Mạng xã hội Văn học trẻ

Ở khổ thơ 5 tiếng hát hòa với gió để gọi cá vào lưới và thể hiện lòng biết ơn của những ngư dân đối với biển cả.

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
- Câu hát là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ. Ngư dân cất cao tiếng hát khi ra khơi. Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm vui, tinh thần lạc quan yêu đời.

- Bài ca gọi cá vào là bài ca hi vọng thể hiện mong muốn của ngư dân có chuyến ra khơi gặt hái nhiều thành công với những khoang thuyền đầy ắp cá.

- Câu thơ thứ 2 có sự kết hợp chặt chẽ giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn, cảm hứng thiên nhiên vũ trụ và lao động sản xuất. Trăng in bóng xuống mặt nước, những con sóng vỗ vào mạn thuyền khiến ta có cảm giác trăng đang õ nhịp để xua cá vào lưới. Như vậy trăng không chỉ làm nhiệm vụ của một quan sát viên mà đã hòa vào làm việc cùng con người. Thiên nhiên vũ trụ luôn gắn bó, gần gũi với con người trong quá trình lao động.

Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".

- Nghệ thuật so sánh biển – lòng mẹ, tác giả lấy cái cụ thể, hữu hình để so sánh với cái vô hình, trừu tượng để nhấn mạnh vai trò của biển đối với con người.

- Từ xưa đến nay, biển đã nuôi sống biết bao thế hệ ngư dân. Biển cung cấp cho con người nguồn hải sản dồi dào: tôm cua, cá…. Biển cho ta khối lượng muối khổng lồ, nguồn đầu mỏ, khí đốt….để làm ăn sinh sống và phát triển kinh tế.

+ Không những thế biển còn bao dung, hiền hòa chở che cho những ngư dân ra đi đánh cá trở về trong bình yên. Câu thơ giống như lời cảm tạ, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của ngư dân với biển mẹ.

- Vậy mà hiện nay, một số người không có ý thức bảo vệ môi trường biển: đánh bắt cá bằng bom, mìn, xả rác bừa bãi….Chúng ta cần lên án và phê phán.
Thêm
251
0
0
Viết trả lời...
Khổ thơ thứ tư đã miêu tả bức tranh biển đem giàu có, nên thơ.

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long


- Đọc khổ thơ, ta thấy bức tranh biển đêm hiện ra đẹp đẽ, kì ảo, sống động. Huy Cận đã sử dụng phép liệt kê gợi ra các hình ảnh loài cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song… bơi lội tung tăng ngang dọc, tầng nổi tầng sâu, vun vút lấp lánh muôn màu sắc. Câu thơ giúp ta cảm nhận được biển Đông có rất nhiều loài cá quý có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao.

- Trong các loài cá ấy, đẹp nhất là cá song. Để miêu tả đặc điểm của loài cá này, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ đưa từ láy “lấp lánh” lên trước “đuốc đen hồng” gợi lên màu sắc lung lung, rực rỡ của cá trong đêm trăng.

- Nghệ thuật ẩn dụ đuốc đen hồng giúp ta thấy được đây là loài cá có nhiều vạch dọc ở thân, có thêm chấm đen và chấm hồng. Khi trăng chiếu xuống, những đốm đen và hồng tỏa ánh sáng khiến ta liên tưởng đến những ngọn đuốc sáng rực trong đêm.

- Ngôn ngữ sáng tạo, giàu chất tạo hình “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Hình ảnh con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh. Ánh trăng in xuống mặt nước, cá song quẫy đuôi như quẫy cả ánh trăng khiến ánh trăng tan ra, bắn tung vàng chóe. Đặc biệt hơn, Huy Cận gọi cá bằng “em”, một tiếng gọi xiết bao ân tình trìu mến.

- Vẻ đẹp của các loài cá hòa quyện cùng với vẻ đẹp của trăng trên biển tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và giàu chất lãng mạn. Và đằng sau vẻ đẹp ấy, ta nhận ra tình yêu tha thiết của nhà thơ với biển cả quê hương.

- Và khổ thơ được kết thúc bằng một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo:

“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

- Dưới cảm nhận của nhà thơ, biển như một sinh vật đại dương vì thế có hành động “thở” giống như con người. Nhịp thở của biển đêm hay chính là tiếng rì rào của sóng nước.

- “Sao lùa nước” là hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn: những ngôi sao in hình xuống mặt nước. Những con sóng dập dềnh làm cho những đốm sao di chuyển tạo nên cuộc đuổi bắt, vui đùa giữa sao và nước. Hình ảnh biển đêm vì thế mà trở nên giàu đẹp, sống động đến vô cùng.

- Khổ thơ thứ 4 tác giả đã miêu tả cảnh biển đêm vừa giàu vừa đẹp tràn đầy sức sống. Bức tranh biển đêm được cảm nhận bằng tinh thần lạc quan, yêu nghề, yêu biển của ngư dân làng chài.
Thêm
212
0
0
Viết trả lời...
Ở khổ thơ thứ ba hình ảnh đoàn thuyền được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la, rộng lớn:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng


- Hai câu thơ đã mở ra không gian mênh mông, rộng lớn có chiều cao của bầu trời, có chiều dài, rộng của biển cả.

- Giữa không gian ấy, con thuyền không hề nhỏ bé mà trở nên kì vĩ, lớn lao, con người trong tư thế chinh phục biển cả.

- Từ những hình ảnh tả thực thuyền, gió, buồm, trăng, mây, biển tác giả đã tạo ra những hình ảnh thi vị, lãng mạn.

+ Con thuyền có gió là người cầm lái, có trăng là cánh buồm lướt giữa mây trời và bồng bềnh sóng nước.

+ Cách nói khoa trương, phóng đại và biện pháp nhân hóa “thuyền ta lái gió“ gợi tả gió khơi lồng lộng, gió đẩy thuyền lướt sóng ra khơi

+ Buồm trăng là hình ảnh ẩn dụ nên thơ giúp ta cảm nhận được con thuyền đi qua khoảng sáng của vầng trăng. Cánh buồm cong cong hình trăng khuyết được nhuộm vàng bởi ánh trăng nên tác giả tưởng tượng đó chính là buồm trăng.

- Động từ lướt đã nhấn mạnh tốc độ phi thường, khí thế băng băng, dũng mãnh của con thuyền. Con thuyền khi lên cao, lúc lại xuống thấp theo từng con sóng bạc đầu nên ta có cảm giác con thuyền ấy vừa bay trên mây, vừa lướt trên biển. Con thuyền như mang cả sinh lực của đất trời, được thiên nhiên giúp sức để đánh cá trên biển.

- Với bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng phong phú, hai câu đã làm nổi bật vẻ đẹp của con thuyền cũng như sức mạnh của con người trên nền vũ trụ bao la và sự kì vĩ. Thiên nhiên và con người gắn bó hòa hợp trong quá trình lao động.

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”


- Công việc đánh bắt cá không chỉ cần sức lực mà còn cần trí tuệ và kinh nhiệm.

+ Bằng kinh nghiệm, họ ra đậu dặm xa để dò bụng biển nghĩa là tìm kiếm những nơi nhiều cá để dễ đánh bắt.

+ Bằng trí tuệ, họ dàn đan thế trận để đánh bắt cá. Với ngư dân công việc đánh bắt cá được ví như một trận chiến đấu trên mặt trận lao động sản xuất. Những ngư dân là chiến sĩ, còn vũ khí của họ là lưới để vây giăng.

- Huy Cận đã sử dụng một loạt các động từ mạnh ra, đậu, dò, dàn đan, vây, giăng để gợi tả không khí lao động hăng say, nhiệt tình, khẩn trương và sôi nổi của những con người yêu nghề, yêu biển. Họ đang tích cực lao động sản xuất để làm giàu cho Tổ quốc, xây dựng hậu phương vững chắc để chi viện cho chiến trường miền Nam.

- Hai câu thơ đã làm nổi bật tư thế chủ động của con người đang chinh phục thiên nhiên và biển cả.
Thêm
200
0
0
Viết trả lời...
Họ hát bài ca để ca ngợi biển giàu đẹp và thể hiện mong ước của người lao động:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!


- Ngư dân ra khơi mang theo mong ước “biển Đông lặng“. Họ mong mưa thuận gió hòa, trời yên, biển lặng để công việc đánh bắt cá được diễn ra an toàn, thuận lợi.

- Từ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài.

- Họ hát bài ca để ca ngợi biển giàu tài nguyên thiên nhiên. Nghệ thuật liệt kê cho thấy biển Đông có nhiều loài cá quý mà tiêu biểu là cá bạc, cá thu. Đó là những loài cá có giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao.

+ Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh ví cá thu biển Đông như đoàn thoi để gợi tả đặc điểm của cá thu. Đó là loại cá sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Câu thơ nhấn mạnh số lượng cá thu nhiều vô kể bơi thành từng đàn.

- Hai chữ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm.

- Nghệ thuật nhân hóa khiến những loài cá hiện lên sinh động, chúng đang cùng nhau "dệt" lên một tấm thảm với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông.

- Huy Cận có sự liên tưởng thật độc đáo: Mặt biển như một tấm thảm khổng lồ. Những con cá thu bơi theo từng đàn giống như những con thoi – nghệ nhân đang dệt biển. Như vậy, biển Đông không chỉ giàu mà còn đẹp, sinh động bởi màu sắc lấp lánh và hành động của các loài cá.

- Ngư dân cất cao tiếng hát để gọi cá vào lưới. Từ “ơi” cất lên trìu mến, thiết tha. Nhà thơ gọi cá mà như đang gọi bạn. Giữa con người và thiên nhiên dường như không hề có khoảng cách. Ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản. Câu thơ đã thể hiện khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của người dân nơi đây.
Thêm
186
0
0
Viết trả lời...
* Mở đầu bài thơ, Huy Cận khắc họa bức tranh hoàng hôn trên mặt biển:



“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa


+ Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật so sánh độc đáo mới lạ “mặt trời” so sánh với “hòn lửa”. Mặt trời cuối ngày đang từ từ lặn xuống biển như một quả cầu lửa đỏ rực. Phép so sánh gợi ra một khung cảnh rực rỡ, huy hoàng, tráng lệ – một cảnh tượng thật kì vĩ.

+ Sóng và đêm là hình ảnh của thiên nhiên, vũ trụ cũng biết đóng cửa, cài then giống như con người. Nghệ thuật nhân hóa: cài then, sập cửa nhấn mạnh thiên nhiên sinh động, tràn đầy sức sống.

+ Với sự liên tưởng phong phú nhà thơ giúp ta hình dung được vũ trụ vào đêm giống như một ngôi nhà khổng lồ. Những con sóng lăn tăn trên mặt biểu giống như những chiếc then cài đóng sập cánh cửa màn đêm.

+ Biển đêm vốn bí ẩn, đáng sợ, thậm chí là cuồng nộ nhưng giờ đây cũng trở nên gần gũi, ấm áp, thân thương. Vũ trụ và thiên nhiên bao la lúc này chẳng khác nào một ngôi nhà rộng lớn còn những người ngư dân chính là các thành viên của gia đình. Thiên nhiên và con người vô cùng gần gũi, gắn bó và hoà hợp.

- Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ Huy Cận đã miêu tả không gian mênh mông, rộng lớn nhưng không hề cô đơn, rợn ngợp. Cảnh vũ trụ vào đêm vừa hùng vĩ tráng lệ lại rất gần gũi, ấm áp với con người.

* Khi vũ trụ bắt đầu nghỉ ngơi cũng là lúc đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Những ngư dân hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn, lạc quan và yêu nghề.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi


- Trên mặt biển mênh mông ấy không phải là một con thuyền cô đơn, lẻ loi mà là cả đoàn thuyền.

- Từ lại diễn tả công việc diễn ra thường xuyên, lặp đi lặp lại. Đây không phải là chuyến ra khơi đầu tiên mà là một trong rất nhiều chuyến ra khơi.

- Hay nhất trong câu thơ là hình ảnh câu hát. Đó có thể là tiếng hát có thật, ngư dân cất cao tiếng hát làm âm vang mặt biển, xao động cả bầu trời, xua đi vất vả gian lao. Câu hát của người lao động như có sức mạnh cùng với gió làm căng buồm đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi.

- Như vậy, câu hát đã làm toát lên sức mạnh về thể chất cũng như tinh thần của ngư dân miền biển luôn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống lao động.
Thêm
261
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả

- Là nhà thơ tiêu biểu của văn học hiện đại VN

- Trước cách mạng tháng Tám thơ ông giàu triết lí, thấm đẫm nỗi sầu nhân thế; sau cách mạng thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống

2. Bài thơ

- Hoàn cảnh sáng tác: 1958, là kết quả của chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh

- Xuất xứ: in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”

- Bố cục:

+ 2 khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống

+ 4 khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng

+ Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về khi bình minh lên

- Chủ đề: Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, sự giàu có của biển khơi; ca ngợi khí thế lao động của con người mới, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Thêm
190
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả

- Là nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ

- Phong cách thơ : Gần gũi với văn hóa dân gian, sâu sắc, tài hoa, đi sâu vào cái nghĩa cái tình muôn đời của người dân VN

- TP : Tre Việt Nam, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò lèn, Đánh thức tiềm lực….

2. Tác phẩm

- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1978, tại TP. HCM

- Xuât xứ : in trong tập Ánh trăng

- Bố cục : 3 phần

+ 2 khổ đầu : Vầng trăng trong quá khứ

+ 2 khổ tiếp : Vầng trăng trong hiện tại

+ 2 khổ cuối : Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng

- Chủ đề : Thông qua hình tượng ánh trăng và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ diễn tả những suy nghĩ sâu sắc về thái độ của con người với quá khứ gian lao, tình nghĩa.

II. Luyện đề

Đề bài: Phân tích bài thơ « Ánh trăng » của Nguyễn Duy

I. Mở bài:

- Có những tác phẩm chỉ cần đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe. Và « Ánh trăng » của Nguyễn Duy là một trong những tác phẩm như thế.

- Bài thơ giúp ta cảm nhận được những kỉ niệm đẹp gắn bó giữa con người và vầng trăng đồng thời gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung.

II. Thân bài

1. Khái quát chung

-
Bài thơ ra đời năm 1978 tại TP HCM, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Bài thơ giống như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ tới hiện tại, gắn các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy, mạch cảm xúc đi từ quá khứ tới hiện tại và lắng kết trong cái giật mình ở cuối bài thơ.

2. Phân tích

a. Vầng trăng trong quá khứ.


Ở hai khổ thơ đầu, tác giả gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:

“Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ


- Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê các hình ảnh bình dị « đồng, sông, bể » để gợi ra một không gian rộng lớn, gần gũi ở làng quê Việt Nam.

- Câu thơ giúp ta cảm nhận được tuổi thơ tươi đẹp của nhân vật trữ tình được vui chơi thoải mái thả diều, chăn trâu nơi đồng ruộng, tắm mát, ngụp lặn với sông, với bể của quê hương.

- Giọng thơ thủ thỉ tâm tình cùng nghệ thuật điệp ngữ « với » đã nhấn mạnh sự gắn bó, thân thiết giữa con người với thiên nhiên.

- Thiên nhiên không chỉ gắn bó với tuổi thơ mà còn gần gũi với con người lúc trưởng thành. Khi đất nước có chiến tranh tác giả đã cầm súng lên đường chiến đấu bảo vệ quê hương. Nơi chiến trường ác liệt con người làm bạn với vầng trăng.

- Nghệ thuật nhân hóa «vầng trăng thành tri kỉ » đã diễn tả mối quan hệ thân thiết, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.

- Như vậy, suốt một thời gian dài từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành con người với vầng trăng luôn luôn song hành quấn quýt như đôi bạn thân tình.

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”


- Cái hay trong câu thơ là từ ghép «trần trụi » giàu sức gợi hình biểu cảm. Đứng trước thiên nhiên, con người được sống thật với lòng mình, không phải e dè, không có gì phải giấu giếm. Con người sống say mê, sống sôi nổi thành thật, sống hết mình, chia sẻ đến tận cùng mọi buồn vui sướng khổ.

- Nghệ thuật so sánh “hồn nhiên như cây cỏ” đã diễn tả lối sống trong sáng, vô tư của con người. Con người đã hòa mình chung sống cùng thiên nhiên, cùng cỏ cây hoa lá, giữa thiên nhiên với con người dường như không còn khoảng cách.

- Với sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm “không bao giờ quên”, tự dặn lòng không quên, mãi thủy chung, biết ơn quá khứ.

=> Trong quá khứ, dẫu hoàn cảnh đầy khó khăn, khắc nghiệt, trăng vẫn đồng hành với con người trên mọi bước đường và trở thành người bạn tri kỉ để chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn. Vầng trăng đã trở thành biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung.

- Giọng thơ hồi tưởng ân tình nhưng từ “ngỡ” vang lên như một nốt đàn lạc cung, như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển, rẽ câu chuyện tình nghĩa sang một hướng khác

b. Vầng trăng ở hiện tại.

- Cuộc kháng chiến chống Mĩ hoàn toàn thắng lợi, cuộc sống của con người có sự thay đổi chuyển từ núi rừng về thành phố:

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”


- Tác giả đã tạo ra sự đối lập về hoàn cảnh sống của con người ở hiện tại và quá khứ: Từ những nhà tranh, vách nứa chốn rừng sâu, nước độc, nay trở về trong những tòa nhà khang trang, hiện đại của thành phố.

+ “quen ánh điện cửa gương” là cách nói hoán dụ để tô đậm cuộc sống đầy đủ tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên.

+ Hình ảnh nhân hóa, so sánh: “vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người: Vầng trăng thì vẫn còn đấy, thủy chung tình nghĩa nhưng con người thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra. Con người trong cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc, êm ấm dễ vô tình hay cũng có thể là cố tình quên đi người bạn năm xưa.

- Tác giả so sánh vầng trăng với “người dưng” là người lạ không quen biết khiến ta có cảm giác ớn lạnh về thái độ sống vô tình, bạc bẽo của con người. Con người bạc bẽo với vầng trăng cũng chính là quay lưng với quá khứ. Câu thơ khiến người đọc có cảm giác xót xa, ớn lạnh về hiện tượng suy thoái đạo đức của một số người trong xã hội hiện nay.

=> Câu thơ mang một ý nghĩa khái quát: Khi hoàn cảnh sống thay đổi thì con người ta có thể phản bội lại chính mình, dễ dàng lãng quên đi những gian khổ, đau thương của một thời đã qua. Song, cái sự quên ấy cũng là lẽ thường tình bởi những lo toan thường nhật từ cuộc sống.

- Giống như một câu chuyện nhỏ, tác giả sáng tạo một tình huống độc đáo để con người nhận ra ý nghĩa của vầng trăng.

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”


- Từ láy “thình lình” và cách đảo trật tự cú pháp đã góp phần diễn tả thật chính xác, ấn tượng sự việc đột ngột, bất thường: đèn điện tắt, không gian tối om.

+ Ba động từ mạnh “vội, bật, tung” đã diễn tả hành động khẩn trương, vội vàng của con người.

- Khi mất điện theo đúng phản xạ tự nhiên, con người sẽ bật tung cửa sổ để tìm kiếm nguồn ánh sáng. Và như thế con người gặp lại vầng trăng trong tình huống không hẹn trước.

- Từ láy “đột ngột” diễn tả thái độ bất ngờ, bàng hoàng, sững sờ của con người khi gặp lại vầng trăng.

- Hình ảnh “vầng trăng tròn” xuất hiện chiếu rọi vào căn phòng tối om đã tạo nên một sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Chính khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc và sự “bừng tỉnh” trong nhận thức của nhân vật trữ tình. Vầng trăng kia vẫn tròn, “đồng, sông, rừng, bể” kia đâu có mất, tất cả vẫn đồng hành cùng con người, chỉ có điều con người có nhận ra hay không.

=> Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt trong mạch cảm xúc, góp phần bộc lộ tư tưởng và mở ra những suy ngẫm của nhà thơ.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng”

như là đồng là bể

như là sông là rừng”


- Hình ảnh “ngửa mặt lên nhìn mặt” gợi lên tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt như đang đối diện đàm tâm.

+ Mặt đối mặt đó còn là quá khứ đối diện với hiện tại, tình nghĩa thủy chung đối diện với vô tình lãng quên.

- Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc, phút chốc ấy đã khiến cho cảm xúc dâng trào. Từ “rưng rưng” đã diễn tả nỗi xúc động đến nghẹn ngào, thổn thức trong tim không nói thành lời.

- Cấu trúc song hành (như là... là), cùng với biện pháp tu từ so sánh “như”, điệp ngữ “như là, là” và liệt kê “đồng, bể, sông, rừng”giúp ta thấy được những kí ức về một thời gắn bó, chan hòa với thiên nhiên đang ùa về trong tâm trí nhà thơ. Nếu không có tình huống mất điện, nếu không gặp lại vầng trăng thì những kí ức ấy mãi ngủ quên trong quá khứ, lãng quên ttrong tâm trí của mọi người.

c. Khổ thơ cuối là những suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà thơ:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”


- Từ láy “vành vạnh” diễn tả dáng vẻ tròn đầy của vầng trăng. Trăng khuyết rồi trăng lại tròn đó là quy luật tự nhiên không bao giờ thay đổi.

- “tròn vành vạnh” mang ý nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp vĩnh hằng, cho quá khứ nghĩa tình, cho tình cảm trước sau như một không bao giờ thay đổi. Có chăng chỉ con người là đổi thay.

- Đứng trước sự bội bạc, vong ơn bội nghĩa của con người, ánh trăng đã “im phăng phắc”. Nghệ thuật nhân hóa, từ láy “phăng phắc” diễn tả cái nhìn vừa nghiêm khắc, vừa bao dung của vầng trăng. Vầng trăng lặng lẽ soi tỏ ngõ tối trong tâm hồn con người khiến con người phải giật mình, phải thức tỉnh lương tâm.

+ Giật mình là phản ứng tâm lí của một người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của mình.

+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần phải thay đổi cách sống.

+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay

=> Bài thơ “Ánh trăng”, mà đặc biệt là ở khổ thơ cuối đã dồn nén biết bao tâm sự, suy ngẫm, triết lí sâu sắc. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống: chúng ta không được phép lãng quên quá khứ mà phải sống ân nghĩa thủy chung. Đó là đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Mỗi chúng ta cần phải có những cái giật mình như thế để hoàn thiện bản thân.

* LĐ chốt:

- Bài thơ có hình thức rất đặc biệt chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên mỗi khổ thơ, cả bài chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến những hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại.

- Bài thơ còn xúc động bởi cách diễn đạt bình dị như lời thủ thỉ tâm tình, giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng các biện pháp tu từ liệt kê, so sánh, nhân hóa...

- Qua những nghệ thuật đó nhà thơ đã truyền tải thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài học về lối sống ân nghĩa thủy chung không chỉ với thế hệ ấy mà cả hiện tại và mai sau.

3. Kết bài

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến vầng trăng, nhớ thiên nhiên tươi đẹp từng gắn bó thân thiết với con người như đôi bạn tri kỉ.

- Ta còn ám ảnh bởi lời sống bội bạc chạy theo những giá trị vật chất tầm thường mà lãng quên quá khứ gian lao.

- Bài thơ là lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho người lính chống Mĩ mà nó còn ý nghĩa với tất cả mọi người, trong đó có chúng ta.

- Là học sinh chúng ta cần ghi nhớ công ơn của biết bao anh hùng kiệt sĩ đã hi sinh vì nền độc lập. Chúng ta phải ghi nhớ công ơn của thầy cô, cha mẹ - những người sẵn sàng hi sinh để chúng ta có cuộc sống tốt đẹp.
Thêm
232
0
0
Viết trả lời...
I. Mở bài:

Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình ông đã đẻ lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị mà đặc sắc nhất là truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”. Đọc tác phẩm ta bắt gặp những con người lao động thầm lặng mà đầy ý nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước mà tiêu biểu nhất là nhân vật anh thanh niên. Mặc dù phải sống và làm việc trong điều kiện khắc nghiệt nhưng ở anh thanh niên lại tỏa sáng nhiều phẩm chất tốt đẹp đáng để chúng ta ngưỡng mộ, học tập.

II. Thân bài

1. Khái quát chung

2. Phân tích

2.1. Tình huống truyện và ngôi kể, nhan đề

* Tình huống truyện


- Tình huống cơ bản của truyện là cuộc gặp gỡ tình cờ trong chốc lát giữa bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn ở Sa Pa.

à Tình huống truyện giản dị, nhẹ nhàng, bất ngờ, ko có sự sắp đặt giúp khắc họa nhân vật chính 1 cách tự nhiên, chân thực, khách quan, từ đó làm nổi bật chủ đề tác phẩm ca ngợi những người lao động thầm lặng.

* Ngôi kể:

- Ngôi kể thứ 3, điểm nhìn trần thuật được đặt vào ông họa sĩ.

- Tác dụng:

+ Có thể kể 1 cách linh hoạt những gì diễn ra với nhân vật, có thể dễ dàng chuyển đổi từ không gian này tới không gian khác.

+ Đảm bảo được tính khách quan trong câu chuyện.

+ Điểm nhìn ông họa sĩ – người yêu cái đẹp, làm nghệ thuật khiến bức tranh thiên nhiên Sa Pa hiện lên thơ mộng trữ tình đậm chất hội họa, khiến cho nhân vật hiện lên đẹp hơn, đồng thời giúp chuyển tải nhiều ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật.

* Cách đặt tên nhân vật :

- Các nhân vật đều không có tên cụ thể, tác giả đặt tên nhân vật theo giới tính, nghề nghiệp, lứa tuổi: anh thanh niên, ông họa sĩ, cô kĩ sư…Họ là những con người vô danh, vẻ đẹp của họ không phải của riêng ai mà là vẻ đẹp chung của những con người lao động mới. Họ không chỉ có mặt ở mảnh đất Sa Pa mà có mọi ở khắp mọi nơi đang lao động thầm lặng nhưng miệt mài, hăng say cống hiến cho đất nước.

* Nhan đề :

- Nhan đề giống như chiếc chìa khóa mở vào thế giới tư tưởng của nhà văn.

- « Lặng lẽ Sa Pa » là nhan đề hay, giàu ý nghĩa.

- Sa Pa gợi lên vùng đất thơ mộng, lãng mạn, đem lại cảm giác muốn thư giãn, nghỉ ngơi.

- Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ đưa từ láy « Lặng lẽ » lên đầu giúp ta thấy được trong cái lặng lẽ của Sa Pa có những con người đang lao động miệt mài, hăng say cống hiến cho quê hương đất nước.

- Nhan đề góp phần ca ngợi vẻ đẹp của những con người lao động mới và ý nghĩa của công việc lao động thầm lặng.

2.2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa

- Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống động: “Nắng bất ngờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bằng bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe...”

+ Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng và độc đáo của thiên nhiên Sa Pa. Vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng người và như mời gọi con người hãy đến vùng đất này để khám phá, thưởng thức.

+ Nghệ thuật nhân hóa qua hình ảnh “nắng...đốt cháy rừng cây”, “nắng mạ bạc cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng, khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ.

- Nghệ thuật nhân hóa “nắng...cháy rừng cây”, “mây bị nắng xua” khiến cho cảnh vật sống động như mang được linh hồn của thiên nhiên Sa Pa.

- Tác giả đã khắc họa được một bức tranh tráng lệ, rực rỡ, thơ mộng với những đường nét, hình khối, màu sắc đặc trưng của thiên nhiên Sa Pa. Và đó còn là cái nền để Nguyễn Thành Long tô đậm, khắc sâu vẻ đẹp của con người.

2.3. Con người SaPa

a. Nhân vật anh thanh niên (Đề bên dưới)

b. Các nhân vật phụ

* Nhân vật ông họa sĩ


- Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, không phải người kể chuyện nhưng điểm nhìn trần thuật lại đặt vào ông. Người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện.

- Trước hết, ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi tìm cái đẹp: “Ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời ...Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan”.

- Ông có những quan niệm xác đáng, tinh tế về nghệ thuật. Ông muốn vẽ những điều chân thực chứ không phải như 1 ngôi sao xa. Để vẽ được điều đó phải vẽ bằng cả trái tim.

- Ông có đời sống nội tâm phong phú, hiểu tâm lý giới trẻ, cảm nhận rõ nét từng biến chuyển trong tâm hồn của mọi người xung quanh và vẻ đẹp của thiên nhiên.

- Người hoạ sĩ ngay từ lúc đầu gặp gỡ, đã nhận ra vẻ đẹp từ tâm hồn anh thanh niên và thực sự thấy bối rối, xúc động. “Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi cũng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”.

- Ông phát hiện ra vẻ đẹp mới ở Sa Pa, đẹp hơn cả thiên nhiên Sa Pa, đó là vẻ đẹp từ tâm hồn con người ở Sa Pa. Và ông cảm nhận được anh thanh niên chính là đối tượng khơi nguồn cho cảm xúc.

- Ông hoạ sĩ muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút ký hoạ, và “người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ ...”

- Từ ông, ta thấy được mục đích của người làm nghệ thuật là tìm ra cái đẹp tiềm ẩn trong cuộc sống, trong con người.

- Những suy nghĩ của ông đã làm nổi bật vẻ đẹp của anh thanh niên, từ đó làm cho anh sáng rõ hơn, đẹp hơn, chứa đựng chiều sâu tư tưởng và làm rõ chủ đề truyện.

* Nhân vật cô kĩ sư nông nghiệp

- Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ: cô vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai Châu nhận nhiệm vụ.

- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên khiến cô “bàng hoàng”

- Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình cảm và suy nghĩ lớn lao, đẹp đẽ:

+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ.

+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của mình.

- Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh niên. Không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”

=> Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và những suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Đó là sự đồng cảm về lý tưởng của thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ. Đồng thời, qua tâm tư, cảm xúc của cô kĩ sư, ta nhận ra vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật anh thanh niên.

* Nhân vật bác lái xe

- Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dẫn dắt, giới thiệu một cách sơ lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của tác phẩm – “Người cô độc nhất thế gian”

- Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã có ba mươi năm lái xe và hiểu tường tận Sa Pa.

- Là một con người niềm nở và cởi mở: trên khuôn mặt hồ hởi, bác giới thiệu về thiên nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên.

- Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa.

- Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: bác mua sách giúp anh; giới thiệu anh với những người bạn mới; ...

=> Mặc dù chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết của truyện nhưng bác họa sĩ là một phần quan trọng giúp nhân vật anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên và góp phần dẫn dắt chuyện

c. Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp

- Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng: anh bạn trên trạm đỉnh Phan-Xi - Păng cao 3142 mét; ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa ngày ngày ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, rồi tự tay thụ phấn cho hoa su hào với mong muốn tạo ra những củ su hào to, ngọt, phục vụ nhân dân miền Bắc.

- Dám hi sinh cả tuổi và hạnh phúc cá nhân như anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra” và mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan

=> Trong tác phẩm, những nhân vật này không xuất hiện một cách trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên. Song, họ đã thể hiện được những phẩm chất vàng trong tâm hồn, cách sống và góp phần làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng của truyện.

3. Đánh giá nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện đơn giản, giàu ý nghĩa.

- Cách kể chuyện tự nhiên kết hợp tự sự, trữ tình và bình luận.

- Kể chuyện theo ngôi thứ 3 điểm nhìn trần thuật đặt vào nhân vật ông họa sĩ làm câu chuyện trở nên khách quan, tăng độ tin cậy.

- Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị, giàu chất thơ, đậm chất họa có sức lôi cuốn người đọc. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nội tâm để khắc họa tính cách nhân vật.





Đề bài: Phân tích vẻ đẹp nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long.

1. Mb:


- Có những tác phẩm chỉ cần đọc một lần đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe. Và “Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một trong những tác phẩm như thế.

- Truyện viết về vẻ đẹp của con người lao động mới và ý nghĩa của công việc lao động thầm lặng.

- Truyện giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên – một chàng trai trẻ với những phẩm chất đáng tự hào.

2. Tb:

a. Khái quát chung:

- Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970 trong một chuyến đi thực tế ở Lào Cai. Truyện được in trong tập “ Giữa trong xanh” (1972)

- Khái quát cốt truyện:

+ Truyện kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn ở Sa Pa.

+ Trong cuộc gặp gỡ 30 phút ngắn ngủi, anh thanh niên kể về cuộc sống và công việc của mình. Anh đã bộc lộ những suy nghĩ đúng đắn về công việc và cuộc đời. Khi ông hoạ sĩ định vẽ anh, anh đã từ chối và giới thiệu những người khác mà anh cho là xứng đáng hơn như ông kĩ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét…Đến giờ ốp, anh thanh niên phải chia tay mọi người trong sự bịn rịn và quyến luyến. Anh không quên tặng hai người một làn trứng gà ăn dọc đường.

b. Phân tích nhân vật anh thanh niên:

- Anh thanh niên là nhân vật chính của truyện, anh không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ hiện ra qua lời giới thiệu của bác lái xe và trong cuộc gặp gỡ với mọi người. Nhân vật ấy chỉ hiện ra trong chốc lát, đủ để các nhân vật khác kịp ghi nhận một ấn tượng, một kí hoạ chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất lấp trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thủa của núi cao Sa Pa.

* Anh thanh niên sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt.

- Anh thanh niên 27 tuổi, tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Nơi anh ở không có bóng người, bốn mùa chỉ có cỏ cây và sương mù lạnh lẽo. Anh được bác lái xe giới thiệu là « người cô độc nhất thế gian » và « thèm người lắm »

- Hoàn cảnh sống và làm việc gian khổ, cô đơn và cách biệt với thế giới bên ngoài như một thử thách lớn đối với tuổi trẻ vốn thích tự do, bay nhảy, phóng khoáng. Nhưng chính hoàn cảnh ấy anh thanh niên lại tỏa sáng nhiều phẩm chất cao đẹp.

* Trước hết anh thanh niên đẹp ở lí tưởng sống:

- Anh từng viết đơn xin ra mặt trận trực tiếp cầm súng chiến đấu với kẻ thù nhưng bị từ chối. Anh đã tự nguyện gắn bó với công việc khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh cao Yên Sơn với suy nghĩ “Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu? Mình vì ai mà làm việc”, tiếp tục cống hiến cho đất nước theo một cách khác.

- Ở độ tuổi trẻ trung sổi nổi nhất của đời người anh không lựa chọn chốn phồn hoa đô thị mà xung phong công tác trên mảnh đất Sa Pa. Mới đầu, anh “thèm người” tới mức phải lấy cây chắn ngang đường ô tô để được nghe tiếng người. Về sau anh nghĩ “Nếu đó chỉ là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì thật xoàng”. Anh đã vượt qua để sống, làm việc một mình gắn bó với mảnh đất Sa Pa đã bốn năm.

* Anh thanh niên là một người yêu nghề, say mê nghiên cứu khoa học

-
Anh tự giới thiệu công việc chính của mình là “đo nắng, đo mưa, đo gió, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo thời tiết, phục vụ lao động sản xuất và chiến đấu”. Công việc nói chung là dễ, chỉ cần tỉ mỉ và chính xác.

- Trong quá trình làm việc, anh đã phát hiện một điều rất thú vị “Khi ta làm việc ta với công việc là đôi sao lại gọi là một mình được... Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn chết mất”. Anh coi công việc như người bạn của mình, anh tìm thấy niềm vui trong mỗi việc làm. Công việc đã trở thành lẽ sống, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của anh.

- Lòng yêu nghề của anh còn thể hiện qua thái độ hồ hởi, sự am hiểu khi giới thiệu về các máy móc: Đây là máy đo gió, đây là cái thùng đo mưa...đây là máy nhật quang kí...Những máy móc vô tri, vô giác bỗng trở nên sinh động qua lời giới thiệu của anh.

- Vì yêu nghề nên anh khao khát được làm việc trên đỉnh Phan xi păng cao hơn 3000 mét – đó mới là lí tưởng.

+ Anh thanh niên có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:

- Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát song anh vẫn luôn tự giác, tận tụy. Hàng ngày anh quan sát hiện tượng, ghi chép số liệu, dùng máy bộ đàm gọi về cơ quan mà anh gọi đó là bản “ốp”. Mỗi ngày anh phải “ốp” bốn lần, anh tâm sự: “Gian khổ nhất là vào lúc 1h sáng. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn không đủ sáng. Xách đèn ra ngoài gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chực đợi mình ra là ào ào xô tới”.

=> Với thời tiết khắc nghiệt như vậy chỉ cần một chút ngần ngại anh sẽ tặc lưỡi rồi ngủ tiếp. Nhưng không, anh vẫn hoàn thành công việc của mình mặc cho giá rét, mặc cho tuyết rơi, mặc cho cái im lặng thật dễ sợ “Nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió như chổi lớn quét đi tất cả ...”. Sự quyết tâm đã chiến thắng nỗi sợ, lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm giúp anh hoàn thành tốt công việc của mình. Anh hiểu công việc của mình là móc xích quan trọng trong công việc chung của đất nước.

- Tác phong làm việc của anh khoa học, nghiêm túc, đúng giờ giấc và chính xác đến từng phút: Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ hết ba mươi phút.

=> Có thể nói tình yêu nghề, trách nhiệm cao trong công việc và sự nhiệt tình cống hiến của anh chính là biểu hiện cho tình yêu Tổ quốc.

* Anh thanh niên còn có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống, biết sắp xếp cuộc sống một cách nề nếp khoa học, có tinh thần ham học hỏi.

- Anh đã tạo ra không gian sống cho mình thật lí tưởng bằng việc trồng đủ các loài hoa rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở. Khi đến thăm vườn hoa của anh trồng ông họa sĩ và cô kĩ sư bất ngờ “Đứng trong mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia bỗng nhiên lại gặp hoa dơn, hoa thược dược, vàng tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong...” vườn hoa ấy chính là bằng chính sinh động của anh về tâm hồn yêu cuộc sống của anh.

- Không chỉ biết trồng hoa, chăm chút vườn hoa, làm đẹp cho ngôi nhà của mình mà anh còn biết nuôi gà để cải thiện cuộc sống, vừa để tạo ra niềm vui cho mình. Làn trứng anh biếu bác họa sĩ, bó hoa tặng cô kĩ sư chính là những thành quả tự tay anh chăm sóc vun trồng.

- Anh luôn tự trau rồi bản thân bằng cách đọc sách, để nâng cao hiểu biết. Chính vì vậy mà bác lái xe mua hộ sách “anh mừng quýnh” vì anh coi sách là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày.

- Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay trong cuộc sống anh cũng thật gọn gàng, ngăn nắp, có tinh thần ham học hỏi.

Ngôi nhà anh ở được ông họa sĩ khắc họa bằng một vài đường nét “ Một căn nhà ba gian sạch sẽ với bàn ghế, sổ sách, bản đồ thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh được thu gọn lại một góc trái gian với một chiếc giường con, môt chiếc bàn học, một cái giá sách” khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ ta hình dung về ngôi nhà của anh. Nó tuy nhỏ bé đơn sơ, giản dị nhưng lại vô cùng gọn gàng, ngăn nắp, khoa học.

- Sống ở một nơi hẻo lánh hầu như không có người đến thăm vậy mà anh vẫn chủ động sắp xếp công việc của mình một cách khoa học, bởi anh luôn có lối sống đẹp và trân trọng cái đẹp.

=>Có thể nói chính niềm lạc quan, yêu cuộc sống, yêu cái đẹp, đam mê đọc sách là động lực giúp anh vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt công việc.

* Ở anh thanh niên ta còn bắt gặp một phẩm chất đáng quý đó là sự cởi mở, chân thành, hiếu khách luôn quý trọng tình cảm của mọi người.

- Sống một mình trên đỉnh cao nên anh được bác lái xe gọi là “Người cô độc nhất thế gian” và mắc bệnh “thèm người”. Vậy nên anh luôn khao khát được trò chuyện với mọi người bằng cách lấy khúc gỗ chắn ngang đường để chặn xe lại: “ Đang đi thế này chợt thấy một khúc thân cây chặn ngang đường phải hãm lại, một anh thanh niên từ từ chạy đến giúp đỡ”. Thì ra anh thèm người quá nên anh thanh niên kiếm cớ để dừng xe lại nhìn và nói chuyện một lát, cái hành động ấy của anh đáng yêu và thật đáng thông cảm biết bao.

- Anh còn biết quan tâm chu đáo đến những người tình cờ gặp gỡ và sẵn sàng chia sẻ yêu thương. Biết vợ bác lái xe bị ốm “anh còn gửi củ tam thất để cho bác gái ngâm rượu uống”.

- Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất cả cuống cuồng như không kiềm được cảm xúc: “anh chạy vụt đi, cũng tất tả như khi đến”, “người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ”.

- Anh là một người thân thiện, cởi mở ngay cả với những người mới gặp lần đầu như ông họa sĩ và cô kĩ sư: Niềm nở, hồ hởi không giấu lòng, pha trà, tặng hoa và cả quà ăn dọc đường. Và không dấu được lòng mình anh nói to những điều đáng nhẽ người ta chỉ nghĩ: “Bác và cô là đoàn khách thứ hai thăm nhà tôi từ tết và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.

- Anh trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ: Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu. Khi gần hết giờ anh tỏ ra tiếc nuối khi phải chia tay mọi người.

=>Anh thanh niên xứng đáng trở thành biểu tượng cho phẩm chất và con người nơi mảnh đất Sa Pa

* Anh thanh niên có quan niệm sống tiến bộ

- Anh quan niệm công việc cũng giống như người bạn đồng hành của mình Khi ta làm việc ta với công việc là đôi sao lại gọi là một mình được...

- Với anh hạnh phúc không phải là cái gì cao sang mà là những điều rất giản dị. “Nhờ việc phát hiện đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy không quân ta bắn rơi nhiều máy bay mĩ trên cầu Hàm Rồng...Từ hôm ấy cháu thấy mình thật hạnh phúc”. Với anh hạnh phúc là được giúp đỡ mọi người, được cống hiến cho quê hương, đất nước. Chỉ khi nào được cống hiến, được đóng góp công sức của mình cho đất nước thì anh mới thấy cuộc sống có ý nghĩa. Quan niệm ấy rất giống lẽ sống của nhà thơ Thanh Hải:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

- Những quyển sách không đơn thuần là phương tiện để anh nghiên cứu, học tập mở rộng tầm hiểu biết mà sách còn giống như người bạn cùng anh chia sẻ buồn vui, giúp đời sống tâm hồn trở nên phong phú.

* Mặc dù anh thanh niên hội tụ rất nhiều đức tính quý báu, nhưng anh lại rất khiêm tốn, thành thực.

- Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những bước chuyển mình của đất nước: phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu. Nhưng anh lại cho những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với bao người khác.

- Khi ông họa sĩ xin kí họa chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”.

=>Qua những nét phác họa của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên hiện lên thật chân thực, sinh động, đẹp đẽ. Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên góp phần làm nổi bật chủ đề của truyện “Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kỹ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”.

* LĐ chốt :

- Truyện không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là xây dựng tình huống truyện đơn giản, giàu ý nghĩa, cách kể chuyện tự nhiên kết hợp tự sự, trữ tình và bình luận. Kể chuyện theo ngôi thứ 3 điểm nhìn trần thuật đặt vào nhân vật ông họa sĩ làm câu chuyện trở nên khách quan, tăng độ tin cậy. Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị, giàu chất thơ, đậm chất họa có sức lôi cuốn người đọc.

- Qua những nghệ thuật ấy, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung về con người lao động với những nét đẹp cả tinh thần, tình cảm và lối sống.

- Anh thanh niên tiêu biểu cho hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, sống có lí tưởng hết mình vì Tổ quốc. Cùng với ông kĩ sư nông nghiệp, anh cán bộ lập bản đồ sét... vẻ đẹp của anh thanh niên làm sáng bừng mảnh đất Sa Pa lặng lẽ.

3. Kb :

- Đã gần nửa thế kỉ trôi qua nhưng đến nay truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long vẫn còn nguyên giá trị.

- Tác phẩm đã cho người đọc cảm nhận rõ nét về chân dung nhân vật anh thanh niên với những nét đẹp hoàn hảo lí tưởng....Nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho những con người lao động ở Sa Pa nói riêng và những con người lao động trong thời đại mới nói chung.

- Đọc tác phẩm ta càng thêm tự hào, ngưỡng mộ và quý trọng hơn những con người đang lặng lẽ, âm thầm làm việc và cống hiến cho Tổ quốc.

- Là học sinh….
Thêm
234
0
0
Viết trả lời...
I. Mở bài

- Kim Lân là một trong số những tác giả tiêu biểu của nền văn học VN. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Một trong số những tác phẩm thành công của ông là truyện ngắn “Làng”

- Truyện giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của nhân vật ông Hai - một người nông dân thuần phác có tình yêu làng, yêu nước đáng quý, đáng trân trọng.

II. Thân bài

1. Khái quát chung:


- Truyện ngắn “Làng” được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên tạp chí văn nghệ năm 1948.

- Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là ông Hai - một người rất tự hào và yêu mến làng Chợ Dầu của mình. Do chiến tranh nên gia đình ông phải tản cư nhưng ông luôn mong ngóng tin tức về làng. Khi nghe tin làng mình theo giặc ông vô cùng đau khổ, tủi nhục. Cuối truyện, ông Hai vui mừng khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính.

- Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nhà văn giúp người đọc nhận ra nét đáng quý trong tâm hồn của ông Hai: tình yêu làng hòa quyện với tình yêu đất nước, kháng chiến.

2. Nội dung: Tình yêu làng, yêu nước, trung thành với kháng chiến của ông Hai



a. Ở nơi tản cư, ông Hai luôn nhớ và tự hào về làng chợ Dầu, muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến.


- Trước cách mạng tháng Tám, ông Hai tự hào về cái “sinh phần” của viên tổng đốc làng ông, nó nguy nga, đồ sộ. Không những thế, ông còn khoe và hãnh diện với mọi người về: “con đường làng trải toàn là đá xanh. Trời mưa, trời gió bão, bùn đi không dính gót. Trong làng, nhà ngói san sát như trên tỉnh”.

- Sau cách mạng tháng Tám, ông khoe những ngày “cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá….”. Điều đó cho thấy trong ông Hai đã có sự thay đổi về nhận thức. Trước đây ông chỉ chú ý đến cái hào nhoáng, bóng bẩy bên ngoài thì giờ đây ông trân trọng những kỉ niệm khi cùng mọi người xây dựng cho làng.

- Ngoài ra, tình yêu ấy còn thể hiện khi gia đình ông đi tản cư. Ông nhớ: “Ôi nhớ làng, nhớ cái làng quá”. Điều đó không lạ bởi “làng” là nơi thân thương gắn bó, là nơi chôn nhau cắt rốn gắn với những kỉ niệm sâu sắc của người nông dân.

- Những lúc rảnh rỗi ông thường đến phòng thông tin để nghe ngóng tin tức về cuộc kháng chiến. Mỗi khi có tin báo thắng lợi của ta “ruột gan ông như múa cả lên”.

=>
Tình yêu làng của ông Hai cũng là tình yêu của biết bao nhiêu con người Việt Nam trong kháng chiến. Chính tình yêu ấy là động lực thôi thúc họ giữ đất, giữ làng, giữ nét văn hóa cổ truyền của dân tộc.

b. Tình yêu làng yêu nước của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.



- Tình yêu làng quê hòa quyện với tình yêu đất nước của ông Hai được nhà văn khắc họa chân thực và cảm động qua một tình huống gây cấn và kịch tính đó là tình huống ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo Tây.

-
Nghe tin sét đánh ấy, ông Hai bàng hoàng: “cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi”. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. - Cái tin ấy được những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại” làm ông không thể không tin. Sự đau đớn thể hiện rõ qua nét mặt, cử chỉ, giọng nói của ông lão.

- Trên đường về nhà “ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi”, ông xấu hổ không dám nhìn ai, ông tự vấn lương tâm của chính mình. Rồi ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Còn gì chua chát, đau đớn hơn khi giọng nói của người đàn bà cho con bú vẳng vọng theo: “Cha mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn tha. Còn cái giống Việt gian bán nước chỉ cho mỗi đứa một nhát.”

- Sự uất ức đến căm giận theo đuổi ông mãi khi về tận nhà. “Về đến nhà ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác nên bọn nó len lén đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau”. Lúc ấy, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”, ông rít lên những tiếng kêu đau đớn, nhục nhã.

- Đồng cảm với nhân vật ấy, người đọc như cảm nhận sự đau đớn, hổ thẹn và uất ức theo từng cử chỉ, từng hành động của ông. Có lẽ đây là đoạn miêu tả nội tâm độc đáo nhất, thành công nhất của nhà văn. “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.

-
Nghệ thuật độc thoại nội tâm diễn tả cụ thể những câu hỏi giằng xé trong đầu ông Hai. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ vực giằng xé trong ông. “Ông kiểm điểm lại từng người trong óc”, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.

- Từ đau đớn, nhục nhã, ông Hai trở nên gắt gỏng với vợ con. Rồi tâm trạng ông Hai chuyển dần sang lo lắng, sợ hãi: “Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài....Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.”. Nỗi ám ảnh, day dứt nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông cảm thấy như mình mang nỗi nhục của tên bán nước Việt gian theo Tây. Từ chỗ một con người sống cởi mở, niềm nở, ông trở thành người khép nép, lo lắng.

- Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Có lúc ông lại nghĩ đến việc về lại làng nhưng lại nghĩ: “Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.”, là cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin về Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Đó là cả một nhận thức lớn trong tâm hồn của người nông dân.

- Cuối cùng ông Hai đưa ra quyết định“Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy thể hiện tấm lòng son sắc của ông dành cho quê hương, đất nước. Câu nói ấy cho thấy sự kiên quyết trong cách nghĩ, cách sống của ông Hai. Niềm mơ ước lớn lao nhất của ông chính là được quay về làng thăm lại anh em, đồng chí. Vậy mà giờ đây, ông không những buộc phải bỏ làng mà còn thù làng. Chắc chắn, để đi đến quyết định này, nhân vật cũng khổ tâm và đau đớn hơn cả. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởi thế mà ông càng xót xa, đau đớn.

- Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, để vợi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng ông chỉ biết trò chuyện với cu Húc, đứa con út. Trong cuộc trò chuyện ấy, ông bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu, bày tỏ tấm lòng thủy chung son sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ.

- Đó là một cuộc trò chuyện đầy xúc động. Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão. Nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính mình, đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng liêng.

c. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai vô cùng vui sướng và tự hào về làng chợ Dầu.

- “Cái mặt buồn thỉu hàng ngày của ông bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”

- Miệng ông “bô bô” từ đầu ngõ, chạy hết nơi này đến nơi khác khoe với mọi người về cái tin làng ông bị đốt, nhà ông bị đốt rằng “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Toàn là sai sự mục đích cả. Láo. Láo hết”. Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.

- Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng, hạnh phúc. Phải chăng, niềm hạnh phúc to lớn hơn đằng sau ấy là một tấm lòng yêu nước trong sạch, kiên định theo chính sách của cụ Hồ? Đây chính là chi tiết khiến người đọc bùi ngùi, trân trọng hơn tình yêu của ông Hai dành cho làng, cho kháng chiến và cho Tổ quốc Việt Nam.

3. Luận điểm chốt:

- Truyện không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật

- Thành công của tác giả là xây dựng tình huống truyện kịch tính, bất ngờ, miêu tả cử chỉ hành động, lời nói khắc họa tính cách nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật rất tinh tế.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng ngôn ngữ bình dị đậm chất khẩu ngữ, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm. Cách kể chuyện theo ngôi thứ 3 làm câu chuyện khách quan, tăng độ tin cậy.

- Có được thành công này vì Kim Lân Không chỉ là một cây bút truyện ngắn vững vàng, đặc sắc mà còn rất am hiểu gắn bó với người nông dân ở nông thôn Việt Nam. Từ diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai, nhà văn ca ngợi tình cảm yêu làng yêu nước bền chặt sâu sắc trong ngày đầu kháng chiến. Nhân vật ông Hai trở thành nhân vật điển hình của người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

III. Kết bài

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến nhân vật ông Hai – một người nông dân hiền lành, chân chất có tình yêu làng gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước, có niềm tin tuyệt đối vào cách mạng.

- Vẻ đẹp và nhận thức của ông Hai phải chăng cũng là vẻ đẹp và nhận thức chung của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám.

- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía một điều: hãy biết yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên, hãy biết trân trọng và luôn tin tưởng về một tương lai tươi sáng.
Thêm
345
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả

- Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn.

- Có vốn hiểu biết sâu sắc về con người, phong tục tập quán của làng quê VN.

- Đề tài: Viết về nông thôn và người nông dân

- Phong cách sáng tác: Lối viết tự nhiên, giản dị, hóm hỉnh, giàu cảm xúc; có biệt tài trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.

2. Tác phẩm

* Hoàn cảnh sáng tác: Viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

* Xuất xứ: Đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948

*Nhan đề: - Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là « Làng chợ Dầu ». Nếu lấy tên tác phẩm là « Làng chợ Dầu » thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một cái làng cụ thể ; ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng chợ Dầu ấy. Như vậy, chủ đề tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái quát.

- Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là « Làng » mang ý nghĩa khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp ; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân Việt Nam yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng.

* Ngôi kể: Ngôi thứ ba. Tác dụng : làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm giác chân thực cho người đọc.

* Tình huống truyện:

- Là hoàn cảnh có vấn đề (đặc biệt) xuất hiện trong tác phẩm. Qua hoàn cảnh này, nhân vật bộ lộ rõ nhất tính cách của mình, từ đó chủ đề của truyện được phản ánh một cách trọn vẹn.

- Tình huống truyện trong “Làng”: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

=> ý nghĩa: tạo thắt nút cho câu chuyện, qua tình huống này, nhân vật ông Hai bộc lộ được những diễn biến gay gắt trong tâm trạng, từ đó bộc lộ lòng yêu làng, yêu nước của ông.

* Chủ đề: Tình yêu quê hương, đất nước

* Giá trị nội dung: Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải dời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện “Làng”.

* Giá trị nghệ thuật: Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
Thêm
333
0
0
Viết trả lời...
1. Mở bài:

- Hình ảnh người lính....

- Bài thơ đã giúp ta cảm nhận được biểu hiện và biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội. Điều đó được thể hiện qua khổ 2 và khổ 3 của bài.

2. Thân bài

a. Khái quát chung:

- Bài thơ được sáng tác vào đầu năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947).

- Ở 7 câu thơ đầu, tác giả lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí. Tình đồng chí đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó, tương đồng về giai cấp. Tình đồng chí, đồng đội nảy sinh khi họ cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội càng bền chặt trong những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến.

- Và đến những khổ thơ sau Chính Hữu tiếp tục viết về tình cảm ấy mà cụ thể là biểu hiện và biểu tượng của tình đồng chí, đồng đội.

* LĐ 1: Trước hết, biểu hiện của tình đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lunglay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

- “Ruộng nương” là tài sản quý giá nhất của người nông dân. Khi anh lên đường ruộng nương ấy phải gửi lại cho bạn thân cày. Điều đó cho thấy gia đình anh rất neo người.

- “Gian nhà không” là hình ảnh rất bình dị gợi gian nhà trống trải không có đồ đạc gì đáng kể. Từ láy “lung lay” giúp ta hình dung được trạng thái không vững chắc. Câu thơ đã giúp ta cảm nhận được gia cảnh của anh rất nghèo khó. Mặc dù là trụ cột trong gia đình, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc các anh vẫn vững bước lên đường bảo vệ quê hương.

- Cái hay trong câu thơ tác giả sử dụng từ “mặc kệ” diễn tả thái độ lạnh lùng, dứt khoát nhưng hoàn toàn tự nguyện.

- Các anh lên đường chiến đấu bỏ lại sau lưng những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ. Các anh đã gạt bỏ nỗi niềm riêng, hi sinh lợi ích cá nhân để hướng tới mục đích cao cả của dân tộc. Thái độ lạnh lùng, dứt khoát ấy ẩn chứa lí tưởng sống cao đẹp sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do. Và đó cũng là lí tưởng chung của thế hệ thanh niên lúc bấy giờ. Giống như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng, lá rơi đầy.

- Khi ra chiến trường họ luôn nhớ vê quê hương với một tình yêu trọn vẹn:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

- “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh hoán dụ là biểu tượng của làng quê, nơi ấy có hậu phương vững chắc.

- Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa “nhớ” để diễn tả tình cảm nhớ nhung da diết của những người mẹ, người vợ, người yêu dành cho người lính. Câu thơ còn kín đáo thể hiện nỗi niềm của các anh dành cho những người ở hậu phương.

- Hai chiều thương nhớ được gửi gắm trong cùng một hình ảnh: người ở quê nhà nhớ người ra tiền tuyến, giữa chiến trường ác liệt người lính tha thiết nhớ về quê hương. Quả thật, giữa người chiến sĩ và quê hương có mỗi giao cảm vô cùng sâu sắc, đậm đà. Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa, đạn bom.

- Gia cảnh, nỗi niềm của anh được giới thiệu qua lời kể của tôi bằng giọng khách quan mà nặng trĩu tâm tình. Điều đó cho thấy tôi và anh rất hiểu nhau. Hiểu bạn như hiểu chính mình là biểu hiện đầu tiên của tình đồng chí.

* Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, chia sẻ những khó khăn thiếu thốn của cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

- Cụm từ “Anh với tôi” lặp đi lặp lại để diễn tả tình cảm gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính.

- “biết” là cùng nhau nếm trải, cùng nhau chịu đựng, chia ngọt sẻ bùi. Có nỗi đau nào của anh mà tôi chưa từng trải qua, có nỗi khổ nào của anh mà tôi chưa từng biết đến. Chính sự chia sẻ gian lao ấy khiến người lính càng hiểu và gắn bó với nhau hơn.

- Họ đã cùng nhau vượt qua căn bệnh sốt rét rừng – một căn bệnh quái ác mà bất cứ người lính nào khi nhớ lại cũng phải giật mình, kinh sợ. Hai trạng thái đối lập ngoài nóng, trong lạnh đã diễn tả hoàn cảnh sống khó khăn thiếu thốn của những người lính trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ như một lời kể nhưng lại gieo vào lòng người đọc biết bao nhiêu thương cảm.

- Trong suốt chặng đường bảo vệ Tổ quốc, các anh không chỉ thiếu thuốc men mà còn thiếu quân trang, trang phục:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

- Chính Hữu không tô hồng hay thi vị hóa mà miêu tả rất chân thực hoàn cảnh chiến đấu của những người lính bằng nghệ thuật liệt kê: áo của anh bị rách vai, quần của tôi có vài mảnh vá, chân không giày. Những hình ảnh bình dị được đưa vào thơ một cách tự nhiên giống như vẻ đẹp mộc mạc của người lính.

- Thời tiết mùa đông giá lạnh, những người lính mặc trang phục phong phanh, sơ sài, trèo đèo lội suối vượt qua rừng thiêng nước độc.

- Những câu thơ sóng đôi, đối ứng với độ dài ngắn khác nhau đã diễn tả độ gập ghềnh, gian khổ mà người lính phải đối mặt trên đường ra trận.

- Gian khổ là thế, các anh vẫn nở nụ cười ngạo nghễ “Miệng cười buốt giá”. Tác giả sử dụng hình ảnh đối lập: “miệng cười” tượng trưng cho tình thần lạc quan, “buốt giá” tượng trưng cho khó khăn gian khổ. Chính nụ cười, tinh thần lạc quan ấy đã xua đi vất vả gian lao, nâng bước chân người chiến sĩ trên đường ra trận.

* Tình đồng chí thể hiện qua sự gắn bó, truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh để những người lính cách mạng hoàn thành nhiệm vụ.

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

- Trời lạnh, nắm bàn tay mà ấm cả chân không giày thì thật sự chỉ có tình đồng chí đồng đội mới tạo ra phép lạ đó. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần.

- Chữ “thương” cất lên thật giản dị nhưng cũng đầy xúc động lòng người. “thương” là vị muối của tình người, là chất keo của sự gắn bó, là cốt lõi của tình đồng chí đồng đội. Vì thương nên người lính càng gắn bó, gẫn gũi với nhau hơn.

- Đẹp nhất trong đoạn thơ là hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay”. Cái nắm tay nhẹ nhàng, bình dị mà ấm áp, bền chặt thể hiện tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn. Họ nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh vượt qua khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến. Họ nắm tay để truyền cho nhau ý chí, niềm tin, nắm tay để thay cho lời hứa quyết tâm chiến đấu chiến thắng kẻ thù. Cái nắm tay ấy thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của những người nông dân bước ra từ luống cày, thửa ruộng. Cái nắm tay ấy khiến ta liên tưởng đến cái bắt tay trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”

* LĐ 2: Khổ thơ cuối của bài, Chính Hữu đã xây dựng biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí, đồng đội.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

- Thời gian là đêm nay, không gian là rừng hoang, thời tiết sương muối khắc nghiệt. Câu thơ cho thấy hoàn cảnh gian khổ của người lính khi đứng gác trong đêm.

- “Chờ giặc tới” gợi lên tư thế chủ động chiến đấu với kẻ thù. Giữa cảnh núi rừng đêm đông, hoang vu, tĩnh mịch, các anh sát cánh bên nhau canh giữ đất trời. Các anh đứng cạnh bên nhau kết thành một khối sức mạnh tinh thần, sẵn sàng đối mặt với bom đạn của kẻ thù. Câu thơ như một bức thành đồng bất hủ về người lính tạc cả vào không gian và thời gian.

- Trong đêm phục kích giặc, người lính đã phát hiện ra hình ảnh rất đẹp:

“Đầu súng trăng treo”.

- Trăng là hình ảnh quen thuộc trong văn học Việt Nam. Tuy nhiên “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, mới lạ chỉ có trong thơ Chính Hữu.

- Câu thơ là sự kết hợp giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn:

+ Người lính đứng gác trong đêm, súng vác trên vai, ánh trăng sáng giữa trời như đang sà xuống. Nhìn qua đầu mũi súng ta có cảm giác đầu súng trăng treo.

+ Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở đây rất thơ mộng nối liền mặt đất với bầu trời.

- Nhịp thơ 2/2 kết hợp với động từ “treo” giàu sức gợi hình, gợi cảm giúp ta cảm nhận được trạng thái lơ lửng, chênh vênh như nhịp lắc của vầng trăng trên đầu mũi súng.

- Súng là biểu tượng của chiến tranh, trăng tượng trưng cho hòa bình. Hai hình ảnh đối lập đặt trong cùng một câu thơ để khẳng định mục đích chân chính của cuộc kháng chiến: Người lính cầm chắc cây súng để bảo vệ ánh trăng hòa bình, bảo vệ cuộc sống tự do, hạnh phúc.

- Sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn, chất chiến đấu và trữ tình đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ, trong chiến tranh ác liệt họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, mơ mộng lãng mạn hướng về tương lai tươi sáng.

=> Hình ảnh “đầu súng trăng treo” đã trở thành biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội, biểu tượng của thơ ca kháng chiến. Và phải chăng, cũng chính vì lẽ đó, Chính Hữu đã lấy hình ảnh này làm nhan đề cho cả tập thơ của mình – tập “Đầu súng trăng treo” – một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.



* LĐ chốt:

- Đoạn thơ không chỉ…

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm cảm xúc, cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn, giọng thơ tâm tình, thủ thỉ. Chính Hữu sử dụng ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, hình ảnh bình dị, cảm xúc dồn nén, các biện pháp tu từ hoán dụ, nhân hóa, liệt kê, ẩn dụ…. - Với những nghệ thuật ấy, tác giả đã khắc họa chân thực, cảm động một tình cảm lớn mang tính thời đại, đó là tình đồng chí thiêng liêng của những người lính cách mạng.

3. Kết bài

- Khép lại trang thơ….

- Ta còn nhớ đến vẻ đẹp và sức mạnh tình đồng chí, đồng đội của những người nông dân mặc áo lính.

- Ta còn cảm phục trước tài năng của nhà thơ Chính Hữu, càng thêm trân trọng, yêu mến những người lính bộ đội cụ Hồ và hơn cả là càng thêm tự hào về lịch sử oai hùng của dân tộc.

- Đoạn thơ còn đem đến cho ta những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tinh thần vượt khó, bài học về lòng yêu nước, về tình yêu quê hương.

- Là thế hệ trẻ, chúng ta cần….
Thêm
345
0
0
Viết trả lời...
1. MB:

- Hình ảnh người lính là mảnh đất màu mỡ gợi cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ, nhà văn. Có nhiều tác phẩm thành công khi viết về mảng đề tài này, trong đó có “Đồng chí” của Chính Hữu.

- Bài thơ viết về vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp. Đặc biệt 7 câu thơ đầu đã giúp ta cảm nhận được cơ sở hình thành tình đồng chí.

(Chính Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ Chính Hữu giản dị, chân thật mà thấm đượm tình người,

những trang thơ của ông đã mở ra trong tâm hồn người đọc những cảm xúc khó quên về vẻ đẹp của những người lính nơi chiến trận. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Chính Hữu là "Đồng chí", bài thơ viết về tình đồng đội, đồng chí cao đẹp. Đặc biệt, trong 7 câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã tập trung làm sáng tỏ cơ sở hình thành nên tình cảm cao đẹp, thiêng liêng ấy)

2. TB:

* Khái quát chung:

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ….

- Mạch cảm xúc của bài thơ: Mở đầu bài thơ là cơ sở hình thành tình đồng chí. Sau đó tác giả phân tích những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí. Khép lại bài thơ là biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí đồng đội.

- Đây là bảy câu thơ đầu của bài thơ. Tác giả lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí. Tình đồng chí đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó, tương đồng về giai cấp. Tình đồng chí, đồng đội nảy sinh khi họ cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội càng bền chặt trong những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến.

* Cơ sở thứ nhất: Tình đồng chí, đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó.

- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

+ Thủ pháp sóng đôi, đối ứng được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm mới mẻ.

+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người “anh” và “tôi”.

+ Hình ảnh “quê hương anh”, “làng tôi” hiện lên với bao nỗi vất vả, gian lao.

+ Tác giả mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong những làn nước.

+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất.

=> “Quê hương anh” - “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ miền ngược nhưng đều khó làm ăn canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Như vậy những người lính đều xuất thân từ giai cấp nông dân, chung cảnh ngộ nghèo khó. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.

* Cơ sở thứ 2: Tình đồng chí được hình thành khi những người lính có chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập trái tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ chiến đấu vì độc lập tự do.

- Hình ảnh “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang nghĩa tả thực miêu tả những người lính kề vai sát cánh nơi chiến hào. Đồng thời câu thơ còn mang ý nghĩa tượng trưng diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ.

+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng cho ta thấy những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.

+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

- Điệp từ “súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.

- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh” - “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.

=> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

* Cơ sở thứ 3: Tình đồng chí được này nở, bền chặt trong những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiên.

- Bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

+“Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.

+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành “tri kỉ”.

+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.

- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ trên.

+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lựa chọn từ “đôi”. “đôi” cũng có nghĩa là hai, nhưng “đôi” thể hiện sự gắn bó khăng khít không thể tách rời.

+ Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu chính mình. Và tình tri kỉ ấy phát triển lên mức cao hơn là tình đồng chí.

- Câu thơ “Đồng chí!” được tách riêng ở một dòng thơ rất đặc biệt, chỉ gồm một từ, hai tiếng và dấu chấm than.

- Câu thơ như một sự phát hiện, một lời khẳng định, nhấn mạnh tình đồng chí là một tình cảm mới mẻ nhưng hết sức thiêng liêng cao đẹp, là sự kết tinh của tình bạn, tình người giữa những người lính nông dân trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.

- Đồng chí là tình cảm của những người cùng chung chí hướng, chung lí tưởng, cùng đứng trong hàng ngũ cách mạng. Nó còn trở thành tiếng gọi thiêng liêng không thể diễn đạt hết bằng lời. Tình đồng chí trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc để người lính vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù

- Câu thơ “Đồng chí” như một bản lề khép lại cơ sở hình thành và mở ra những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.

* LĐ chốt:

- Đoạn trích không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm, cảm xúc, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, hình ảnh thơ giàu sức gợi hình, biểu cảm. Cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn, giọng thơ sâu lắng, xúc động như một lời tâm tình tha thiết.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng thành ngữ, biện pháp tu từ hoán dụ, điệp ngữ, đối xứng…

- Qua những nghệ thuật ấy, Chính Hữu đã giúp người đọc đi sâu khám phá, lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.

3. KB:

- Khép lại trang thơ về người nông dân mặc áo lính mà dư ba của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ mãi về người nông dân mộc mạc, chân chất đã tạm biệt luống cày thửa ruộng để cầm súng bảo vệ quê hương.

- Ta còn nhớ mãi những nét chung của họ: chung cảnh ngộ, giai cấp, chung lí tưởng, nhiệm vụ, chung hoàn cảnh sống khiến những người nông dân gắn bó với nhau trở thành tình đồng chí.

- Tình đồng chí đã tồn tại và thật đẹp trong những trang thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng và xuyên suốt thời kì lịch sử dân tộc nói chung.

- Là học sinh….
Thêm
234
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả:

+ Chính Hữu - Trần Đình Đắc (1926 - 2007), quê Hà Tĩnh.

+ Là nhà thơ trưởng thành từ K/C chống Pháp và sáng tác cả hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ.

- Phong cách: giản dị, mộc mạc nhưng rất hàm súc

- Đề tài: Chủ yếu viết về hình ảnh người lính.

2. Tác phẩm:

a. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ

- Sáng tác năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng chí, đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947.

- Xuất xứ: trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”

b. Bố cục:

- 7 câu đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.

- 10 câu tiếp: biểu hiện của tình đồng chí.

- 3 câu cuối: biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí.

c. Nội dung: - Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. Đồng thời bài thơ còn khắc họa hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ chân thực mà cao đẹp thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

d. Nghệ thuật:

e. Ý nghĩa nhan đề

- “Đồng chí” là nhan đề ngắn gọn, giàu ý nghĩa.

- “Đồng” là cùng, “chí” là chí hướng. Đồng chí là tình cảm của những người cùng chung chí hướng, chung lí tưởng, cùng đứng trong hàng ngũ chính trị.

- Đây là tình cảm của những người lính mới xuất hiện sau năm 1945. “đồng chí” thành xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội.

Ý nghĩa nhan đề:

- Nhan đề giống như một tiếng gọi thiêng liêng, tha thiết giữa những người lính không thể diễn đạt hết bằng lời. Đó là chỗ dựa tinh thần vững chắc để người lính vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

- Nhan đề góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm: Ca ngợi vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp.
Thêm
257
0
0
Viết trả lời...
1. MB:

- Bằng Việt là một trong số những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam. « Bếp lửa » là một trong số những bài thơ hay nhất của ông.

- Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, cũng như đối với gia đình, quê hương, đất nước.

- Đặc biệt, những khổ thơ dưới đây đã giúp ta cảm nhận được những suy ngẫm của tác giả về bà và bếp lửa. Trong xa cách tác giả vẫn luôn nhớ bà da diết khôn nguôi.

(trích thơ)

2. TB:

* Khái quát chung:

- Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành Luật ở Liên Xô. Bài thơ viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây - Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

- Ở những khổ thơ trước tác giả miêu tả hình ảnh bếp lửa bình dị khơi nguồn cảm xúc để cháu nhớ về người bà thân yêu. Bếp lửa ấy làm sống lại cả hồi ức tuổi thơ nghèo đói, cơ cực ám mùi khói bếp. Đó là tuổi thơ côi cút vắng cha, vắng mẹ nhưng cháu được sưởi ấm bởi tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của bà.

* Luận điểm 1: Suy ngẫm về bà và bếp lửa

- Những kỉ niệm trong hồi ức lắng dần, người cháu chuyển sang suy ngẫm về bà và bếp lửa.

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

- Câu thơ thứ nhất tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả thực gợi lên hình ảnh bếp lửa – vật dụng gần gũi gắn bó với nông thôn Việt Nam dùng để thổi cơm nấu nước phục vụ cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày.

- Từ hình ảnh bếp lửa tĩnh tại tác giả liên tưởng đến hình ảnh ngọn lửa mang ý nghĩa tượng trưng.

+ Ngọn lửa tượng trưng cho tình yêu thương, tình cảm ấm nồng của bà dành cho cháu.

+ Ngọn lửa tượng trưng cho niềm tin bất diệt của bà vào cuộc kháng chiến của dân tộc.

- Sự chuyển đổi từ bếp lửa sang ngọn lửa là sự chuyển đổi đầy dụng ý nghệ thuật. Bếp lửa chỉ đơn thuần tượng trưng cho tình cảm của bà dành cho cháu. Còn hình ảnh ngọn lửa có sức lan tỏa. Bà muốn lan tỏa tình yêu thương, niềm tin sang cháu.

- Điệp ngữ “một ngọn lửa” được lặp đi lặp lại để nhấn mạnh tình yêu thương, niềm tin mãnh liệt của người bà.

- Các động từ “nhen, ủ, chứa” đã khẳng định bản lĩnh của bà trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho các thế hệ nối tiếp.

- Tình yêu thương, đức hi sinh, sự kiên trì, nhẫn nại của bà là nguồn nguyên liệu vô tận làm bùng lên ngọn lửa vĩnh cửu, ngọn lửa của sự sống, của niềm tin, hi vọng.

* Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng. Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

- Tác giả sử dụng từ láy, đảo ngữ “lận đận”, ẩn dụ “nắng mưa” cùng cụm từ chỉ thời gian “mấy chục năm”, “bây giờ” đã diễn tả sự long đong, vất vả của cuộc đời bà.

- Từ rất lâu đến tận bây giờ ngày nào bà cũng dậy sớm để nhóm bếp, để thổi cơm, nấu nước, chăm lo cho gia đình. Nhóm bếp lửa không chỉ là thói quen mà đã trở thành lẽ sống của cuộc đời bà. Bà nhóm bếp vì con, vì cháu, vì cuộc kháng chiến của dân tộc. Lời kể chưa đựng biết bao ân tình sâu nặng.

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.”

- Cuộc đời bà không chỉ nhóm bếp bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc mà bằng cả tấm lòng đôn hậu dành cho cháu.

- Từ ghép “ấp iu” được lặp lại hai lần trong bài thơ để diễn tả đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng chi chút của bà dành cho cháu.

- Điệp ngữ nhóm lặp lại 4 lần mang ý nghĩa khác nhau tỏa sáng dần hình tượng người bà.

+ Nhóm là làm cho lửa bén vào chất đốt và cháy lên.

+ Nhóm bếp lửa là hình ảnh có thực gợi lên công việc bà vẫn làm mỗi sáng, mỗi chiêù.

+ Nhóm niềm yêu thương, nhóm nồi xôi, nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ là hình ảnh liệt kê, ẩn dụ tượng trưng cho tấm lòng, tình yêu thương của bà dành cho cháu.

+ Khi thì bà nhóm bếp cho cháu sưởi ấm vượt qua cái giá lạnh của mùa động.

+ Khi thì bà nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu nhỏ ăn đỡ đói lòng giúp cháu cảm nhận được sự ấm áp của tình yêu thương.

+ Bà còn nhóm lên nồi xôi gạo mới đầu mùa gặt giúp cháu cảm nhận được tình làng nghĩa xóm chia ngọt sẻ bùi lúc khó khăn, hoạn nạn.

+ Bà còn nhóm lên trong cháu tình yêu thương, những kỉ niệm tuổi thơ, bà chắp cánh cho cháu biết bao ước mơ, khát vọng.

- Bếp lửa nuôi cháu lớn về thể chất, tấm lòng của bà nuôi dưỡng cháu trưởng thành về tâm hồn. Nhờ có bà mà cháu cảm nhận được biết bao điều tốt đẹp. Như thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho các thế hệ mai sau.

- Dù cháu đã trưởng thành, đã đi xa nhưng kí ức về bà, về bếp lửa vẫn luôn in sâu đậm trong trái tim người cháu. Nhớ về bà, về bếp lửa cảm xúc của cháu lại dâng trào tha thiết :

Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa !

- Tác giả sử dụng thán từ ôi, nghệ thuật đảo ngữ để diễn tả cảm xúc dồn nén, mãnh liệt trong tâm hồn người cháu.

- Dấu gạch như khoảng lặng trong bản nhạc để làm nền cho hai tiếng “bếp lửa” ngân lên diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với bà.

- Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên, sáng lên trong mọi hoàn cảnh, luôn sáng lên từ trái tim nhân hậu của người bà.

- Bếp lửa thiêng liêng vì nó gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ, gắn liền với hình ảnh người bà cùng tình cảm ấm nồng.

- Lời thơ sâu lắng, ý thơ nghẹn ngào cùng cách biểu cảm trực tiếp đã khắc họa thành công hình ảnh người bà, người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm thương con, thương cháu.

- Hình ảnh bếp lửa lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Cháu nhớ về bà là nhớ về bếp lửa. Cháu nghĩ về bếp lửa là lại nhớ về bà. Bà và bếp lửa song hành quấn quýt tuy hai nhưng là một trở thành hình ảnh xuyên suốt bài thơ, thường trực trong tâm hồn người cháu.

* Luận điểm 2: Khổ thơ cuối của bài diễn tả nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi.

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

- Tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp ngữ “trăm”, liệt kê các hình ảnh hoán dụ: “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” để nhấn mạnh cuộc sống thay đổi theo hướng tích cực . Đó là cuộc sống đủ đầy về vật chất với các tiện nghi hiện đại. Không còn bếp lửa từ rơm, rạ mà thay vào đó là bếp ga, bếp điện.

- Dấu chấm xuất hiện ở giữa dòng thơ tạo thành một sự ngắt nhịp dài giống như quá khứ đã trôi đi quá xa so với hiện tại.

- Tuổi thơ của cháu thiếu thốn về vật chất nhưng cháu được lớn lên bằng tình yêu thương của bà vì thế vẫn trở nên ấm áp.

- Giờ đây sống ở nước ngoài, cuộc sống không còn cơ cực những cháu lại thiếu vắng sự quan tâm, chăm chút của bà vì thế cháu cảm thấy trống vắng, cô đơn.

- Nhờ sự vất vả tần tảo của bà, cháu đã lớn khôn, được đi học tập ở nước ngoài. Cuộc sống hiện đại ấy vẫn không thể làm cháu nguôi đi nỗi nhớ đau đáu, thường trực về bà:

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...

- Kết thúc bài thơ như một lời nói trực tiếp của nhân vật cháu. Câu hỏi tu từ như xoáy sâu vào lòng người đọc để nhấn mạnh nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi. Lúc nào cháu cũng lo lắng bà nhóm bếp lên chưa, lúc nào cháu cũng thương bà tuổi cao sức yếu, một mình vất vả nơi quê nhà. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Câu thơ đã thể hiện lòng biết ơn vô hạn của cháu đối với người bà kính yêu.

- Dù không có bà bên cạnh nhưng những kí ức của tuổi thơ, những tình cảm của bà dành cho cháu đã trở thành nguồn động lực giúp cháu vượt qua thời tiết khắc nghiệt ở nước Nga xa xôi lạnh giá. Những kỉ niệm, tình cảm đẹp ấy có sức tỏa sáng nâng đỡ nhân vật cháu trên suốt chặng đường đời.

- Bếp lửa đã nâng cao để trở thành biểu tượng cho tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước. Câu hỏi tu từ và dấu chấm lửng khép lại bài thơ đã tạo ra một kết thúc mở với nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng thiết tha, đau đáu.

* Chốt:

- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm, cảm xúc, phương thức tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm, nghị luận, giọng thơ thay đổi linh hoạt lúc thủ thỉ tâm tình, lúc suy tư trầm lắng.

- Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm cùng các biện pháp tu từ liệt kê, điệp ngữ, hoán dụ….

- Qua những nghệ thuật ấy, nhà thơ đã đã giúp người đọc cảm nhận được những suy ngẫm của cháu về cuộc đời bà để từ đó bộc lộ nỗi nhớ thương bà da diết. Ta nhận ra ở nhà thơ Bằng Việt là tình yêu thương, sự thấu hiểu và lòng biết ơn vô tận đối với bà và cũng là đối với quê hương đất nước. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

- Đó cũng là tình cảm của người bà trong "Tiếng gà trưa" của Xuân Quỳnh, là bao người mẹ, người chị dịu dàng, đằm thắm đã tô đậm trang sử vàng chói lọi của truyền thống người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Đọc xong bài thơ, người đọc như được sưởi chung với Bằng Việt hơi ấm của tình yêu thương của gia đình, của cội nguồn, của Tổ quốc.

III. Kết bài:

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến hình ảnh bếp lửa bình dị mà ấm áp, gắn bó với tuổi thơ của nhân vật cháu.

- Ta còn nhớ đến người bà – người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp cần cù, kiên nhẫn, thương con, thương cháu, giàu đức hi sinh.

- Qua những dòng hồi tưởng và suy ngẫm của nhân vật cháu, đoạn thơ đã thể hiện lòng biết ơn, kính trọng của người cháu đối với bà và cũng là cháu với quê hương, đất nước.

- Đoạn thơ giúp ta thấm thía một triết lí: Những gì là gần gũi, thân thiết của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ ta trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình cảm gia đình chính là khởi nguồn của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Thêm
848
0
0
Viết trả lời...
I. Mở bài:

- Bằng Việt là một trong số những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam. « Bếp lửa » là một trong số những bài thơ hay nhất của ông.

- Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, cũng như đối với gia đình, quê hương, đất nước.

- Đặc biệt, những khổ thơ đầu đã giúp ta cảm nhận được hình ảnh bếp khơi nguồn cảm xúc, khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ của tác giả sống bên bà và bếp lửa.

(trích thơ)

II. Thân bài

1. Khái quát chung

- Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành Luật ở Liên Xô. Bài thơ viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây - Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

- Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

2. Phân tích

a. Khổ thơ đầu tác giả miêu tả hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!

- Điệp ngữ “một bếp lửa” lặp đi lặp lại hai lần như điệp khúc mở đầu bài thơ.

- “Bếp lửa” là hình ảnh bình dị, quen thuộc gắn bó với nông thôn Việt Nam. Loại bếp sử dụng rơm, rạ, củi để thổi cơm nấu nước phục vụ cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày.

- Từ láy “chờn vờn” diễn tả sự bập bùng, chập chờn của ngọn lửa.

- Từ “ấp iu” (ấp ủ và nâng niu) gợi lên đôi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn của người nhóm lửa đồng thời gợi tấm lòng chi chút của bà dành cho cháu.

- Từ hình ảnh bếp lửa tác giả đã liên tưởng đến người nhóm lửa một cách rất tự nhiên :

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

- Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” chỉ những gian lao vất vả của cuộc đời bà.

- Cách biểu cảm trực tiếp “cháu thương bà” đã diễn tả tình cảm nhớ thương, lo lắng của người cháu ở phương xa.

=> Ba câu thơ đầu của bài ngắn gọn, hàm súc đã nhấn mạnh ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc nhớ thương, biết ơn bà vô hạn. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí tác giả rất nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi lúc một rõ ràng và trở thành hình ảnh trung tâm trong các khổ thơ tiếp theo.

b. Trong dòng hồi tưởng, cháu nhớ lại những kí ức tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa.

* Trước hết là kỉ niệm về những năm gian khổ, thiếu thốn:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy, Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

- Khổ thơ gợi lại cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái đói dai dẳng và mòn mỏi khắp chốn làng quê.

- Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” và cách diễn đạt bằng hình ảnh đầy ấn tượng “khô rạc ngựa gầy” vừa phản ánh chân thực cuộc sống đói khổ bao trùm các gia đình, làng quê VN.

- Nhưng ấn tượng nhất với cháu là mùi khói bếp:

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

- “Khói hun nhèm mắt” là khói từ củi ướt cay xè, từ bếp lửa nhà nghèo. Chi tiết chân thực này vừa tái hiện được tuổi thơ nghèo khó vừa diễn tả được những xúc động, da diết của nhà thơ.

- “Còn cay” là còn nguyên nỗi xúc động. Cảm xúc hiện tại và kỉ niệm năm xưa đồng hiện, hoà lẫn vào nhau.

- Thời gian trôi đi nhưng nghĩ về kỉ niệm ấy cảm giác sống mũi vẫn còn cay vẫn tươi mới, vẹn nguyên như thuở nào.

- Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác giả.

* Hiện lên trong cánh đồng kí ức của nhân vật cháu là kỉ niệm tám năm sống cùng bà và âm thanh của tiếng chim tu hú.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !

- Cụm từ “Tám năm ròng” đã diễn tả khoảng thời gian dài đằng đẵng.

- Giặc đói chưa qua thì giặc ngoại xâm tràn tới. Cha mẹ đi chiến đấu, chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau, nhóm lửa mỗi sớm, mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu da diết.

- Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Đây là âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành.

- Tiếng chim tu hú gợi ra cả một không gian trống vắng, khơi sâu thêm cái cảm giác quạnh vắng, cô đơn. Trên cái nền hoang tàn vì khói lửa chiến tranh, giữa cái âm thanh khắc khoải bồn chồn của tiếng chim tu hú, hai bà cháu nương tựa vào nhau để duy trì cuộc sống. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

- Hình ảnh bà – cháu sóng đôi được lặp lại nhiều lần cùng với nghệ thuật liệt kê các động từ bảo, dạy, chăm đã diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút của bà dành cho cháu, đồng thời thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà.

- Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù để bảo vệ quê hương Việt Nam.

- Giọng thơ thủ thỉ tâm tình giúp ta cảm nhận được tình yêu thương, sự ân cần mà bà đã dành cho cháu. Bà nuôi cháu lớn khôn, soi sáng trí tuệ và tâm hồn của cháu. Sống trong tình yêu thương, chở che của bà, cháu ơn bà biết bao, nên những dòng thơ cứ bật ra thật tự nhiên mà cảm động: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

- Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất cả tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.

- Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu trên mỗi bước đường đời. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà.

- Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú và cũng là trách bản thân mình không chăm sóc bà lúc tuổi già, sức yếu.

Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?

- Câu hỏi tu từ một lời than thở thật tự nhiên và cảm động thể hiện nỗi nhớ thương bà da diết.

- Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

* Kỉ niệm về những năm chiến tranh tàn phá

Tuổi thơ của cháu còn lớn lên trong cảnh hoang tàn đau thương, tan tác, trong khói lửa chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.

- Động từ “cháy” được lặp lại hai lần, từ ghép “tàn rụi” được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp không gian ký ức.

- Trong từ láy “lầm lụi” hiện lên dáng hình của những con người chịu nhiều đau thương, mất mát. Câu thơ miêu tả cảnh làng quê Việt Nam hoang tàn, đổ nát dưới bom đạn kẻ thù.

- Ngôi nhà của hai bà cháu bị cháy hết, dưới sự giúp đỡ của bà con hàng xóm hai bà cháu dựng lại mái nhà tranh để sống qua ngày. Trong lúc ấy càng sáng lên phẩm chất của người bà:

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh : “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”

- Tác giả sử dụng dấu ngoặc kép để trích dẫn lời nói trực tiếp của bà.

- Từ láy “đinh ninh” nghĩa là dặn đi dặn lại, bà dặn cháu phải nắm chắc, nhớ kĩ : cháu có viết thư cho bố cứ bảo hai bà cháu ở nhà vẫn bình yên.

- Lời dặn của bà giản dị nhưng chất chứa biết bao tình cảm. Bà cố ý che giấu sự thật để các con không phải lo lắng mà có thể yên tâm công tác. Gian khổ, thiếu thốn và bao nỗi nhớ thương bà đều phải nén vào trong để làm yên lòng người nơi tiền tuyến. Bà lặng lẽ hi sinh cho con, cho cháu và cho đất nước. Có thể nói thắng lợi của cuộc kháng chiến không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Vì thế, hình ảnh bà trở thành biểu tượng của những người phụ nữ Việt Nam kiên cường, bất khuất, thương con, thương cháu, giàu đức hi sinh.

=>Những câu thơ không cầu kì, gọt giũa mà rất giản dị đến chân thành như lời nói của bà. Tấm lòng người bà ấy hiện lên mênh mông như biển cả, lặng sóng thôi nhưng bát ngát tình thương con thương cháu và sâu thẳm với một nghị lực phi thường.

* Chốt:

- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm, cảm xúc, phương thức tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm, giọng thơ thay đổi linh hoạt lúc thủ thỉ tâm tình, lúc suy tư trầm lắng. Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm cùng các biện pháp tu từ liệt kê, điệp ngữ…

- Qua những nghệ thuật ấy, nhà thơ đã diễn tả một cách cảm động những hồi tưởng kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà và bếp lửa. Đó là những kỉ niệm về tuổi thơ nghèo khó, cơ cực, vắng cha vắng mẹ gắn liền với sự kiện đau thương của lịch sử dân tộc. Nhưng quan trọng hơn cả là cháu được sưởi ấm bằng tình yêu thương của người bà. Tấm lòng chi chút của bà đã trở thành chỗ dựa vững chắc để cháu khôn lớn, trưởng thành.

III. Kết bài:

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến hình ảnh bếp lửa bình dị mà ấm áp, gắn bó với tuổi thơ của nhân vật cháu.

- Ta còn nhớ đến người bà – người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp cần cù, kiên nhẫn, thương con, thương cháu, giàu đức hi sinh.

- Đoạn thơ giúp ta thấm thía một triết lí: Những gì là gần gũi, thân thiết của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ ta trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình cảm gia đình chính là khởi nguồn của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Thêm
514
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả

- Là một trong số những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

- Đề tài: viết về những kí ức thời thơ ấu

- Phong cách thơ: trong trẻo, mượt mà, đầy cảm xúc

2. Tác phẩm:

a. Xuất xứ: in trong tập Hương cây – bếp lửa (in chung với Lưu Quang Vũ)

b. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được sáng tác năm 1963 khi nhà thơ đang là sinh viên ngành luật tại nước Nga

c. Nội dung.

- Qua dòng hổi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về bà, tình bà cháu.

- Thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

d. Nghệ thuật:

- Kết hợp: biểu cảm với tự sự, miêu tả và bình luận

- Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – là điểm tựa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng.

- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc

- Giọng điệu khi tâm tình thủ thỉ, khi suy tư trầm lắng.

- Kết hợp các biện pháp tu từ
Thêm
266
0
0
Viết trả lời...
1. MB:

- Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ khắc họa hình tượng chiếc xe không kính và vẻ đẹp của nguời chiến sĩ lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Điều đó thể hiện rõ qua 3 khổ thơ cuối của bài.

(trích thơ)

2. TB:

* Khái quát chung:

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra cam go, ác liệt. Bom Mĩ ngày đêm dội lên tuyến đường Trường Sơn huyết mạch.

- Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác năm 1969 (trong thời kì kháng chiến chống Mĩ), in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”.

- Đây là 3 khổ thơ cuối của bài. Phạm Tiến Duật làm nổi bật hơn hình ảnh chiếc xe độc đáo, tô đậm vẻ đẹp của những anh bộ đội cụ Hồ.

* LĐ 1: Đoạn thơ giúp ta cảm nhận được người chiến sĩ lái xe có tình đồng chí, đồng đội gắn bó bền chặt.

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

- “Những chiếc xe từ trong bom rơi” là hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách, khốc liệt của bom đạn chiến trường. Không phải một chiếc xe mà có rất nhiều những chiếc xe như thế tạo thành một tiểu đội, một tập thể cùng chung nhiệm vụ vận tải người, lương thực, vũ khí để chi viện cho chiến trường miền Nam.

- Trên suốt hành trình ấy họ thường xuyên gặp nhau. Chiếc xe không có kính đã trở thành lợi thế để họ trao nhau cái bắt tay.

- Cái bắt tay là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ, là biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.

- Họ bắt tay để truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh vượt qua khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến.

- Họ bắt tay để truyền cho nhau ý chí, niềm tin, bắt tay để thay cho lời hứa quyết tâm chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

- “Bếp Hoàng Cầm” là loại bếp dã chiến của bộ đội ta đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra để địch không phát hiện được.

- Định nghĩa về gia đình thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.

- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc, họ cùng nhau dùng bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút thanh bình hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp người kính có cảm giác gần gũi thân thương như anh em một nhà.

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

- Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3 như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính lái xe trên đường ra trận.

- Cái hay trong câu thơ là tác giả sử dụng từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không vững chắc. Từ láy “chông chênh” khiến ta liên tưởng đến cái chợp mắt, giấc ngủ chập chờn không ngon giấc. Câu thơ đã diễn tả những khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ phải đối mặt đồng thời thể hiện tính chất khẩn trương của cuộc kháng chiến.

- Điệp ngữ “lại đi” cho thấy ý chí quyết tâm của người chiến sĩ.

- “Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho bầu trời hòa bình, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong kháng chiến, bầu trời xám xịt, mịt mờ khói bom bỗng trở nên trong xanh thơ mộng. Trong tận cùng của gian khổ, hi sinh người lính vẫn hướng về ngày mai tươi sáng. Câu thơ giúp ta thấy được người lính có tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tương sáng của dân tộc.

=> Chính tình đồng chí, đồng đội, tinh thần lạc quan đã trở thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

* LĐ 2: Hình ảnh chiếc xe không kính tiếp tục được tái hiện của cuối bài khi bị chiến tranh tàn phá.

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước.

- Điệp ngữ “không có” kết hợp với biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh chiếc xe không chỉ không có kính mà còn không có đèn, không có mui xe, thùng xe găm đầy những vết đạn xước … Hàng loạt các từ phủ định “không” đã diễn tả một cách độc đáo, chân thực đến trần trụi những chiếc xe trên đường ra trận.

- Câu thơ đã giúp ta hình dung chiếc xe méo mó biến dạng, tràn trụi dưới bom đạn của kẻ thù. Qua chiếc xe ấy ta thấy được hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ và những gian khổ mà người lính phải trải qua.

* LĐ 3: Đoạn thơ đã ca ngợi người chiến sĩ lái xe có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng dân tộc.

Xe vẫn chạy vì miền Nam phái trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

- “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi. Chiếc xe cũng có mục đích sống cao đẹp giống như con người: chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.

- “Trái tim” là hình ảnh hoán dụ chỉ người lính lái xe, chỉ ý chí quyết tâm chiến đấu.

+ Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng mình qua lửa đạn.

+ Câu thơ đã thể hiện sự dũng cảm ngoan cường, làm nổi bật lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường của người chiến sĩ.

- Tác giả lấy cái không của chiếc xe để làm nổi bật cái có của người lính làm sáng ngời chân lí của thời đại: Chiến tranh, bom đạn của kẻ thù có thể làm chiếc xe méo mó, biến dạng, có thể cướp đi tính mạng của con người nhưng không thể hủy hoại được ý chí quyết tâm chiến đấu của người lính…để rồi họ làm nên chiến thắng của dân tộc.

* LĐ chốt:

- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ cảm xúc, cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn khai thác chất thơ từ hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến. Giọng thơ sôi nổi, trẻ trung đậm tính khẩu ngữ, ngôn ngữ bình dị cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ, liệt kê…

- Với những nghệ thuật đó, tác giả đã tái hiện một cách chân thực cuộc kháng chiến Mĩ ác liệt qua hình ảnh chiếc xe không kính. Đồng thời đoạn thơ còn ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe: có tình đồng chí đồng đội gắn bó, có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí quyết tâm chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Và đó cũng là vẻ đẹp chung của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

3. Kết bài:

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ mãi hình ảnh chiếc xe không kính trần trụi, méo mó biến dạng dưới bom đạn kẻ thù.

- Ta còn ấn tượng về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn với những vẻ đẹp đáng tự hào.

- Là thế hệ trẻ, chúng ta cần tích cực học tập, rèn luyện để viết tiếp trang sử vàng dân tộc, xứng đáng với truyền thống cha anh.
Thêm
351
0
0
Viết trả lời...
1. MB:

- Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ khắc họa hình tượng chiếc xe không kính và vẻ đẹp của nguời chiến sĩ lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Điều đó thể hiện rõ qua 4 khổ thơ đầu của bài.

(trích thơ)

2. TB:

* Khái quát chung:

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra cam go, ác liệt. Bom Mĩ ngày đêm dội lên tuyến đường Trường Sơn huyết mạch.

- Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác năm 1969 (trong thời kì kháng chiến chống Mĩ), in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”.

- Vị trí + khái quát đoạn thơ: Đoạn thơ là 4 khổ thơ đầu của bài. Tác giả tập trung miêu tả hình ảnh những chiếc xe không kính. Qua đó làm nổi bật vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe: có phong thái ung dung tự tại, dũng cảm, kiên cường bất chấp mọi khó khăn gian khổ…

* LĐ 1: Đoạn thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh chiếc xe không kính:

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.

- Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện.

- Ở hai câu thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực bằng giọng thơ giàu chất khẩu ngữ giống như lời ăn tiếng nói hàng ngày.

- Nghệ thuật điệp ngữ với các từ phủ định “không” được lặp lại nhiều lần, tác giả đã khẳng định bản thân chiếc xe này là có kính.

- Với các động từ mạnh “giật, rung”, điệp ngữ “bom” lặp lại hai lần lời thơ giúp ta thấy được chính bom đạn của chiến tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính.

- Qua hình ảnh chiếc xe không kính, tác giả đã nhấn mạnh tính chất gian khổ, khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

* LĐ 2: Trong gian khổ ấy, người chiến sĩ lái xe càng tỏa sáng nhiều phẩm chất cao đẹp. Trước hết, người lính có tư thế hiên ngang, bình tĩnh, tự tin giữa chiến trường.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

+ Biện pháp đảo ngữ đưa từ láy “ung dung” lên đầu câu gợi thái độ ung dung, đường hoàng, bình thản của những người lính.

+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần cùng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường.

+ Nghệ thuật liệt kê “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã làm nổi bật tư thế vững vàng, chủ động của người chiến sĩ trước mọi hoàn cảnh. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.

- Câu thơ giúp ta cảm nhận được người chiến sĩ sẵng sàng đối diện với gian khổ mà không hề né tránh, không hề run sợ.

+ Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

- Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.

+ Điệp ngữ “nhìn thấy…nhìn thấy…thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.

+ Chiếc xe không kính khiến người chiến sĩ đối diện với bao khó khăn gian khổ mà trước hết là bị gió tạt thẳng vào mắt. Hình ảnh nhân hóa “xoa mắt đắng” thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.

+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim.

+ Từ láy “đột ngột”, hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái. Giữa chiến trường ác liệt người chiến sĩ vẫn mở rộng tâm hồn để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy người chiến sĩ có tâm hồn mơ mộng, lãng mạn.

=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên được miêu tả chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, khốc liệt của cuộc kháng chiến.

* LĐ 3: Người chiến sĩ lái xe luôn lạc quan, yêu đời, anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy.

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.



Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

- “Gió”, “bụi”, “mưa” là những hình ảnh tượng trưng cho những gian khổ nơi chiến trường. Hết gió lại đến mưa, đến bụi, khó khăn chồng chất khó khăn. Đường Trường Sơn hai mùa mưa nắng rõ rệt, mùa khô bụi bay mù trời, mùa mưa đường trơn ngập cả bánh xe như thử thách bản lĩnh người chiến sĩ.

- Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” với các động từ mạnh “phun, tuôn, xối” đã diễn tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường…

- Gian khổ là thế mà các anh vẫn phì phèo châm điếu thuốc, vẫn mặc kệ trời mưa lái trăm cây số nữa.

- Cấu trúc lặp: “không có…ừ thì” đi liền với kết cấu phủ định “chưa cần” đã nhấn mạnh thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe.

=> Với ngôn ngữ giản dị, giọng điệu thản nhiên, hóm hỉnh tác giả làm nổi bật tính cách trẻ trung, ngang tàng, tinh thần lạc quan và bản lĩnh kiên cường bất chấp mọi khó khăn thử thách của người chiến sĩ lái xe trên con đường huyết mạch Trường Sơn.

* LĐ chốt:

- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ cảm xúc, cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn khai thác chất thơ từ hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến. Giọng thơ sôi nổi, trẻ trung đậm tính khẩu ngữ, ngôn ngữ bình dị cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh, ẩn dụ, liệt kê…

- Với những nghệ thuật đó, tác giả đã tái hiện một cách chân thực cuộc kháng chiến Mĩ ác liệt qua hình ảnh chiếc xe không kính. Đồng thời đoạn thơ còn ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe: bình tĩnh, tự tin, lạc quan yêu đời, anh dũng kiên cường bất chấp mọi gian khổ. Và đó cũng là vẻ đẹp chung của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

3. Kết bài:

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ mãi hình ảnh chiếc xe không kính trần trụi, biến dạng dưới bom đạn kẻ thù.

- Ta còn ấn tượng về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn với những vẻ đẹp đáng tự hào.

- Là thế hệ trẻ, chúng ta cần tích cực học tập, rèn luyện để viết tiếp trang sử vàng dân tộc, xứng đáng với truyền thống cha anh.
Thêm
538
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả

- Là một trong số những nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

- Đề tài: viết về người lính và những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường sơn

- Phong cách thơ: trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch mà sâu sắc

2. Tác phẩm:

a. Xuất xứ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa

b. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt. Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường huyết mạch Trường Sơn. Trong khi đó những đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam máu thịt.

c. Nội dung.

- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.

d. Nghệ thuật:

- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.

- Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm nhưng có sự gia tăng đáng kể của các yếu tố tự sự.

- Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường.

- Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn, tinh nghịch, lạc quan.

e. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.

- Từ “Bài thơ” tưởng như thừa. => Gợi ra vẻ đẹp, chất thơ, chất lãng mạn

- “Những chiếc xe không kính”: Xe bị hỏng, xấu xí => Gợi ra sự tàn khốc, ác liệt của chiến tranh

=> Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà

chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh.
Thêm
230
0
0
Viết trả lời...
I. Mở bài:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- Và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Đặc biệt, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã giúp ta cảm nhận được bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du.

- Điều đó được thể hiện qua 8 câu thơ cuối.

II. Thân bài

1. Khái quát đoạn trích

- Sau khi biết mình rơi vào lầu xanh, Kiều thấy tủi nhục rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lãi đã vờ hứa đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới.

- Ở những câu thơ trước, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp nhưng hoang vu, vắng lặng thiếu hơi ấm của cuộc sống con người. Kiều cảm thấy cô đơn, buồn tủi nơi đất khách. Trái tim nàng hướng về những người thân yêu. Nhớ đến Kim Trọng ngày đêm trông ngóng, nàng đau khổ, dằn vặt vì đã phản bội lời thề năm xưa. Nàng thương cha mẹ tuổi già hiu quạnh, không người kề cận mà xót xa trong lòng.

- Đoạn thơ là tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đứng trên lầu cao Kiều nhìn ra bốn phía với hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Thế nhưng, nàng càng mong đợi, lại càng thấy xa vời, mờ mịt hơn. Bốn lần Kiều nhìn ra xa là bốn lần cảnh vật thay đổi. Mỗi bức tranh là mỗi bức tâm trạng, tất cả tạo nên lớp lớp sóng lòng đang trào dâng trong tâm hồn người con gái tha hương.

2. Phân tích 8 câu thơ

- Đoạn thơ chia ra làm bốn cặp lục bát, mở đầu mỗi cảnh là điệp từ “buồn trông” xuất hiện với âm hưởng trầm buồn, báo hiệu biết bao sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều.

* LĐ 1: Mở đầu đoạn thơ là bức tranh nơi cửa biển chiều hôm:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

- “cửa bể” gợi lên không gian mênh mông, rộng lớn đến rợn ngợp.

- “Chiều hôm” là chiều tà, thời gian ước lệ trong thơ ca trung đại gợi lên nỗi buồn man mác. Đây là thời điểm cuối ngày, khi mặt trời sắp tắt, mỗi người thường nhớ về gia đình và quê hương.

- Nguyễn Du khéo léo kết hợp thời gian, không gian ấy tạo nên khung cảnh đìu hiu làm nền cho sự xuất hiện của con thuyền.

- Hình ảnh con thuyền khiến ta liên tưởng đến những chuyến đi xa, trôi dạt giữa biển rộng sông dài.

- Không phải là đoàn thuyền tấp nập ra khơi mà là “thuyền ai”, nghĩa là một chiếc thuyền lẻ loi, chơi vơi giữa mênh mông sóng nước.

- Nguyễn Du đã sử dụng hai từ láy “thấp thoáng”, “xa xa” để nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, mờ ảo của con thuyền. Con thuyền ấy, cánh buồm ấy dẫu có đi xa nhất định sẽ có ngày cập bến. Còn Thúy Kiều thì trôi dạt lênh đênh không biết bao giờ mới được đoàn tụ gia đình. Như vậy hình ảnh con thuyền, cánh buồm là ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều xa nhà, xa quê. Nhìn vào cảnh vật ấy lòng Kiều cảm thấy nhớ nhà da diết với khát khao được đoàn tụ, sum họp gia đình.

* LĐ 2: Bức tranh thứ hai, Nguyễn Du khắc họa cảnh dòng nước với đóa hoa trôi. Cảnh vật được nhìn bằng ánh mắt sầu não đến ghê gớm, trước mắt nàng lại hiện lên cảnh tan tác, chia lìa:

“Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

- “Ngọn nước mới sa” gợi lên hình ảnh dòng nước đang cuồn cuộn đổ từ trên cao, tung bọt trắng dữ dội đang ập xuống.

- Giữa dòng nước đang chảy phía dưới chân Kiều, những cánh hoa đang xoay tròn rồi bị cuốn trôi đi.

- “Hoa” là biểu tượng cho phái đẹp những cũng rất mong manh, sớm nở tối tàn. Hoa chỉ đẹp khi ở trên cành, còn ở đây là hoa trôi một cách thụ động. Nếu sóng yên biển lặng thì hoa sống đời trôi nổi. Còn nếu gặp sóng to, gió lớn thì hoa sẽ bị vùi dập tan nát. “Hoa” chính là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều mong manh, trôi nổi giữa dòng đời vô định. Nếu như bị sóng gió vùi dập thì cuộc đời Kiều cũng tan nát như hoa.

- Từ láy “man mác” gợi tả sự chuyển động mềm mại, nhẹ nhàng, dập dờn của những cánh hoa.

- Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” cho thấy sự mất phương hướng, gợi một nỗi băn khoăn thấp thỏm của Thúy Kiều.

- Nguyễn Du đã kết hợp từ láy với câu hỏi tu từ để nhấn mạnh tâm trạng lo lắng của Kiều trước dòng đời đen bạc.

* LĐ 3: Nhìn về cửa bể, dòng nước không thấy chút niềm thân mật an ủi, Kiều trở về với đám cỏ đôi bờ:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

- Cảnh vật có màu sắc, có đường nét nhưng lại gợi lên âm hưởng buồn ảm đạm. Hình ảnh “cỏ” đã xuất hiện nhiều lần trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn đầy sức sống trong ngày hội xuân “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đâu còn nữa mà thay vào đó là màu của sự tàn tạ, héo úa.

- Từ láy “rầu rầu” vẽ nên cả một vùng cỏ cây tàn héo và gợi nỗi sầu thương cô lẻ.

- Tác giả sử dụng từ láy “xanh xanh” diễn tả màu xanh nhợt nhạt thiếu sức sống. Nhìn từ xa đến gần, từ chân mây đến mặt đất, tất cả không gian đều nhuốm một màu xanh rợn ngợp. Nhưng màu xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu. Với nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã dự cảm về tương lai của Kiều mờ mịt, đen tối.

- Màu cỏ héo úa như sắp tàn lụi như sắp từ biệt vũ trụ, kết thúc cuộc đời ngắn ngủi.

- Màu cỏ hay cũng chính là tâm hồn của Thúy Kiều đang héo úa, rệu rã trước cuộc đời. Phải chăng trong dòng nước mắt cô đơn và tủi cực mà cái nhìn của nàng chán chường, bế tắc, tuyệt vọng.

* LĐ 4: Đến bức tranh cuối cùng, một lần nữa nàng Kiều lắng lòng mình để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những thứ nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh khủng khiếp:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

- Hai câu thơ Nguyễn Du đã miêu tả bức tranh sóng gió biển khơi. Thiên nhiên ở đây không còn êm đềm, tĩnh lặng mà trở nên thật dữ dội.

+ Không phải gió thổi mà là “gió cuốn”- là gió lốc trong những ngày giông bão thổi mạnh, bốc lên cao, mù mịt, cuồn cuộn như 1 trận cuồng phong.

+ Không phải sóng xô, sóng vỗ mạn thuyền mà là “sóng kêu”. Tiếng sóng không còn ở nơi xa nữa mà tiến sát gần Kiều. Dường như xung quanh Kiều là những cơn sóng to, gió lớn như những tai họa sắp ập tới.

- Tác giả sử dụng các động từ mạnh “cuốn, kêu”, nghệ thuật đảo ngữ từ tượng thanh “ầm ầm” đưa lên đầu câu để nhấn mạnh sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên.

- Sóng ở đây có thể là sóng gió biển khơi hay chính là sóng gió cuộc đời đang bủa vây, vồ vập đến nàng. Thiên nhiên đang gào thét hay chính sự gào thét trong lòng Kiều. “Sóng và gió” là hình ảnh ẩn dụ về cuộc đời của Kiều sau này trắc trở, trầm

luân. Câu thơ giúp ta cảm nhận được nỗi sợ hãi, hoảng loạn của Kiều đến không còn sức sống.

- Mở đầu mỗi bức tranh là điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn cho đoạn thơ. “buồn trông” là vừa buồn vừa trông ra xa để trông chờ, mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn. Dường như mỗi lần Kiều trông ra xa là một lần Kiều thất vọng và thất vọng ấy ngày càng nặng nề hơn.

- Cảnh vật và tâm trạng trong bốn bức tranh đều có sự thay đổi theo trình tự tăng tiến. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm. Âm thanh từ tĩnh đến động. Nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều.

* LĐ chốt.

- Đoạn trích không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng nhân vật.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ, đảo ngữ, câu hỏi tu từ, từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm”, các động từ, tính từ giàu sức gợi hình biểu cảm.

- Qua những nghệ thuật đó, Nguyễn Du đã làm nổi bật bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật mong manh, dạt trôi, dữ dội. Lòng người chao đảo, nghiêng đổ cuối cùng hoàn toàn rơi vào bế tắc, tuyệt vọng đến tận cùng. Kiều bất lực, buông xuôi trước thực tại phũ phàng. Bởi thế, nàng ngây thơ mắc lừa Sở Khanh để rồi nàng bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc đời: “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”.

III. Kết bài

- Khép lại đoạn thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến tâm trạng cô đơn, buồn tủi, lo lắng, sợ hãi đến hoảng loạn của Thúy Kiều trước thiên nhiên rộng lớn.

- Ta còn ấn tượng bởi tấm lòng nhân đạo, cảm thương sâu sắc sắc mà Nguyễn Du dành cho người con gái hồng nhan bạc mệnh.

- Với đoạn trích này, Nguyễn Du đã khẳng định tài năng bậc thầy trong việc sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Có lẽ vì thế, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Thêm
261
0
0
Viết trả lời...