ĐOẠN TRÍCH “CHỊ EM THÚY KIỀU”

ĐOẠN TRÍCH “CHỊ EM THÚY KIỀU”

hưnga
hưnga
IV. Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

1. MB:

- Có những tác phẩm chỉ đọc một lần đã để lại rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe.

- “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm như thế. Truyện viết về cuộc đời và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Trong đó, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp toàn diện của hai người con gái họ Vương.

2. TB:

* Khái quát chung:

- Đoạn trích nằm ở phần một “Gặp gỡ và đính ước”, khi giới thiệu về gia đình Vương viên ngoại, tác giả tập trung miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều.

- Với nghệ thuật miêu tả người đến mức điêu luyện, Nguyễn Du đã khắc họa chân dung Thúy Vân, Thúy Kiều, đồng thời tác giả còn dự cảm cuộc đời hai nàng sau này.

* Luận điểm 1: Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đã khắc họa vẻ đẹp chung của hai nàng:

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”

- “ả tố nga” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ người con gái đẹp.

- Nguyễn Du đã khéo léo kết hợp ngôn ngữ bình dân “ả” và ngôn ngữ bác học “tố nga” để giới thiệu gia đình Vương viên ngoại có hai cô con gái đầu lòng đẹp tựa như những nàng tiên trên cung Quế của chị Hằng.

- Với nghệ thuật kể, tiểu đối, tác giả đã cho thấy thứ bậc của hai nàng trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em.

- Sau đó, Nguyễn Du miêu tả khái quát vẻ đẹp của hai chị em:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

- Thành công của Nguyễn Du là sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng lấy thiên nhiên làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp con người. Vẻ đẹp của hai nàng được so sánh với các hình ảnh đẹp của thiên nhiên “mai, tuyết”.

- “Mai cốt cách” gợi lên cốt cách thanh cao như cây mai. Đó là một loài hoa có dáng vẻ mảnh mái, hương thơm quý phái.

- “Tuyết tinh thần” diễn tả tinh thần trong trắng, tinh khiết như tuyết.

- Nghệ thuật tiểu đối đã thể hiện sự cân đối hài hòa giữa vóc dáng và tâm hồn.

+ “Mỗi người một vẻ” cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người.

+ Thành ngữ “mười phân vẹn mười” được vận dụng một cách khéo léo để nhấn mạnh vẻ đẹp toàn diện, hoàn hảo của hai nàng.

=> Với bốn câu thơ lục bát, Nguyễn Du làm nổi bật vẻ đẹp trong sáng, thanh cao của hai nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của hai nàng.

* Luận điểm 2: Bốn câu thơ tiếp theo Nguyễn Du đã gợi tả vẻ đẹp của nhân vật Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngoài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

+ Tác giả sử dụng từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người miêu tả.

+ Từ láy “trang trọng” diễn tả vẻ đẹp đoan trang, cao sang, quý phái.

=> Câu thơ gợi lên ấn tượng tốt đẹp về một người phụ nữ trong khuôn khổ, lễ giáo của xã hội phong kiến.

- Bút pháp ước lệ tượng trưng tiếp tục được phát huy hiệu quả khi khắc họa bức chân dung Thúy Vân. Vẻ đẹp của nàng được ví với vẻ đẹp của trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.

- Miêu tả Thúy Vân, tác giả khắc họa trên nhiều bình diện khác nhau:

+ “Khuôn trăng đầy đặn” là hình ảnh ẩn dụ gợi lên khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như vầng trăng.

+ “nét ngài nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung của nàng.

+ “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười tươi tắn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà. Từ “thốt” còn diễn tả cử chỉ ngôn ngữ của nàng nhẹ nhàng, tinh tế. Mỗi lời nàng nói ra tựa như đang tuôn châu nhả ngọc.

+ “Mái tóc của nàng mềm, mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết.

- Với nghệ thuật ẩn dụ, liệt kê, so sánh cùng với các hình ảnh giàu sức gợi tả “đầy đặn, nở nang”, Nguyễn Du đã làm nổi bật vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, đài các của Thúy Vân.

- Nghệ thuật nhân hóa “mây thua, tuyết nhường” cho thấy vẻ đẹp của nàng êm đềm hòa hợp với thiên nhiên nên được thiên nhiên nghiêng mình ngưỡng mộ. Qua đó, tác giả dự cảm cuộc đời của nàng sau này êm đềm, suôn sẻ, hạnh phúc.

* Luận điểm 3: Mười hai câu thơ tiếp theo Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.

- Thúy Vân là em nhưng lại được miêu tả trước, đó là dụng ý của Nguyễn Du khi sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. Nguyễn Du trân trọng vẻ đẹp của Thúy Vân và lấy đó làm nền nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn”

- Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về tâm hồn của Thúy Kiều.

- Nghệ thuật so sánh “lại là phần hơn” giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt trội hơn so với Thúy Vân.

- Thúy Kiều là người con gái có nhan sắc tuyệt trần:

+ Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhấn”:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

-“Làn thu thủy” gợi tả đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo như làn nước mùa thu.

-“Nét xuân sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân.

- Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nhìn vào đôi mắt ấy, ta không chỉ thấy sự tinh anh của trí tuệ con người mà còn thấy Kiều là người con gái có trái tim nhạy cảm, giàu tình yêu thương.

- Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã nhấn mạnh vẻ đẹp của Thúy Kiều đến mức hoàn mĩ, xứng đáng là trang giai nhân tuyệt sắc.

- Vẻ tươi tắn của nàng khiến cho hoa phải ghen, nét thanh xuân của nàng khiến cho liễu phải hờn. Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật nhân hóa “hoa ghen, liều hờn” giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp vượt ngưỡng, nằm ngoài tầm kiểm soát của tạo hóa nên bị tạo hóa ganh ghét, đố kị. Tác giả dự cảm cuộc đời của Thúy Kiều sau này sóng gió, trắc trở.

- Thúy Kiều còn mang vẻ đẹp về tài năng và tâm hồn:

+ Không chỉ đẹp, Thúy Kiều còn rất đa tài:

“Một hai nghiêng nước, nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

- Thành ngữ “nghiêng nước, nghiêng thành” một lần nữa nhấn mạnh nhan sắc của Thúy Kiều làm cho các bậc đế vương phải say mê, đắm đuối đến mức thành nghiêng, nước đổ.

- Nếu như xét về nhan sắc nàng đứng thứ nhất trong thiên hạ thì tài năng của nàng may ra mới có người đứng thứ hai.

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”.

- Tài năng của nàng là do yếu tố thông minh, bẩm sinh thiên phú cùng với sự chăm chỉ tập luyện hàng ngày.

- Cầm, ca, thi, họa lĩnh vực nào nàng cũng đều đạt đến độ xuất chúng. Nhưng nổi bật hơn cả là tài chơi đàn hồ cầm. Nàng chơi đàn điêu luyện, thành thạo âm, luật đến mức trở thành ngón nghề riêng, vượt lên trên tất cả mọi người.

- Không chỉ chơi đàn hay, nàng còn sáng tác cung đàn “Bạc mệnh”. Tên cung đàn gợi sự mong manh, bạc bẽo của cuộc đời người phụ nữ. Và khi cung đàn ấy tấu lên âm thanh của nó nghe ai oán, não nề lòng người. Tiếng đàn ấy là tài năng, là tiếng lòng của người con gái đa sầu, đa cảm nên cuộc đời của nàng cũng lắm đa đoan.

=> Vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của ba yếu tố: nhan sắc tuyệt trần, tài năng tuyệt thế, trái tim đa sầu, đa cảm. Theo quan niệm của Nguyễn Du, cuộc đời nàng khó lòng tránh nổi thuyết tài mệnh tương đố:

“Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

* Luận điểm 4: Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du nhận xét về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em.

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh, xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

- “hồng quần” là hình ảnh vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa hoán dụ cho ta thấy Thúy Vân, Thúy Kiều là những người con gái xuất thân cao sang, quyền quý.

- Tác giả sử dụng liên tiếp các từ láy, từ ghép “xuân xanh, xấp xỉ, cập kê” để diễn tả hai nàng ở độ tuổi búi tóc, cài trâm, có nhu cầu giao lưu, gặp gỡ bạn bè.

- Ấy vậy mà hai nàng vẫn sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” trong vòng tay che chở của gia đình.

- “Tường đông ong bướm” là hình ảnh tượng trưng cho những nơi trai gái giao lưu, hò hẹn. - Cụm từ “đi về mặc ai” diễn tả thái độ tuyệt giao với thế giới bên ngoài. Điều đó đã làm nổi bật đức hạnh của hai nàng – những người con gái có lối sống khuôn phép, mẫu mực trong nền nếp gia phong.

- Chính lối sống ấy đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho sự hình thành, phát triển nhân cách của hai chị em sau này, đặc biệt là Thúy Kiều.

* Luận điểm chốt

- Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của Nguyễn Du là sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng lấy thiên nhiên làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người; bút pháp gợi tả, nghệ thuật đòn bẩy.

- Nghệ thuật miêu tả người đến mức điêu luyện với các hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm.

- Các biện pháp tu từ: liệt kê, ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng một cách khéo léo.

- Qua những nghệ thuật ấy, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân dung của chị em Thúy Kiều đồng thời dự cảm về số phận của Thúy Kiều, Thúy Vân trong tương lai.

- Nguyễn Du hết lời trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của hai nàng, phải chăng đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm?

c. Kết bài:

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến Thúy Vân – một người con gái xinh đẹp, đoan trang, phúc hậu với dự cảm về cuộc đời bình lặng, yên ả.

- Ta còn nhớ đến Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn với dự cảm về cuộc đời chìm nổi lênh đênh.

- Ta còn ấn tượng về Nguyễn Du - một trái tim chan chứa yêu thương, đồng cảm với số phận con người.

- Có lẽ vì thế “Truyện Kiều” của Nguyễn Du trở thành cuốn sách gối đầu tay của biết bao thế hệ bạn đọc. Nguyễn Du thật xứng đáng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
 
82
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top