanh. Đồng thời như báo hiệu một sự kiện sắp xảy ra với nhân vật
Thúy Kiều.
1. Yêu cầu về kỹ năng:
Thể hiện vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết của bản thân một cách sâu sắc, tinh tế qua việc nhận thức, bàn luận, bình giá, dẫn chứng cụ thể và bày tỏ quan điểm... một cách hấp dẫn, thuyết phục.
Có kỹ năng viết bài nghị luận xã hội với những lập luận chặt chẽ; trình bày ý mạch lạc, rõ ràng.
Văn viết trong sáng, có cảm xúc, không mắc các lỗi cơ bản về chính tả, dùng từ, đặt câu, diễn đạt.
2. Yêu cầu về nội dung:
* Giải thích ý kiến:
Ý nghĩ: là điều nảy sinh ra trong đầu óc do kết quả của hoạt động trí tuệ của con người.
Lời nói: là những điều con người nói ra do nhu cầu và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Việc làm: là hành động cụ thể của con người.
Nụ hoa, bông hoa, quả ngọt: Là quá trình phát triển tự nhiên, tất yếu theo quan hệ nhân - quả. Trong đó, nụ hoa là vẻ đẹp, giá trị tiềm ẩn; bông hoa là giá trị, vẻ đẹp đã bộc lộ song chỉ tồn tại trong giới hạn thời gian; quả ngọt là giá trị, vẻ đẹp đã được bộc lộ trọn vẹn để tạo ra những hiệu quả viên mãn.
=> Câu danh ngôn trên không chỉ xác định mối quan hệ biện chứng giữa ý nghĩ, lời nói với việc làm mà còn đặt ra một yêu cầu đối với chúng: có suy nghĩ tốt mới có lời
nói hay và từ đó mới có việc làm đẹp, có ý nghĩa, giá trị.

1,0



Câu 2
(6 điểm)

1,0




* Bàn luận vấn đề:
*Ý nghĩ: Thí sinh bàn luận những cơ sở hình thành ý nghĩ (sự hiểu biết, năng lực
nhận thức, bản tính của con người...) Từ đó xác định yêu cầu đặt ra với ý nghĩ là phải
trong sáng, sâu sắc, đúng đắn, tích cực để khởi đầu cho những điều tốt đẹp.
- Mỗi người phải biết tự nâng cao hiểu biết, mở rộng tầm nhận thức, sửa đổi và hoàn
1,0
thiện tâm tính, nhân cách để tránh bị tác động tiêu cực từ cuộc sống làm vẩn đục tâm
hồn.
* Lời nói: Lời nói được hình thành do nhu cầu của bản thân về giao tiếp trong cuộc
sống trong những hoàn cảnh, đối tượng cụ thể và mục đích nhất định.
- Lời nói giúp chúng ta biểu đạt suy nghĩ, cảm xúc, truyền tải thông tin. Nó có tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến người khác.
- Yêu cầu đặt ra là lời nói cần tế nhị, sâu sắc, phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng
1,0
giao tiếp, đạt được hiệu quả cao nhất về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
- Con đường để đáp ứng những yêu cầu đó là tích lũy hiểu biết, có ý thức đầy đủ về
hiệu quả, khả năng tác động của lời nói để thận trọng phát ngôn.
* Việc làm: Là hoạt động thể chất và tinh thần để tạo ra những giá trị về vật chất và
tinh thần phục vụ mọi nhu cầu trong cuộc sống.
- Việc làm thể hiện năng lực, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm của bản thân; là
con đường gắn lý thuyết với thực hành....
- Yêu cầu đặt ra là việc làm phải có mục đích rõ ràng, phương pháp thực hiện chuẩn
xác, hiệu quả cụ thể.
- Phải tích lũy tri thức, rèn luyện kinh nghiệm, kỹ năng, tính thực tiễn cao để làm việc
tốt.
1,0
* Bài học:
- Ý nghĩ gắn với hiểu biết, tâm hồn và nhân cách. Hiểu biết sâu thì tâm hồn phong
phú, nhân cách đẹp mới có được ý nghĩ sâu sắc, có tầm vóc. Đây là cái hạt mầm quan
trọng nhất, là khởi đầu, xuất phát của tất cả. Ý nghĩ đẹp, nói lời hay, làm việc tốt là
biểu hiện cao đẹp của thanh lịch - văn minh, nhất là với học sinh.
- Tuy nhiên, có ý nghĩ tốt chưa chắc đã có lời nói hay và việc làm giá trị. Cần phải
học nói để lời nói được giá trị và giàu sức thuyết phục. Bởi ngôn ngữ là công cụ trực
tiếp của tư duy, ngôn ngữ thể hiện trình độ nhận thức, phẩm chất, tâm hồn của con
1,0




người. Cần phải học làm việc để biết và làm tốt. Cần có ý thức và lòng tự trọng để lời nói đi đôi với việc làm.
1. Yêu cầu về kĩ năng:
Thí sinh xác định được đây là kiểu bài nghị luận chứng minh nhưng vẫn cần có sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa phân tích, chứng minh, bình luận và biểu cảm.
Biết làm bài văn nghị luận văn học.hoàn chỉnh với bố cục 3 phần rõ ràng; kết cấu chặt chẽ, lập luận chắc chắn, có sức thuyết phục
Văn viết lưu loát, có cảm xúc, không mắc các lỗi chính tả, lỗi dùng từ, ngữ pháp, trình bày sạch sẽ, chữ viết rõ ràng..
2. Yêu cầu về kiến thức:

2,0
Câu 3
(12 điểm)
a. Mở bài: (2 điểm)
- Nêu được hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975. Hiện thực đó đã tạo nên vóc dáng người chiến sĩ và vóc dáng của con người mới xây dựng CNXH.



1,0
- Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ




đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 - 1975.
b. Thân bài: (8 điểm)
* Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: họ là những con người nổi bật với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan:
Họ là những con người ở mọi tầng lớp, lứa tuổi như: người nông dân mặc áo lính (Đồng chí của Chính Hữu), những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường (Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật), là em bé liên lạc (Lượm của Tố Hữu)...
Họ là những người lính, người chiến sĩ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. (dẫn chứng)
Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ song họ luôn có tinh thần lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp... (dẫn chứng)
* Hình ảnh người lao động mới: họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước:
Người lao động trong "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy cận mang nhịp thở tươi vui, hăm hở, hoà mình cùng trời cao biển rộng: họ ra khơi với niềm hân hoan trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức lực và trí tụê của mình.(Dẫn chứng).
"Lặng lẽ SaPa" của Nguyễn Thành Long mang nhịp thở của người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say
1,0


0,5

0,5


1,0

1,0

1,0


1,5



1,5



2,0



mê, miệt mài trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp (Dẫn chứng)
* Kết bài: (2 điểm)
Khẳng định lại giá trị và những đóng góp của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh
của con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX.


*Lưu ý:
Giám khảo linh hoạt khi chấm bài của học sinh. Khuyến khích những bài viết diễn đạt tốt, kết cấu chặt chẽ, có sức thuyết phục; bài viết có cá tính, giọng điệu cảm xúc riêng.



Thêm
77
0
0
Câu 1 (2 điểm). Trong bài thơ Bếp lửa, Bằng Việt viết:
… “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”

Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ được dùng trong đoạn thơ trên.
Câu 2 (6 điểm). Suy nghĩ của em về câu chuyện sau (viết bài nghị luận ngắn):
Sau trận động đất và sóng thần kinh hoàng ở Nhật Bản, tại một trường tiểu học, người ta tổ chức phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng chín tuổi, trên người chỉ mặc một bộ quần áo mỏng manh. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt em thì chắc chẳng còn thức ăn nên đến gần và trò chuyện với em.
Em kể thảm họa đã cướp đi những người thân yêu trong gia đình: cha, mẹ và đứa em nhỏ. Em bé quay người lau vội dòng nước mắt. Thấy em lạnh, tôi cởi chiếc áo khoác choàng lên người em và đưa khẩu phần ăn tối của mình cho em: “Đợi tới lượt cháu chắc hết thức ăn rồi, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, cháu ăn đi cho đỡ đói”. Cậu bé nhận túi lương khô, khom người cảm ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng thật bất ngờ, cậu mang khẩu phần ít ỏi ấy đi thẳng đến chỗ những người đang phân phát thực phẩm, để túi thức ăn vào thùng rồi quay lại xếp hàng.
Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao cháu không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Cậu bé trả lời: “Bởi chắc còn có nhiều người bị đói hơn cháu. Cháu bỏ vào đó để cô chú phát chung cho công bằng.”
(Dẫn theo báo Dân trí điện tử)

Câu 3 (12 điểm).


“Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng...”
(Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ)
Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy nói về “ánh sáng riêng” mà truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long đã “rọi vào” tâm hồn em.



Họ tên học sinh: ..................................................................................... ; Số báo danh: ..........................
HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI THI HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2015- 2016
Môn: Ngữ văn – Lớp 9
HƯỚNG DẪN CHUNG:
Giám khảo chấm kĩ để đánh giá một cách đầy đủ, chính xác kiến thức xã hội, kiến thức văn học và kĩ năng diễn đạt, lập luận trong bài làm của học sinh, tránh đếm ý cho điểm.
Hướng dẫn chấm chỉ nêu những nội dung cơ bản, có tính định hướng. Giám khảo vận dụng linh hoạt, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí. Đặc biệt khuyến khích những bài viết có ý tưởng sáng tạo.
Bài viết cần có bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những bài mắc quá nhiều các loại lỗi dùng từ, chính tả, đặc biệt là văn viết tối nghĩa thì không cho quá nửa số điểm của mỗi câu.
Chấm theo thang điểm 20 (câu I: 2 điểm; câu II: 6 điểm; câu III: 12 điểm), cho điểm lẻ đến 0,25.
HƯỚNG DẪN CỤ THỂ:

Câu
Nội dung cần đạt
Điểm
I
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ
2,0
- Giới thiệu đoạn thơ: (0,25 điểm)
Bằng việc lựa chọn và sử dụng các biện pháp tu từ điệp ngữ, hoán dụ, ẩn dụ một
cách đặc sắc, đoạn thơ là dòng suy ngẫm sâu sắc của cháu về “bếp lửa” của bà
0,25​
- Lần lượt chỉ ra và phân tích hiệu quả của từng phép tu từ: (1,75 điểm)
+ Điệp từ nhóm bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa nhấn mạnh công việc nhóm bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo, nhẫn nại, giàu đức hi sinh. Bà không chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để bếp lửa cháy sáng, để có nồi khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo mới. Từ công việc nhóm lửa hàng ngày, bà còn nhóm lên cả những nét đẹp tâm hồn tuổi thơ
cháu, bồi đắp ước mơ và tình yêu thương cho cháu.
0,5​
+ Hoán dụ: khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo mới gợi ra tình cảm gắn bó với
0,5​




những gì giản dị, gần gũi của quê hương. Bà bồi đắp cho cháu tình đoàn kết
xóm làng.
+ Ẩn dụ: bếp lửa vừa tả thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu thương bà dành cho cháu, trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là
hành trang theo cháu suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
0,5​
Þ Các phép tu từ trên đã góp phần thể hiện tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc của
người cháu hiếu thảo phương xa với người bà yêu kính và bếp lửa tuổi thơ.
0,25​
IIViết bài nghị luận xã hội
6,0
Yêu cầu về kỹ năng:
- Đảm bảo là một văn bản nghị luận xã hội: Bố cục và hệ thống ý sáng rõ. Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Hành văn trôi chảy. Lập
luận chặt chẽ. Dẫn chứng chọn lọc, thuyết phục. Không mắc quá năm lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
0,5
Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh có thể có những cách trình bày khác nhau
nhưng cần đảm bảo các ý sau:
5,5
* Nêu được ý nghĩa của câu chuyện:
Thể hiện tình yêu thương ấm áp, sự đồng cảm, sẻ chia giữa những con người đang ở trong hoàn cảnh éo le, hoạn nạn. Điều này có thể thấy qua nghĩa cử cao đẹp của nhân vật “tôi” đối với em nhỏ cũng như suy nghĩ, việc làm
đáng trân trọng của em bé bất hạnh.
1,5​
* Bàn luận về vấn đề tình yêu thương giữa con người với con người trong cuộc sống:
Trong cõi đời, tình yêu thương giữa con người với con người là một giá trị cao quý, là điều cần thiết mà ai cũng phải hướng tới. (VD minh họa)
Trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, lòng nhân ái càng cần thiết để sưởi ấm những mảnh đời bất hạnh. (VD minh họa)
Lẽ “công bằng” trong khó khăn, hoạn nạn là biểu hiện cao nhất của tình yêu thương giữa con người với con người. (VD minh họa)
Phê phán những kẻ sống vô cảm, ích kỉ, thờ ơ với cộng đồng.


0,75

0,75

0,75

0,75
* Liên hệ bản thân và rút ra bài học:
Mỗi người cần biết sống yêu thương, gắn bó, có trách nhiệm với cộng đồng; đặc biệt là cần quan tâm, giúp đỡ những kiếp đời kém may mắn.

1,0​
IIIViết bài nghị luận văn học
12,0
Yêu cầu về kĩ năng: Học sinh hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Đảm bảo là một văn bản nghị luận văn học có bố cục 3 phần rõ ràng, kết cấu chặt chẽ. Biết
phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc quá năm lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
1,0




Yêu cầu về kiến thức: Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau
nhưng cơ bản đáp ứng được những nội dung sau:
11,0
1. Giải thích nhận định: (2,0 điểm)
- “Tác phẩm lớn”: tác phẩm mang dấu ấn của từng giai đoạn, từng thời kì, mở ra trước mắt người đọc những hiểu biết phong phú về cuộc sống xã hội con người, hướng con người đến những điều tốt đẹp. Vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm
làm lay động bao trái tim người đọc và có sức sống lâu bền với thời gian.
0,5​
- “Ánh sáng” của tác phẩm: là cảm xúc, tâm sự, tấm lòng, tinh thần của thời
đại… mà nhà văn đã chuyển hoá vào trong tác phẩm.
0,5​
- “rọi vào bên trong”: là khả năng kì diệu trong việc tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của ta, chiếu toả soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi
mắt ta nhìn, óc ta nghĩ…
0,5​
- Mỗi tác phẩm mang một ánh sáng riêng in đậm dấu ấn, phong cách riêng của nhà văn, từ cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, bày tỏ quan điểm, cách
nhìn cuộc sống đều mang nét riêng độc đáo.
0,5​
2. Chứng minh qua “Lặng lẽ Sa Pa”: (8,0 điểm)
- Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo, giàu chất thơ của Nguyễn Thành Long. Đây là một tác phẩm đẹp từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Trong tác phẩm nhà văn đã xây dựng được những hình tượng
nhân vật độc đáo, giàu lí tưởng tiêu biểu cho phẩm chất của con người Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng quê hương đất nước.
1,0​
- Trước hết về giá trị nội dung: có thể xem tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh
nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ.
1,0​
+ Ánh sáng người đọc đón nhận từ tác phẩm trước hết là âm vang của cuộc gặp gỡ giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư nông nghiệp và anh thanh niên khí tượng. Ở những con người này ánh lên những phẩm chất tốt đẹp đã thành bản chất bền vững, những quan niệm đạo đức trong sáng, cao cả và một ý chí kiên định cách mạng, tất cả đã được tôi luyện trong thử thách của chiến tranh, nay đang
được tiếp tục củng cố, phát huy trong công cuộc xây dựng xã hội mới. (Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng).
1,0​
+ Tác phẩm rọi vào trong lòng người đọc những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống của lao động tự giác về con người và về nghệ thuật. Cuộc sống của mỗi người chỉ thật sự có ý nghĩa khi mọi việc làm của họ đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mến tự hào về mảnh đất mình đang sống. Con người cần phải biết sống có lý tưởng, say mê với công việc, hiểu được ý nghĩa công việc mình làm. Vẻ đẹp của con người lao động chính là mảnh đất
màu mỡ để người nghệ sĩ ươm mầm. (Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng)
1,0​



- Về giá trị nghệ thuật: thứ ánh sáng đặc biệt của Lặng lẽ Sa Pa mà người đọc
cảm nhận được toả ra từ chất thơ bàng bạc xuyên suốt tác phẩm.
1,0​
+ Chất thơ trong cốt truyện, chất thơ thấm đượm trong bức tranh phong cảnh thiên nhiên. Mỗi câu mỗi chữ khắc hoạ bức tranh thiên nhiên đều giàu sức tạo hình, rực rỡ sắc màu, nhịp điệu êm ái như một bài thơ. Cảm xúc trước cảnh mới lạ ấy truyền cho người đọc những rung động thẩm mĩ về vẻ đẹp của tác phẩm, làm dội lên ước muốn một lần được đặt chân lên Sa Pa. (Dẫn chứng và
phân tích dẫn chứng)
1,0​
+ Chất thơ trong nét đẹp tâm hồn của nhân vật, trong ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện nhẹ nhàng trong sáng. Ngôn ngữ truyện như dòng nước mát trôi vào tâm trí người đọc, khơi gợi bao khao khát về một vùng đất lặng lẽ mà thơ
mộng. (Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng)
1,0​
- Ánh sáng toả ra từ Lặng lẽ Sa Pa là một thứ ánh sáng rất riêng. Nó đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ thâm trầm, sâu sắc: Lặng lẽ Sa Pa - mới đọc tên, ngỡ nhà văn nói về một điều gì… im ắng, hắt hiu, giá lạnh; nhưng kì diệu thay trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn ngân lên những âm thanh trong sáng, vẫn ánh lên những sắc màu lung linh, lan toả hơi ấm tình người và sự sống. Từ đó làm cho người đọc thấy tin yêu cuộc sống, bồi đắp lí tưởng
sống cao đẹp - sống cống hiến dựng xây quê hương đất nước.
1,0​
3. Đánh giá và liên hệ bản thân: (1,0 điểm)
- Tác phẩm nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật lớn là con đẻ tinh thần của nhà văn.
Nó được tạo ra bằng quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc và sáng tạo.
0,5​
- Tác phẩm lớn sẽ chiếu tỏa, soi rọi; có khả năng giáo dục, cảm hóa sâu sắc
tới nhận thức và hành động của bạn đọc nhiều thế hệ (liên hệ bản thân)
0,5​


* Lưu ý: Trên đây là những gợi ý và định hướng chung, giám khảo cần vận dụng linh hoạt dựa trên thực tế bài làm của học sinh. Khuyến khích những bài có cảm nhận sâu sắc, có cảm xúc và sáng tạo trong cách viết.
Thêm
73
0
0
Câu 1: (4 điểm)
Cảm nhận của em về những câu thơ sau:
“ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa !”

( Trích “Bếp lửa” của Bằng Việt)


Câu 2: (4 điểm)

THƯỢNG ĐẾ CŨNG KHÔNG BIẾT​

Thượng đế lấy đất sét nặn ra con người. Khi Ngài nặn xong vẫn còn thừa ra một mẩu đất.
Còn nặn thêm cho mày gì nữa, con người ? – Ngài hỏi
Con người suy nghĩ một lúc: có vẻ như đã đủ đầy – tay, chân, đầu...rồi nói:
Xin Ngài nặn cho con hạnh phúc.
Thượng đế, dù thấy hết, biết hết nhưng cũng không hiểu hết được hạnh phúc là gì. Ngài trao cục đất cho con người và nói:
Này, tự đi mà nặn lấy cho mình hạnh phúc.
( Trích Những giai thoại hay nhất về tình yêu và cuộc sống – Tập 2, trang 104 – NXB Công an Nhân Dân)
Suy nghĩ của em về ý nghĩa câu chuyện trên.

Câu 3: (12 điểm)


Cảm nhận của em về tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng và cao đẹp qua bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật.



- Hết -
Lưu ý: Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm!



PHÒNG GD&ĐT THANH OAI HƯỚNG DẪN CHẤM THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9

NĂM HỌC 2013 - 2014​

Môn: Ngữ văn

Câu 1:​

* Yêu cầu về nội dung:
HS nắm được nội dung của đoạn thơ là bày tỏ những suy ngẫm của nhà thơ về bà và công việc nhóm lửa của bà.
Chỉ ra biện pháp được sử dụng trong đoạn thơ.
+ Điệp từ “ nhóm” (4 lần) khơi nguồn dòng cảm xúc – hồi tưởng về bà về công việc nhóm lửa của bà.
+ Ẩn dụ: Thấy được sự tần tảo, chắt chiu trong công việc nhóm lửa của bà. Ngọn lửa ấm áp yêu thương mà bà dành cho cháu. Bà đã nhen nhóm trong tâm hồn cháu ước mơ khát vọng niềm vui, niềm tin của tuổi thơ.
+ Câu cảm thán “ Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa” dồn nén cảm xúc bày tỏ niềm yêu mến, lòng biết ơn đối với người bà thân yêu của mình. Bếp lửa là ngọn lửa của tình yêu thương của bà. Ngọn lửa ấy đã sưởi ấm tâm hồn nhà thơ trong những ngày xa quê hương học tập ở nước ngoài.

Yêu cầu về hình thức:​

Bài viết có bố cục rõ ràng (đây là một bài viết ngắn). Đảm bảo sự phân tích chặt chẽ trong bài viết

* Biểu điểm:​

Điểm 4: Đáp ứng tất các yêu cầu trên – không mắc lỗi Điểm 3: Đáp ứng 2/3 yêu cầu – còn mắc một số lỗi.
Điểm 2: Đạt 1/2 yêu cầu còn mắc một số lỗi diễn đạt.


Điểm 1: Đạt dưới 1/2 yêu cầu mắc nhiều lỗi.
Câu 2: (4.0 điểm)
Về nội dung: Cần đáp ứng một số ý sau:
Hiểu được ý nghĩa câu chuyện: (1.0 điểm)
Thượng đế là đấng toàn năng có khả năng biết hết mọi chuyện và tạo nên con người nhưng không thể “nặn” được hạnh phúc để ban tặng cho loài người bởi vì:
Hạnh phúc không sẵn có, hạnh phúc tồn tại trong chính cuộc sống con người.
Lời nói của thượng đế “tự đi mà nặn lấy cho mình hạnh phúc” thể hiện: hạnh phúc do chính con người tạo nên.
Þ Câu chuyện có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc: hạnh phúc không bao giờ sẵn có hay là món quà được ban tặng, hạnh phúc của con người do chính con người tạo nên.
Bàn bạc- đánh giá – chứng minh
(2.0 điểm)
Con người có thể tạo nên hạnh phúc bằng bàn tay vun xới và tấm lòng yêu thương cuộc đời.
Khi tự mình tạo nên hạnh phúc, con người sẽ cảm nhận được sâu sắc giá trị của hạnh phúc của chính mình và sống cuộc đời đầy ý nghĩa.
Hạnh phúc không phải là những điều có sẵn, nó đến từ chính những hành động của mỗi con người (dẫn chứng)
Hãy vun đắp hạnh phúc cho chính mình.
Phê phán những kẻ ỷ lại, dựa dẫm trông chờ hạnh phúc mơ hồ viễn vông, thờ ơ với cuộc sống (dẫn chứng thực tế)
Bài học được rút ra: (1.0 điểm)
Trong cuộc đời ta sẽ gặp phải nhiều trở ngại hãy nỗ lực tìm tòi và vươn lên.
Con người phải biết dựa vào chính mình để sinh tồn hòa nhập để sáng tạo và phát triển
Về hình thức:
Học sinh biết cách làm kiểu bài nghị luận. Bài viết có bố cục chặt chẽ. Biết vận dụng nhuần nhuyễn các thao tác lập luận phù hợp.
Biểu điểm:


Điểm 3,5- 4: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đảm bảo các yêu cầu về kĩ năng và kiến thức, có lập luận chặt chẽ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận, bài viết có cảm xúc, diễn đạt lưu loát.
Điểm 2,5- 3: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về kĩ năng và kiến thức, có lập luận tương đối chặt chẽ, có sự vận dụng thành công các thao tác lập luận, diễn đạt tương đối tốt.
Điểm 1,5- 2: Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được cơ bản các yêu cầu về kĩ năng và kiến thức, lập luận chưa chăt chẽ, có thể còn một số lỗi nhỏ về diễn đạt.
Điểm 0,5- 1: Chưa nắm vững yêu cầu của đề bài, chưa đáp ứng được ½ yêu cầu về kĩ năng và kiến thức, mắc lỗi chính tả và diễn đạt.
Điểm 0: để giấy trắng.

Hình thức: Đúng thể văn nghị luận, bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí, bài viết không sai lỗi chính tả, bố cục 3 phần.
Nội dung: Cần làm rõ các nội dung sau:
Mở bài: Giới thiệu hình tượng người lính trong hai cuộc kháng chiến thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ có nhiều nét đẹp chung của người lính bộ đội cụ Hồ.
Thân bài: Cần làm rõ ba nội dung sau:
Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, luôn khát vọng độc lập tự do nên họ quyết tâm lên đường để giải phóng quê hương đất nước.
Nêu hoàn cảnh xuất thân của người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu…
Nêu hoàn cảnh xuất thân của những người lính trong bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Nhờ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn bền chặt và lòng dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn thành nhiệm vụ.
Thiếu thốn của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp… Dẫn chứng, phân tích…
Thiếu thốn của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ… dẫn chứng, phân tích…
Qua hình ảnh anh lính Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự

1,0



1,0



1,0

1,0

1,0

1,5

1.5

1,0

1,0



gần gũi, thân quen giữa những người lính qua các thời kì…ở họ đều có chung một nét đẹp: kiên cường, bất khuất, dũng cảm, lạc quan, yêu đời…
Nêu điểm giống nhau của những người lính…
Nêu điểm khác nhau của những người lính…
Kết bài: Khái quát lại vấn đề.



0,5
0,5
1,0





- Hết -​
Thêm
72
0
0
Câu 1. (4.0 điểm):

ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN​

Môn: Ngữ văn - Lớp 9

Ngày thi: 25/ 11 / 2015​

Thời gian làm bài 150 phút (không kể thời gian giao đề)​

ĐỀ BÀI

Chỉ ra và nêu tác dụng của các biện pháp tu từ trong khổ thơ sau: (không cần viết thành bài văn).
" Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn"
(Tiếng hát con tàu - Chế lan Viên, dẫn theo sách Ngữ văn 12 tập một - NXBGD 2013, trang 144)

Câu 2. (6.0 điểm):
Khi viết về quê hương, nhà thơ Đỗ Trung Quân viết:
Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi
( Quê Hương)

Từ cách hiểu về hai câu thơ trên, hãy trình bày suy nghĩ của em về quê hương bằng một bài văn nghị luận.
Câu 3. ( 10.0 điểm):
Có nhận định rằng: "Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất".
Qua bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt. Em hãy làm sáng rõ nhận định trên.

Hết​



Họ tên thí sinh:…………………………….………………………..Số báo danh: ……………………….

Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.


PHÒNG GD&ĐT THIỆU HOÁ

( Hướng dẫn chấm có 4 trang)



Yêu cầu chung:​


HƯỚNG DẪN CHẤM
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 9 CẤP HUYỆN
NĂM HỌC 2015-2016

Môn thi: Ngữ văn Ngày thi: 25/11/2015.​


Hướng dẫn chấm chỉ nêu những nội dung cơ bản, có tính định hướng. Giám khảo cần vận dụng linh hoạt, sử dụng mức điểm một cách hợp lí. Đặc biệt khuyến khích những bài viết có ý tưởng sáng tạo.

Nội dung
Điểm
I . Yêu cầu về hình thức: Trình bày rõ ràng, diễn đạt tốt
II. Yêu cầu về nội dung: Chỉ ra và nêu đƣợc tác dụng các biện pháp tu từ sau:
1. Biện pháp Điệp từ : "Nhớ"0.5
Tác dụng: Khắc họa ý thơ (tha thiết, bồi hồi)0.25
2. Biện pháp tu từ Liệt kê: (bản sƣơng giăng, đèo mây phủ)0.5
Tác dụng:
"Bản sƣơng giăng" nhắc đến kỷ niệm đối với con ngƣời (Tây Bắc)0.25
"Đèo mây phủ" gợi nhớ kỷ niệm đối với thiên nhiên, cảnh vật (Tây Bắc)0.25
3. Biện pháp Câu hỏi tu từ: "Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thƣơng?"0.5
Tác dụng: Gợi suy nghĩ, liên tƣởng từ đó khẳng định một qui luật của tình cảm0.25
4. Biện pháp tu từ Đối lập: " Khi ta ở chỉ là nơi đất ở" >< "Khi ta đi, đất bỗng
hóa tâm hồn"
0.5
Tác dụng: Nêu bật sự chuyển hóa trong nhận thức của nhà thơ0.25
5. Biện pháp Đối lập: "Đất" >< "Tâm hồn"0.5
Tác dụng: Nêu bật sự chuyển hóa từ vật chất ("đất") thành tinh thần ("tâm hồn"), bộc lộ tình cảm sâu nặng, đạo lý thủy chung của tác giả đối với thiên
nhiên và con ngƣời Tây Bắc.
0.25
Yêu cầu cụ thể Câu 1. (4.0 điểm):


















Điểm
Câu 2. ( 6.0 điểm):




I . Yêu cầu về hình thức:
Trình bày rõ ràng, diễn đạt tốt, văn viết trong sáng, có cảm xúc. Biết cách làm bài văn nghị luận, bài văn có bố cục hợp lí, chặt chẽ.
II. Yêu cầu về nội dung: Làm rõ được các yêu cầu cơ bản sau:
Quan niệm về quê hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân
2.75
Câu thơ nằm trong thi phẩm viết về quê hương. Trong thi phẩm ấy, nhà thơ
gợi ra những cách hiểu về quê hương
0.25​
Cách so sánh độc đáo, thú vị: quê hương và mẹ. Ý nghĩa của cách so sánh ấy là để khẳng định quê hương chính là nguồn cội, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó nuôi
dưỡng sự sống, đặc biệt là sự sống tinh thần, tâm hồn.

0.5​
Qua lối so sánh khẳng định để nêu bật tình cảm với quê hương. Quê
hương là điều quí giá vô ngần mà mỗi con người không thể thiếu
0.5​
Hình bóng quê hương đi theo con người suốt cả cuộc đời, trở thành điểm tựa về tinh thần của con người trong cuộc sống. Nếu thiếu đi điểm tựa này, cuộc
sống của con người trở nên chông chênh, lệch lạc

0.5​
Qua cách so sánh tác giả đã khơi dậy, nuôi dưỡng tình cảm với quê hương: tình
cảm với mẹ là tình cảm tự nhiên, thuần khiết trong mỗi con người
0.5​
Gợi mở một cách sống, cách làm người:
Phải biết coi trọng gốc rễ, hướng về cội nguồn, biết yêu quê hương. Thiếu đi tình cảm này là một khiếm khuyết lớn của mỗi con người trong đời sống tâm hồn, tình cảm khiến con người sống thiếu tính nhân văn cao cả

0.5​
Suy nghĩ của bản thân:
1.25
Quê hương là bến đỗ bình yên cho mỗi con người
0.25​
Mỗi người không được quên đi nguồn cội, gốc gác, quê hương. Dù ai đi
đâu, ở đâu cũng phải luôn tự nhắc nhở hãy nhớ về nguồn cội yêu thương (dẫn chứng bằng thơ ca)

0.5​
Nuôi dưỡng tình cảm với quê hương có nghĩa là nuôi dưỡng tâm hồn, để
được làm người theo nghĩa đầy đủ nhất
0.5​
Mở rộng:
2.0
Đặt tình yêu quê hương trong quan hệ với tình yêu đất nước, cần hướng về quê hương song không có nghĩa chỉ hướng về mãnh đất nơi mình sinh ra mà phải biết
tôn trọng và yêu quí tất cả những gì thuộc về tổ quốc

0.5​
Có thái độ phê phán trước những hành vi, suy nghĩ chưa tích cực về quê
hương: chê quê hương nghèo khó, lạc hậu...
0.5​
Làm thay đổi cách hiểu tiêu cực về dáng vẻ quê hương, có ý chí phấn đấu
làm đẹp quê hương mình, góp sức mình vào xây dựng quê hương đất nước
0.5​
Trách nhiệm của học sinh đối với việc xây dựng, bảo vệ quê hương...
0.5​

Câu 3. (10.0 điểm):




Nội dung
Điểm
I . Yêu cầu về hình thức:
Trình bày rõ ràng, diễn đạt tốt, văn viết trong sáng, có cảm xúc. Biết cách làm bài văn nghị luận có bố cục hợp lí, bố cục chặt chẽ.
II. Yêu cầu về nội dung: Làm rõ được các yêu cầu cơ bản sau:
Mở bài
1.0
Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác
0.5​
Nêu ngắn gọn hình ảnh trong bài thơ và nhận định nêu ở đề bài
0.5​
Thân bài
8.0
Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà:
1.25
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài
thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. (Trích thơ dẫn chứng)

0.25​
Bếp lửa ''chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng
đượm”.

0.25​
Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng,
chập chờn của ngọn lửa trong kí ức.
0.25​
Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm
lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.
0.25​
Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: Tình thương tràn đầy của cháu được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc
nhằn, lam lũ của bà.

0.25​
Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ:
1.25
Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải
ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao…

0.5​
“Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người vật lộn mưu sinh. Trải qua cái đói quay, đói quắt Bằng Việt mới viết được những
câu thơ chân thực đến thế!

0.5​
Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà –
mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.
0.25​
Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà:
1.25
“Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che
chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn
0.25​




nhưng đầy tình yêu thương (dẫn chứng)
Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân
tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.

0.25​
Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm
gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về (dẫn chứng)

0.25​
Tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên bà. Tiếng chim như giục giã, như khắc
khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong.

0.25​
Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm màu bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.
0.25​
Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là
0.75
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu
lòng vị tha, giàu đức hi sinh (dẫn chứng).

0.5​
Bà là chỗ dựa cho cháu, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần vào cuộc kháng chiến chung của dân
tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. (dẫn chứng)

0.25​
Hình ảnh bà và những kỷ niệm tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa
1.25
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Ngọn lửa là kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm
tin mà bà truyền cho cháu (dẫn chứng)

0.5​
Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy
xúc động tự hào (dẫn chứng)


0.5​
=> Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người
truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

0.25​
Suy ngẫm của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa:
1.75
Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm
một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên nhau.
0.25​
Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”,
0.25​


hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian
nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương,chịu khó của bà.
Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm
nóng, tỏa sáng trong gia đình

0.25​
Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên
-> Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng


0.5​
Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà tuy bình dị nhưng ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp
lửa!”. Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ

0.5​
Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết:
0.5
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, cháu giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng có “khói trăm tàu”, ''lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Tuy thế, cháu vẫn
khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau.

0.5​
Kêt bài
1.0
Khái quát nội dung ý nghĩa bài thơ
0.5​
Khẳng định lại nhận định và nêu được cảm nghĩ của mình về tình cảm gia đình
đặc biệt là tình bà cháu
0.5​

Hết​
Thêm
68
0
0
Câu 1( 8 điểm): Đọc hai đoạn văn sau:
Đoạn 1:
“ Tôi dắt em ra khỏi lớp. Nhiều thầy cô ngừng giảng bài, ái ngại nhìn theo chúng tôi. Ra khỏi trường, tôi kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật.”
( Khánh Hoài, Cuộc chia tay của những con búp bê Ngữ văn 7, tập một, NXB Giáo dục, 2005)


Đoạn 2:
“ Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy có một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: “ Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”, nhưng chẳng ai biết cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.”
( An-đéc-xen, Cô bé bán diêm, Ngữ văn 8, tập một,
NXB Giáo dục, 2005) Suy nghĩ của em về hai đoạn văn trên. Qua đó, em muốn nhắn gởi điều gì cho thế hệ trẻ hiện nay.

Câu 2( 12 điểm):
Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945- 1975 ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới.
Bằng những hiểu biết về văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

……………………Hết ………………………

Ghi chú: Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KÌ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH QUẢNG NGÃI LỚP 9- NĂM HỌC 2014-2015
HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN

Câu 1( 8 điểm):

Yêu cầu về kĩ năng:
Viết đúng kiểu bài nghị luận xã hội .
Bài viết có bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát có sức thuyết phục, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Bài viết trình bày được suy nghĩ, quan điểm của mình về hai đoạn văn trên, khuyến khích những bài viết có nhận thức bằng thực tế cuộc sống trải nghiệm của mình.
Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày những suy nghĩ khác nhau, song cần đảm bảo các nội dung cơ bản sau:
Nêu vấn đề nghị luận: Thói vô cảm, thờ ơ trước nỗi đau của đồng loại là một thói xấu của con người , điều đó được phản ánh khá rõ nét trong cuộc sống và trong văn chương
, cụ thể qua hai đoạn văn( theo đề bài).
Khẳng định: Có thể nói, cả hai đoạn văn đều phản ánh thói vô cảm, thờ ơ của con người trong xã hội.
2.1- Hiểu thế nào là thói vô cảm: Vô cảm là không có tình cảm, cảm xúc, sống khép mình, thờ ơ, lạnh nhạt với tất cả mọi người, mọi việc xung quanh.
2.2- Biểu hiện của thói vô cảm:
+ Trong văn chương: Thói vô cảm, thờ ơ của con người được phản ánh nhiều trong văn chương, cụ thể:
Đoạn 1: Nỗi đau và mất mát quá lớn mà hai anh em Thành, Thủy phải chịu đựng, nhất là với Thủy, em không còn quyền được học tập, vui chơi…Nhưng “ mọi người vẫn đi lại bình thường..” khiến “tôi” kinh ngạc. Sở dĩ Thành kinh ngạc vì em nhận ra sự lạnh lùng, vô cảm, dửng dưng của người đời…
Đoạn 2: Cái chết thương tâm của em bé bất hạnh, em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa, giữa sự lạnh lùng vô cảm của người đời…
+ Trong cuộc sống: Cảnh mua bán, cướp giật; thái độ độc ác đối với trẻ em, với những người ăn xin, với những người gặp nạn…
2.3- Tác hại của thói vô cảm:
Vô cảm là một thói xấu, có nguy cơ cho xã hội loài người, làm mất đi lối sống đạo đức, nhân nghĩa …của dân tộc, nhân loại lâu nay.
Làm mất tinh thần đoàn kết, tinh thần tương trợ, “thương người như thể thương thân”. 2.4- Phê phán lối sống vô cảm: một số người chỉ biết vun vén cho cá nhân mà quay lưng lại với cộng đồng, chỉ biết chạy theo giá trị vật chất mà quên đi đạo lí “Lá lành đùm lá rách”… làm mất đi phẩm chất tốt đẹp của con người.
-Ca ngợi lối sống đúng đắn, biết yêu thương, quan tâm đến mọi người.
Lời nhắn gởi với thế hệ trẻ hôm nay: Hãy nuôi dưỡng lòng nhân ái, sống có trách nhiệm và yêu thương nhiều hơn.....
- Khẳng định, khái quát lại vấn đề.
- Xác định thái độ sống đúng đắn cho bản thân trong tập thể, cộng đồng, thể hiện niềm tin vào tương lai tốt đẹp của xã hội.
* Biểu điểm: - Kĩ năng: 1 điểm.
- Kiến thức: 7 điểm. Cụ thể: + Ý 1: 1 điểm






Câu 2( 12 điểm):
Yêu cầu về kĩ năng:

+ Ý2 : 4 điểm
+Ý 3 : 1 điểm
+Ý 4: 1 điểm

Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học, suy nghĩ về một nhận định có vận dụng phép lập luận chứng minh, giải thích…để giải quyết đề bài dưới dạng tổng hợp.
Bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, chữ viết rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có nhiều cách trình bày bài viết khác nhau miễn là làm sáng tỏ vấn đề, thuyết phục người đọc. Với đề bài này, học sinh có thể giải quyết được những nội dung sau đây:
Nêu vấn đề nghị luận: Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945- 1975 ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới.
Giải thích nhận định: Hiện thực của đất nước ta từ 1945- 1975 là hiện thực của những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại và công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên CNXH. Hiện thực đó đã tạo nên cho dân tộc Việt Nam một vóc dáng nổi bật: vóc dáng người chiến sĩ luôn trong tư thế chủ động chiến đấu chống kẻ thù, vóc dáng con người lao động mới trong những ngày đầu tiến lên xây dựng XHCN.
Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hòa quyện, tạo nên vẻ đẹp của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Và điều này làm nên hơi thở, sức sống của văn học giai đoạn 1945- 1975.
Chứng minh: Học sinh đưa dẫn chứng để làm rõ nhận định:
+ Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc:
Họ là những con người ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi: Đó là những người nông dân mặc áo lính trong bài Đồng chí của Chính Hữu, đó là những chàng trai trí thức trẻ trung tinh nghịch trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đó là những cô gái thanh niên xung phong trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê cho đến hình ảnh người mẹ trong Khúc hát ru… của Nguyễn Khoa Điềm. Họ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ, thiếu thốn song họ luôn có tinh thần lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp.
+ Hình ảnh người lao động mới:
Người lao động trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận mang nhịp thở tươi vui, hăm hở, hòa mình cùng trời cao, biển rộng. Đó là những con người mới mang tầm vóc lớn lao, phi thường, hăm hở ra khơi với tất cả sức trẻ và trí tuệ của mình, chủ động trong công việc “ Ra đậu dặm xa…”. Họ chiến đấu với muôn trùng sóng gió bằng nhiệt tình lao động, bằng niềm lạc quan tin tưởng vào công cuộc xây dựng CNXH. Đó là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy niềm lạc quan. Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ của mình.
Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long mang nhịp thở của người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say mê nhiệt tình trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước.. Công việc, cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp, tuy lặp lại đơn điệu song họ



rất nhiệt tình, say mê gắn bó với nó.Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động, cống hiến.

2.3- Đánh giá, bình luận:

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Ở ngoài tiền tuyến khói lửa là hình ảnh của những người lính dũng cảm, kiên cường. Nơi hậu phương là những người lao động bình dị mang nhịp thở của thời đại mới. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam thế kí XX.

Các tác giả văn học thời kì này vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là người lính, người lao động cầm bút để ca ngợi về con người và dân tộc Việt Nam với niềm say mê và tự hào. Họ đã làm nên vẻ đẹp rạng ngời và sức sống mới mãnh liệt cho Văn học Việt Nam.

Khẳng định lại vấn đề nghị luận và nêu suy nghĩ hoặc liên hệ mở rộng của bản thân.

* Biểu điểm: - Kĩ năng: 1 điểm.

- Kiến thức: 11 điểm. Cụ thể:

+ Ý 1: 1,5 điểm

+ Ý2 : 8 điểm (2.1: 2 điểm; 2.2: 4 điểm ; 2.3: 2 điểm)

+Ý 3 : 1,5 điểm

Điểm 11-12: Nội dung bài làm phải đáp ứng được các yêu cầu trên, tỏ ra nắm chắc vấn đề, chứng minh thuyết phục, có nhiều cảm nhận tinh tế, phát hiện sâu sắc. Diễn đạt tốt, có sức thuyết phục.

Điểm 8- 10: Bài làm tỏ ra nắm được yêu cầu của đề về cả kiến thức và kĩ năng, giải quyết khá thuyết phục các yêu cầu trên. Tuy nhiên các ý có thể chưa thật toàn diện và mạch lạc. Diễn đạt khá tốt, lời văn gợi cảm.

Điểm 5,5 -7,5: Bài viết tỏ ra hiểu đề, đảm bảo tương đối các yêu cầu trên, nội dung trình bày chưa sâu, chưa thật sự làm sáng tỏ vấn đề; còn mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, đặt câu.

Điểm 3- 5: Bài làm có nội dung song kĩ năng nghị luận chưa tốt, nhiều chỗ lan man, mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, đặt câu, chính tả.

Điểm 0,5- 2,5:cn:ài làm quá sơ sài, thiếu nhiều ý, mắc nhiều lỗi diễn đạt.

Điểm 0: Bỏ giấy trắng.
Thêm
92
0
0
1- Câu 1 (8,0 điểm):
Cho văn bản


Điều gì là quan trọng?



sinh:​

Chuyện xảy ra tại một trường trung học.
Thầy giáo giơ cao một tờ giấy trắng, trên đó có một vệt đen dài và đặt câu hỏi với học

Các em có thấy gì không?
Cả phòng học vang lên câu trả lời:
Đó là một vệt đen.
Thầy giáo nhận xét:
Các em trả lời không sai. Nhưng không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng ư? Và thầy kết luận:
Có người thường chú tâm đến những lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác mà quên đi

những phẩm chất tốt đẹp của họ. Khi phải đánh giá một sự việc hay một con người, thầy mong các em đừng quá chú trọng vào vết đen mà hãy nhìn ra tờ giấy trắng với những mảng sạch mà ta có thể viết lên đó những điều có ích cho đời.
(Theo nguồn Internet)
Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em sau khi đọc câu chuyện trên.

2- Câu 2 (12,0 điểm):
Trong văn bản “Tiếng nói văn nghệ”, Nguyễn Đình thi có viết: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”.
Qua văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên./.

---------------------Hết-----------------------

Họ và tên thí sinh:………………………………….SBD:………….

(Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)





PHÒNG GIÁO DỤC&ĐÀO TẠO ĐOAN HÙNG
KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9 THCS NĂM HỌC 2016 – 2017
HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN


(Gồm có 04 trang)


1 - Câu 1 (8,0 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng:

- HS có kĩ năng làm bài nghị luận xã hội, biết kết hợp các phép lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh...
Hiểu đúng và hướng trúng vào vấn đề mà đề bài yêu cầu: lối ứng xử đẹp, giàu lòng vị tha, khoan dung khi đánh giá về người khác; đồng thời phải biết trân trọng những phẩm chất, những phần tốt đẹp của họ.
Biết lựa chọn dẫn chứng, phân tích dẫn chứng để làm sáng rõ vấn đề.
Biết mở rộng liên hệ để trình bày vấn đề một cách thấu đáo, toàn diện.
Lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, trôi chảy; biết dùng từ, đặt câu chuẩn xác, gợi cảm.
Bố cục bài phải hoàn chỉnh, chặt chẽ, hợp lí.
Yêu cầu về nội dung:
* Giải thích ý nghĩa câu chuyện
“vệt đen dài" tượng trưng cho những khuyết điểm, những lỗi lầm của con người.
“Tờ giấy trắng” tượng trưng cho phẩm chất, cho những điều tốt đẹp của con người.
“Đừng quá chú trọng vào vết đen”: đừng cố chấp, định kiến trước lỗi lầm, hạn chế của người khác
“Hãy nhìn ra tờ giấy trắng với những mảng sạch mà ta có thể viết lên đó những điều có ích …cho đời”: biết trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân
-> Câu chuyện cho ta bài học về cách ứng xử, nhìn nhận đánh giá con người: Điều quan trọng trong cuộc sống chính là lối ứng xử đẹp, giàu lòng vị tha, khoan dung khi đánh giá về người khác, đồng thời phải biết trân trọng những phẩm chất, những phần tốt đẹp của họ.
Suy nghĩ về vấn đề
Đừng quá chú trọng vào “vết đen” đừng cố chấp, định kiến trước lỗi lầm, hạn chế của người khác vì:
+ Con người không ai hoàn hảo cả.
+ Sự vị tha, khoan dung mang lại niềm vui, thanh thản cho người mắc lỗi, tạo điều kiện cho họ nhận ra sai trái, sửa chữa lỗi lầm. Đồng thời, nó mang lại niềm vui cho bản thân ta (dẫn chứng).
“Hãy nhìn ra …cho đời”: biết trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân
+ Biết trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân để giúp cá nhân phát huy được sức mạnh vốn có. Đó cũng là cách chúng ta góp phần làm cho cuộc sống đẹp hơn (dẫn chứng).
Khẳng định ý nghĩa của lối sống ứng xử đẹp: vừa vị tha, độ lượng trước lỗi lầm của người khác vừa đồng thời trân trọng phẩm chất tốt đẹp ở họ. Điều đó làm cho mối quan hệ của con người trở nên tốt đẹp, tránh những hiểu lầm đáng tiếc (dẫn chứng).
Mở rộng, liên hệ :
Phê phán những người không biết vị tha, khoan dung. Phê phán những kẻ ích kỷ, cực đoan, chỉ nhìn thấy những ưu điểm của mình mà xem thường năng lực của người khác.
Định hướng bài học: Câu chuyện giúp ta có thái độ sống tích cực và rèn luyện một lối ứng xử nhân ái, nhân văn.


Cách cho điểm:
Điểm 7- 8: Đảm bảo tất cả các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc, có sự sáng tạo.
Điểm 5- 6: Cơ bản đảm bảo các yêu cầu trên. Viết bài hoàn chỉnh, đúng kiểu bài song còn mắc một vài lỗi nhở
Điểm 3- 4: Hiểu đề, đúng kiểu bài nhưng nội dung chưa đầy đủ, thuyết phục
Điểm 1- 2: Bài viết sơ sài, chưa xác định rõ yêu cầu bài viết hoặc viết sai kiểu bài
Điểm 0: Không làm bài
2 - Câu 2 (12,0 điểm):
Yêu cầu chung:
Về hình thức:

Thể loại: Thuộc kiểu bài chứng minh một vấn đề về văn học.
Bố cục: Cân đối, kết cấu chặt chẽ.
Diễn đạt: Văn viết phải lưu loát, đúng chính tả, đúng ngữ pháp; trình bày sạch đẹp, rõ ràng, có cảm xúc.
Phương pháp: Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận về một vấn đề văn chương thông qua việc phân tích một tác phẩm truyện để là rõ vấn đề (luận điểm rõ ràng, có sức thuyết phục, biết cách trích dẫn chứng và phân tích các dẫn chứng đã nêu, biết kết hợp yếu tổ biểu cảm trong nghị luận...).
Về nội dung: Đề văn nhằm đánh giá kiến thức thí sinh về một tác phẩm cụ thể đồng thời ở một mức độ nào đó, đánh giá sự hiểu biết của các em về góc độ lí luận văn học, đó là tác dụng của nghệ thuật, cái hay của thơ ca. Ở đề này cái chính là hiểu và lấy văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long để làm sáng tỏ quan niệm của Nguyễn Đình Thi về văn học nghệ thuật: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”.
Yêu cầu cụ thể:
Học sinh có thể viết bằng nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo nắm được và làm toát lên những nội dung cơ bản sau:
Dẫn dắt giới thiệu vấn đề: Nhận định trên đã nói lên chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ và chức năng giáo dục của nghệ thuật, của văn chương (tác dụng của nghệ thuật, văn chương.)
Giải thích một cách khái quát nhận định:
-
Nghệ thuật là một loại hình độc đáo thể hiện cuộc sống qua các hình tượng, nét vẽ, màu sắc, hình khối, âm thanh. Nghệ thuật được tác giả nói ở đây nên hiểu là nghệ thuật văn chương.
Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta: nghệ thuật khác với những bài thuyết giảng đạo lí, mà các tác phẩm nghệ thuật là con đẻ của người nghệ sĩ, trong đó các nhà văn gửi gắm những suy tư, ước vọng của mình đến với độc giả. Tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật là thứ tư tưởng náu mình.
Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta là: các tác phẩm văn chương tác động vào nhận thức, tâm tư, tình cảm của người đọc, giúp người đọc hiểu được hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm và qua sự rung động mà tác phẩm đem lại người tiếp nhận sẽ nhận thức rõ cái đẹp, cái đúng, cái sai trong thực tế cuộc sống, từ đó có những tình cảm yêu cái tốt đẹp, ghét cái xấu xa sai trái...
Khiến chúng ta tự phải bước đi lên đường ấy: Từ những tình cảm tốt đẹp mà tác phẩm nghệ thuật đem lại, người đọc sẽ có hành động phù hợp như kế thừa, phát huy, noi theo những điều tốt đẹp, đấu tranh, phê phán cái xấu xa, lỗi thời, hèn kém...
Chứng minh nhận định qua văn bản “lặng lẽ Sa Pa”:


- Lặng lẽ Sa pa giúp cho người đọc thấy nghị lực phi thường và những phẩm chất cao đẹp của các nhân vật trong truyện mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên đã giúp người đọc thấy rõ những phẩm chất cao đẹp của người lao động mới trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền nam mà thêm trân trọng yêu mến những con người đó:
+ Một con người có nghị lực phi thường: trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống anh vẫn vượt lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ (D/C + PT)
+ Anh có lí tưởng đúng đắn : “Mình sinh ra ở đâu, mình vì ai mà làm việc”...
+ Anh biết tìm niềm vui trong công việc nhàm chán của mình với suy nghĩ “Mình với công việc là đôi ai bào là một mình được”....
+ Anh ham học hỏi, nghiên cứu khoa học (D/C + PT)
+ Anh là người có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc “Một giờ sáng vẫn thức dậy đi ốp” mặc dù thời tiết ở Sa Pa rất lạnh giá...
+ Anh còn biết cải thiện cuộc sống, đã trồng rau, trồng hoa, nuôi gà....
+ Anh còn là người rất khiêm tốn, khi người họa sĩ muốn vẽ anh, anh đã giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn (D/C + PT)
Vẻ đẹp anh thanh niên đã có sức lan tỏa đến cô kĩ sư, ông họa sĩ (D/C + PT)
Các nhân vật khác như: cô kĩ sư, ông họa sĩ, bác lái xe, ông kĩ sư nông học, anh cán bộ sét, anh cán bộ khí tượng ở đỉnh cao hơn bốn ngàn mét. đều say mê cống hiến cho đất nước.
Qua nhân vật anh thanh niên người đọc thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn của anh anh niên, thấy được ý thức công dân của mình trong cuộc sống.
Người đọc khâm phục những đức tính cao đẹp của anh thanh niên để từ đó học tập noi gương, có hành động đúng trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay...
Khẳng định nhận định: đánh giá thành công của truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”
Truyện đã góp phần cổ vũ, động viện nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời cũng là bức thông điệp gửi đề mọi người ý thức công dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Thổi bùng trong ta lòng yêu đất nước và ý thức cống hiến những gì tốt đẹp nhất cho đất nước.
Ý kiến của Nguyễn Đình Thi là hoàn toàn đúng đắn có ý nghĩa khẳng định sức mạnh của nghệ thuật nói chung, của văn chương nói riêng.
(Lưu ý: Học sinh có thể viết đan xen giữa các yếu tố biểu cảm trong bài song phải có lập luận chặt chẽ để làm sáng tỏ nhận định).
Cách cho điểm:
Điểm 11 - 12: Đảm bảo đủ các ý cơ bản, trình bày sạch đẹp, lập luận chặt chẽ, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc. Không mắc lỗi chính tả, lỗi câu.
Điểm 9 – 10,75: Đảm bảo tương đối đủ các ý cơ bản, bố cục bài rõ ràng, đầy đủ, lập luận chặt chẽ trình bày bài sạch, đẹp, câu văn giàu cảm xúc. Có thể mắc một hoặc hai lỗi chính tả.
Điểm 7 – 8,75: Về cơ bản bài viết đủ ý, bố cục bài viết rõ ràng, lập luận chặt chẽ, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc. Có thể mắc vài ba lỗi chính tả, 1-2 lỗi dùng từ.
Điểm 4 – 6,75: Bài viết chưa đủ ý, trình bày sơ sài, lập luận chưa được chặt chẽ còn mắc 2-3,75 lỗi chính tả, 1 lỗi câu, 1-2 lỗi dùng từ.
Điểm 2 – 3,75: Bài viết thiếu ý nhiều, chưa biết cách lập luận, mắc nhiều lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi câu
Điểm 0,5 – 1,75: Bài viêt thiếu ý nhiều, có vẻ chưa hiểu đề, mắc nhiều lỗi dùng từ, đặt
câu.
Điểm 0: Không hiểu đề, viết linh tinh hoặc để giấy trắng.





* Lưu ý: Trên đây chỉ là gợi ý, các giám khảo cần vận dụng linh hoạt khi cho điểm. Sau khi chấm điểm từng câu, giám khảo cân nhắc để cho điểm toàn bài một cách hợp lý, đảm bảo đánh giá đúng trình độ học sinh, cần khuyến khích những bài làm có tính sáng tạo. Điểm toàn bài cho lẻ đến 0,25 điểm.
Thêm
66
0
0

Câu 1 (4,0 điểm)​


HƯỚNG DẪN CHẤM
ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH NĂM HỌC 2015- 2016
Môn: Ngữ văn - Lớp 9

(Hướng dẫn chấm có 05 trang)


sau:​

Hãy so sánh ngắn gọn điểm tương đồng và nét khác biệt trong hai đoạn thơ

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu

(Hữu Thỉnh - Sang thu, 1977)


nắng thu đang trải đầy đã trăng non múi bưởi bên cầu con nghé đợi cả chiều thu sang sông.
(Hữu Thỉnh - Chiều sông Thương, 1992)
- Điểm tương đồng (2,0 điểm)
+ Đề tài: mùa thu
+ Thể thơ, giọng điệu: thể thơ năm chữ, giọng điệu tha thiết, lắng sâu,
+ Cảm xúc: bồi hồi, bâng khuâng, xao xuyến và những cảm nhận tinh tế sâu sắc của cái tôi trữ tình trước vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật trong khoảnh khắc giao mùa và ở giữa mùa thu.
+ Hình ảnh: chân thực, gợi hình, gợi cảm mang những nét đặc trưng của mùa thu xứ Bắc. Từ ngữ chọn lọc, tinh tế, sử dụng sáng tạo nghệ thuật nhân hóa…
Điểm khác biệt (2,0 điểm):
Hai bài thơ được sáng tác ở hai thời điểm khác nhau: Sang thu (1977) còn Chiều sông Thương (1992) vì vậy nội dung của mỗi đoạn thơ gắn với cảm xúc, tâm trạng của tác giả ở từng thời điểm riêng biệt.
+ Sang thu:
Đoạn thơ là những cảm nhận của nhân vật trữ tình về mùa thu từ một khu vườn (không gian hẹp) thiên nhiên được mở ra ở góc nhìn rộng lớn, nhiều tầng bậc hơn. Bức tranh thu được gợi ra từ những gì vô hình chuyển sang những hình ảnh cụ thể, hữu hình (sông, chim, mây) với không gian rộng dài, cao xa vời vợi. Một bức tranh thu hiện đại, cấu trúc đăng đối tự nhiên, chặt chẽ, tuyệt đẹp. Dòng sông


không cuồn cuộn dữ dội như những ngày mưa nguồn mùa hạ mà êm ả, dềnh dàng, lững lờ trôi như suy tư, như ngẫm nghĩ, như đang thưởng thức những ngày nhàn hạ. Ngược lại với dòng sông, cánh chim bắt đầu vội vã bay. Đám mây mùa hạ thảnh thơi, duyên dáng vắt nửa mình sang thu. Chữ “vắt” vừa gợi hình, vừa gợi cảm đám mây mềm mỏng như dải lụa, như tấm khăn voan của thiếu nữ vắt trên bầu trời nửa đang còn mùa hạ, nửa đã nối sang thu.
+ Chiều sông Thương
Nếu đoạn thơ trong Sang thu là những cảm nhận về thiên nhiên ở thời khắc cuối hạ sang thu thì khổ thơ trong Chiều sông Thương lại là cảm nhận ở thời khắc chiều thu, khi đất trời đang độ giữa thu. Cảnh vật được miêu tả rất thực về dòng sông, bầu trời, con nghé bên cầu đợi… Hình ảnh thơ đẹp dịu dàng, gợi ra bức tranh thanh bình, ấm áp: nắng thu còn trải rộng khắp nhân gian mà trăng non như múi bưởi đã in trên nền trời xanh nhạt, dưới cầu nước chảy trong veo, con nghé bên cầu đợi… Cả chiều thu sang sông. Cảnh lắng đọng như chính sự tồn tại của nó chứ không sống động, cựa mình chuyển mùa như bài Sang thu. Đó chính là nét đẹp riêng của mỗi bài thơ.

Câu 2 (6,0 điểm)​

Bị đánh bại chỉ là tình trạng nhất thời, bỏ cuộc mới là sự thất bại vĩnh viễn.
(Marilin Vos Savant)
Hãy viết một bài văn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.

Yêu cầu về kĩ năng.​

Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí, kết cấu chặt chẽ, rõ ràng, lập luận chắc chắn; diễn đạt sáng rõ; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

Yêu cầu về kiến thức.​

Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý chính
sau:

Giải thích ý kiến (1,5 điểm)​

Bị đánh bại chỉ là tình trạng nhất thời: vì (thất) bại lần đó nhưng lần sau có thể không bại nữa, sẽ giành được chiến thắng nếu ta tiếp tục chiến đấu, tiếp tục theo đuổi mục đích.
Bỏ cuộc: tức là không theo đuổi mục đích nữa mà đầu hàng, buông xuôi, chấp nhận sự thất bại nhất thời. Đây là sự thất bại mãi mãi.
=> Câu nói nêu lên vấn đề: Trong cuộc sống không nên từ bỏ mục đích mà mình đang theo đuổi vì đó chính là chấp nhận sự thất bại vĩnh viễn. Muốn giành chiến thắng phải theo đuổi mục đích đến cùng.

Bàn luận ý kiến (3,5 điểm)​



Khẳng định đây là ý kiến đúng. Trong hành trình đi đến mục đích, con người không chỉ có thắng mà còn có bại: “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại” (Tố Hữu).
Không thể không đau buồn khi thất bại nhưng con người phải biết đứng lên sau thất bại. Bởi trong mỗi thất bại luôn có mầm mống của sự thành công. Chỉ có đứng lên tiếp tục thực hiện mục đích chúng ta mới có cơ hội giành chiến thắng. Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố (Đặng Thùy Trâm).
Động lực giúp mỗi người đứng lên sau thất bại là khát vọng, ý chí, nghị lực, quyết tâm. Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường. Khi con người dám ước mơ lớn, họ sẽ biết cách sống vĩ đại.
Thực tiễn đã cho thấy còn nhiều người, nhất là thanh niên trước khó khăn trở ngại trong cuộc sống thường né tránh, buông xuôi đầu hàng, sống thiếu niềm tin… Một số người thất bại bị cuốn theo cái xấu, cái tầm thường, bi quan, bế tắc và có những hành vi tiêu cực.

Bài học nhận thức và hành động (1,0 điểm).​

Cần nhận thức rằng mỗi người phải tự đứng dậy sau thất bại và tiếp tục theo đuổi lí tưởng, mục tiêu cuộc đời mình. Khi cuộc đời cho bạn cả trăm lí do để khóc, hãy cho đời thấy bạn có ngàn lí do để cười.
- Cần ra sức trau dồi, rèn luyện ý chí, nghị lực cũng như sự bền lòng phấn đấu trong học tập và nỗ lực theo đuổi mục tiêu đã đặt ra.

Mỗi luận điểm cần lấy dẫn chứng trong thực tế để minh họa.​

Biểu điểm:
Điểm 6: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, hành văn trong sáng, có cảm xúc.
Điểm 4-5: Đáp ứng phần lớn các yêu cầu trên, hành văn trong sáng, mạch lạc, ít mắc lỗi.
Điểm 3-4: Đáp ứng được khoảng ½ yêu cầu trên, còn một số lỗi về diễn đạt, chính tả.
Điểm 1-2: Không hiểu đề hoặc hiểu còn mơ hồ, nhiều lỗi diễn đạt.
Điểm hình thức trong điểm nội dung.
Giám khảo có thể cho điểm theo các ý:
Ý 1: 1,5 điểm.
Ý 2: 3,5 điểm.
Ý 3: 1,0 điểm.

Câu 3 (10,0 điểm).​

“Thơ hiện đại không chỉ đem lại những cái mới về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà còn đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ”.
(Ngữ văn 9, tập 2, trang 200, NXB GD, 2004)


Anh (chị) hãy làm sáng rõ nhận định trên qua tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Yêu cầu về kĩ năng:
Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lời văn trong sáng; không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo những nội dung sau:
Dẫn dắt từ mối quan hệ giữa văn học và đời sống, trích dẫn nhận định và giới hạn qua tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy.(1,0 điểm)

Giải thích nhận định. (1,0 điểm)​

Khái niệm thơ hiện đại: được xác định từ đầu thế kỷ XX khi văn học tiếp thu, chịu ảnh hưởng của các trào lưu văn học phương Tây và ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường. Đặc biệt, sau năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, thơ ca nói riêng và văn học nói chung có sự giao lưu, tiếp xúc, hội nhập với nền văn học thế giới.
Xã hội, con người, tư tưởng thay đổi theo thời đại. Việc phản ánh tâm tư, tình cảm mới đòi hỏi văn học, thơ ca hiện đại cũng phải thay đổi để phù hợp với sự tinh tế, nhạy cảm và phong phú đa dạng trong đời sống tinh thần của thế hệ, con người Việt Nam.
Chứng minh qua bài thơ Ánh trăng.(7,0 điểm)
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ: (0,5 điểm)
Bài thơ được viết năm 1978, đất nước Việt Nam bước sang trang mới sau chiến thắng huy hoàng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Bắc Nam sum họp một nhà. Ba năm trôi qua, con người Việt Nam vẫn ở trong trạng thái hưởng niềm vui chiến thắng nên nhiều khi quên mất quá khứ gắn bó, vất vả đau thương. Và nhiều khi chợt nhận ra sự vô tình lãng quên của mình… “Ánh trăng” thể hiện những trăn trở, suy ngẫm của nhà thơ và xu hướng đổi mới của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ánh trăng, một bài thơ nhỏ - một bài học lớn.
Bài thơ Ánh trăng thể hiện cái mới về nội dung, tư tưởng, cảm xúc. (3,5 điểm)
Bài thơ phản ánh tâm trạng của người chiến sĩ - một lớp người rất đông trong xã hội vừa trải qua giai đoạn chiến tranh ác liệt. Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, cuộc sống hiện đại văn minh đôi khi con người đã lãng quên quá khứ của mình, lãng quên quá khứ vất vả đau thương của dân tộc. Dòng cảm xúc đó được thể hiện theo thời gian từ quá khứ đến hiện tại và nâng lên thành suy ngẫm mang tính triết lý.
Kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị hiền hậu trong quá khứ hiện về trong hai thời điểm của nhân vật trữ tình: thời thơ ấu và thời chiến tranh. Dù ở đâu trên quê hương, đồng, sông, rừng bể người lính vẫn gắn bó với ánh trăng


với thiên nhiên như người bạn tri kỉ. Sự gắn bó ân tình, thủy chung ấy khiến con người nghĩ rằng cả cuộc đời sẽ không bao giờ quên người bạn tình nghĩa.
Đạo lí sống nghĩa tình và thủy chung với quá khứ đã bị quên lãng một cách vô tình bởi hoàn cảnh sống hiện tại. Nơi đô thị, con người làm quen với tiện nghi hiện đại, văn minh “ánh điện, cửa gương” nên cứ vô tình quên lãng vầng trăng tri kỉ. Đêm nào trăng cũng sáng trên đầu nhưng bị mờ đi bởi ánh điện rực rỡ. Vô tình trăng và người cứ dửng dưng như người xa lạ, chưa hề quen biết với nhau dù trước đây là tri âm, tri kỉ.
Một tình huống giản dị bình thường trong cuộc sống đã khiến nhân vật trữ tình tỉnh ngộ nhận ra sự thay đổi bội bạc đáng lên án đó của mình - thành phố mất điện. Giây phút ngắn ngủi bất ngờ nhưng thực sự có ý nghĩa như một bước ngoặt trong dòng tư tưởng của con người để giúp họ thay đổi.
Việc đối diện với vầng trăng - người bạn tri kỷ đã giúp người lính nhớ về kỷ niệm xưa gắn bó, tươi đẹp và rồi ân hận, xúc động xốn xang. Nỗi ân hận được thể hiện trong dòng nước mắt rưng rưng, nhẹ nhàng xót xa. Chính mình đã đổi thay và bản thân không thể chấp nhận được.
Con người suy ngẫm về mối quan hệ của trăng với mình và giật mình, bừng tỉnh, xót xa… Dù thời gian qua đi, dù đất trời thay đổi, trăng vẫn nguyên vẹn, tình nghĩa thủy chung với con người, không hề trách cứ con người đã đổi thay. Trăng vẫn vị tha, nhân hậu tỏa sáng cho con người. Sự cao thượng của vầng trăng khiến con người thức tỉnh lối sống về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để sống tốt hơn, người hơn.
=> Ánh trăng không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi tác phẩm đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và đối với chính mình.
Bài thơ Ánh trăng thể hiện những đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ.(3,0 điểm)
Bài thơ như một câu chuyện riêng, có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.
Giọng điệu tâm tình với nhịp thơ khi trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi ngân nga thiết tha cảm xúc (khổ 5), lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư (khổ cuối).
Kết cấu, giọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo nên tính chân thực, chân thành, sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.
Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đặc biệt hình ảnh ánh trăng là hình tượng đa nghĩa, vừa cụ thể vừa khái quát mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.
Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng sáng tạo. Mỗi khổ chỉ viết hoa chữ cái đầu dòng thứ nhất. Tác phẩm chỉ có một dấu chấm ở câu thơ cuối. Nghệ thuật viết câu,



đặt câu, sử dụng dấu chấm câu đã diễn tả mạch cảm xúc dạt dào tuôn chảy liền mạch trong một tình huống bất ngờ, giản dị đời thường.

Đánh giá chung. (1,0 điểm)​

- Ánh trăng của Nguyễn Duy là một sáng tác thể hiện rõ nét tinh thần đổi mới của thơ ca hiện đại. Đề tài trăng, thể thơ ngũ ngôn là nét truyền thống của Đường thi song bài thơ thể hiện cái mới trong việc phản ánh nội dung câu chuyện nhỏ của người chiến sĩ vừa trải qua chiến tranh, sống trong hòa bình, hiện đại. Ánh trăng mang vẻ đẹp hình tượng thiên nhiên, đồng thời cũng là biểu tượng của quá khứ - nhân dân, đất nước trong quá khứ và hiện tại, mãi mãi vẹn nguyên, vĩnh hằng, bất biến, thủy chung, nghĩa tình, bao dung, độ lượng. Con người hãy biết sống ân tình, thủy chung với quá khứ. Tác phẩm như lời giáo huấn đạo đức nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. Ánh trăng là bài thơ của những phút giật mình, giật mình để thức tỉnh, để sống nhân văn hơn.

- Từ những đổi mới và sáng tạo của bài thơ Ánh trăng trên hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình thức nghệ thuật bình luận về mối quan hệ giữa cuộc sống - tác giả - tác phẩm: Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ của nhà văn. Cần phải hát đúng giai điệu về thời đại mình và phải miêu tả nó một cách trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo.

Biểu điểm.​

Điểm 9-10: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, lập luận chặt chẽ, văn viết có cảm xúc, dẫn chứng chọn lọc, chính xác, có sức thuyết phục, có thể mắc một vài sai sót không đáng kể.

Điểm 7-8: Đáp ứng phần lớn những yêu cầu trên, lập luận tương đối chặt chẽ, dẫn chứng chọn lọc, chính xác. Có thể mắc những lỗi nhỏ.

Điểm 5-6: Tương đối đủ các ý lớn tuy còn sơ sài, biết chọn và phân tích dẫn chứng, còn mắc một số lỗi.

Điểm 3-4: Chưa thật hiểu yêu cầu của đề, nội dung sơ sài.

Điểm 1-2: Hiểu sai đề, diễn đạt yếu.

Giám khảo có thể chấm theo ý - điểm nội dung kết hợp với hình thức. Ý 1: 1,0 điểm.

Ý 2: 1,0 điểm.

Ý 3: 7,0 điểm

Ý a: 0,5 điểm Ý b: 3,5 điểm Ý c: 3,0 điểm

Ý 4: 1,0 điểm
Thêm
124
0
0
tuổi học trò
không yêu thì tốt
yêu vào rồi
cái dốt lộ ra
ngồi trong lớp
nghĩ đến người ta
bài kiểm tra
toàn ba với bốn
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
201
1
0
Mở bài:Giới thiệu vấn đề NL

Tham khảo:

Bom đạn chiến tranh đã khiến cho đất nước mang trên mình những vết thương, khiến cho bao gia đình tan nát vì chia xa, những nỗi đau cứ thế mà chồng chất. Tuy nhiên, giữa bản nhạc buồn của chiến tranh, văn học vẫn mang đến cho đời sống tình cảm của con người những cung bậc, những âm thanh da diết, tuyệt đẹp về tinh thần đoàn kết, về tình đồng đội, đồng chí và cả tình cảm gia đình thiêng liêng bất diệt. Một trong những tác phẩm hay nhất viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh là “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được sự thay đổi trong tâm trạng của bé Thu trước vfa sau khi em nhận ra ông Sáu là cha. Sự thay đổi ấy được thể hiện rõ nét nhất là trong bữa ăn cơm ông Sáu gắp cho con cái trứng cá và khi Thu đã nhận ra cha nhưng cha em lại phải trở lại chiến trường.



II. Thân bài:

Khái quát


- Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Truyện kể về tình cảnh éo le của cha con ông Sáu để từ đó khẳng định rằng: Chiến tranh có thể cướp đi tất cả, thậm chí là cả mạng sống của con người nhưng tình cảm gia đình thì không gì có thể giết chết được.

- Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết theo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết.

- Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiệu ra, tình cảm cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường.

- Ở khu căn cứ, bao nỗi nhớ thương con sông dồn vào việc làm cho con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ nguy. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho một người bạn.

2.Sự thay đổi trong tâm trạng của bé Thu ở hai đoạn truyện

Đoạn 1:

- Tính cách rắn rỏi, bướng bình, ngang bướng rất trẻ con của bé Thu được thể hiện trong đoạn văn thứ nhất: "Trong bữa cơm đó.... nó cũng không về”.


+ Hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu “con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thể nào nó cầm đũa, gấp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng đậy, bước ra khỏi mâm.” => Hình ảnh một đứa trẻ gan góc, lì lợm.

+ "Nhảy xuống xuồng, mở lòi tói có làm cho dây lòi tói khua rộn ràng, khua thật to" => tính cách trẻ con, hình ảnh của một đứa trẻ lúc giận đỗi được khắc họa rất tinh tế với chỉ một chỉ tiết nhỏ.

+ "Nó sang nhà bà ngoại và khóc ở bên đây" => dù gan lì và bướng bỉnh nhưng bởi Thu vẫn còn là một đứa trẻ nên vẫn có những hành động mè nheo khóc nhè.

=> Bẻ Thu là một đứa bé gan góc, có cá tính mạnh mẽ, thà sang nhà ngoại khóc thật to nhưng khi đứng trước mặt ông Sáu - người mà bé đang căm ghét thì lầm lì, im lặng trông như nét hờn dỗi của người lớn. Nhưng suy cho cùng, Thu vẫn là một đứa bé nên vẫn có những hành động trẻ con để thể hiện nỗi bực dọc của mình. Bên cạnh đó, hành động quyết liệt của bé Thu cũng thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt, bé kiên quyết cự tuyệt ông Sáu vì ông không giống bức hình trong ảnh, trên mặt ông có vết thẹo dài. Chính yếu tố đó vừa thể hiện tình yêu thương cha vừa thể hiện cá tính mạnh mẽ của bé Thu.

=> Nguyễn Quang Sáng đã rất tinh tế, tài tình khi khắc họa được hình ảnh của bé Thu đa chiều và sâu sắc như thế chỉ trong một hành động nhỏ.

Đoạn 2:

- Tình yêu thương ba vô bờ bên được thể hiện ở đoạn văn thứ hai "Trong lúc đó... nắm lấy trái tìm tôi"


+ Bé Thu bướng bỉnh bao nhiêu, lì lợm gan góc bao nhiêu thì lại bởi bé thương ba của mình bấy nhiêu: "Con bé hét lên, hai tay nó siết lấy chặt cô....và đôi vai nhỏ bé của nó run run”

=> Những cái ôm như cố gắng để chặt nhất có thể, như để bù đắp cho những tháng ngày xa lánh ba của mình, những cái ôm cuối cùng như để lấp đi tất thảy những khoảng trống của tình ba – con trong những ngày tháng vừa qua.

=> Đoạn văn là những gì xúc động nhất, sâu lắng nhất về tình cảm mà bé Thu dành cho ba của mình.

3.Đánh giá:

- Nghệ thuật: cách kể chuyện tự nhiên, đầy cảm động, cách xây dựng tình uống éo le

- Hai đoạn văn đã cho thấy được sự thay đổi trong tâm lý của nhân vật bé Thu đối với người cha của mình. Nếu như đoạn trên, bé Thu xa lánh, xù lông với ba mình bao nhiêu thì đoạn 2 lại thấy được sự gần gũi không còn khỏang trống của tình cảm mà Thu dành cho người ba của mình. Đoạn l bé Thu lì lợm bướng bỉnh bao nhiêu thi đoạn 2, bé Thu lại trở nên nhẹ nhàng, tỉnh cảm bấy nhiêu

- Hai đoạn trích cũng cho thấy được sự tài tình trong miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của trẻ con của nhà văn: tinh tế, sâu sắc.

C. Kết bài:

Có thể nói rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện vô cùng cảm động. Tác phẩm ấy đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn, càng thêm trân trọng hơn tình cảm gia đình, thêm xót xa cho những hi sinh mất mát của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến. Từ câu chuyện của cha con anh Sáu, Nguyễn Quang Sáng đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình cảm gia đình, về trách nhiệm với quê hương đất nước. Chúng ta nhận ra rằng mình phải sống sao cho xứng đáng với quá khứ, với lịch sử của dân tộc. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Thêm
2K
0
0
Dàn bài:

A.Mở bài: +
Giới thiệu tác giả, giới thiệu văn bản; + Nêu vấn đề nghị luận

Tham khảo

Bom đạn chiến tranh đã khiến cho đất nước mang trên mình những vết thương, khiến cho bao gia đình tan nát vì chia xa, những nỗi đau cứ thế mà chồng chất. Tuy nhiên, giữa bản nhạc buồn của chiến tranh, văn học vẫn mang đến cho đời sống tình cảm của con người những cung bậc, những âm thanh da diết, tuyệt đẹp về tinh thần đoàn kết, về tình đồng đội, đồng chí và cả tình cảm gia đình thiêng liêng bất diệt. Một trong những tác phẩm hay nhất viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh là “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm cha con sâu nặng giữa bé Thu và ông Sáu trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất. Và gây xúc động với người đọc nhất có lẽ là đoạn truyện kể lại giây phút chia tay của cha con ông Sáu

B.Thân bài

Khái quát


- Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Truyện kể về tình cảnh éo le của cha con ông Sáu để từ đó làm nổi bật tình cha con sâu nặng đồng thời khẳng định:Chiến tranh có thể cướp đi tất cả, thậm chí là cả mạng sống của con người nhưng tình cảm gia đình thì không gì có thể giết chết được.

2.Cảm nhận đoạn trích

2.1.Nhắc lại nội dung đoạn trước


Ở phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Quang Sáng đã cho người đọc thấy được tình cảnh éo le của cha con ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Nhưng trớ trêu thay, bé Thu – con gái ông lại không chịu nhận cha vì vết theo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết. Thu đối xử với ba như người xa lạ dù cho ba có hết mực quan tâm. Và đến lúc em nhận ra, tình cảm cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường.

2.2. Cảm nhận đoạn trích

a)Cảm nhận về nội dung của đoạn trích

Có thể nói rằng đây là đoạn truyện hay nhất, để lại nhiều xúc động nhất trong lòng người đọc. Chỉ với một đoạn truyện ngắn nhưng NQS đã làm nổi bật được tình cảm cha chon sâu nặng giữa anh Sáu và bé Thu.

a1) Đó trước hết là tình cảm của con dành cho cha.

*Thái độ của bé Thu lúc này đã hoàn toàn thay đổi.
Trong khi mọi người vây xung quanh ba nó còn mẹ nó đang lo chuản bị đồ đạc cho ba thì bé Thu lại đứng trong góc nhà, đôi mắt đượm buồn, tâm trạng bồn chồn, lo lắng. Cái vẻ mặt ngơ ngác, lạ lùng, cái thái độ ngang ngạnh, bướng bỉnh giờ đây không còn nữa mà thay vào đó là ánh nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Có lẽ con bé lúc này đang ân hận và day dứt lắm bởi trong suốt những ngày qua nó đã có những cư xử, những thái độ thật không đúng với cha của mình.

* Tình cảm của em được gửi trọn trong tiếng gọi “ba” đầy cảm động

Trong giờ phút chia tay ấy, kho không ai ngờ tới thì bé Thu lại cất tiếng gọi “Ba…a…a…ba” trong sự ngỡ ngàng của anh Sáu và của cả mọi người. Tiếng kêu của nó như tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:-Ba!Không cho ba đi nữa!Ba ở nhà với con!”.Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

+ Anh Sáu: bế nó lên, ôm chặt lấy bé Thu và anh đã khóc, khóc vì bé Thu đã nhận ra anh và dành tình cảm cho anh; khóc vì khi hai cha con vừa nhận ra nhau cũng là lúc anh phải lên đường. Đó là giọt nước mắt tình cảm cha con sâu đậm.

=> Tình cảm cha con ấy đã gây nên một xúc cảm mãnh liệt đối với những người chứng kiến: tiếng kêu của bé Thu không chỉ xé sự im lặng mà còn xé cả ruột gan mọi người, nghe mà xót xa.

a 2) Đó còn là tình cảm của cha dành cho con

Không chỉ giúp người đọc cảm nhận được tình cảm của con dành cho cha, đoạn trích còn cho ta thấy được tình cảm cha dành cho con cũng vô cùng mãnh liệt. Khi chia tay cử chỉ, tâm trạng của anh Sáu thật đặc biệt: anh Sáu chỉ dám đưa mắt nhìn con, vì anh sợ bất cứ sự quan tâm nào của mình cũng sẽ bị bé Thu cự tuyệt, anh chỉ lặng nhìn đứa con yêu quý của mình. Ông muốn ôm con,nhưng lại sợ con không nhận đành chỉ nhìn. Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé Thu òa ra mãnh liệt. Nó cất tiếng gọi “ba”, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”.Người chiến sĩ ấy nước mắt đã khô cạn nơi chiến trường, giờ đây là những giọt nước mắt hiếm hoi – nước mắt của niềm hạnh phúc và tình cha con. ông luôn muốn hình ảnh của mình đẹp đẽ tronmg mắt con.. Ông không muốn con nhìn thấy minh khóc, không muốn con thấy được vẻ yếu đuối của mình vì ông biết con gái mình luôn tôn thờ một người cha mạnh mẽ và dũng cảm.

3.Đánh giá về nghệ thuật và nội dung của đoạn trích

- Đoạn trích đã tạo nên bước ngoặt cho câu chuyện: hóa giải được những thắc mắc, hoài nghi của bé Thu, khiến cha con thực sự được đoàn tụ và ông Sáu được thỏa lòng mong nhớ con; đồng thời thể hiện rõ nét tính cách của bé Thu: cá tính và yêu cha hết mực.

- Đoạn trích nói riêng và truyện ngắn nói chung đã thể hiện tình cảm cha con, tình cảm gia đình trong chiến tranh một cách cảm động. Qua đó, ta nhận ra một thông điệp thật ý nghĩa: Chiến tranh là kẻ thù của tình yêu và hạnh phúc!

C. Kết bài:

Có thể nói rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện vô cùng cảm động. Tác phẩm ấy đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn, càng thêm trân trọng hơn tình cảm gia đình, thêm xót xa cho những hi sinh mất mát của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến. Từ câu chuyện của cha con anh Sáu, Nguyễn Quang Sáng đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình cảm gia đình, về trách nhiệm với quê hương đất nước. Chúng ta nhận ra rằng mình phải sống sao cho xứng đáng với quá khứ, với lịch sử của dân tộc. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Thêm
402
0
0
[...] Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.

Sau đó anh lấy vỏ đạn hai mươi ly của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, ca khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rồi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc... Một ngày anh chưa được một vài răng. Không bao lâu sau, cây lược được hoàn thành. Cây lược dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi... cây lược chỉ có một hàng răng thưa. Trên sống lưng có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”... Những đêm nhớ con, .... anh lấy cây lược ra ngắm nghía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra...Anh bị viên đạn của máy bay Mỹ bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trồi lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.


Gợi ý:

I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận

Tham khảo:

Bom đạn chiến tranh đã khiến cho đất nước mang trên mình những vết thương, khiến cho bao gia đình tan nát vì chia xa, những nỗi đau cứ thế mà chồng chất. Tuy nhiên, giữa bản nhạc buồn của chiến tranh, văn học vẫn mang đến cho đời sống tình cảm của con người những cung bậc, những âm thanh da diết, tuyệt đẹp về tinh thần đoàn kết, về tình đồng đội, đồng chí và cả tình cảm gia đình thiêng liêng bất diệt. Một trong những tác phẩm hay nhất viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh là “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm yêu thương con mãnh liệt của ông Sáu. Tình cảm ấy được bộc lộ rõ nét nhất trong những ngày anh Sáu trở lại chiến trường cùng lời hứa tặng con cây lược.

II. Thân bài:

Khái quát


Tuyện ngắn Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Truyện kể về tình cảnh éo le của cha con ông Sáu để từ đó làm nổi bật tình cha con sâu nặng đồng thời khẳng định:Chiến tranh có thể cướp đi tất cả, thậm chí là cả mạng sống của con người nhưng tình cảm gia đình thì không gì có thể giết chết được.

Khái quát nội dung đoạn trước

Ở phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Quang Sáng đã cho người đọc thấy được tình cảnh éo le của cha con ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Nhưng trớ trêu thay, bé Thu – con gái ông lại không chịu nhận cha vì vết theo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết. Thu đối xử với ba như người xa lạ dù cho ba có hết mực quan tâm. Và đến lúc em nhận ra, tình cảm cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Ơ tình huống thứ nhất, người đọc đã cảm nhận được một cách rõ nét tình cảm của ông Sáu dành cho con. Tình cảm ấy được thể hiện ở niềm khao khát được gặp con, ở sự quan tâm dành cho cô con gái bé nhỏ. Và tình cảm đó tiếp tục được bộc lộ một cách đầy đủ và trọn vẹn khi anh Sáu trở lại chiến trường.

2. 2. Tình cảm của ông Sáu dành cho con khi ông ở căn cứ kháng chiến.

*Tình yêu con được thể hiện ở niềm vui khi có thể thực hiện lời hứa với cô con gái bé nhỏ.

Tình cảm của ông Sáu đối với con trước hết được thể hiện ở niềm vui khi có thể thực hiện được lời hứa với cô con gái bé nhỏ.
Vào chiến trường ông Sáu không nguôi nhớ về con. Nhớ con, ông lại ân hận, day dứt khi mình đã đánh con bé. Và có lẽ cũng vì thế mà khi kiếm được một khúc ngà, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi miêu tả tâm lí của người cha. Tác giả so sánh niềm vui của ông Sáu với niềm vui của “một đứa trẻ được quà”. Trẻ con nhận được quà bao giờ cũng cảm thấy rất sung sướng. So sánh như vậy là nhà văn muốn làm nổi bật niềm hạnh phúc của người cha khi có thể thực hiện được lời hứa với con, khi có thể làm tặng con một cây lược.

*Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân

Và chính tình yêu thương con mãnh liệt đã biến một người chiến sĩ cách mạng như ông Sáu trở thành một nghệ nhân
- nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Có khúc ngà rồi, những lúc rỗi, ông Sáu “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”. Trên sống lưng cây lược, ông đã tận mẩn khắc một dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Đó là tình yêu, là nỗi nhớ con luôn thường trực. Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. Chiếc lược ngà giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con xa cách. Ông gửi vào đó bao lời nhắn nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà diệu kì là hiện hữu của tình cha con sâu nặng giữa ông Sáu và bé Thu. Tình thương ông dành cho con cháy bỏng, như một dòng sông chảy mãi từ suối nguồn, như dòng máu chảy sâu vào tim ông, vào tâm hồn ông đến phút cuối vẫn bùng cháy chẳng nguôi.

* Trong giờ phú cuối cùng, điều duy nhất a Sáu nghĩ đến là con gái

Bao nhiêu yêu thương và mong nhớ được ông Sáu gửi gắm vào cây lược những mong ngày đất nước độc lập, được trở về bên con, được tận tay trao cho con cây lược ấy. Thế nhưng
Một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu.Trong một trận càn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trồi lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho dù đến khi không còn nữa anh chưa một lần được chải tóc cho con. Những dòng cuối cùng của đoạn trích khép lại trong nỗi buồn mênh mang mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại. Chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau, chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng, chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le, bị thử thách rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường. “Chiếc lược ngà” như một truyện cổ tích hiện đại dẫn người đọc dõi theo số phận của nhân vật. Người còn, người mất những kỉ vật gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại là chiếc lược ngà nói với chúng ta nhiều điều về tình người, tình đồng chí, tình cha con. Cảm động nhất, đề lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm – tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái.

Đánh giá:

N
hân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc, ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Những chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược của bé Thu, ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi... Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.

III. Kết bài:

Có thể nói rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện vô cùng cảm động. Tác phẩm ấy đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn, càng thêm trân trọng hơn tình cảm gia đình, thêm xót xa cho những hi sinh mất mát của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến. Từ câu chuyện của cha con anh Sáu, Nguyễn Quang Sáng đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình cảm gia đình, về trách nhiệm với quê hương đất nước. Chúng ta nhận ra rằng mình phải sống sao cho xứng đáng với quá khứ, với lịch sử của dân tộc. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Thêm
2K
0
0
A. Mở bài

- Nguyễn Quang Sáng là nhà văn tiêu biểu của văn học VN. Ông viết nhiều về cuộc sống và con người Nam Bộ. Chiếc lược ngà là một trong số những tác phẩm xuất sắc của ông.

- Truyện viết về tình cảm gia đình trong hoàn cảnh éo le của cuộc kháng chiến.

- Truyện đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật ông Sáu - một người lính cách mạng dũng cảm, một người cha yêu thương con sâu nặng.

B. Thân bài

1. Khái quát chung


- Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, trong cuộc kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.

- Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, nhà văn đã giúp ta khám phá vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu. Đó là người chiến sĩ cách mạng yêu nước, sẵn sàng hi sinh tuổi trẻ, hạnh phúc vì nền độc lập tự do của dân tộc. Đó là người cha có tình yêu thương con tha thiết, sâu nặng.

2.2. Cảm nhận về ông Sáu

2.1. Hoàn cảnh của ông Sáu


- Ông Sáu sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Giống như bao chàng trai khác ông Sáu phải xa gia đình cầm súng vào chiến trường từ khi đứa con gái chưa đầy một tuổi, mãi đến khi con gái lên 8 tuổi ông mới có dịp về thăm nhà.

- Nhưng bé Thu con gái ông lại nhất định không chịu nhận ba chỉ vì vết thẹo trên má khiến ông Sáu không giống với bức ảnh chụp chung với má.

2.2. Ông Sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm

- Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp 7-8 năm chưa một lần về thăm nhà mặc dù nhớ nhà, nhớ vợ con khôn xiết. Người chiến sĩ ấy đã luôn đặt nhiệm vụ đối với Tổ quốc, với kháng chiến lên trên tình cảm riêng tư.

- Trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã bị thương, vết sẹo làm khuôn mặt không giống như trước.

- Sau đợt nghỉ phép, ông Sáu cùng đồng đội trở lại chiến trường miền Đông tiếp tục chiến đấu.

- Một ngày cuối năm năm mươi tám, trong một trận càn lớn của quân Mĩ- ngụy ông Sáu đã bị thương nặng và hi sinh.

Như vậy, ông Sáu là người chiến sĩ có lòng yêu nước, dũng cảm, luôn biết hi sinh vì độc lập dân tộc. Đó cũng là vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng, của con người Việt Nam trong những năm chiến tranh đau thương mà anh dũng.\

2.2. Ông Sáu là người cha rất yêu thương con

* Tình yêu thương con của ông Sáu trước tiên được thể hiện qua tình huống: Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp sau 7-8 năm được về nhà thăm nhưng bé Thu lại không nhận ba.

- Nỗi khao khát gặp con của ông Sáu.


+ Hai cha con không hề biết mặt nhau, chỉ biết qua tấm ảnh cách đó bảy năm. Vì vậy, ông Sáu hồi hộp và mong chờ được gặp con bằng tất cả tình cảm yêu thương mà ông đã dồn nén trong xa cách.

+ Bằng linh cảm của người cham, ông đã nhận ra con – đứa bé độ tám tuổi đang chơi dưới bóng cây xoài trước nhà, ông chạy ngay đến chỗ con. Nhưng bất ngờ. Nhưng bất ngờ Thu hoảng sợ bỏ chạy, không chịu nhìn nhận cha mình. Lúc đ, “ Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Ông Sáu hụt hẫng, đau đớn khi đứa con không nhận ra mình.

- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà.

+ Ông Sáu tranh thủ ba ngày phép ngắn ngủi để chăm chút, bù đắp cho con cả vật chất lẫn tinh thần “ suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”. Ông tìm mọi cách để gần gũi để trò chuyện với con nhưng dù phải mới ba ăn cơm hay nhờ chắt nước nồi cơm. Thu đều lảng tránh không gọi một tiếng “ ba”. Vui vì gặp lại gia đình, vợ con, nhưng ông Sáu đau khổ lắm, những lúc con lảng tránh, ông chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”, cười “ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được”.

+ Bị con đối xử lạnh nhạt, ông vẫn cố gắng kiên trì chờ đợi, mong con nhận ra và gọi tiếng “ Ba” âu yếm. Bé Thu đã từ chối sự quan tâm của ông Sáu, bé “hắt đổ miếng trứng cá khỏi chén cơm” khiến ông sáu nổi nóng đánh con để rồi sau này dằn vặt, ân hận mãi. Tình tiết này cho thấy sự tức giận, thất vọng của ông Sáu khi không làm thế nào để con nhận ba và cũng thể hiện niềm khát khao của người cha muốn được cảm nhận tình cảm của con.

- Giây phút cảm động khi bé Thu nhận cha:

+ Trước khi chia tay gia đình để vào chiến trường, ông Sáu đã rất buồn vì đứa con không chịu nhận mặt cha, nỗi ân hận vì trót nóng nảy đánh con khiến đứa trẻ càng xa cách. Nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông “ muốn ôm con, hôn con”, nhưng “ lại sợ nó giãy lên lại bỏ chạy” nên ông Sáu chỉ đứng nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, khe khẽ nói…

- Bất ngờ bé Thu cất tiếng gọi: “ Ba…a…a…ba!”, tiếng kêu như xé ruột vừa yêu thương, kính trọng xen lẫn hối hận ( bé Thu đã biết “ ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương”), rồi nó chạy thót lại, ôm lấy ba, “ hôn ba cùng khắp”, “ hôn cả vết thẹo dài trên má”, nó dang cả hai tay xiết chặt lấy cổ, dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó để níu giữ. Ông Sáu đã xúc động đến khóc, và “ không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Hai cha con nhận ra nhau thật hạnh phúc, sung sướng nhưng cũng thật đớn đau bởi giây phút đó thật ngắn ngủi. Tình cảm cha con thiêng liêng cao đẹp nhưng đặt trong một hoàn cảnh thật éo le của cuộc chiến tranh với những chia li, xa cách.

* Tình yêu thương con của ông Sáu được thể hiện sâu sắc qua tình huống: ông Sáu làm cây lược tặng con nhưng chưa kịp tặng thì ông đã hi sinh. Tình huống này đã bộc lộ tình yêu con sâu nặng của người cha.

- Ở chiến khu, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông luôn suốt nhiều ngày sau khi chia tay với gia đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận.

- Lời dặn của đứa con “ Ba về! Ba mua cho con một cây Lược nghe Ba!”, đã thúc đẩy ông nghĩa đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Khi tìm được khúc ngà ông vô cùng vui mừng, sung sướng, rồi đánh hết tâm trí, công sức vào việc vào việc làm cây lược: “ những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược , thận trọng, ti mỉ và cố công như người thợ bạc”.

- Ông làm cây lược bằng tất cả tình yêu thương con, trên sống có khắc một hành chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn, khắc từng nét: “ Yêu nhớ tặng Thu con của Ba”. Những đêm nhớ con, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Mỗi lần chải tóc như vậy là mỗi lầm ông Sáu gửi gắm yêu thương vào chiếc lược nhỏ xinh. Chiếc lược ngà đã trở thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách.

- Nhưng trong một trận chiến đấu, ông đã bị thương nặng. Trước lúc hi sinh, không thể trăng trổi được điều gì, ông có trao cây lược cho người đồng đội và chỉ đến khi tin rằng chiếc lược đó sẽ đến tận tay bé Thu ông mới nhắm mắt. Qua ánh mắt nhìn đồng đội lúc lâm chung, bác Ba hiểu không chỉ mang cây lược về cho Thu mà còn trao lại một tình cha con thiêng liêng cao đẹp. Một tình cha con không bao giờ chết!

- Sau nhiều lần tìm Thu không gặp, tình cờ bác Ba gặp Thu, bấy giờ là môt cô giao liên trên một tuyến đường bí mật. Bác trao cho Thu cây lược ngà mà người cha yêu quý nhất đã tự tay mình làm và gửi tặng con gái “ Cây lược như đánh thức kỉ niệm ngày chia tay…”

Như vậy, cả cuộc đời người cha đã dành cho con một tình cảm yêu thương sâu nặng.

3. Đánh giá

- Xây dựng nhân vật ông sáu, tác giả đã đặt nhân vật vào các tình huống éo le để khai thác những diễn biến tâm lí, tình cảm; ngôn ngữ lời thoại nhân vật có sự chọn lọc, chi tiết cụ thể giàu biểu cảm…

- Truyện đã ca ngợi ông sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và là người cha có tình thương con sâu nặng và cao đẹp. Qua đó, tác giả khẳng định tình cảm cha con là thứ tình cảm nhân bản bền vững, có thể tồn tại trong bất cứ hoàn cảnh nào; đồng thời cũng cho thấy những nỗi đau thương, mất mát mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con người.

C.Kết bài

- Truyện đã khơi gợi trong em những tình cảm gì?

- Em rút ra đượng bài học gì?

Có thể nói rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện vô cùng cảm động. Tác phẩm ấy đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn, càng thêm trân trọng hơn tình cảm gia đình, thêm xót xa cho những hi sinh mất mát của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến. Từ câu chuyện của cha con anh Sáu, Nguyễn Quang Sáng đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình cảm gia đình, về trách nhiệm với quê hương đất nước. Chúng ta nhận ra rằng mình phải sống sao cho xứng đáng với quá khứ, với lịch sử của dân tộc. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Thêm
362
0
0
A. Mở bài

- Nguyễn Quang Sáng là nhà văn tiêu biểu của văn học VN. Ông viết nhiều về cuộc sống và con người Nam Bộ. Chiếc lược ngà là một trong số những tác phẩm xuất sắc của ông.

- Truyện viết về tình cảm gia đình trong hoàn cảnh éo le của cuộc kháng chiến.

- Truyện giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của nhân vật bé Thu – một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, có tình yêu thương ba thật cảm động.

B. Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm


- Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, trong cuộc kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.

- Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, nhà văn đã giúp ta khám phá vẻ đẹp của bé Thu. Đứa trẻ mới tám tuổi ương bướng, ngang ngạnh, có cá tính mạnh mẽ nhưng rất hồn nhiên ngây thơ. Đằng sau sự cứng đầu ấy là tình yêu thương ba mãnh liệt.

2. Phân tích

a. Bé Thu là đứa trẻ có hoàn cảnh thiệt thòi, đáng thương.


- Bé Thu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ba em lên đường đánh giặc khi em chưa tròn một tuổi.Tám năm ròng em chưa được gặp ba, em chỉ được ngắm nhìn ba qua bức hình chụp chung với má.

- Cảnh ngộ của bé Thu cũng là cảnh ngộ chung của rất nhiều đứa trẻ trong cuộc kháng chiến của dân tộc.

b. Thu là đứa trẻ có cá tính rất mạnh mẽ, ương bướng, ngang ngạnh nhưng cũng rất trong sáng, hồn nhiên và đáng yêu.

- Và để làm nổi bật tình cảm đó của bé Thu nhà văn đã đặt bé Thu vào tình huống cụ thể để bé Thu bộc lộ rõ cá tính của mình. Đó là khi ông Sáu trở về thăm nhà sau 8 năm xa cách.

* Khi mới gặp cha

- Bao ngày trông ngóng được gặp lại cha nhưng khi gặp cha Thu lại có phản ứng vô cùng dữ dội.

- Khi đang chơi ở nhà chòi bỗng có người đàn ông xa lạ gọi mình là con, bé Thu “tròn mắt ngơ ngác, lạ lùng nhìn”. Đặc biệt khi nhìn vết sẹo dài trên má ông Sáu và thấy người đàn ông cứ tiến đến với giọng run run: “ba đây con” khiến cho con bé Thu chớp mắt như muốn hỏi “Đây là ai?”, mặt nó tái đi rồi gọi “Má! Má!”

=> Phản ứng ấy của bé Thu cho thấy em rất bất ngờ trước một người đàn ông xa lạ gọi mình là con và em cũng không nhận ra ông Sáu là ba. Phản ứng hoảng sợ của bé Thu rất phù hợp với tâm lí nhân vật đồng thời cho thấy sự am hiểu tâm lí trẻ thơ của tác giả.

* Ba ngày ông Sáu ở nhà

- Ba ngày nghỉ phép ông Sáu không đi đâu chỉ ở nhà vỗ về bé Thu với mong muốn con bé sẽ nhận ra và gọi một tiếng ba. Những ông càng vỗ về, con bé lại đẩy ông ra xa hơn.

- Khi mẹ nhắc nhở Thu bảo ba vô ăn cơm thì con bé tìm mọi cách từ chối khéo: “Thì mẹ mời đi”, khi bị ép thì Thu lại nói trổng“vô ăn cơm”. Ông Sáu vờ như không nghe thấy thì Thu lại nói vọng ra “cơm chín rồi”. Cuối cùng không gọi được, con bé bực quá quay lại mẹ và bảo “con kêu rồi mà người ta không nghe”.Cụm từ “người ta” thật khiến ông Sáu thật đau lòng, cho thấy bé Thu vẫn coi ông Sáu là người xa lạ.

- Không chỉ lời nói, bé Thu còn có những hành động, cử chỉ dứt khoát không nhận ông Sáu là ba. Đó là tình huống bé Thu phải canh nồi cơm và chắt nước cơm. Nồi cơm thì to, quá sức với một đứa trẻ 8 tuổi, khiến Thu không thể bắc được. Bị đẩy vào thế bí, tưởng Thu sẽ phải gọi ông Sáu là ba để nhờ giúp đỡ. Nhưng không, con bé vẫn nói trổng: “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”.Ông Sáu lại ngồi im như không nghe thấy và khi nồi cơm sôi sùng sục thì giọng nó vang vẻ hơn: “cơm sôi rồi nhão bây giờ”. Khi bị bác Ba dọa thì nó hơi sợ, nhăn nhó như sắp khóc nhưng nhất định không gọi ông Sáu một tiếng ba. Rồi nó loay hoay tìm lấy cái vá để múc nước cơm ra, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ. Hành động đó của bé Thu cho thấy Thu thật ương bướng, gan góc nhưng cũng rất đáo để.

* Khi ông Sáu gắp cái trứng cá:

- Đỉnh điểm của sự ngang ngạnh, ương bướng của bé Thu là trong bữa cơm ông Sáu gắp cho một miếng trứng cá to vàng để vào chén bé Thu….

- Thu liền lấy đũa soi vào chén cơm rồi bất ngờ hất tung miếng trứng cá khiến cơm văng tung tóe cả mâm.

=> Hành động ấy của bé Thu cho thấy sự cương quyết từ chối sự chăm sóc tận tâm của ông Sáu.

- Bị cha đánh mắng con bé ngồi im cúi gằm rồi lặng lẽ gắp miếng trứng cá vào bát và đứng dậy. Thu hiểu được việc làm của mình là quá đáng, là sai, là vô lễ với người lớn nhưng bé vẫn làm vì không chấp nhận người đàn ông kia là ba mình.

- Thu khua dây lòi tói kêu rổn rảng, lấy thuyền bơi qua sông sang nhà bà ngoại. Nó mét và khóc với ngoại ở bên đó.

=> Qua tất cả hành động trên, ta thấy Thu rất ương bướng, ngang ngạnh và đáo để. Ta thấy Thu đáng thương hơn là đáng trách. Thu còn quá nhỏ để hiểu được thời gian sẽ làm con người thay đổi, chiến tranh sẽ hủy hoại cơ thể thậm chí cướp đi tính mạng của con người. Hơn nữa, lỗi cũng ở tại người lớn chưa chuẩn bị tâm lí cho bé đón nhận những điều bất thường có thể xay ra trong cuộc sống.

- Vì thế sự ương bướng cá tính của Thu không làm người đọc khó chịu, và cũng không thấy Thu là đứa trẻ hỗn láo. Ta lại thấy ở Thu hồn nhiên, ngây thơ có phần tội nghiệp.

c. Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm, có tình yêu thương ba sâu sắc, mãnh liệt.

- Bé Thu đối xử lạnh lùng với ông Sau bởi bé rất yêu người ba trong ảnh của mình. Bé không chấp nhận người ba nào khác. Nhưng khi nhận ra ông Sáu chính là ba của mình bé Thu lại dành hết tình cảm cho ông Sáu.

- Một đêm ngủ với ngoại, được ngoại giảng giải vì sao ông Sáu lại có một vết thẹo dài trên má. Thu đã hiểu ra sự khốc liệt của chiến tranh, chính chiến tranh đã làm biến dạng khuôn mặt của ba, khiến ba không còn đẹp như bức hình chụp chung với má nữa. “Nó nằm im lăn qua, lăn lại, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Có lẽ bé đã nhận ra ông Sau chính là ba mình, bé đang rất ân hận vì đã đối xử lạnh lùng, tàn nhẫn với ba.

- Sáng hôm sau nó theo ngoại về nhà, buổi sang cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường, bé Thu đã thay đổi hoàn toàn thái độ. Vẻ mặt của cô không còn bướng bỉnh cau có nữa mà vẻ mặt ấy sầm lại trông rất đáng thương. Nó “không nhìn ngơ ngác, lạ lùng như trước nữa mà nhìn với một vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Nhưng Thu chỉ dám đứng ở góc nhà nhìn ba từ xa vì sự kiêu hãnh trẻ thơ mà chưa dám nhận, chưa dám gọi ba.

- Khi ông Sáu chào tạm biệt “Thôi ba đi nghe con” thì tình cảm bị dồn nén bấy lâu bỗng trỗi dậy thật mãnh liệt, nó chạy ào tới như một con sóc rồi thốt lên “ba…a…a!”. Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả gan ruột mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba mà Thu đã kìm nén bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra trong lòng nó. Nó vừa kêu vừa chạy xô tới nhảy tót lên dang hai tay ôm lấy cổ ba nó…

- Chứng kiến những khoảnh khắc xúc động này nhà văn đã dùng những câu văn ngắn dồn dập, nhiều động từ mạnh để diễn tả cảm xúc vội vàng, cuống quýt của bé Thu. Thu ôm chặt lấy cổ ba vừa khóc vừa muốn giữ chân ba ở nhà “Ba! Con không cho ba đi nữa ba ở nhà với con” rồi “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “ Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nói, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai bó nhỏ của nó run run”.

- Khoảnh khắc xúc động ấy khiến cho những người chứng kiến không ai cầm được nước mắt, còn bác Ba người kể chuyện cảm thấy khó thở như ai nắm lấy trái tim, khoảnh khắc ấy Thu chỉ biết dặn ba vội vã: “ba về ba mua cho con một chiếc lược nghe ba”

- Có thể nói đây là đoạn văn đặc sắc khi tác giả miêu tả sinh động khoảnh khắc hai cha con nhận nhau. Lúc Thu nhận ra ba cũng là lúc ông Sáu phải ra chiến trường. Tiếng gọi ba đầu tiên và cũng là tiếng gọi ba cuối cùng trong cuộc đời. Hai cha con nhận nhau để rồi chia xa mãi mãi. Chiến tranh thật éo le và khốc liệt đã khiến cho niềm hạnh phúc, tình phụ tử của cha con bé Thu phải chia lìa xa cách.

=> Như vậy ta thấy bé Thu đại diện cho lớp trẻ VN phải chịu nhiều thiệt thòi mất mát do chiến tranh gây ra, cả tuổi thơ phải sống xa cha, được gần ba 3 ngày nhưng ba ngày cũng không trọn vẹn. Cả đời chỉ được gọi tiếng ba có một lần, chỉ được nhận sự chăm sóc của ba bằng một cây lược ngà nhưng cũng phải chờ đợi. Bấy nhiêu thôi ta cũng thấy bé Thu cũng như những đứa trẻ VN khác phải chịu mất mát thiệt thòi như thế nào và cũng cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Ta càng thấy thương những em bé như Thu và căm phẫn chiến tranh, căm phẫn tội ác của Để Quốc Mĩ.

3. Đánh giá nghệ thuật.

-
Thành công của tác giả là xây dựng tình huống truyện éo le, kịch tính, kể chuyện theo ngôi thứ nhất người kể chuyện là bác Ba làm câu chuyện vừa khách quan, vừa chân thực, tăng độ tin cậy. Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị đậm màu sắc Nam Bộ, nghệ thuật miêu tả cử chỉ hành động, lời nói để khắc họa tính cách nhân vật, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.

- Qua những nghệ thuật ấy, tác giả đã giúp ta cảm nhận được diễn biến tâm lí phức tạp của bé Thu khi ông Sáu về thăm nhà. Thu có ương bướng, cứng đầu nhưng tất cả đều là biểu hiện của tình yêu thương ba mãnh liệt. Tình yêu ấy có sự phân biệt rạch ròi: đã không phải ba thì nhất quyết không nhận, khi nhận ông Sáu là ba thì bé Thu thể hiện tình yêu cuống quýt, vồ vập.

- Nguyễn Quang Sáng là nhà văn rất am hiểu tâm lí trẻ thơ, viết về trẻ thơ với tấm lòng yêu mến và trân trọng.

C. Kết bài:

-
Chiến tranh đã lùi xa nhưng mỗi lần đọc “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chúng ta lại thấy vô cùng xúc động về tình cảm gia đình trong hoàn cảnh éo le của cuộc kháng chiến.

- Ta còn nhớ đến đứa trẻ đáng thương thiếu vắng tình cảm của cha từ thuở mới lọt lòng.

- Ta còn ấn tượng về bé Thu với cá tính mạnh mẽ, ương bướng, ngang ngạnh. Ẩn sau những biểu hiện cứng đầu ấy là tình yêu thương ba thật cảm động.

- Viết về chiến tranh nhưng Nguyễn Quang Sáng không khai thác cái dữ dội của bom đạn nơi chiến trường mà tác giả lại viết về tình cảm con người trong kháng chiến, tình cảm cha con thiêng liêng sâu nặng.

- Qua tác phẩm, nhà văn muốn khẳng định: bom đạn có thể hủy hoại cơ thể, cướp đi tính mạng nhưng không thể nào hủy diệt đi tình cảm của con người, chỉ có tình cha con là bất tử, là tồn tại với thời gian.
Thêm
280
0
0
Nếu như khổ thơ đầu là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ tráng lệ thì khổ thơ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong ánh bình minh với khoang thuyền đầy ắp cá.

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời


- Khổ thơ cuối của bài có nhiều hình ảnh tương đồng với khổ thơ đầu tiên. Hai khổ thơ được xây dựng bằng các hình ảnh câu hát, cánh buồm, gió khơi, đoàn thuyền, mặt trời tạo ra kết cấu vòng tròn đầu cuối tương ứng.

- Câu hát là hình ảnh nổi bật, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Đoàn thuyền ra đi trong tiếng hát, làm việc trong tiếng hát, và trở về cũng trong tiếng hát cất vang.

- Nếu như ở khổ thơ thứ nhất “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” thì ở khổ thơ này “Câu hát căng buồm với gió khơi” thanh trắc làm cho câu thơ trở nên chắc khỏe thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của người dân lao động.

- Câu hát lúc ra khơi là câu hát thể hiện niềm vui, phấn chấn khi được làm chủ công việc. làm chủ biển trời. Câu hát lúc trở về là ca khúc khải hoàn, thể hiện niềm vui chiến thắng trước những khoang thuyền đầy ắp cá.

+ Không chỉ có hình ảnh câu hát được lặp lại ở khổ cuối, ta còn thấy hình ảnh mặt trời. Nếu khổ đầu là mặt trời của hoàng hôn thì đây là mặt trời của bình minh. Bình minh báo hiệu một ngày mới, báo hiệu một sự sống sinh sôi nảy nở, là sự khởi đầu của những niềm vui, niềm hạnh phúc.

+ Đặc biệt ở khổ thơ cuối có một hình ảnh rất hay và lãng mạn: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với hình ảnh mặt trời. Huy cận đã lấy sự vật bé nhỏ, bình dị để ngầm so sánh với hình ảnh vĩ đại của nhiên “Mặt trời”. Biện pháp nói quá, nhân hóa đã làm nổi bật tư thế con người lao động và không khí náo nức của cuộc sống mới. Những ngư dân trở về trong một tư thế sánh ngang với vũ trụ, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đã chiến thắng. Chiến thắng của ngư dân làng chài phải chăng chính là chiến thắng của người dân miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Khi mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền trở về bến:

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi


- Hình ảnh “mặt trời đội biển” mang dấu ấn sử thi, phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca. Nó làm nổi bật tư thế làm chủ vũ trụ của những con người lao động.

- Kết thúc bài thơ là một cảnh tượng kì vĩ chói lọi: Mặt trời từ từ nhô lên khỏi sóng nước xanh lam chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ. Con thuyền trở về tràn ngập niềm vui và thành quả lao động. Mắt cá phản chiếu ánh sáng mặt trời tạo thành muôn ngàn mặt trời nhỏ li ti. Đó là khung cảnh rực rỡ và tráng lệ.

- Hình ảnh "mắt cá huy hoàng" vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những ngư dân vùng mỏ Quảng Ninh. Đồng thơ câu thơ còn dự cảm về cuộc sống mới, về tương lai tốt đẹp đang mở ra trước mắt.

KHÁI QUÁT

- Nghệ thuật:

+
Thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ cảm xúc, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, hình ảnh thơ lãng mạn được xây dựng bằng bút pháp khoa trương, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và độc đáo.

+ Cách gieo vần linh hoạt, giọng điệu sôi nổi, phơi phới khiến bài thư như một khúc tráng ca khỏe khoắn, say sưa.

+ Sự kết hợp giữa cảm hứng hiện thực về lao động sản xuất và cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên vũ trụ, cùng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, liệt kê....

- Nội dung: Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, sự giàu có của biển khơi; ca ngợi khí thế lao động của con người mới, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Thêm
122
0
0
Khổ thơ sáu miêu tả vẻ đẹp của ngư dân khi kéo lưới.

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chum cá nặng”


- “Sao mờ” là lúc trời gần sáng, mặt trời đang lên. Đó là dấu hiệu báo một ngày mới bắt đầu. Con người đang giành giật với thời gian, chạy đua với thời gian để làm việc và cống hiến. Thời gian trôi càng nhanh, con người lao động càng hăng say.

- Từ “kịp” diễn tả không khí lao động khẩn trương, gấp gáp để hoàn thành chuyến ra khơi.

Họ đang khẩn trương để kéo lưới kịp trời sáng. Một cuộc chạy đua âm thầm đang diễn ra giữa con người và thiên nhiên. Con người thì nhỏ bé, thiên nhiên thì lớn lao vậy mà con người dám chạy đua cùng thiên nhiên.

- Hai câu thơ đã tạo nên bức tượng đài sừng sững của người lao động giữa vùng biển rộng. Hai chữ "xoăn tay" giàu chất tạo hình khiến cho người đọc hình dung tư thế của những người lao động với cơ bắp cuồn cuộn, họ đang choãi chân, ghì tay để kéo lên những mẻ lưới đầy cá. Đó là tư thế chắc khỏe, cường tráng, tư thế của những người đã khẳng định được vị thế của mình trên biển khơi, vị thế của người làm chủ, người chiến thắng. Câu thơ đã ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi, giàu sức sống của ngư dân miền biển.

+ "chùm cá nặng" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho thành quả lao động mà người ngư dân thu được sau một đêm vất vả.

- Với phép liên tưởng và tưởng tượng bay bổng nhà thơ đã khắc họa hình ảnh ngư dân trên biển đêm với tư thế làm chủ bình tĩnh, tự tin, họ lao động bằng cả niềm vui, sự lạc quan.

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”


- “Vẩy bạc, đuôi vàng” vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa ẩn dụ. Tác giả miêu tả vẻ đẹp của các loài cá bằng những màu sắc rực rỡ, lấp lánh giữa ánh bình minh. Hai từ “bạc và vàng” còn gợi lên sự quý giá của những loài cá giống như lời ông cha từng ca ngợi: “Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”

- Tác giả sử dụng liên tiếp ba động từ “xếp, lên, đón” để diễn tả sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa con người và sự vận hành của thiên nhiên, vũ trụ.

+ “Lưới xếp buồm lên” là hai hình ảnh đối lập. “Lưới xếp” là kết thúc của ngày lao động. “Buồm lên” là đón chào một ngày mới. Cánh buồm giờ đây không phải vô tri vô giác mà trở nên sống động có hồn. Và ẩn chứa đằng sau cánh buồm ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt đang trỗi dậy. Cánh buồm đang vươn lên để đón nắng hồng. Nắng hồng là nắng bình minh của một ngày mới, một ngày trong trẻo, tươi sáng. Nắng hồng còn là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc tượng trưng cho cuộc đời mới mà cách mạng đem lại. Câu thơ thể hiện dự cảm của tác giả về tương lai tươi sáng sẽ đến với dân tộc.
Thêm
108
0
0
Top