Mạng xã hội Văn học trẻ

I. Mở bài:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- Và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Đặc biệt, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã giúp ta cảm nhận được bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du.

- Điều đó được thể hiện qua 8 câu thơ cuối.

II. Thân bài

1. Khái quát đoạn trích

- Sau khi biết mình rơi vào lầu xanh, Kiều thấy tủi nhục rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lãi đã vờ hứa đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới.

- Ở những câu thơ trước, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp nhưng hoang vu, vắng lặng thiếu hơi ấm của cuộc sống con người. Kiều cảm thấy cô đơn, buồn tủi nơi đất khách. Trái tim nàng hướng về những người thân yêu. Nhớ đến Kim Trọng ngày đêm trông ngóng, nàng đau khổ, dằn vặt vì đã phản bội lời thề năm xưa. Nàng thương cha mẹ tuổi già hiu quạnh, không người kề cận mà xót xa trong lòng.

- Đoạn thơ là tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đứng trên lầu cao Kiều nhìn ra bốn phía với hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Thế nhưng, nàng càng mong đợi, lại càng thấy xa vời, mờ mịt hơn. Bốn lần Kiều nhìn ra xa là bốn lần cảnh vật thay đổi. Mỗi bức tranh là mỗi bức tâm trạng, tất cả tạo nên lớp lớp sóng lòng đang trào dâng trong tâm hồn người con gái tha hương.

2. Phân tích 8 câu thơ

- Đoạn thơ chia ra làm bốn cặp lục bát, mở đầu mỗi cảnh là điệp từ “buồn trông” xuất hiện với âm hưởng trầm buồn, báo hiệu biết bao sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều.

* LĐ 1: Mở đầu đoạn thơ là bức tranh nơi cửa biển chiều hôm:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

- “cửa bể” gợi lên không gian mênh mông, rộng lớn đến rợn ngợp.

- “Chiều hôm” là chiều tà, thời gian ước lệ trong thơ ca trung đại gợi lên nỗi buồn man mác. Đây là thời điểm cuối ngày, khi mặt trời sắp tắt, mỗi người thường nhớ về gia đình và quê hương.

- Nguyễn Du khéo léo kết hợp thời gian, không gian ấy tạo nên khung cảnh đìu hiu làm nền cho sự xuất hiện của con thuyền.

- Hình ảnh con thuyền khiến ta liên tưởng đến những chuyến đi xa, trôi dạt giữa biển rộng sông dài.

- Không phải là đoàn thuyền tấp nập ra khơi mà là “thuyền ai”, nghĩa là một chiếc thuyền lẻ loi, chơi vơi giữa mênh mông sóng nước.

- Nguyễn Du đã sử dụng hai từ láy “thấp thoáng”, “xa xa” để nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, mờ ảo của con thuyền. Con thuyền ấy, cánh buồm ấy dẫu có đi xa nhất định sẽ có ngày cập bến. Còn Thúy Kiều thì trôi dạt lênh đênh không biết bao giờ mới được đoàn tụ gia đình. Như vậy hình ảnh con thuyền, cánh buồm là ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều xa nhà, xa quê. Nhìn vào cảnh vật ấy lòng Kiều cảm thấy nhớ nhà da diết với khát khao được đoàn tụ, sum họp gia đình.

* LĐ 2: Bức tranh thứ hai, Nguyễn Du khắc họa cảnh dòng nước với đóa hoa trôi. Cảnh vật được nhìn bằng ánh mắt sầu não đến ghê gớm, trước mắt nàng lại hiện lên cảnh tan tác, chia lìa:

“Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

- “Ngọn nước mới sa” gợi lên hình ảnh dòng nước đang cuồn cuộn đổ từ trên cao, tung bọt trắng dữ dội đang ập xuống.

- Giữa dòng nước đang chảy phía dưới chân Kiều, những cánh hoa đang xoay tròn rồi bị cuốn trôi đi.

- “Hoa” là biểu tượng cho phái đẹp những cũng rất mong manh, sớm nở tối tàn. Hoa chỉ đẹp khi ở trên cành, còn ở đây là hoa trôi một cách thụ động. Nếu sóng yên biển lặng thì hoa sống đời trôi nổi. Còn nếu gặp sóng to, gió lớn thì hoa sẽ bị vùi dập tan nát. “Hoa” chính là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều mong manh, trôi nổi giữa dòng đời vô định. Nếu như bị sóng gió vùi dập thì cuộc đời Kiều cũng tan nát như hoa.

- Từ láy “man mác” gợi tả sự chuyển động mềm mại, nhẹ nhàng, dập dờn của những cánh hoa.

- Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” cho thấy sự mất phương hướng, gợi một nỗi băn khoăn thấp thỏm của Thúy Kiều.

- Nguyễn Du đã kết hợp từ láy với câu hỏi tu từ để nhấn mạnh tâm trạng lo lắng của Kiều trước dòng đời đen bạc.

* LĐ 3: Nhìn về cửa bể, dòng nước không thấy chút niềm thân mật an ủi, Kiều trở về với đám cỏ đôi bờ:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

- Cảnh vật có màu sắc, có đường nét nhưng lại gợi lên âm hưởng buồn ảm đạm. Hình ảnh “cỏ” đã xuất hiện nhiều lần trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn đầy sức sống trong ngày hội xuân “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đâu còn nữa mà thay vào đó là màu của sự tàn tạ, héo úa.

- Từ láy “rầu rầu” vẽ nên cả một vùng cỏ cây tàn héo và gợi nỗi sầu thương cô lẻ.

- Tác giả sử dụng từ láy “xanh xanh” diễn tả màu xanh nhợt nhạt thiếu sức sống. Nhìn từ xa đến gần, từ chân mây đến mặt đất, tất cả không gian đều nhuốm một màu xanh rợn ngợp. Nhưng màu xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu. Với nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã dự cảm về tương lai của Kiều mờ mịt, đen tối.

- Màu cỏ héo úa như sắp tàn lụi như sắp từ biệt vũ trụ, kết thúc cuộc đời ngắn ngủi.

- Màu cỏ hay cũng chính là tâm hồn của Thúy Kiều đang héo úa, rệu rã trước cuộc đời. Phải chăng trong dòng nước mắt cô đơn và tủi cực mà cái nhìn của nàng chán chường, bế tắc, tuyệt vọng.

* LĐ 4: Đến bức tranh cuối cùng, một lần nữa nàng Kiều lắng lòng mình để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những thứ nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh khủng khiếp:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

- Hai câu thơ Nguyễn Du đã miêu tả bức tranh sóng gió biển khơi. Thiên nhiên ở đây không còn êm đềm, tĩnh lặng mà trở nên thật dữ dội.

+ Không phải gió thổi mà là “gió cuốn”- là gió lốc trong những ngày giông bão thổi mạnh, bốc lên cao, mù mịt, cuồn cuộn như 1 trận cuồng phong.

+ Không phải sóng xô, sóng vỗ mạn thuyền mà là “sóng kêu”. Tiếng sóng không còn ở nơi xa nữa mà tiến sát gần Kiều. Dường như xung quanh Kiều là những cơn sóng to, gió lớn như những tai họa sắp ập tới.

- Tác giả sử dụng các động từ mạnh “cuốn, kêu”, nghệ thuật đảo ngữ từ tượng thanh “ầm ầm” đưa lên đầu câu để nhấn mạnh sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên.

- Sóng ở đây có thể là sóng gió biển khơi hay chính là sóng gió cuộc đời đang bủa vây, vồ vập đến nàng. Thiên nhiên đang gào thét hay chính sự gào thét trong lòng Kiều. “Sóng và gió” là hình ảnh ẩn dụ về cuộc đời của Kiều sau này trắc trở, trầm

luân. Câu thơ giúp ta cảm nhận được nỗi sợ hãi, hoảng loạn của Kiều đến không còn sức sống.

- Mở đầu mỗi bức tranh là điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn cho đoạn thơ. “buồn trông” là vừa buồn vừa trông ra xa để trông chờ, mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn. Dường như mỗi lần Kiều trông ra xa là một lần Kiều thất vọng và thất vọng ấy ngày càng nặng nề hơn.

- Cảnh vật và tâm trạng trong bốn bức tranh đều có sự thay đổi theo trình tự tăng tiến. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm. Âm thanh từ tĩnh đến động. Nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều.

* LĐ chốt.

- Đoạn trích không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng nhân vật.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ, đảo ngữ, câu hỏi tu từ, từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm”, các động từ, tính từ giàu sức gợi hình biểu cảm.

- Qua những nghệ thuật đó, Nguyễn Du đã làm nổi bật bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật mong manh, dạt trôi, dữ dội. Lòng người chao đảo, nghiêng đổ cuối cùng hoàn toàn rơi vào bế tắc, tuyệt vọng đến tận cùng. Kiều bất lực, buông xuôi trước thực tại phũ phàng. Bởi thế, nàng ngây thơ mắc lừa Sở Khanh để rồi nàng bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc đời: “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”.

III. Kết bài

- Khép lại đoạn thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến tâm trạng cô đơn, buồn tủi, lo lắng, sợ hãi đến hoảng loạn của Thúy Kiều trước thiên nhiên rộng lớn.

- Ta còn ấn tượng bởi tấm lòng nhân đạo, cảm thương sâu sắc sắc mà Nguyễn Du dành cho người con gái hồng nhan bạc mệnh.

- Với đoạn trích này, Nguyễn Du đã khẳng định tài năng bậc thầy trong việc sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Có lẽ vì thế, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Thêm
406
0
0
Viết trả lời...
1. MB:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Trong đó, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã giúp ta cảm nhận được cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều dành cho những người thân yêu.

2. TB:

* Khái quát chung:

- Đoạn trích nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc”, sau khi biết mình rơi vào lầu xanh, Kiều thấy tủi nhục rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lãi đã vờ hứa đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới.

- Với nghệ thuật miêu tả nội tâm, tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp nhưng hoang vu vắng lặng, tấm lòng Kiều tan nát, ngổn ngang trăm mối tơ vò. Kiều nhớ về Kim Trọng, nhớ về cha mẹ với những phẩm chất đáng tự hào.

* LĐ 1: Sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã miêu tả cảnh thiên nhiên lầu Ngưng Bích và tình cảnh của nàng Kiều.

- Mở đầu đoạn trích, nhà thơ viết:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

- “Khóa xuân” nghĩa là khóa kín tuổi thanh xuân.

- Từ “khóa xuân” thường được sử dụng để chỉ hoàn cảnh của những người con gái trong gia đình quyền quý thời xa xưa bị khóa kín tuổi xuân trong những khuôn khổ, phép tắc của gia đình và xã hội. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng từ “khóa xuân” với hàm ý mỉa mai để nói về cảnh ngộ xót xa, trớ trêu của Thúy Kiều.

- “Ngưng Bích” là nơi màu xanh đọng lại, ngôi lầu ngay cạnh bờ biển. Tên ngôi lầu gợi lên sự thơ mộng, lãng mạn nhưng lại là nơi giam lỏng Thúy Kiều. Còn gì đau đớn

hơn khi đang độ xuân sắc, căng tràn nhựa sống Kiều lại phải chịu cảnh giam giữ, mất tự do?

- Câu thơ khiến người đọc xót xa trước tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều: quá khứ gia biến, hiện tại mất tự do, tương lai mờ mịt đen tối.

- Những câu thơ tiếp, tác giả khắc họa bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích dưới con mắt đầy tâm trạng của Thúy Kiều:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

- Đứng trên lầu cao nàng đưa mắt nhìn cảnh vật. Nàng thấy dãy núi mờ xa, thấy vầng trăng khi tròn khi khuyết trên bầu trời.

- “non xa, trắng gần” có thể là cảnh thực cùng trong một vòm trời, mà cũng có thể là hình ảnh mang tính chất ước lệ để gợi sự mênh mông rợn ngợp của không gian. Hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mông trời nước đã diễn tả tình cảnh cô đơn của Thúy Kiều.

- Nàng chỉ biết bầu bạn với núi, với trăng. Song những người bạn vô tri, vô giác ấy cũng không thể nào san sẻ nỗi buồn đang chất chứa trong lòng Kiều.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

- Nguyễn Du sử dụng từ láy “bát ngát” diễn tả không gian rộng lớn, vô cùng, vô tận.

- “xa trông” gợi lên sự trông ngóng của Thúy Kiều để tìm bóng hình quen thuộc, để hi vọng về một tương lai phía trước.

- Nhưng cái mà Kiều nhìn thấy chỉ là “cát vàng, bụi hồng” nằm ngổn ngang. Cảnh vật ở đây có màu vàng của cát, có màu hồng của bụi, có đường nét, có hình khối nhưng thiếu âm thanh, thiếu hơi ấm của cuộc sống con người vì thế nó trở nên hoang vu, vắng lặng. Và cảnh vật ấy càng tô đậm sự cô đơn lẻ loi của nhân vật Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

- Nếu như hai câu thơ trên tả cảnh thì hai câu thơ dưới tả tình:

Bẽ bàng mấy sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

- Cái hay trong câu thơ là Nguyễn Du sử dụng từ láy, đảo ngữ “bẽ bàng” nghĩa là xấu hổ, tủi thẹn. Kiều vốn là tiểu thơ khuê các, lá ngọc cành vàng có ý thức về nhân cách và danh dự. Vậy mà giờ đây Kiều phải bán mình, bị rơi vào lầu xanh nhơ nhớp. Nghĩ đến hoàn cảnh ấy nàng vô cùng đau đớn, tủi nhục, buồn thương cho chính thân phận mình.

- “mây sớm đèn khuya” là hình ảnh gợi thời gian tuần hoàn khép kín, thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Sáng Kiều làm bạn với mây, tối làm bạn với đèn, nàng cứ thui thủi một mình, không người bầu bạn. Câu thơ đã nhấn mạnh nỗi cô đơn đến tột cùng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đất khách quê người.

- Cảnh buồn, tình buồn hòa nhập vào nhau thành nỗi buồn chất ngất trong lòng Kiều. Đặc sắc trong đoạn thơ là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình miêu tả thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng của con người. Đúng như Nguyễn Du đã viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

- Sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật tả cảnh, tả cảnh ngụ tình, các hình ảnh giàu sức gợi để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp đẽ, thơ mộng nhưng hoang vắng. Cảnh vật ấy càng tô đậm tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều với bao niềm tâm sự đau thương.

* LĐ 2: Tám câu thơ tiếp, Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho những người thân yêu.

- Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi, Kiều hướng về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những

lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ.

* Trước hết là nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng - mối tình đầu trong trắng, đẹp đẽ:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

+ Từ “tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.

+ “Người dưới nguyệt chén đồng” là hình ảnh hoán dụ để chỉ Kim Trọng, người cùng với Thúy Kiều nâng chén rượu thề nguyền dưới ánh trăng:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

- Vầng trăng xưa vẫn còn đó, lời thề xưa vẫn còn đó, vẫn khắc sâu trong trái tim hai người. Vậy mà giờ đây cuộc đời Kiều đã rẽ sang một hướng khác. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.

- Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, ngày đêm mong chờ tin tức của nàng nhưng tin tức ấy mong manh mờ ảo như sương khói mùa thu.

- Vừa hồi tưởng quá khứ vừa nhớ về Kim Trọng, nàng tự trách mình là một kẻ phụ tình, phản bội lời thề năm xưa. Câu thơ giúp ta cảm nhận được tâm trạng của Kiều đau đớn, dằn vặt như giằng xé tâm can.

- Càng nhớ Kim Trọng, càng nuối tiếc mối tình đầu, Kiều càng thấm thía tình cảnh của mình:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

- Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ biến thể “bên trời góc bể” để chỉ tình cảnh của Thúy Kiều trôi dạt nơi đất khách quê người, không biết đến bao giờ mới được đoàn tụ cùng gia đình.

- Từ láy “bơ vơ” như tô đậm thêm nỗi cô đơn lẻ loi của người con gái tha hương.

- Tấm thân trong trắng của Kiều đã bị hoen ố không thể nào gột rửa cho sạch khiến nàng cảm thấy áy náy, dày vò chính bản thân.

- Đặc sắc trong câu thơ là nghệ thuật ẩn dụ “tấm son” để chỉ tấm lòng thủy chung son sắt của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Dù cuộc đời có đổi thay, dù Kiều có bị sóng gió dập vùi thì tấm lòng của nàng không bao giờ thay đổi.

- Với những từ Hán Việt, nghệ thuật miêu tả nội tâm, Nguyễn Du khắc họa sinh động những tâm tư, tình cảm của Thúy Kiều về mối tình đầu dang dở. Nhớ về Kim Trọng rồi nàng lại nghĩ về tình cảnh của mình để rồi xót thương cho người mình yêu. Qua đó ta thấy tình cảm của Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng sâu sắc và mãnh liệt.

* Day dứt nhớ người yêu, Kiều lại thổn thức nhớ về cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

- Chỉ một từ “xót” cũng đủ để ta hiểu được nỗi lòng của Kiều khi hướng về cha mẹ. “Xót” là đau đớn, xót xa như sát muối vào lòng. Nỗi nhớ của tình máu mủ ruột rà khiến con người ta hao mòn cả hình hài cơ thể.

- “Người tựa cửa hôm mai” là hình ảnh hoán dụ để chỉ cha mẹ Thúy Kiều ở quê nhà. Cứ mỗi sáng, mỗi chiều cha mẹ lại tựa cửa trông xa thương nhớ, lo lắng, trông chờ tin tức của đứa con gái trong vô vọng. Nghĩ đến tình cảnh ấy Kiều cảm thấy vô cùng xót xa.

- Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” nói về đạo hiếu của những người làm con: Mùa hè quạt mát, mùa đông tạo hơi ấm cho cha mẹ nghỉ.

- Câu hỏi tu từ “những ai đó giờ?’” như xoáy sâu vào lòng người đọc, nhấn mạnh nỗi băn khoăn lo lắng của Kiều: Không biết ai sẽ là người thay mình chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ già?

- Hai câu thơ sau, Kiều suy nghĩ về bổn phận của đạo làm con:

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

- Điển tích “sân Lai, gốc tử” được vận dụng một cách khéo léo. Lão Lai Tử người nước Sở tuy già nhưng hàng ngày vẫn nhảy múa để mua vui cho cha mẹ. Ý thơ đã diễn tả tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.

- “nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ thời gian xa cách, sự tàn phá của thiên nhiên. Câu thơ cho ta thấy cha mẹ Kiều đã ngày một già yếu. Ở phương xa nàng luôn băn khoăn và tự trách mình không làm tròn chữ hiếu của đạo làm con.

- So với Kim Trọng và cha mẹ, Kiều là người đau khổ và đáng thương nhất: quá khứ gia biến, hiện tại bị chà đạp, mất tự do, tương lai thì mờ mịt. Nhưng nàng đã nén nỗi đau của mình để quan tâm, lo lắng cho những người thân yêu. Không chỉ thủy chung, hiếu thảo, nàng còn là người con gái giàu đức hi sinh. Ở cương vị nào Thúy Kiều đều tỏa sáng những phẩm chất tốt đẹp.

* Nhận xét về trình tự nỗi nhớ:

- Kiều đã từng cân nhắc “Bên tình, bên hiếu bên nào nặng hơn?” Để rồi nàng đưa ra quyết định “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha và em, gia đình Kiều đã tạm thời yên ổn. Nàng đã phần nào báo đền được chữ hiếu.

- Còn về phần Kim Trọng nàng cảm thấy có lỗi vì đã phụ tấm lòng của chàng Kim. Hơn nữa mỗi tình đầu lúc nào cũng nồng nàn cháy bỏng. Vì thế nàng đã nhớ về Kim Trọng trước, nhớ về cha mẹ sau. Trình tự ấy tưởng chừng vô lí nhưng lại rất có lí khi đặt vào hoàn cảnh của Thúy Kiều.

* LĐ chốt:

- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của Nguyễn Du là nghệ thuật tả cảnh, tả cảnh ngụ tình, miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm, thành ngữ, điển cố, điển tích; các biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ…

- Qua những nghệ thuật ấy Nguyễn Du đã tái hiện bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích, đồng thời giúp ta hiểu được những tâm sự của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở nơi đây.

3. KB:

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích đẹp nhưng hoang vu, vắng lặng thiếu âm thanh của sự sống.

- Ta còn nhớ đến nàng Kiều với cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi cùng tấm lòng thủy chung, hiếu thảo dành cho những người thân yêu.

- Nguyễn Du thấu hiểu và đồng cảm với tâm tư, tình cảm của nhân vật Thúy Kiều phải chăng đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm?
Thêm
671
0
0
Viết trả lời...
1. Vị trí đoạn trích:

- Đoạn trích nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc”, sau khi biết mình rơi vào lầu xanh, Kiều thấy tủi nhục rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lãi đã vờ hứa đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới.

2. Các luận điểm chính:

+ Sáu câu đầu: Bức tranh thiên nhiên lầu Ngưng Bích và tình cảnh cô đơn, buồn tủi của Kiều

+ Tám câu tiếp: Nỗi nhớ của Kiều dành cho những người thân yêu.

+ Tám câu cuối: Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.

3. Nội dung: Đoạn trích miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo, vị tha của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

4. Nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình; sử dụng ngôn ngữ độc thoại, các từ láy giàu sức gợi hình, biểu cảm; điển cổ, điển tích; các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ, câu hỏi tu từ.
Thêm
313
0
0
Viết trả lời...
IV. Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

1. MB:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Trong đó, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp toàn diện của hai người con gái họ Vương.

2. TB:

* Khái quát chung:

- Đoạn trích nằm ở phần một “Gặp gỡ và đính ước”, khi giới thiệu về gia đình Vương viên ngoại, tác giả tập trung miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều.

- Với nghệ thuật miêu tả người đến mức điêu luyện, Nguyễn Du đã khắc họa chân dung Thúy Vân, Thúy Kiều, đồng thời tác giả còn dự cảm cuộc đời hai nàng sau này.

* Luận điểm 1: Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đã khắc họa vẻ đẹp chung của hai nàng:

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”

- “ả tố nga” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ người con gái đẹp.

- Nguyễn Du đã khéo léo kết hợp ngôn ngữ bình dân “ả” và ngôn ngữ bác học “tố nga” để giới thiệu gia đình Vương viên ngoại có hai cô con gái đầu lòng đẹp tựa như những nàng tiên trên cung Quế của chị Hằng.

- Với nghệ thuật kể, tiểu đối, tác giả đã cho thấy thứ bậc của hai nàng trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em.

- Sau đó, Nguyễn Du miêu tả khái quát vẻ đẹp của hai chị em:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

- Thành công của Nguyễn Du là sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng lấy thiên nhiên làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp con người. Vẻ đẹp của hai nàng được so sánh với các hình ảnh đẹp của thiên nhiên “mai, tuyết”.

- “Mai cốt cách” gợi lên cốt cách thanh cao như cây mai. Đó là một loài hoa có dáng vẻ mảnh mái, hương thơm quý phái.

- “Tuyết tinh thần” diễn tả tinh thần trong trắng, tinh khiết như tuyết.

- Nghệ thuật tiểu đối đã thể hiện sự cân đối hài hòa giữa vóc dáng và tâm hồn.

+ “Mỗi người một vẻ” cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người.

+ Thành ngữ “mười phân vẹn mười” được vận dụng một cách khéo léo để nhấn mạnh vẻ đẹp toàn diện, hoàn hảo của hai nàng.

=> Với bốn câu thơ lục bát, Nguyễn Du làm nổi bật vẻ đẹp trong sáng, thanh cao của hai nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của hai nàng.

* Luận điểm 2: Bốn câu thơ tiếp theo Nguyễn Du đã gợi tả vẻ đẹp của nhân vật Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngoài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

+ Tác giả sử dụng từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người miêu tả.

+ Từ láy “trang trọng” diễn tả vẻ đẹp đoan trang, cao sang, quý phái.

=> Câu thơ gợi lên ấn tượng tốt đẹp về một người phụ nữ trong khuôn khổ, lễ giáo của xã hội phong kiến.

- Bút pháp ước lệ tượng trưng tiếp tục được phát huy hiệu quả khi khắc họa bức chân dung Thúy Vân. Vẻ đẹp của nàng được ví với vẻ đẹp của trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.

- Miêu tả Thúy Vân, tác giả khắc họa trên nhiều bình diện khác nhau:

+ “Khuôn trăng đầy đặn” là hình ảnh ẩn dụ gợi lên khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như vầng trăng.

+ “nét ngài nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung của nàng.

+ “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười tươi tắn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà. Từ “thốt” còn diễn tả cử chỉ ngôn ngữ của nàng nhẹ nhàng, tinh tế. Mỗi lời nàng nói ra tựa như đang tuôn châu nhả ngọc.

+ “Mái tóc của nàng mềm, mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết.

- Với nghệ thuật ẩn dụ, liệt kê, so sánh cùng với các hình ảnh giàu sức gợi tả “đầy đặn, nở nang”, Nguyễn Du đã làm nổi bật vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, đài các của Thúy Vân.

- Nghệ thuật nhân hóa “mây thua, tuyết nhường” cho thấy vẻ đẹp của nàng êm đềm hòa hợp với thiên nhiên nên được thiên nhiên nghiêng mình ngưỡng mộ. Qua đó, tác giả dự cảm cuộc đời của nàng sau này êm đềm, suôn sẻ, hạnh phúc.

* Luận điểm 3: Mười hai câu thơ tiếp theo Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.

- Thúy Vân là em nhưng lại được miêu tả trước, đó là dụng ý của Nguyễn Du khi sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. Nguyễn Du trân trọng vẻ đẹp của Thúy Vân và lấy đó làm nền nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn”

- Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về tâm hồn của Thúy Kiều.

- Nghệ thuật so sánh “lại là phần hơn” giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt trội hơn so với Thúy Vân.

- Thúy Kiều là người con gái có nhan sắc tuyệt trần:

+ Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhấn”:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

-“Làn thu thủy” gợi tả đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo như làn nước mùa thu.

-“Nét xuân sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân.

- Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nhìn vào đôi mắt ấy, ta không chỉ thấy sự tinh anh của trí tuệ con người mà còn thấy Kiều là người con gái có trái tim nhạy cảm, giàu tình yêu thương.

- Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã nhấn mạnh vẻ đẹp của Thúy Kiều đến mức hoàn mĩ, xứng đáng là trang giai nhân tuyệt sắc.

- Vẻ tươi tắn của nàng khiến cho hoa phải ghen, nét thanh xuân của nàng khiến cho liễu phải hờn. Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật nhân hóa “hoa ghen, liều hờn” giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp vượt ngưỡng, nằm ngoài tầm kiểm soát của tạo hóa nên bị tạo hóa ganh ghét, đố kị. Tác giả dự cảm cuộc đời của Thúy Kiều sau này sóng gió, trắc trở.

- Thúy Kiều còn mang vẻ đẹp về tài năng và tâm hồn:

+ Không chỉ đẹp, Thúy Kiều còn rất đa tài:

“Một hai nghiêng nước, nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

- Thành ngữ “nghiêng nước, nghiêng thành” một lần nữa nhấn mạnh nhan sắc của Thúy Kiều làm cho các bậc đế vương phải say mê, đắm đuối đến mức thành nghiêng, nước đổ.

- Nếu như xét về nhan sắc nàng đứng thứ nhất trong thiên hạ thì tài năng của nàng may ra mới có người đứng thứ hai.

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”.

- Tài năng của nàng là do yếu tố thông minh, bẩm sinh thiên phú cùng với sự chăm chỉ tập luyện hàng ngày.

- Cầm, ca, thi, họa lĩnh vực nào nàng cũng đều đạt đến độ xuất chúng. Nhưng nổi bật hơn cả là tài chơi đàn hồ cầm. Nàng chơi đàn điêu luyện, thành thạo âm, luật đến mức trở thành ngón nghề riêng, vượt lên trên tất cả mọi người.

- Không chỉ chơi đàn hay, nàng còn sáng tác cung đàn “Bạc mệnh”. Tên cung đàn gợi sự mong manh, bạc bẽo của cuộc đời người phụ nữ. Và khi cung đàn ấy tấu lên âm thanh của nó nghe ai oán, não nề lòng người. Tiếng đàn ấy là tài năng, là tiếng lòng của người con gái đa sầu, đa cảm nên cuộc đời của nàng cũng lắm đa đoan.

=> Vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của ba yếu tố: nhan sắc tuyệt trần, tài năng tuyệt thế, trái tim đa sầu, đa cảm. Theo quan niệm của Nguyễn Du, cuộc đời nàng khó lòng tránh nổi thuyết tài mệnh tương đố:

“Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

* Luận điểm 4: Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du nhận xét về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em.

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh, xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

- “hồng quần” là hình ảnh vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa hoán dụ cho ta thấy Thúy Vân, Thúy Kiều là những người con gái xuất thân cao sang, quyền quý.

- Tác giả sử dụng liên tiếp các từ láy, từ ghép “xuân xanh, xấp xỉ, cập kê” để diễn tả hai nàng ở độ tuổi búi tóc, cài trâm, có nhu cầu giao lưu, gặp gỡ bạn bè.

- Ấy vậy mà hai nàng vẫn sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” trong vòng tay che chở của gia đình.

- “Tường đông ong bướm” là hình ảnh tượng trưng cho những nơi trai gái giao lưu, hò hẹn. - Cụm từ “đi về mặc ai” diễn tả thái độ tuyệt giao với thế giới bên ngoài. Điều đó đã làm nổi bật đức hạnh của hai nàng – những người con gái có lối sống khuôn phép, mẫu mực trong nền nếp gia phong.

- Chính lối sống ấy đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho sự hình thành, phát triển nhân cách của hai chị em sau này, đặc biệt là Thúy Kiều.

* Luận điểm chốt

- Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của Nguyễn Du là sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng lấy thiên nhiên làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người; bút pháp gợi tả, nghệ thuật đòn bẩy.

- Nghệ thuật miêu tả người đến mức điêu luyện với các hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm.

- Các biện pháp tu từ: liệt kê, ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng một cách khéo léo.

- Qua những nghệ thuật ấy, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân dung của chị em Thúy Kiều đồng thời dự cảm về số phận của Thúy Kiều, Thúy Vân trong tương lai.

- Nguyễn Du hết lời trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của hai nàng, phải chăng đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm?

c. Kết bài:

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến Thúy Vân – một người con gái xinh đẹp, đoan trang, phúc hậu với dự cảm về cuộc đời bình lặng, yên ả.

- Ta còn nhớ đến Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn với dự cảm về cuộc đời chìm nổi lênh đênh.

- Ta còn ấn tượng về Nguyễn Du - một trái tim chan chứa yêu thương, đồng cảm với số phận con người.

- Có lẽ vì thế “Truyện Kiều” của Nguyễn Du trở thành cuốn sách gối đầu tay của biết bao thế hệ bạn đọc. Nguyễn Du thật xứng đáng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Thêm
435
0
0
Viết trả lời...
I. Tác giả Nguyễn Du:

1. Những yếu tố tạo nên thiên tài Nguyễn Du:

- Nguyễn Du (1765 – 1820)

- Tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên.

- Quê: Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

- Là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

a. Thời đại:

- Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, xã hội phong kiến Việt Nam khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân nổ ra liên tục, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

- Nhưng Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi, triều Nguyễn lên thay.

- Những thay đổi kinh thiên động địa ấy tác động mạnh tới nhận thức tình cảm của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút của mình vào hiện thực.

b. Gia đình:

- Gia đình Nguyễn Du là gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương.

- Nhưng gia đình ông cũng bị sa sút. Nguyễn Du mồ côi cha năm chín tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Hoàn cảnh đó cũng tác động lớn tới cuộc đời Nguyễn Du.

c. Bản thân:

+ Là người thông minh, tài trí, hiểu biết sâu rộng,

+ Am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.

+ Có vốn sống phong phú với nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, nhiều con người, số phận khác nhau.

+ Có trái tim giàu lòng yêu thương.

- Nguyễn Du là một thiên tài văn học, nhà nhân đạo chủ nghĩa.

2. Về sự nghiệp văn học của Nguyễn Du:

- Sáng tác nhiều tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm

+ Ba tập thơ chữ Hán gồm 243 bài (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục)

+ Chữ Nôm: có Văn chiêu hồn, Truyện Kiều,…

II. Tác phẩm “Truyện Kiều”:

1. Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác vào đầu thế kỷ 19

2. Xuất xứ: Truyện có nguồn gốc từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc)

3. Thể loại: Truyện thơ Nôm.

4. Nhan đề:

- Nguyễn Du dặt tên cho tác phẩm của mình là “Đoạn trường tân thanh”: tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột.

- Nhân dân quen gọi là “Truyện Kiều”

5. Bố cục: Gồm 3254 câu thơ lục bát, chia làm 3 phần:

+ P1: Gặp gỡ và đính ước

+ P2: Gia biến và lưu lạc

+ P3: Đoàn tụ.

III. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

1. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần một “Gặp gỡ và đính ước”, khi giới thiệu gia đình Thuý Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc của 2 chị em Thuý Vân, Thuý Kiều.

2. Bố cục đoạn trích: 4 phần

+ Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát vẻ đẹp trong sáng, thanh cao của hai chị em Thuý Kiều.

+ Bốn câu tiếp: Miêu tả vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu đài các của Thuý Vân

+ Mười hai câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp toàn diện của Thuý Kiều

+ Bốn câu cuối: Đức hạnh của hai nàng.

3. Nội dung:

- Đoạn trích khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thuý Kiều.

- Ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.

4. Nghệ thuật:

- Sử dụng thành công thể thơ lục bát của dân tộc

- Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật qua bút pháp ước lệ tương trưng, lí tưởng hóa

- Nghệ thuật đòn bẩy làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.

- Các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, liệt kê.

- Kết hợp ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân.
Thêm
359
0
0
Viết trả lời...
a. MB:

Hình ảnh người phụ nữ là đề tài quen thuộc, gợi cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ, nhà văn. Có rất nhiều tác phẩm thành công khi viết về mảng đề tài này, trong đó có “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Truyện giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp và số phận bất hạnh của nhân vật Vũ Thị Thiết hay còn gọi là Vũ Nương.

b. TB:

* Khái quát chung về tác phẩm:

- Giới thiệu xuất xứ (hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn trích)

- Tóm tắt ngắn gọn cốt truyện.

- Giới thiệu chi tiết các luận điểm cần phân tích

+ “Chuyện người con gái Nam Xương” được trích trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, có nguồn gốc từ truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.

+ Truyện kể về nhân vật Vũ Thị Thiết xinh đẹp nết na lấy chồng là Trương Sinh nhà giàu nhưng có tính đa nghi. Trương Sinh đi lính, nàng ở nhà sinh con, chăm sóc và lo tang cho mẹ chồng chu đáo.

+ Trương Sinh trở về nghe lời con trẻ đã nghi oan cho vợ thất tiết, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Nàng thanh minh không được, hàng xóm bênh vực, Trương Sinh cũng không nghe. Uất nhục, nàng đã trẫm mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.

+ Dưới ngòi bút giàu lòng nhân ái của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được khắc họa với những nét đẹp đáng tự hào: yêu chồng, thương con, hiếu thảo…Nhưng cuộc đời của nàng lại là những trang đầy nước mắt.

* Luận điểm 1: Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết.

- Ngay từ đầu truyện Vũ Nương được giới thiệu “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”.

- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Vì cảm mến dung hạnh ấy mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.

* Luận cứ 1: Với tư cách là người vợ, nàng luôn yêu chồng, thủy chung, khao khát có một gia đình hạnh phúc.

* Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: nàng hiểu chồng có tính “đa nghi”, “phòng ngừa quá mức” nên Vũ Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không lúc nào vợ chồng thất hòa.

=> Nàng là người phụ nữ hiến thục, khôn khéo để vun vén cho gia đình hạnh phúc.

* Khi Trương Sinh đi lính Vũ Nương tiễn biệt chồng bằng những lời lẽ nặng nghĩa ân tình “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Câu nói ấy ta thấy ước mong của nàng thật bình dị, chẳng mong gì vinh hoa phú quý, nàng chỉ cần chồng bình yên trở về đoàn tụ gia đình.

- Nàng cảm thông, lo lắng cho những vất vả, hiểm nguy mà chồng phải đối mặt nơi chiến trường “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”

- Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ nhung da diết “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”.

=> Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

* Khi xa chồng:

- Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”

- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với bóng. Nàng dỗ con chỉ cái bóng của mình trên vách mà bảo đó là cha Đản.

- Trương Sinh đi lính nàng ở nhà một lòng chờ trông ngóng đợi:“Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.

* Ngay cả khi bị nghi oan thất tiết: nàng đã hết lời thanh minh, giãi bày “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Những lời thanh minh nàng hi vọng cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

=> Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh.

* Khi ở dưới thủy cung: Vũ Nương vẫn ngày đêm nghĩ đến chồng, gia đình.

* Luận cứ 2: Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng.

- Thương nhớ chồng bao nhiêu nàng dồn hết tâm sức chăm sóc mẹ chàng.

- Mẹ Trương Sinh vì nhớ con mà sinh đau ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”

- Rồi khi mẹ nằm xuống nàng lo liệu chu toàn giống như cha mẹ đẻ của mình.

- Lời trăng trối của mẹ Trương Sinh trước lúc lầm chung “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ” đã ghi nhận công đức của nàng. Cách đối xử của Vũ Nương với mẹ chồng không đơn thuần là trách nhiệm mà còn là tình cảm của một người con hiếu thảo, giàu tình yêu thương.

* Luận cứ 3: Là người mẹ, nàng hết lòng yêu thương con.

- Trương Sinh đi lính vừa đầy tuần nàng sinh một bé trai đặt tên là Đản. Nàng vừa là cha, vừa là mẹ chăm sóc, dạy dỗ con thơ.

- Thương con không có cha bên cạnh, mỗi tối nàng trỏ cái bóng của mình trên tường mà bảo đó là cha Đản. Chi tiết đó thật cảm động biết bao! Cái bóng ấy để khỏa lấp nỗi vợ nhớ chồng, con nhớ cha, để bé Đản luôn có cảm giác cha luôn bên cạnh. Và ngờ đâu chính cái bóng ấy đã đẩy nàng đến nỗi oan khuất sau này.

* Luận cứ 4: Vũ Nương là người phụ nữ đảm đang, trọng danh dự.

- Những ngày Trương Sinh đi lính, một tay nàng lo liệu mọi công việc trong gia đình: Đối nội, đối ngoại, sinh con, nuôi con, chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng…Lĩnh vực nào nàng cũng chu toàn.

- Khi bị Trương Sinh nghi oan là thất tiết, nàng đã hết lời thanh minh để giữ gìn danh dự. Khi bị chống mắng nhiếc, đánh đuổi đi nàng vô cùng đau khổ. Nàng tắm gội chay sạch ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời thề với thần sông “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ và chịu khắp mọi người phỉ nhổ”

- Thế rồi nàng trẫm mình tự vẫn. Nàng thà chết chứ không chịu sống ô nhục, sống trong sự cười chê, khinh bỉ của người đời. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh, phẩm giá còn cao hơn sự sống.

- Sau này khi gặp Phan Lang có cơ hội nàng liền gửi chiếc hoa vàng nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan với mong muốn phục hồi danh dự, trả lại tiếng thơm nơi trần thế.

* Luận cứ 5: Không những thế Vũ Nương còn là người phụ nữ trọng tình, trọng nghĩa, sống vị tha, nhân hậu.

- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ.

- Trương Sinh là người đẩy nàng đến cái chết nhưng nàng không một lời oán giận. Khi nghe Phan Lang kể về tình cảnh sầu thảm của Trương Sinh nàng đã ứa hai hàng nước mắt.

- Cuối tác phẩm khi đàn giải oan được lập, nàng đã trở về nói vọng vào lời từ biệt. Điều đó khiến Trương Sinh nguôi ngoai nỗi ân hận và nuối tiếc.

- Dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi. Chi tiết ấy làm nổi bật nàng là người trọng tình, trọng nghĩa.

=> Nguyễn Dữ đã đặt Vũ Nương vào nhiều hoàn cảnh khác nhau để khắc họa tính cách. Ở nàng hội tụ đủ các yếu tố công, dung, ngôn, hạnh, là tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.



* Luận điểm 2: Xinh đẹp, giỏi giang là thế lẽ ra Vũ Nương phải được sung sướng, hạnh phúc. Nhưng sống trong xã hội phong kiến, cuộc đời nàng lại là những bi kịch đắng cay.

- Bi kịch của nàng bắt nguồn từ cuộc hôn nhân mang màu sắc mua bán. Vũ Nương vốn “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Trương Sinh là sản phẩm của chế độ trọng nam khinh nữ. Vì tính đa nghi, hay ghen của mà Vũ Nương phải luôn chịu đựng sự xét nét “phòng ngừa quá sức”.

- Khi TS đi lính nàng phải sống trong cảnh cô đơn phòng không gối chiếc. Những ngày nàng sống hạnh phúc thật ngắn ngủi “Sum họp chưa thỏa tình chăn gối đã chia phôi vì động việc lửa binh”.

- Đau khổ hơn nàng phải chịu nỗi oan thất tiết. Trương Sinh trở về nghe lời nói ngây thơ của con trẻ “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?... Trước đây có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” đã nghi oan cho vợ thất tiết. Trương Sinh về nhà la um lên cho hả giận, mẵng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Nàng bị chà đạp về thể xác, bôi nhọ về danh dự, đày đọa về tinh thần. Bị dồn vào bước đường cùng nàng phải tìm đến cái chết trong đau đớn, tủi nhục.

+ Suy cho cùng cái chết của nàng là do chế độ phong kiến thối nát với chiến tranh phi nghĩa xảy ra liên miên, với chế độ nam quyền độc đoán mà hiện thân là Trương Sinh.

- Bi kịch của Vũ Nương còn thể hiện ở cuối tác phẩm. Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa theo sau là 50 chiếc xe cờ tán võng lọng…nói lời từ biệt rồi biến mất đi. Nàng muốn trở về mà không thể trở về, khát khao hạnh phúc mà chẳng có được hạnh phúc. Đó chính là bi kịch đau đớn nhất của Vũ Nương và cũng là bi kịch đau đớn nhất của một kiếp người.

* Luận điểm chốt:

- “Chuyện người con gái Nam Xương” không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của Nguyễn Dữ là xây dựng tình huống truyện độc đáo đặc biệt là chi tiết cái bóng; nghệ thuật thắt nút, mở nút đầy bất ngờ với người đọc, sử dụng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để khắc họa tính cách nhân vật.

- Cách kể chuyện hấp dẫn đan xen kể, tả thực với các chi tiết kì ảo hoang đường.

- Kể chuyện theo ngôi thứ 3 là câu chuyện khách quan, tăng độ tin cậy, kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm.

- Qua những nghệ thuật ấy, Nguyễn Dữ đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận của nhân vật Vũ Nương. Hình ảnh nàng Vũ Thị Thiết khiến ta liên tưởng đến nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du hồng nhan nhưng bạc phận. Vẻ đẹp, số phận của nàng chính là vẻ đẹp và số phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

C. KB:

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến Vũ Nương – người phụ nữ thùy mị, nết na, yêu chồng, thương con, đảm đang, tháo vát…

- Ta còn xót xa trước những đau khổ mà nàng phải gánh chịu.

- Nguyễn Dữ hết lời ca ngợi vẻ đẹp của nàng đồng thời lớn tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát đã cướp đi cuộc sống tốt đẹp của con người. Phăng chăng đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm
Thêm
514
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả:

– Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

– Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời.

- Là nhà văn tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam.

2. Tác phẩm: a. “Truyền kì mạn lục”:

– Là ghi chép tản mạn về những câu chuyện kì lạ được lưu truyền trong nhân gian.

– Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” (áng văn lạ ngàn đời ).

– Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.

b. Văn bản:

– “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 của tp “Truyền kì mạn lục”, có nguồn gốc từ truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.

* Thể loại: Truyện truyền kỳ:

(Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành từ thời Đường,

- Truyện truyền kì thường mô phỏng những cốt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó, được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc bệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo…)

* Bố cục: 3 phần:

– Phần 1: Từ đầu đến…lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương.

– Phần 2: Tiếp đến …nhưng việc trót đã qua rồi!” : Nỗi oan của Vũ Nương.

– Phần 3: Còn lại : Vũ Nương được giải oan.

* Ngôi kể: Truyện được kể theo ngôi thứ 3

- Tác dụng:

+ Làm cho câu chuyện khách quan, tăng độ tin cậy

+ Người kể dễ dàng đan xen những suy nghĩ, bình luận làm câu chuyện thêm sinh động.

* Phương thức biểu đạt: Tự sự có sự kết hợp yếu tố miêu tả, biểu cảm.

* Tóm tắt:

- Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh con nhà giàu nhưng có tính đa nghi.

- Hạnh phúc chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng đau ốm, lo ma chu toàn khi bà qua đời. Để dỗ dành con, Vũ Nương thường chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha của đứa bé.

- Chiến tranh kết thúc Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ, nghi vợ thất tiết nên đánh đuổi đi. Vũ Nương thanh minh không được, hàng xóm bênh vực Trương Sinh cũng không nghe. Uất nhục, nàng gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được đức Linh Phi và các tiên nữ cứu giúp.

- Sau đó Trương Sinh mới biết vợ bị oan.

- Trong làng có Phan Lang làm đầu mục ở bến Hoàng Giang. Phan Lang nằm mộng thả con rùa mai xanh. Sau này, Phan Lang chạy giặc đắm thuyền chết đuối và được Linh Phi trả ân.

- Vũ Nương gặp Phan Lang, nàng gửi chiếc hoa vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào lời từ biệt rồi biến mất.

* Giá trị nội dung:

+ Giá trị hiện thực:

- Phản ánh số phận bất hạnh của con người đặc biệt là người phụ nữ.

- Phản ánh chế độ phong kiến thối nát: các cuộc chiến tranh phi nghĩa xảy ra liên miên làm tan nát biết bao gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ mà hiện thân là nhân vật Trương Sinh.

+ Giá trị nhân đạo:

- Ca ngợi vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ.

- Thương cảm với những đau khổ, bất hạnh của nhân vật.

- Tố cáo xhpk thối nát đã đẩy con người vào bước đường cùng.

- Thể hiện khát vọng về cuộc sống tốt đẹp, về lẽ công bằng trong cuộc đời.

* Giá trị nghệ thuật:

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, kịch tính.

- Nghệ thuật thắt nút, mở nút đầy bất ngờ với người đọc.

- Kể chuyện hấp dẫn đan xen kể, tả thực với những yếu tố kì ảo hoang đường.

- Miêu tả lời nói, hành động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để khắc họa tính cách nhân vật.

- Ngôn ngữ trau chuốt, điêu luyện.
Thêm
314
0
0
Viết trả lời...
II. Dàn ý:

A. Mở bài

- Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân. Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập trong lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Đọc truyện ngắn này ta nhận ra những chuyển biến mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.

B .Thân bài:

1.Khái quát về tác phẩm

Truyện “Làng” được viết năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.Truyện thành công không chỉ bởi tài năng truyện ngắn của ông mà còn do sự am hiểu người nông dân cùng thời kì lịch sử lúc bấy giờ.Nhà văn đã có lần tâm sự:" cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn ,tôi đã vào làng.Lúc ấy Tây còn đóng ở cầu Đuống ,tôi về làng chơi mấy lần chứng kiến tận mắt thế nào là làng chiến đấu".Truyện hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt cùng với cách viết đơn giản ngôn ngữ mộc mạc dân dã .

2. Chứng minh nhận định

2.1.Trước cách mạng, người nông đân VN thuần túy là những người rất yêu làng.

- Ở mỗi người nông dân, quả thực tình yêu làng quê là bản chất có tính truyền thống. Yêu làng, gắn bó với làng, tự hào về làng của mình vốn là tâm lý rất quen thuộc có tính gốc rễ. Và ông Hai trong truyện ngắn này cũng không phải là ngoại lệ.

- Ông Hai luôn tự hào về cái làng của mình, đi đến đâu ông cũng khoe về nó

+ Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, đường lát đá xanh …; khoe làng ông có cái chòi phát thanh cao tận ngọn tre, khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông

=> Tất cả những điều đó chứng tỏ ông Hai là một người rất yêu làng

2.2. Sau cách mạng, tình cảm của ông đã có những chuyển biến rõ rệt. Tình cảm trong ông lúc này ko chỉ đơn thuần là tình yêu quê hương mà nó đã gắn liền với tihnf

yêu kháng chiến, yêu đất nước. Điều đó được thể hiện ở diễn biến tâm trạng của ông khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

*Tình cảm của ông Hai với làng khi đi tản cư

- Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để yêu thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến một miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải xa làng. Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.

- Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

- Ông luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.

2.2. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc: (Nhưng khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu tình cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng nhiên biến thành những nỗi lo âu, dằn vặt)

- Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.

- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.

- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”

- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào... Nhưng giờ đây.... dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể

được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.

- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.

+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.

2.3 Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng kháng chiến (Niềm vui của ông Hai khi tin đồn được cải chính.

- Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai thật là sâu sắc và cảm động.

- So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy. => Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.

- Văn hào I li a, E ren bua có nói: …” Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc. Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.

3.Đánh giá

Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một ngườ

tượng nhân vật ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình yêu quê hương đất nước.

C. Kết bài

- Khẳng định lại vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam và tấm lòng của nhà văn đối với họ. - Ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp. - Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. - Tác giả viết bằng trái tim, tình cảm của mình nên dễ tìm được sự đồng cảm từ người đọc.
Thêm
847
0
0
Viết trả lời...
A. Mở bài : Giới thiệu vấn đề nghị luận

Kim Lân là một nhà văn gắn bó máu thịt với những người nông dân nghèo, những kiếp người chịu nhiều khốn khổ bần cùng. Ông cũng là một văn nhân có trái tim yêu nước son sắt, một tấm lòng thiết tha với dân tộc. Bởi vậy mà những sáng tác của ông thường viết về những người nông dân có lòng yêu nước, yêu cách mạng sâu sắc. Nói đến các sáng tác của Kim Lân ta không thể không kể đến truyện ngắn “Làng”. Tác phẩm đã khắc hoạ sinh động chân dung nhân vật ông Hai - một người nông dân chân chính với tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết và sự gắn bó máu thịt với bộ đội cụ Hồ. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét nhất qua đoạn trích kể lại diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi ông vừa nghe được tin làng mình theo giặc

B .Thân bài:

1.Khái quát về tác phẩm

Truyện ngắn “làng” của nhà văn Kim Lân được viết năm 1948,thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.Truyện thành công không chỉ bởi tài năng viết truyện của Kim Lân mà còn do sự am hiểu người nông dân cùng thời kì lịch sử lúc bấy giờ.Nhà văn đã có lần tâm sự:" cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn ,tôi đã vào làng.Lúc ấy Tây còn đóng ở cầu Đuống ,tôi về làng chơi mấy lần chứng kiến tận mắt thế nào là làng chiến đấu".Truyện hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt cùng với cách viết đơn giản ngôn ngữ mộc mạc dân dã .

2.Cảm nhận về tâm trạng ông Hai trong đoạn trích

2.1. Khái quát nội dung đoạn trước đó.

Ở phần đầu của tác phẩm, người đọc đã được chứng kiến một ông Hai rất yêu và tự hào về làng của mình. Đi đâu ông cũng khoe về làng. Ở nơi tản cư ông nhớ làng và chỉ muốn quay về làng cùng anh em tham gia kháng chiến. Không về làng được, ông hay đến phòng thông tin để nghe tin kháng chiến, tin về làng mình. Thế nhưng đang trong tâm trạng vô cùng vui sướng khi nghe được nhiều tin vui về cách mạng thì ông bất ngờ nghe được một tin sét đánh: Tin làng chợ Dầu theo giặc

2.2.Cảm nhận về tâm trạng ông Hai trong đoạn trích

* Tâm trạng bàng hoàng, sửng sốt đau khổ khi bất ngờ nghe được tin làng theo giặc.

Nhà văn Kim Lân đã thực sự rất tài tình khi xây dựng tình huống truyện. Ông để cho ông Hai vui sướng đến tột độ khi nghe được nhiều tin kháng chiến rồi bất ngờ cho ông nghe được tin làng theo Tây. Cuộc gặp gỡ với đoàn tản cư trên đường trở về từ phòng thông tin diễn ra thật bất ngờ.Gặp được đoàn tản cư với ông là một cơ hội để ông hỏi về cái làng quê yêu dấu của mình và háo hức được nghe tin làng chiến đấu chống giặc ngoan cường.Nhưng cái điều ông chờ đợi không đến. Lời kể của người đàn bà cho con bú đã dập tắt tất cả:"cả làng chúng nó việt gian theo tây còn giết gì nữa". Lời nói đỏng đảnh đầy chế giễu của người đàn bà cho con bú giống như một nhát dao cứa vào trái tim ông,nghe như một tiếng sét bên tai làm ông hoảng loạn và sụp đổ:" Cổ nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân.Ông lão lặng đi tưởng đến không thở được". Đó là cái cảm giác sững sờ choáng váng ,co thắt từng khúc ruột của ông; là trạng thái phản ác tâm lí hết sức tự nhiên của một người quá yêu làng. Nếu không yêu thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc không thể gây chấn động mạnh tựa như một cú sốc tinh thần như thế với ông Hai. Sở dĩ ông choáng váng ,sững sờ vì trong thâm tâm của ông cái làng chợ Dầu quê ông vốn rất kiên cường, ấy vậy mà giờ đây niềm tin ấy đã

hoàn toàn sụp đổ. Nỗi đau khổ cực độ ấy càng chứng minh ông là người yêu làng chợ Dầu tha thiết lắm.càng yêu bao nhiêu càng đau khổ bấy nhiêu. Như thế là phù hợp với quy luật của cảm xúc

*Tuy nhiên ông vẫn chưa tin vào những điều mà mình vừa nghe

Tuy nhiên ông vẫn nghi nghi hoặc hoặc : "Liệu có thật không hở bá?c".Câu hỏi thể hiện sự bán tín, bán nghi. Ông mong mỏi tin ấy không đúng, chỉ là một sự nhầm lẫn… Ông làm sao có thể tin được rằng làng chợ Dầu theo Tây, người dân làng ông là Việt gian. Niềm yêu thương mãnh liệt, sâu nặng của ông làm sao chó thể chấp nhận được điều ấy. « Hay là chỉ lại….” Lời ông nói được kết thúc bằng dấu chấm lửng. Ông không nói hết câu, có thể bởi những tin tức mà người phụ nữ tản cư nói rất chính xác, cụ thể. Nhưng cũng có thể dấu chấm lửng ấy còn cho ta thấy nỗi lo sợ đến tột cùng của ông Hai. Phải chăng ông Hai ngừng lời vì sau câu hỏi của ông là sự xác nhận làm ông đau xót, tin tức ấy sẽ được xác nhận 1 lần nữa, ông không muốn nghe, không muốn thấy…

*Cái tin làng theo Tây khiến ông xấu hổ đành đánh trông lảng ra về.

Ông thể nghe thêm điều gì nữa, ông Hai đánh trống lảng ra về. Dường như cái tin dữ ấy trở thành một nỗi ám ảnh cứ bám diết lấy ông,nó làm cho bước chân ông khi trở vệ trở nên rất nặng nề.Nều khi đến phong thông tin tuyên truyền ông đi nghênh ngang giữa đường vắng thì bây giờ:" Cúi gằm mặt xuống mà đi". Ông không giám ngẩng mặt lên vì xấu hổ,xấu hổivới mọi người và xấu hổ với chính mình bởi ông đã trót khoe về làng mình nhiều quá. Không chỉ khoe làng đẹp mà còn khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng , khoe các cụ gì râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai. Bây giờ thì mọi người đều biết làng ông theo Tây,ô ng sẽ giải thích thế nào.

* Ông trở về nhà mang theo tâm trạng vừa xấu hổ vừa nhục nhã.

Về đến nhà,sự mệt nhọc như đã chiếm hết tâm trí ông, và thứ ông suy nghĩ duy nhất đó là đứa con của mình. ông hai nằm vật ra giường.nhìn lũ con tủi thân nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu. Cái nỗi đau đớn căm giận đến tột cùng của ông đã nhấn chìm ông xuống chiếc giường. Ông khóc vì ông thương lũ nhỏ vì mới mấy tuổi đầu đã mang tiếng là con người việt gian bán nước. Ông lo cho tương lai của những đứa nhỏ không biết đi đâu về đâu. Càng thương con bao nhiêu thì nỗi căm tức của ông lại càng lớn bấy nhiêu. Ông căm thù bọn theo Tây phản bội làng ông nắm chặt hai bàn ay và rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy. Niềm tin nỗi nhớ cứ giằng xé trong ông. Tủi thân ông hai thương con,thương dân làng chợ Dầu,thương thân mình mang tiếng là người làng việt gian.

3.Đánh giá

- Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính cách, phẩm chất của nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị tự nhiên, gần gũi, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm cũng góp phần tạo nên một hình tượng chân thực và đẹp đẽ về người nông dân Việt Nam.

- Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận thức của người nông dân Việt Nam: tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.

C. Kết bài:

Có thể nói rằng truyện ngắng “Làng” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Tác phẩm và đặc biệt là đoạn trích kể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi vừa nghe tin làng theo giặc đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn Kim Lân, càng thêm trân trọng và yêu mến những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến. Từ tình huống ông Hai nghe được tin cải chính về làng, tác phẩm đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình yêu quê hương, về lòng yêu nước. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Thêm
3K
0
0
Viết trả lời...
Dàn ý:

A. Mở bài

Kim Lân là một nhà văn gắn bó máu thịt với những người nông dân nghèo, những kiếp người chịu nhiều khốn khổ bần cùng. Ông cũng là một văn nhân có trái tim yêu nước son sắt, một tấm lòng thiết tha với dân tộc. Bởi vậy mà những sáng tác của ông thường viết về những người nông dân có lòng yêu nước, yêu cách mạng sâu sắc. Nói đến các sáng tác của Kim Lân ta không thể không kể đến truyện ngắn “Làng”. Tác phẩm đã khắc hoạ sinh động chân dung nhân vật ông Hai - một người nông dân chân chính với tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết và sự gắn bó máu thịt với bộ đội cụ Hồ. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét nhất qua đoạn trích kể về tâm trạng của ông Hai khi nghe được tin cải chính.

B .Thân bài:

1.Khái quát về tác phẩm

Truyện làng được viết năm 1948,thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.Truyện thành công không chỉ bởi tài năng truyện ngắn của ông mà còn do sự am hiểu người nông dân cùng thời kì lịch sử lúc bấy giờ.Nhà văn đã có lần tâm sự:" cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn ,tôi đã vào làng.Lúc ấy Tây còn đóng ở cầu Đuống ,tôi về làng chơi mấy lần chứng kiến tận mắt thế nào là làng chiến đấu".Truyện hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt cùng với cách viết đơn giản ngôn ngữ mộc mạc dân dã .

2.Cảm nhận ông Hai trong đoạn trích

2.1. Khái quát nội dung đoạn trước đó.

Ở phần đầu của tác phẩm, người đọc đã được chứng kiến một ông Hai rất yêu và tự hào về làng của mình. Đi đâu ông cũng khoe về làng thế nên khi nghe tin làng theo giặc ông vô cùng bàng hoàng sửng sốt. Không không tin đó là sự thật nhưng khi buộc phải tin ông đã vô cùng đau khổ, tủi nhục đến mức phải đi đến quyết định thù làng. Nhưng tất cả những khổ đau, tủi nhục ấy đã tan biến hết khi ông nghe được tin cải chính. Ông Hai như được hồi sinh, “bệnh” hay khoe của ông lại “tái phát”.

2.2. Cảm nhận về ông Hai trong đoạn trích

*Ông Hai là một người nông dân ít chữ, chân chất, mộc mạc.

Đọc đoạn trích này, ta không khỏi ấn tượng với hình ảnh ông Hai- một người nông dân ít học, chân chất mộc mạc. Nhận được tin cải chính, ông đi khoe khắp nơi. Ông gọi “Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy?” rồi “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả” Cái cách ông Hai trò chuyện và giao tiếp với mọi người mới thân thiện và gần gũi làm sao. Ông ít học, không thông thạo chữ nghĩa nhưng lại thích dùng chữ. Kim Lân để cho ông năm lần bảy lượt nói “Toàn là sai sự mục đích” nhưng không hề biết rằng mình đang dùng sai từ. Thế đấy, người nông dân bao giờ cùng mộc mạc và giản dị như vậy.

*Tuy nhiên, nổi bật hơn cả ở ông Hai trong đoạn trích này là tinh thần sẵn sàng hi sinh vì kháng chiến.

Đọc đoạn trích, có lẽ gây ấn tượng với người đọc nhất là hình ảnh ông Hai chạy đi khắp nơi chỉ để khoe “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn!” Mới đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn, người ta phải dành dụm cả đời mới có thể làm được một căn nhà. Hơn thế nó còn gắn với bao kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó ai mà không xót xa đau đớn? Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “Múa tay lên để khoe” đó là biểu hiện của tâm trạng sung sướng, sung sướng đế tột độ. Tâm trạng này dường như có vẻ không bình thường? Không! Đặt ông Hai trong hoàn cảnh của “Làng” - làng Dầu đang bị hai tiếng việt gian theo tây - thì ông Hai không vui sướng sao được vì nhà bị tây đốt

là bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng, đó là một làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp. Chắc hẳn mất nhà ông Hai cũng đau lắm chứ, xót xa lắm chứ. Nhưng dù thế nào thì nhà còn có thể xây dựng lại được, song danh dự của làng đâu dễ lấy lại? Ông đã quên nỗi đau, sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê, đất nước. Thế đấy niềm vui, nỗi buồn của ông Hai luôn gắn liền với vận mệnh của Làng Dầu. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết đến chừng nào! Tình yêu làng quê được mở rộng, hoà quyện trong tình yêu tổ quốc thật sâu nặng và thiêng liêng.

3.Đánh giá

- Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính cách, phẩm chất của nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị tự nhiên, gần gũi, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm cũng góp phần tạo nên một hình tượng chân thực và đẹp đẽ về người nông dân Việt Nam.

- Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận thức của người nông dân Việt Nam: tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.

C. Kết bài:

Có thể nói rằng truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Tác phẩm và đặc biệt là đoạn trích kể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng được cải chính đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn Kim Lân, càng thêm trân trọng và yêu mến những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến. Từ tình huống ông Hai nghe được tin cải chính về làng, tác phẩm đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình yêu quê hương, về đức hi sinh, về lòng yêu nước. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Thêm
5K
0
0
Viết trả lời...
Dàn ý:

A. Mở bài : Giới thiệu vấn đề nghị luận

Kim Lân là một nhà văn gắn bó máu thịt với những người nông dân nghèo, những kiếp người chịu nhiều khốn khổ bần cùng. Ông cũng là một văn nhân có trái tim yêu nước son sắt, một tấm lòng thiết tha với dân tộc. Bởi vậy mà những sáng tác của ông thường viết về những người nông dân có lòng yêu nước, yêu cách mạng sâu sắc. Nói đến các sáng tác của Kim Lân ta không thể không kể đến truyện ngắn “Làng”. Tác phẩm đã khắc hoạ sinh động chân dung nhân vật ông Hai - một người nông dân chân chính với tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết và sự gắn bó máu thịt với bộ đội cụ Hồ. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét nhất qua đoạn trích kể cuộc trò chuyện giữa ông Hai với đứa con út.

B .Thân bài:

1.Khái quát về tác phẩm

Truyện ngắn “làng” của nhà văn Kim Lân được viết năm 1948,thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.Truyện thành công không chỉ bởi tài năng viết truyện của Kim Lân mà còn do sự am hiểu người nông dân cùng thời kì lịch sử lúc bấy giờ.Nhà văn đã có lần tâm sự:" cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn ,tôi đã vào làng.Lúc ấy Tây còn đóng ở cầu Đuống ,tôi về làng chơi mấy lần chứng kiến tận mắt thế nào là làng chiến đấu".Truyện hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật miêu tả tâm

lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt cùng với cách viết đơn giản ngôn ngữ mộc mạc dân dã .

2.Cảm nhận ông Hai trong đoạn trích

2.1. Khái quát nội dung đoạn trước đó.

Ở phần đầu của tác phẩm, người đọc đã được chứng kiến một ông Hai rất yêu và tự hào về làng của mình. Đi đâu ông cũng khoe về làng thế nên khi nghe tin làng theo giặc ông vô cùng bàng hoàng sửng sốt. Không không tin đó là sự thật nhưng khi buộc phải tin ông đã vô cùng đau khổ, tủi nhục đến mức phải đi đến quyết định thù làng. Và để củng cố thêm niềm tin cho quyết định của mình, ông đã tìm đến thằng con út để trò chuyện.

2.2. Cảm nhận về ông Hai trong đoạn trích

*Tại sao ông Hai chọn trò chuyện với con?

Sẽ có không ít người đọc thắc mắc rằng tại sao ông Hai lại chọn trò chuyện với đứa con út – một đứa trẻ chưa hiểu chuyện gì, chưa biết gì về kháng chiến, về cách mạng. Trò chuyện với đứa con còn bé là cái cách để ông trải lòng mình, để tự minh oan cho mình và cũng là để ông có thêm niềm tin vào những điều mà ông đã chọn lựa. Xây dựng chi tiết này cho thấy Kim Lân thực sự rất am hiểu tâm lí của con người, nhất là người nông dân trong kháng chiến.

* Trong cuộc trò chuyện ông vẫn hướng con về làng, về quê hương nguồn cội

Mặc dù cái làng mà ông rất mực tin yêu đã theo giặc, dù cho làng đã phản bội ông đến mức ông phải thù làng thế nhưng khi nói chuyện với con ông vẫn hỏi: :"Thế nhà con ở đâu?Thế con có thích về làng chợ Dầu không?" Câu hỏi có vẻ ngô nghê mà ông biết trước được câu trả lời của con nhưng dường như ông vẫn muốn nghe . Hỏi con như vậy là ông vẫn muốn con nhớ về cội nguồn, gôc gác của mình. Muốn con hiểu rằng Chợ Dầu chính là quê hương của con, là nơi con được sinh ra và lớn lên, được yêu thương và che chở. Điều đó có nghĩa là dù đã thù làng nhưng trong sâu thẳm tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn dành cho làng một tình yêu tha thiết, mãnh liệt. Câu hỏi của ông với con cũng là cái cách ông kiểm tra tình cảm của mình. Nghe câu trả lời của con chắc ông vui lắm,vui vì dường như nó đã trùng với suy nghĩ của ông.Như vậy có thể khẳng định tình yêu với làng chợ Dầu trong chưa chết hẳn,chỉ có điều giờ đây đó là một tình yêu đau đớn,một bi kịch.

* Nhưng hơn cả ở ông Hai là tình yêu đất nước và niềm tin dành cho kháng chiến.

Ông Hai yêu làng ai cũng phải thừa nhận nhưng hơn cả ở nhân vật này là tình yêu đất nước và niềm tin dành cho kháng chiến. Điều đó cũng được bộc lộ một cách rõ nét trong cuộc trò chuyện của ông với con. Ông hỏi con tiếp : “Thế con ủng hộ ai?". Câu trả lời của đứa con:" Ủng hộ Hồ Chí Minh Muôn năm" dường như đã hoàn toàn trùng khít với suy nghĩ và tình cảm của ông.Ông hãnh diện vì điều đó,ông tự hào về điều đó,ông hạnh phúc vô cùng. Nghe con nói vậy, nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ “ Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ”. Ông khóc vì hạnh phúc, khóc vì con ồn còn rất nhỏ nhưng đã có tinh thần kháng chiến,đã có niềm tin bất diệt vào cách mạng, vào cụ Hồ. Ông lặp lại câu nói của con nhưng thực chất là để nói rõ lòng mình. Ông tin kháng chiến, tin cách mạng, ông sẵn sang hi sinh tình cảm riêng của mình vì tình cảm cao đẹp đó. Đến đây ta không chỉ trân trọng tình cảm của ông đối với làng quê đối với đất nước mà ta còn vui sướng tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc Việt nam,tự hào về dòng máu yêu nước luôn chảy trong trái tim mỗi con người Việt Nam,trong

dòng máu của ông và trong dòng máu đứa con ông. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai” Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đôi phần. Tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng nơi ông thật sâu sắc, mãnh liệt!

3.Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

- Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính cách, phẩm chất của nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị tự nhiên, gần gũi., ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm cũng góp phần tạo nên một hình tượng chân thực và đẹp đẽ về người nông dân Việt Nam. Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận thức của người nông dân Việt Nam: tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.

3. Kết bài:

Có thể nói rằng truyện ngắng “Làng” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Tác phẩm và đặc biệt là đoạn trích kể lại cuộc trò chuyện giữa ông Hai với con đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng kể chuyện của nhà văn Kim Lân, càng thêm trân trọng và yêu mến những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến. Từ cuộc trò chuyện của ông Hai với con, tác phẩm đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình yêu quê hương, về niềm tin, về lòng yêu nước. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Thêm
4K
0
0
Viết trả lời...
Trăng trong thơ vốn là một hình ảnh mang vẻ đẹp trong trẻo tròn đầy, đó là cái gì lãng mạn nhất trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp: khi con người ta còn ở tuổi ấu thơ hoặc rơi vào những vùng tâm sự cần phải chia sẻ, giãi bày. Ánh trăng của Nguyễn Duy là cái nhìn xuyên suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây không phải là một cái nhìn xuôi, bình lặng từ trước đến sau, mà là cách nhìn ngược: từ hôm nay mà nhìn lại để thấy có cái hôm qua trong cái hôm nay. Nó không xuôi chiều, phẳng lặng nữa. Tính chất tâm sự, đời tư có ý nghĩa như một hối hận, ăn năn tạo nên con sóng ngầm đằng sau một câu chuyện kể.

Câu chuyện kể trong thơ, cũng là một cách cấu tứ của văn xuôi, hấp dẫn chúng ta một cách bất ngờ từ khả năng dựng cảnh. Cảnh mất điện ở thành phố mà gặp ánh trăng tròn. Nay đã gặp xưa, trong một bối cảnh mà con người rất khó ngoảnh mặt quay lưng như thế.

Ba khổ thơ đầu bởi vậy mới như một hồi tưởng, hồi tưởng về cái đã quên tưởng chừng thời gian đã xoá nhoà tất cả. Quá khứ tưởng đã quên hiện về trong hai cái mốc. Cả hai đều xuất phát từ cái nhìn đánh thức. Sự thức dậy đến xôn xao, ấy là một thời thơ trẻ:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Cả một hệ thống những đồng, sông, biển gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, nó cứ mở rộng dần ra cùng với thời gian lớn dần lên của đứa trẻ. Nhưng cái chính là nó diễn tả một nỗi niềm sung sướng đến hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Ba chữ với giàu có biết bao như một mối ân tình. Cái thế bè đôi thật quấn quýt chia sẻ, cảm thông, dìu đỡ con người, và đồng hay sông, rồi biển như những người bạn vô tư.

Ở hai câu đầu không thấy nói đến vầng trăng. Thì ra cái thứ ánh sáng bàng bạc lúc này nó cũng để nhớ, để quên như khí trời hít thở. Chỉ đến khi lớn lên, cái ánh sáng mơ hồ kia mới neo đậu vào trí nhớ con người khi phải xa cách quê hương. Vầng trăng đối với người cầm súng ở trong rừng đã thay thế cho tất cả, cả đồng, sông, biển để trở nên một người bạn đồng hành, thành “vầng trăng tri kỉ”. Như vậy là tuổi thơ như một chớp mắt đã qua. Cái còn lại lúc này là vầng trăng thật đơn sơ nhưng chung thuỷ. Nó đã gieo hạt vào tâm hồn người lính và tường như nó sẽ mãi mãi xanh tươi:

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa.

Đoạn thơ nếu lách khỏi toàn bài sẽ có cảm giác hụt hẫng chơi vơi. Tuy hai câu đầu là khá hay khi nhà thơ so sánh sự ngang hàng của sự tri âm giữa hồn người với cây cỏ (mà cây cỏ, thiên nhiên ấy chính là đồng, là sông, là biển ở khổ đầu), hai câu cuối dường như chỉ là một lời “nói thêm”, thêm vào một cái gì đã đủ đầy, đã nặng sâu ở hai câu trước. Nhưng sự thực, đó là chiếc cầu nối ngôn từ, vừa khép lại vừa mở ra, tạo nên sức bật cho khổ thơ thứ ba tiếp nối:

Từ hồi về thành phố

quen ánh điện, cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường.

Hiện tượng tâm lí mà cũng là đạo lí này thường vẫn xảy ra khi nay đã khác xưa, hoàn cảnh sống của con người thay đổi. Bởi thế, ca dao mới lên tiếng hỏi từ lâu: “Thuyền ơi có nhớ bến chăng” ? Trong thơ Tố Hữu, nhân dân Việt Bắc ở lại cũng băn khoăn một tâm trạng ấy khi tiễn đưa cán bộ về xuôi :

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng ?

Phố đông, còn nhớ bản làng

Sáng đêm, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng ?

Những câu thơ đã cũ, nhưng tính thời sự vẫn còn, vẫn chờ đợi chúng ta những lời giải đáp. Và quả thật trong bài thơ của Nguyễn Duy, sự giải đáp là rất đáng buồn. Câu hỏi thì thiết tha như tiếng khèn, tiếng sáo (như trong bài Việt Bắc) mà không có hồi âm!

Thay cho ánh trăng đó là cửa gương, ánh điện. Nhưng có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng ? Vầng trăng tình nghĩa của ngày xưa đã không còn nguyên vẹn như xưa, thậm chí còn đáng trách hơn nhiều, nó chỉ là người khách qua đường xa lạ bởi tình cảm con người đâu còn son sắt thuỷ chung? Câu thơ thật nhức nhối, xót xa, bởi sự phản bội, ở đây không chỉ với lịch sử, với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.

Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một tâm thế không ngờ. Sống giữa nơi phố phường, mấy ai còn nghĩ đến một vầng trăng hoài cổ:

Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn.

Vầng trăng đến thật đột ngột. Ấn tượng về sự đột ngột này ở tình thế đã đành, còn đột ngột ở khía cạnh chân dung của “người mới đến”, về tình thế, ánh sáng của vầng trăng đối lập với ánh sáng, nhất là ở phía chân dung. “Vầng trăng tròn” vẫn đầy đặn, vẫn nguyên vẹn như xưa. Nó trang trọng, nó thuỷ chung như

ngày xưa. Điều quan trọng hơn chăng là nó làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn toàn khác trước ?

Trăng lãng du và con người lãng quên đã gặp nhau trong một phút tình cờ. Con người không còn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế ở đây là tư thế đối mặt: mặt người và mặt trăng, khuôn mặt của hai linh hồn sống :

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng.

“Rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động đến không nói được bằng lời, ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Một tình cảm chừng như nén lại nhưng nó cứ trào ra đến thổn thức, đến xót xa chính là tâm trạng ấy. Cuộc gặp gỡ không “tay bắt mặt mừng”, nó đã lắng xuống ở độ sâu cảm nghĩ. Trăng thì vẫn vô tư, phóng khoáng, độ lượng biết bao, như “bể”, như “rừng” mà con người thì phụ tình phụ nghĩa. Trước cái nhìn sám hối của nhà thơ, vầng trăng một lần nữa, như gợi lên bao cái “còn” mà con người tưởng như đã mất. Nhịp thơ hối hả, dâng trào khi trăng đã trả lại cho người tất cả. Cái quý nhất mà nó trả lại ấy là tình người, một tình người dào dạt “như là đồng là bể – như là sông là rừng”.

Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Hai gương mặt đối diện nhau ở đây làm người đọc nhớ đến cái giây phút “Mặt nhìn mặt càng thêm tươi” của tình yêu mới bén giữa Kim Trọng với Thuý Kiều. Nghĩa là nó lấp lánh bao điều không dễ nói. Tuy nhiên, cái vô tư mà vầng trăng trả lại, nhà thơ chỉ dám nhận vẻ một nửa của sự vô tư. Nửa còn lại kia dành cho những ăn năn dại dột của sự “vô tình”:

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.

Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song. Đối lập giữa “tròn vành vạnh” nghĩa là sự đầy đặn của vầng trăng với cái hụt vơi của kẻ “vô tình”. Đối lập giữa cái im lặng của ánh trăng (im phăng phắc) và con người thức tỉnh. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xội. Và sự bừng thức của con người, trong trường hợp đó không thể nào quên, vì nó là tiếng nói bên trong, của chính lòng mình khi lương tâm mỗi người mách bảo.

Bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.
Thêm
380
0
0
Viết trả lời...
Cây dừa Bình Định ( có dùng yếu tố miêu tả)

Mở bài:

Dừa là một loài cây quen thuộc của đất nước Việt Nam. Trên dải đất cong cong hình chữ S này, đi đến bất cứ nơi đâu ta cũng bắt gặp cây dừa. Ở miền Nam, tỉnh Bến Tre, dừa được trồng rất nhiều. Và đến Bình Đinh, trên những chặng đường dài ở quốc lộ, đâu đâu mọi người cũng thấy cây dừa được trồng thành rừng bạt ngàn, xanh ngắt, cao lớn. Ở xứ sở miền Nam Trung bộ này, cây dừa là loài cây đặc trưng của vùng đất miền Trung đầy nắng, đầy gió. Chính vì vậy, nơi đây có câu ca dao quen thuộc:

Công đâu công uổng công thừa

Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan

Thân bài:

1. Đặc điểm chung của cây dừa:

a. Nguồn gốc:

Cây dừa được các nhà nghiên cứu cho rằng nó có nguồn gốc ở Đông Nam Á, một bộ phận khác lại cho rằng nguồn gốc của chúng ở miền tây bắc Nam Mỹ. Điều này đến nay vẫn chưa có kết luận rõ ràng nhưng cây dừa đã trở nên phổ biến ở trên khắp thế giới. Dừa là một loại cây có khả năng thích nghi vô cùng tốt, nó phát triển mạnh mẽ tại những vùng có đất pha cát, đồng thời nó có khả năng chịu mặn cũng như ưa thích các vùng đất nhiều nắng và mưa. Chính bởi đặc tính này mà cây dừa rất phổ biến ở các bờ biển nhiệt đới, thậm chí ở một số những vùng núi cao cây dừa vẫn phát triển. Ở Việt Nam, cây dừa được trồng phổ biến ở những tỉnh có nền nhiệt cao, mưa nhiều và đặc biệt nó đã trở thành loại cây đặc sản của tỉnh Bình Định.

Nhưng ở xứ sở Bình Định này, nguồn gốc cây dừa được kể lại bằng một câu chuyện truyền thuyết đầy cảm động về tình yêu của một đôi trai tài gái sắc. Đó là chàng Lửa dũng cảm, tài năng và nàng Nếp xinh đẹp, hiếu thảo. Cả hai yêu thương nhau nhưng không đến được với nhau, để rồi khi chết đi hóa thành một loại cây có những chiếc lá như hình cái lược của người con gái, có những chùm quả xanh chi chít ôm tròn quanh ngọn cây, nước ở trong quả ngọt lịm và lớp thịt màu trắng thì béo ngậy.

b.Đặc điểm về cây dừa:

-Hình dáng:

Dừa là một loài cây trong họ Cau. Gốc lớn, tua tủa chùm rễ ăn sâu, bám chắc xuống đất. Cây dừa trông cao lớn như vậy nhưng lại là loại cây thân cỏ, cao đến 10m, ở thân có những khoanh tròn nối nhau. Cây dừa không có cành mà chỉ có tàu dừa mọc trên ngọn thành vòng tròn, xòe đều ra tứ phía. Có khi tàu dừa dài tới hai ba mét khi già khi rụng để lại vết sẹo trên thân.

Trên mỗi tàu dừa có rất nhiều lá. Lá dừa màu xanh bóng mọc xuôi theo theo hai bên cuống của tàu dừa, mỗi lá dừa lại có nhiều khía, tách lá thành nhiều mảnh nhỏ. Từ các nách bẹ, từng chùm quả mập mạp, màu trắng sữa chìa ra, biến dần thành quả có màu xanh. Quả dừa mọc thành chùm, quả tròn, phía đuôi hơi thon lại. Ngoài cùng của quả dừa là lớp xơ bao bọc, trong là cùi dừa trắng tinh, béo ngậy, nước dừa ngọt mát trong lành.

-Nơi trồng:

Cây dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt. Cây dừa rất ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa bình thường (750–2.000 mm hàng năm), điều này giúp dừa trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Bình Định là một vùng đất nắng, nóng lại có biển với đất cát nên cây dừa được trồng rất nhiều và phát triển rất mạnh. Ở đây, cây dừa mọc như rừng, ở ven sông, men theo bờ ruộng, trên sườn đồi, rải theo bờ biển… Cả một dãi đất dài của tỉnh từ thành phố Quy Nhơn đến tận Tam Quan, cây dừa được trồng bạt ngàn với nhiều loại. Nào là dừa lửa lá đỏ, vỏ hồng, dừa xiêm thấp lè tè, quả tròn nước ngọt, dừa nếp lơ lửng giữa trời, quả vàng xanh mơn mởn…



2 Công dụng của cây dừa nói chung và đối với người dân Bình Định nói riêng:

Có lẽ cây dừa là một loại cây thật đặc biệt bởi mọi bộ phận của cây đều có thể được người Việt Nam nói chung và người dân Bình Định nói riêng tận dụng, không một phần nào bị bỏ phí lại. Chính vì vậy người dân Bình Định đã cất tiếng ngợi ca:

Dừa xanh sừng sững giữa trời

Đem thân mình hiến cho cho đời thủy chung

Từ những chiếc lá dừa to đẹp được thu về để lợp nhà, để đan lại thành những món đồ thủ công mỹ nghệ được mọi người yêu thích. Thân của cây dừa được sử dụng để làm cột, làm những con cầu nhỏ bắc qua mương hay tạo ra những món đồ lưu niệm xinh xắn. Ngay cả phần rễ của cây dừa cũng được con người tận dụng để làm chất đốt hoặc thuốc nhuộm. Rồi những bông dừa già cũng được người dân thu hoạch về để trang trí, củ hủ dừa (hay đọt dừa non) được sử dụng để chế biến thành các món ăn lạ miệng giàu giá trị dinh dưỡng...

Thế nhưng, trên cây dừa phần có giá trị nhất có thể nói chính là những trái dừa. Những trái dừa tươi ngon nhất thường được dùng để lấy nước - một thứ nước giải khát tự nhiên vô cùng có giá trị về dinh dưỡng, tốt cho hệ tiêu hoá cũng như giải nhiệt nhanh chóng trong những ngày hè oi bức. Với những trái dừa khô và già hơn, người ta thường sử dụng phần cùi của nó. Cùi dừa được dùng để chế biến các món kho hay đồ xôi, sử dụng làm các loại mứt không thể thiếu trên bàn tiếp khách của mỗi gia đình ngày Tết. Cùi dừa còn được sử dụng để làm sữa dừa, kẹo dừa, chiết lấy dầu hay làm xà phòng. Sau đó, phần bã cùi dừa người ta cũng chẳng vứt đi mà tận dụng để làm phân bón hay một loại thức ăn giàu chất béo cho gia súc. Ngay đến phần vỏ cứng của trái dừa cũng được giữ lại để sử dụng làm các mặt hàng thủ công tinh xảo rất được ưa chuộng.

Sống gắn bó và rất mực thủy chung với người, cây dừa là niềm kiêu hãnh của người dân Bình Định. Cây dừa còn tạo nên vẻ đẹp cho cảnh quan nơi đây. Hàng dừa xanh tạo thành hành lang tự nhiên có mái che nhất là ở Tam Quan- Hoài Nhơn. Đi trong làng rợp mát bóng dừa, gió đầy nắng vờn trên ngọn lá. Không gian tràn ngập tiếng chim, hối hả gọi nhau qua những tàu lá dừa phất phới. Bóng dừa còn làm cho các cô gái nơi đây có làn da trắng mịn.

Cây dừa còn đi vào thơ, ca, nhạc, họa. Những bức tranh về làng quê, những bài hát quê hương hay có hình ảnh cây dừa. Nhà thơ Trần Đăng Khoa có một bài thơ về cây dừa thật đặc sắc:

Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu

Dang tay gọi gió, gật đầu gọi trăng

Thân dừa bạc phếch tháng năm

Quả dừa đàn lợn con nằm trên cao

Kết luận:

Cây dừa ngày nay vẫn là một trong những nét đặc trưng của các vùng quê miền ven biển. Bờ biển trong xanh cùng hàng dừa sai trái là hình ảnh làm nên thương hiệu cho biển nước ta trong đó có tỉnh Bình Định. Cây dừa sẽ mãi theo con người Việt Nam nói chung và con người Bình Định nói riêng trong cuộc sống tương lai.
Thêm
554
3
1
Viết trả lời...
Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao Ðất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Ðất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước. Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc. Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế...
Thêm
574
0
0
Viết trả lời...
BÀI THƠ MÙA XUÂN NHO NHỎ

Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao Ðất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Ðất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước. Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc. Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế...

11/1980



Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

1. Mở bài

B1- CÂU CHỦ ĐỀ

B2-TÁC GIẢ Vài nét về nhà thơ Thanh Hải: Một nhà thơ có thể nói là đã cống hiến cả đời mình cho cách mạng.

B3- HC RA ĐỜI TÁC PHẨM Giới thiệu về hoàn cảnh ra đời đặc biệt của bài thơ: được viết trong những ngày cuối cùng Thanh Hải nằm trên giường bệnh, cả cuộc đời ông đã dùng để cống hiến cho cách mạng, giờ đây ông lại bị bạo bệnh

B4 NỘI DUNG cất lên niềm khát khao, niềm mong mỏi có thể tiếp tục cống hiến “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời này























MB 1 B1Mùa xuân là mùa hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ… Có lẽ vì thế mà thi nhân muôn đời yêu mến xuân. Xuân đi vào lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ là những trang thơ văn, mà ở đó, xuân là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người.Ta đã có Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Một khúc ca xuân (Tố Hữu)… B2và giờ, với Thanh Hải, ta được thưởng thức một Mùa xuân nho nhỏ thân thương, gần gũi. B3“Mùa xuân nhỏ nhỏ” là khúc ca cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải để lại cho cuộc đời. B4Từ cảm hứng về vẻ đẹp và thiên nhiên của xứ huế, nhà thơ liên tưởng đến mùa xuân vĩnh hằng của đất nước, đồng thời thể hiện khát vọng dân hiến mùa xuân cuộc đời cho mùa xuân lớn của đất nước.

MB2 B1Mùa xuân là mùa của tình yêu, sức sống dào dạt và cũng là mùa khơi nguồn cho bao áng thi ca, nhạc họa.B2 Nếu chọn những bài thơ hay nhất viết về mùa xuân, tôi tin chắc không thể vắng bóng Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải. B3Thi phẩm là sự kết tinh, lắng đọng của một tài năng thơ đang độ chín. B4 Bài thơ không chỉ hấp dẫn bạn đọc bởi khung cảnh mùa xuân mộng mơ nơi xứ Huế mà còn bởi khát vọng cống hiến cháy bỏng, dạt dào.

MB3 B1 Mùa xuân vốn là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc, là đề tài sáng tác không thể thiếu của các thi nhân.B2 Với bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, B3

nhà thơ Thanh Hải đã góp cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được tác giả Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, chân thành và cảm động qua lời thơ hết sức bình dị nhưng giàu cảm xúc. Mùa xuân nho nhỏ được sáng tác năm 1980, trước khoảng một tháng trước khi tác giả qua đời. Khi đó nhà thơ Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo.B4 Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” không chỉ là cảm xúc về một mùa xuân tươi xanh mà còn là lẽ sống cao đẹp cùng với tình yêu quê hương, đất nước thiết tha



























2. Thân bài

a. Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất nước quê hương (Khổ 1)

CÂU CHUYỂN - Nhà thơ vẽ ra trước mắt độc giả bức tranh thiên nhiên mùa xuân với những hình ảnh :

DẪN THƠ “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng...”



CÂU CẢM NHẬN + Không gian: cao rộng của bầu trời, dài rộng của “dòng sông xanh”

+ Âm thanh: âm thanh rộn rã vui tươi của “chim chiền chiện”

+ Màu sắc: xanh của dòng sông, tím của hoa

CÂU CHỐT⇒ Nghệ thuật đảo cú pháp: không gian cao rộng, màu sắc tươi sáng và âm thanh rộn ràng như thiết tha mời gọi níu giữ con người ở lại với cuộc sống, với mùa xuân xứ Huế tươi đẹp này

- Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên:

+ Nhà thơ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật

+ Đưa tay ra “hứng” “giọt long lanh”: là giọt sương, cũng có thể là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác chỉ tiếng chim “hót vang trời”

CÂU CHỐT 6 CÂU THƠ ⇒ Cảm xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, khao khát hòa mình với thiên nhiên đất trời. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ, nói về giọt long lanh và tiếng chim thực chất là nói về những điều tinh túy, đẹp đẽ của cuộc sống con người.





b. Cảm xúc về mùa xuân của đất nước và con người (khổ 2 + 3)

CÂU CHUYỂN :Theo chiều dài bốn ngàn năm năm lịch sử của đất nước của dân tộc , tác giả tái hiện bức tranh đẹp như trong mơ về xuân tổ quốc trước sức trẻ của người hậu phương và tiền tuyến.

DẪN THƠ

“...Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao Ðất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Ðất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước...”

CẢM NHẬN - Mùa xuân của đất nước gắn với hình ảnh người cầm súng (những người làm nhiệm vụ chiến đấu) và hình ảnh “người ra đồng”, “lộc”- niềm hi vọng tươi sáng đang theo họ đi khắp nơi hay hay chính họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.

- Nhịp độ khẩn trương : “Tất cả như…xôn xao” - Công cuộc xây dựng mùa xuân của đất nước diễn ra khẩn trương, sôi động.

CÂU CHỐT ⇒ Nghệ thuật điệp cấu trúc, từ láy…

=> Nhà thơ như reo vui trước tinh thần lao động khẩn trương của con người làm nên mùa xuân của đất nước.

- Thanh Hải nhắc lại về lịch sử bốn nghìn năm “vất vả và gian lao” của đất nước đầy tự hào, đồng thời tin tưởng vào tương lai tươi đẹp của đất nước mai sau bằng hình ảnh so sánh đẹp mang nhiều ý nghĩa “Đất nước như vì sao…phía trước”.



c. Ước nguyện của tác giả

- Sự chuyển đổi ngôi thứ "tôi"-> "ta"

=> Biểu hiện quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng

- Điệp ngữ "ta làm", thể hiện sự quyết tâm, lối liệt kê :con chim, cành hoa, nốt nhạc

-=> Yếu tố tạo nên mùa xuân

- Nốt nhạc trầm là biểu tượng cho sự cống hiến thầm lặng

=> Liên tưởng anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sapa", ,Viếng Lăng Bác Viễn Phương

- Giải thích tựa bài thơ

- Điệp ngữ "dù là"=> Như lời nhắn nhủ giữa người đi trước và người đi sau

- Lối hoán dụ người tóc bạc, tuổi 20 -> tuổi trẻ -> tuổi già -> Sự cống hiến không phân biệt tuổi tác, thứ bậc, giới tính, giai cấp.

d. Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế

- Giai điệu được cất lên chính là điệu hát truyền thống của xứ Huế mộng mơ

- “Mùa xuân ta xin hát”: không chỉ mở ra không gian nó còn mở ra niềm tự hào về lối sống nghĩa tình của cha ông.=> Bài thơ thể hiện lòng yêu thiên nhiên, đất nước con người, sự cống hiến thầm lặng, mối quan hệ cá nhân và cộng đồng

NGHỆ THUẬT- Khái quát những đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: Thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, nhiều so sánh và ẩn dụ sáng tạo. NGHỆ THUÂT Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ đặc sắc. Với thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang, âm hưởng nhẹ nhàng xuyên khổ thơ,



3. Kết bài

KHÁI QUÁT GIÁ TRỊ GIÁ TÁC PHẨM

BÀI HỌC LIỆN HỆ BẢN THÂN- Liên hệ trình bày khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ cho cuộc đời.

KẾT BÀI

KHÁI QUÁT GIÁ TRỊ TÁC PHẨM ;Tác giả TH đã bộc lộ cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn được dâng hiến cho cuộc đời trước lúc đi xa. BÀI HỌC Bài thơ lay động tâm hồn chúng ta bởi chất nhạc xao xuyến và ước nguyện chân thành cảm động. Cái ước nguyện lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nho nhỏ đã tìm được những tiếng lòng đồng vọng với bạn đọc bao thế hệ trẻ. THAM KHẢO Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ -

B1Mùa xuân là mùa hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ... Có lẽ vì thế mà thi nhân muôn đời yêu mến xuân. Xuân đi vào lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ là những trang thơ văn, mà ở đó, xuân là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Ta đã có Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), B3 Một khúc ca xuân (Tố Hữu)... và giờ, với Thanh Hải, ta được thưởng thức một Mùa xuân nho nhỏ thân thương, gần gũi.Bài thơ được ra đời lúc nhà thơ Thanh Hải đang giành giật với tử thần từng phút sống, từng hơi thở cuối cùng. B2Trong tâm lí nặng nề vì bệnh tật giày vò mà hồn thơ Thanh Hải vẫn cất cánh bay cao B4 để rồi mang đến cho đời một tình yêu cuộc sống thiết tha và ước nguyện chân thành được cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Tổ quốc thân yêu. Tác giả muốn dâng tặng Mùa xuân nho nhỏ cho đời.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên mùa xuân mang sắc màu và âm thanh quen thuộc của đồng quê được vẽ bằng hình ảnh bình dị, chọn lọc, gợi cảm. Cảm xúc trước mùa xuân của tác giả mở ra thật ngỡ ngàng, không gian dường như tươi mới hơn, thánh thót hơn.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Đó là màu tím biếc của bông hoa dân dã soi bóng dưới dòng sông trong xanh. Đặc biệt là tiếng chim chiền chiện trong trẻo, loài chim cất tiếng hót báo hiệu tin vui, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người. Từ "ơi" cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất trước đất trời xuân. Tất cả gợi cho ta cảm giác một không gian bận bịu và chắt chiu. Hai tiếng "hót chi" là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Tiếng chim chiền chiện thả vào không gian trong suốt của mùa xuân được cảm nhận thành từng giọt mang màu sắc long lanh. Điều đó cũng chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, một tấm lòng thiết tha yêu mến cuộc sống tươi đẹp này. "Đưa tay... hứng" là một cử chỉ bình dị mà trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa.. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của đất nước vào xuân. Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, dẫn đến cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Sự chuyển mạch ấy là tự nhiên và hợp lí. Bởi mùa xuân là "lộc" đất trời của chung mọi người.

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

"Lộc" ở đây có thể hiểu là sức mạnh dân tộc, "lộc trải dài nương mạ" là sự hối hả xôn xao cho một mùa màng mới, cho đồng ruộng vẫn mãi mãi bạt ngàn một màu xanh. "Người cầm súng và "người ra đồng" là hai lực lượng chính dựng xây Tổ quốc. Đây là mùa xuân trách nhiệm gắn với ý thức bảo vệ dân tộc. Câu thơ mang một ý nghĩa sâu sắc: Người ra trận phải đổ máu, người ra đồng phải đổ mồ hôi nước mắt. Máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi của dân tộc.

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Biết bao nhiêu mùa xuân ông cha ta đánh giặc giữ nước, bao nhiêu mùa xuân lập chiến công chống quân xâm lược "vất vả và gian lao". Thanh Hải tự hào khi nghĩ về đất nước với bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đất nước như vì sao sáng vượt qua vất vả và gian lao để đi lên phía trước. Từ "cứ" đặt đầu câu thơ như một sự khẳng định, thể hiện một chân lí đơn giản mà thiêng liêng. Có thể nói bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay của dân tộc được đáp lại bằng những mùa xuân tiếp nối vô tần. Đó là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của nhà thơ đối với đất nước, với dân tộc. Rung cảm thiết tha trước mùa xuân đất nước, nhà thơ bộc bạch một ước nguyện chân thành:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào họa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

"Con chim hót" để gọi xuân về, mang hạnh phúc yên vui cho mọi người, "một cành hoa" để tô điểm cho núi sông, một nốt nhạc trầm "xao xuyến" trong khúc ca phấn chấn tự hào động viên, khích lệ. Chữ "tôi" ở khổ thơ đầu được thay thế bằng chữ "ta" đầy hào hứng, sảng khoái, nó thể hiện tư thế hòa mình của nhà thơ vào cuộc sống, vào mùa xuân đến

với mọi người. Mỗi người cống hiến "một mùa xuân nho nhỏ" đã là một: cuộc dâng hiến thật đầy đủ, thật trọn vẹn.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Nếu có ý thức hết mình, sống hết mình, lao động hết mình thì mùa xuân làm gì có tuổi? Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: "Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta" (Nguyễn Khoa Điềm). "Nho nhỏ" và "lặng lẽ" là cách nói khiêm tốn, chân thành. "Dâng cho đời" là lẽ sống đẹp, cao cả. Thanh Hải như nhắc ta hãy sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến toàn vẹn cho đất nước, cho cuộc đời. Phải chăng đây chính là điều mong ước tột cùng đã đi theo tác giả suốt cuộc đời? Dù vẫn biết ngày mai rất có thể sẽ phải từ giã cõi đời này nhưng tiếng thơ Thanh Hải vẫn tràn ngập niềm tin và hi vọng vào cuộc sống.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai, Nam Bình là hai giai điệu nổi tiếng của xứ Huế từ bao đời nay. Câu hát truyền thống ấy đi mãi cùng trái tim một người con đến giây phút cuối cùng vẫn còn mong mỏi mãnh liệt hơn bao giờ hết khát vọng cống hiến vẹn toàn cho quê hương đất nước.

Mùa xuân nho nhỏ mãi mãi là bức tượng đài neo đậu trong lòng độc giả , là một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tuyệt đẹp, vừa là tiếng hát nhẹ nhàng tha thiết, sâu lắng về khát

của nhà thơ Thanh Hải. Và đó cũng chính là một "mùa xuân nho nhỏ" mà Thanh Hải để lại cho đời trước lúc đi xa.
Thêm
437
0
0
Viết trả lời...
- Lặng lẽ Sa Pa, đó chỉ là cái vẻ lặng lẽ bên ngoài của một nơi yên tĩnh, vắng vẻ, nơi
mà nhắc đến tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, nhưng thực ra đằng sau cái
vẻ lặng lẽ của Sa Pa là cuộc sống sôi nổi của những con người đầy trách nhiệm đối
với công việc, đối với đất nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm
công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao
- Gợi ra sự đối lập, nhan đề tác phẩm làm nổi bật chủ đề: ca ngợi những con người
ngày đêm lao động hăng say, đầy nhiệt huyết, miệt mài lặng lẽ, âm thầm cống hiến
cho đất nước.
Thêm
426
0
0
Viết trả lời...
- Kim Lân đặt tên truyện là “Làng” (chứ không phải là "Làng Chợ Dầu") cho thấy truyện
đã khai thác một tình cảm bao trùm, phổ biến trong tâm hồn người dân Việt Nam thời
kì kháng chiến chống Pháp: tình yêu, gắn bó sâu nặng với quê hương, với đất nước.
- Nhan đề góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: ca ngợi tình yêu làng gắn bó, hòa
hợp với tình yêu nước của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến.
- Nhan đề Làng gợi hình ảnh người nông dân và nông thôn, đây là mảng sáng tác
thành công nhất của Kim Lân.
Thêm
422
0
0
Viết trả lời...
- Bếp lửa là hình ảnh thân thuộc trong mỗi ngôi nhà ở làng quê Việt Nam, gợi hơi ấm
gia đình, bàn tay tần tảo sớm hôm của người phụ nữ, người bà; gợi tình cảm gia đình
ấm áp, tình bà cháu yêu thương.
- Bếp lửa trong bài thơ còn là biểu tượng cho cội nguồn gia đình, quê hương, đất
nước; cho những gì gần gũi, thân thiết đối với tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng,
nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
- Bếp lửa vừa là hình ảnh thực vừa là một hình tượng nghệ thuật độc đáo trong tác
phẩm
Thêm
376
0
0
Viết trả lời...
- Bài thơ là một khúc hát ru. Người mẹ dân tộc Tà-ôi, rông hơn là cả dân tộc
Việt Nam (trong đó có tác giả) hát ru những em bé dân tộc thiểu số lớn lên trên lưng
mẹ trong kháng chiến chống Mỹ.
- Nhan đề làm nổi bật vẻ đẹp của người mẹ Tà-ôi có tình yêu con gắn liền với tình yêu
đất nước, có những mong ước vừa bình dị vừa lớn lao.
Thêm
458
0
0
Viết trả lời...
“Ánh trăng”: Vừa là một phần của hình tượng thiên nhiên lại vừa là biểu tượng của
thiên nhiên.
Biểu tượng:
+ Sự trong sáng, đẹp đẽ, quá khứ nghĩa tình, thủy chung, nguyên vẹn.
+ Con người giản dị, trog sáng, thủy chung: là nhân dân, là đồng đội của người lính
Thêm
358
0
0
Viết trả lời...