Mạng xã hội Văn học trẻ

Sáng tạo nội dung nói chung đang trở thành một nghề đáng kể trong thời đại công nghệ nội dung số hiện nay. Các nền tảng nội dung từ báo, diễn đàn, mạng xã hội, ... đều cần nội dung mới mẻ đáp ứng nhu cầu giải trí, bán hàng, kinh doanh. Người viết với sức sáng tạo có hạn thì các công cụ phụ trợ - trí tuệ nhân tạo (AI) ngày càng đóng góp vai trò rất đáng kể.

Nghề viết văn cũng đang có nhiều hưởng lợi từ các công cụ AI này, trong đó nổi bật là ChatGPT. ChatGPT có thể là công cụ rất hữu ích để giảm thời gian làm việc và tăng tính sáng tạo cho nội dung của những người làm nghề viết, quản lí nội dung. Bạn có thể thu hút nhiều khách hàng tiềm năng hơn cho sản phẩm và dịch vụ (sáng tác, sách,...) của mình, từ đó tăng thu nhập/ thành tích.

Tuy nhiên, điều quan trọng là đừng phụ thuộc vào ChatGPT để tạo ra mọi thứ. Vì nó sẽ khiến sản phẩm của bạn không khác gì bản copy và khiến khách hàng mất niềm tin. Chỉ dùng AI để tạo ra ý tưởng và gợi ý dàn bài, sau đó hãy làm nốt phần việc còn lại một cách chỉn chu.

Bạn đã và đang sử dụng các công cụ AI hãy cùng chia sẻ kinh nghiệm sử dụng cùng mình dưới đây nhé.
Thêm
  • Like
Reactions: yuyu and Vanhoctre
400
2
0
Viết trả lời...
unnamed.png


Đọc văn bản và thực hiện các câu hỏi:
"Cảm ơn hay xin lỗi là một trong các biểu hiện các ứng xử có văn hóa, là hành vi văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội. Trong ứng xửa của cộng đồng, khi cảm ơn và xin lỗi được trình bày một cách chân thành, một mặt phản ánh phẩm chất văn hóa của cá nhân, một mặt giúp mọi người dễ cư xử với nhau hơn.
Trong nhiều trường hợp, lời cảm ơn hay xin lỗi không chỉ đem niềm vui tới người nhận, chúng còn trực tiếp giải tỏa khúc mắt, gỡ rối các quan hệ con người cũng vì thế mà sống vị tha hơn".
(Trích "cảm ơn" và "xin lỗi" là biểu hiện của ứng xử văn hóa- Hà Anh)

Câu 1: Theo tác giả, lời cảm ơn và xin lỗi có những giá trị gì?
Câu 2: Đoạn văn trên khiến em liên tưởng đến phương châm hội thoại nào?
Câu 3: Em có đồng ý với ý kiến: "Cảm ơn và xin lỗi là một trong các biểu hiện của ứng xử có văn hóa" không? Vì sao?
Câu 4: Từ văn bản trên em rút ra bài học cho bản thân.


Hướng dẫn trả lời câu hỏi:
Câu 1: Những giá trị là:
- Thể hiện được cách ứng xử tế nhị, có văn hóa, lịch sử.
- Đem lại niềm vui tới người nhận.
Trực tiếp giải tỏa khúc mắc, gỡ rối quan hệ con người.
Câu 2: Phương châm hội thoại là: phương châm lịch sự.
Câu 3: Em đồng ý với ý kiến.
Vì lời cảm ơn hay xin lỗi phản ánh lối ứng xử văn minh của con người, một mặt giúp mọi người dễ cư xử với nhau, từ đó lời cảm ơn hay xin lỗi là một trong các biểu hiện ứng xử văn hóa.
Câu 4: Rút ra bài học là:
"Lời cảm ơn hay lời xin lỗi không chỉ đem nhiều niềm vui tới người nhận, chúng còn trực tiếp giải tỏa khúc mắt, gỡ rối các quan hệ con người cũng vì thế mà sống vị tha hơn". Bản thân em là "mùa xuân của đất nước" em cảm thấy rằng lời cảm ơn, xin lỗi rất cần thiết trong môi trường giáo dục, vừa giúp chúng ta rèn luyện đạo đức lối ứng xử phì hợp khi gặp mâu thuẫn mà còn được yêu thương, tôn trọng từ mọi người xung quanh.

(bài viết mang tính chất tham khảo, các bạn hãy thể hiện khả năng sáng tạo của mình nhé!!)
CHÚC CÁC BẠN THI TỐT!!!
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
865
1
2
Viết trả lời...
Mọi người ơi cho em hỏi. Em làm bài văn nghị luận tác phẩm " Mùa xuân nho nhỏ" nếu em so sánh tác phẩm em nên so sánh tác phẩm nào ạ.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
480
1
6
Nhà thơ Thanh Hải viết mùa xuân với tình yêu quê hương tha thiết thì nhà thơ Nguyễn Bính tỏ bày trong chuyện tình yêu đôi lứa, xóm làng.

Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Ðoài hát tối nay”.

Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe
Mưa bụi nên em không ướt áo
Thôn Ðoài cách có một thôi đê.

Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chả sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!

Mình em lầm lụi trên đường về
Có ngắn gì đâu một dải đê!
Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.

Em giận hờn anh cho đến sáng
Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì
“- Thưa u họ hát…” rồi em thấy
Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi.

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ
Ðể mẹ em rằng hát tối nay?
(Mưa Xuân - Nguyễn Bính)
 
Viết trả lời...
Mọi người ơi cho em hỏi. Em làm bài văn nghị luận tác phẩm " Mùa xuân nho nhỏ" nếu em so sánh tác phẩm em nên so sánh tác phẩm nào ạ.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
480
1
6
Cùng viết về Huế, về tình yêu quê hương đất nước thì Tố Hữu cũng có bài thơ rất hay, tuy nhiên khác biệt chủ đề mùa xuân (cần làm nổi bật).

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

Huế, tháng 7-1939

Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác trong nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả mới bị bắt giam ở đây.

Tu hú là loài chim lông màu đen (con mái lông đen có đốm trắng), lớn hơn chim sáo, thường kêu và đầu mùa hè.
 
Viết trả lời...
Mọi người ơi cho em hỏi. Em làm bài văn nghị luận tác phẩm " Mùa xuân nho nhỏ" nếu em so sánh tác phẩm em nên so sánh tác phẩm nào ạ.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
480
1
6
Văn học so sánh là từ 1 tác phẩm đã có hiểu biết, đã thừa nhận với nhau để làm nổi bật nên tác phẩm cần so sánh.

Ở đây, tác phẩm em cần làm nổi bật, cần làm sâu sắc là tác phẩm "Mùa xuân nhỏ nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải. Nội dung của bài thơ này là về mùa xuân, về tình yêu quê hương đất nước của tác giả nói riêng, và mỗi chúng ta nói chung. Vậy nhưng, trong nội dung này em cần làm nổi bật khía cạnh nào hay toàn bộ nội dung?

Chính từ khía cạnh em muốn làm nổi bật mà chọn lựa tác phẩm để so sánh. Chẳng hạn, về tình yêu quê hương đất nước thì nhà thơ Thanh Hải chọn về mùa xuân ở Huế - miền Trung còn mình sẽ chọn bài "Từ ấy" của nhà thơ Tố Hữu. Hai bài thơ về 2 mùa khác nhauts n đều nói về tình yêu quê hương đất nước. Nhà thơ Thanh Hải là về mùa xuân đẹp đẽ, nhẹ nhàng, còn nhà thơ Tố Hữu thể hiện tình yêu cồn cào, khắc khoải, rực cháy của tháng 3 khi giao mùa xuân hạ:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."

Tuy nhiên, với năng lực hành văn của các em thì nên chọn những tác phẩm tương tự nhau. Ví dụ với những đoạn tả mùa xuân trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, ... Để dễ viết thì chọn các tác phẩm quen thuộc đã học, còn muốn thử thách hơn thì chọn các tác phẩm ngoài chương trình học, của các nhà thơ lớn như Tố Hữu, Xuân Diệu, ..

Chúc em làm bài sắc sảo nhé.
 
  • Like
Reactions: yuyu
Viết trả lời...
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Thêm
473
0
5
Nguyên (元) nghĩa là mới, đầu tiên. "Đầu năm vua mới lên ngôi gọi là nguyên niên 元年- năm đầu (thứ nhất). Phàm đầu số gì cũng gọi là nguyên. Như tháng giêng gọi là nguyên nguyệt 元月, ngày mồng một gọi là nguyên nhật 元日." - từ điển Thiều Chửu. Đây cũng là chữ "nguyên" trong "nguyên tố", "kỷ nguyên"...

Đán (旦) - bộ Nhật, nghĩa là sớm. "Lúc trời mới sáng gọi là đán.", từ đó có thêm nghĩa chỉ một ngày.

Như vậy "Nguyên đán" là tết ăn mừng ngày đầu tiên của năm mới, để phân biệt với các tết khác như Đoan Ngọ, Hàn Thực, Trung Thu...
 
Viết trả lời...
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Thêm
473
0
5
"Trong làng thơ mới, Vũ Đình Liên là một người cũ. Từ khi phong trào thơ mới ra đời, ta thấy có thơ Vũ Đình Liên trên các báo. Người cũng ca tình yêu như hầu hết mọi nhà thơ hồi bấy giờ. Nhưng hai nguồn thi cảm chính của người là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: Ông đồ. Ông đồ năm năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đường phố. "Ông chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn".

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

1936

Có thể nói ngay từ khi ra đời, "Ông đồ" của Vũ Đình Liên đã đại diện cho một nỗi hoài cổ, một thành quách cũ đã sớm qua đời. Ấy vậy mà gần trăm năm sau, ta vẫn cảm nhận được nỗi niềm ấy, thấm đẫm trong từng câu thơ - có lẽ vì cái quá khứ ấy đã xa càng xa hơn nữa, hay vì sự hoài cổ luôn là bản tính không thể xóa nhòa của con người.

Vào mỗi dịp tết đến xuân về, tôi lại nhớ đến "những người muôn năm cũ". Đó không chỉ là ông đồ, còn là người viết thư tay cuối cùng, người sơn bảng hiệu cuối cùng, người làm tò he cuối cùng... Những con người của một thời đại vàng son đã qua. Tôi như thấy được chính tôi trong đó, bởi vì rồi một ngày hồn ta cũng sẽ đi theo năm tháng mà bị lãng quên, chính ta sẽ trở thành lá vàng, bụi bay trong hậu thế. Bởi vậy, tôi tin rằng dẫu có trăm năm sau, bài thơ này vẫn sẽ được nhắc đến, bởi sự đồng cảm sâu xa ấy.

Cũng thật trái khoáy phải không, khi những 'ông đồ' đã sắp trôi vào quên lãng, nhưng bài thơ về nỗi niềm ấy vẫn còn trường tồn.

Nguồn: Góc nhỏ Văn Thơ
 
  • Like
Reactions: Daisy Ngoc Tangg
Viết trả lời...
Hiện nay, với sự phát triển nhanh đến chóng mặt của công nghệ hiện đại, mọi người đang dần có xu hướng chạy theo thời đại và bỏ quên những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong những nét văn hóa truyền thống đặc sắc đó, có một làng nghề cần mẫn, một dòng tranh dân gian ý nghĩa và là một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đáng quý của người Việt cần được bảo tồn và phát triển - Tranh Đông Hồ.

Hãy cùng Suckhoedothi.com tìm hiểu về dòng tranh dân gian quen thuộc đối với mọi người dân Việt Nam, chắc hẳn ai cùng từng được nhìn thấy hoặc nghe qua và khám phá danh sách 8 bức tranh đẹp và ý nghĩa nhất của dòng tranh đặc biệt này nhé !

Giới thiệu về tranh Đông Hồ

Tranh Đông Hồ là gì?

Tranh Đông Hồ, tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, đây là một loại tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Theo tìm hiểu, trước kia tranh chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Đây không chỉ là những bức tranh trang trí mà còn là biểu tượng của sự đa dạng và sáng tạo trong nghệ thuật dân gian Việt Nam và mỗi bức tranh được vẽ ra đều mang những ý nghĩa sâu sắc, những chiêm nghiệm về đời sống của ông cha ta ngày xưa. (Theo Bảo tàng lịch sử quốc gia)

Lịch sử hình thành: từ bức tranh đầu tiên tới thời kỳ hiện đại.

  • Giai đoạn đầu:
Tranh Đông Hồ có nguồn gốc từ làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Xuất hiện lần đầu trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII đây cũng là thời kỳ hoàng kim của tranh Đông Hồ, nghệ nhân làng Đông Hồ đã sáng tạo ra một loại tranh dân gian độc đáo, đậm chất văn hóa và lịch sử. Những bức tranh Đông Hồ đầu tiên thường mang đề tài tâm linh, tôn giáo, thể hiện lòng tin sâu sắc của nhân dân nông thôn, về sau đề tài tranh chủ yếu để tả thực cuộc sống lao động của nông dân, phản ánh và có phần châm biếm những vấn đề trong xã hội.

  • Giai Đoạn Chống Pháp:
Trong giai đoạn chống Pháp, người Pháp du nhập giấy ram và phẩm màu, bổ sung nguyên liệu làm tranh. Năm 1960, Hợp tác xã sản xuất tranh Đông Hồ ra đời. Trong thời kỳ lịch sử này, tranh Đông Hồ không chỉ giữ vững được tinh thần văn hóa truyền thống mà còn trở thành một phương tiện truyền thông mạnh mẽ. Những bức tranh thường được sử dụng để tuyên truyền, gửi đi thông điệp đoàn kết, chiến thắng, và lòng yêu nước. Hình ảnh những chiến sĩ, người lao động nông thôn, và tinh thần đoàn kết được thể hiện rõ trong tranh Đông Hồ.

  • Giai đoạn hiện tại
Sau chiến tranh, tranh Đông Hồ đã duy trì được giá trị truyền thống và phát triển thêm, phản ánh cuộc sống đương đại và các chủ đề đa dạng để phù hợp với giai đoạn hiện đại. Nghệ nhân Đông Hồ ngày nay đã không ngừng sáng tạo, kết hợp giữa kỹ thuật truyền thống và những công cụ hiện đại nhằm gìn giữ và phát triển một nét đẹp văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam.

Ngoài ra, tranh Đông Hồ hiện nay không chỉ giữ lại những giá trị văn hóa mà còn trở thành một nguồn thu nhập quan trọng cho cộng đồng. Các triển lãm, sự xuất hiện trên thị trường nghệ thuật quốc tế, và sự chú ý từ du khách quốc tế đã giúp tranh Đông Hồ ngày càng phát triển, khẳng định vị thế và truyền bá một nét văn hóa đẹp của Việt Nam ra thế giới.

Đặc điểm nghệ thuật tranh Đông Hồ

  • Chất Liệu và Màu Sắc:
Tranh Đông Hồ sử dụng giấy dó làm từ lá chuối là chất liệu chính. Màu sắc trong tranh được tạo ra từ màu tự nhiên với những nguyên liệu như như hoa hòe, hoa hiên, bột vỏ sò, than lá tre và các loại thảo mộc khác. Sự sáng tạo trong việc sử dụng màu tự nhiên tạo nên bảng màu rực rỡ và đậm chất dân gian. Bằng cách này, tranh Đông Hồ không chỉ ghi lại văn hóa mà còn tạo ra mỹ cảm dung dị và độc đáo.

  • Kỹ Thuật:
Tranh Đông Hồ sử dụng kỹ thuật in từ ván khắc gỗ, trong đó ván in nét và ván in màu được sử dụng. Gỗ thị và gỗ thừng mực là nguyên liệu chính cho ván in nét, và công đoạn khắc ván đòi hỏi kỹ năng chạm khắc cao từ nghệ nhân. Mỗi bức tranh đòi hỏi sự kết hợp giữa ván in nét và ván in màu để tạo ra hình ảnh độc đáo và màu sắc rực rỡ.

  • Nội Dung Chủ Đề
Tranh Đông Hồ truyền thống được chia thành 7 chủ đề chính: thờ, chúc tụng, lịch sử, truyện, phương ngôn, cảnh vật, và phản ánh sinh hoạt. Chủ đề tranh đa dạng từ tâm linh đến cuộc sống hàng ngày, giúp phản ánh rõ nét đời sống xã hội và văn hóa truyền thống Việt Nam.

Ý nghĩa của tranh Đông Hồ

Tranh Đông Hồ hiện nay đã có ý nghĩa lớn về mặt văn hóa đối với người dân Việt Nam, trở thành một di sản văn hóa quốc gia. Những bức tranh với chủ đề độc đáo cùng nghệ thuật làm tranh truyền thống phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần và vật chất của con người, thể hiện ước mơ về cuộc sống gia đình hạnh phúc và xã hội công bằng. Ngoài ra, tranh Đông Hồ còn góp phần lưu giữ văn hóa truyền thống và làm phong phú đời sống tinh thần của người Việt Nam.

Top 8 bức tranh Đông Hồ đẹp và ý nghĩa nhất

Trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của dòng tranh Đông Hồ, đã có rất nhiều bức tranh nghệ thuật ấn tượng, ý nghĩa được vẽ và bán ra để mọi người có đa dạng sự lựa chọn mua tranh treo ngày lễ Tết. Sau đây là 9 bức tranh Đông Hồ quen thuộc với người Việt như: đám cưới chuột, đấu vật, đàn gà mẹ con, chọi gà,... với nhiều tầng ý nghĩa, rất phù hợp để làm quà tặng nhau mỗi dịp tết đến xuân về như một lời chúc tụng, cầu phú quý, gia đình hạnh phúc, …

Đám cưới chuột

Bức tranh "Đám cưới chuột" có lẽ là một trong những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng nhất và quen thuộc đối với mọi người. Đầu tiên về thủ pháp tạo hình, bức tranh miêu tả về một đám cưới của những con chuột, bao gồm hai phần, phần trên là bốn con chuột với hai con chuột đầu tiên đang cầm chim và cá đóng vai trò là lễ phẩm cho con mèo vàng ở góc trên bức tranh, con mèo được vẽ với dáng hình hung tợn, và có phần xảo quyệt.

Tiếp sau hai con chuột đó là hai con chuột đang thổi kèn, điều đặc biệt ở đây là loại kèn mà nó thổi là kèn đám ma như ngụ ý rằng con mèo kia ăn xong lễ phẩm sẽ mau “đi đời” để dòng họ chuột được yên ổn mà sinh sôi. Phần dưới của bức tranh là đoàn chuột đang rước kiệu, cầm cờ tổ chức lễ cưới, nét vẽ vui nhộn thể hiện không khí sôi động của lễ cưới truyền thống.

Ý nghĩa của bức tranh này là thể hiện sự no đủ, hạnh phúc, đám cưới chuột còn nhấn mạnh đến biểu tượng đông con nhiều cháu từ đặc tính của loài sinh đàn đẻ lũ này. Đám cưới cũng là thời khắc khởi đầu cho câu chuyện con đàn cháu đống. Ngoài ra bức tranh còn mang ý nghĩa châm biếm, đám cưới chuột bề ngoài là một đám cưới vui vẻ thế nhưng phải có cống vật dâng lên mèo để đám cưới được diễn ra yên ổn, con mèo dù biết chuột là loài gây hại và có nhiệm vụ bắt chuột nhưng vẫn cho qua.

Bức tranh này có ý nghĩa châm biếm, phản đối tham nhũng, mua quan bán chức và nạn tham ô trong chính quyền phong kiến. Nó thể hiện cuộc sống cực khổ của người lao động trong xã hội, khi phải làm việc vất vả và phải đút lót bọn quan lại để có cuộc sống yên bình. Bức tranh "Đám cưới chuột" là một tác phẩm mang nhiều tầng ý nghĩa, và trong cuộc sống hiện đại ngày nay, bức tranh này vẫn giữ được giá trị nhân văn, hiện thực và tính ứng dụng cao.

Đàn lợn âm dương

Một bức tranh Đông Hồ không kém phần quen thuộc là bức “Đàn lợn âm dương”, trong bức tranh Đàn lợn âm dương những con lợn được vẽ cách điệu mang lại ấn tượng mạnh với sự kết hợp giữa hình ảnh con lợn quen thuộc và yếu tố tâm linh (hình ảnh vòng tròn âm dương). Mỗi con lợn được tái hiện với dáng hình vững chãi, khỏe mạnh, béo tốt, đồng thời cũng truyền tải được đôi phần mềm mại và duyên dáng. Trên thân mỗi con lợn, có những vòng tròn âm dương, tượng trưng cho sự hài hòa giữa trời và đất, cũng như sự sinh sôi, phát triển và sung túc trong cuộc sống.

Trong tranh Đông Hồ, con lợn mang ý nghĩa về sự sung túc, phát tài phát lộc, thể hiện ước vọng của người dân lao động nhất là nông dân về một cuộc sống thịnh vượng, đủ đầy. Ngoài ra, hình ảnh con lợn cũng thể hiện cho mong muốn có một gia đình hạnh phúc, hòa thuận, con cháu đông đúc, sum vầy.

Chọi gà

Trong nhiều lễ hội dân gian ở Việt Nam, "chọi gà" luôn là trò chơi được nhiều người quan tâm, đây có thể coi như là một nét văn hóa của người Việt. Trong dòng tranh Đông Hồ cũng đã có một bức tranh “Chọi gà” thể hiện được trò chơi dân gian và nét văn hóa thú vị này cùng những ý nghĩa sâu sắc.

Thú chơi chọi gà vừa mang tính giải trí nhưng đồng thời bên cạnh đó nó biểu hiện cho sự nuôi dưỡng tinh thần thượng võ, chất keo gắn kết tinh thần cộng đồng đã từng tồn tại trong một thời gian khá dài trong các hội làng xưa.

Ý nghĩa của bức tranh này là biểu thị cho sự cần cù siêng năng giống như loài gà - thức dậy làm việc từ sáng tinh mơ, sức khỏe dồi dào và tinh thần thượng võ.



Đàn gà mẹ con

Bức tranh tiếp theo là bức “Đàn gà mẹ con”, vẫn là hình ảnh con gà quen thuộc cùng nét vẽ mềm mại đặc trưng của dòng tranh Đông Hồ. Bức tranh bao gồm một con gà mẹ cùng một đàn gà con gồm mười con đang quây quần bên gà mẹ, thể hiện sự sung túc, gia đình hạnh phúc đầm ấm, đồng thời cũng thể hiện sự vất vả của người mẹ trong gia đình. Ngoài ra, bức tranh còn ẩn dụ một thực tế xã hội: một mẹ có thể nuôi được mười con, nhưng chưa chắc mười người con có thể nuôi được mẹ.

Đấu vật

Đấu vật là môn võ cổ truyền của Việt Nam xuất hiện từ khi lập quốc và tồn tại gắn liền với hoạt động bảo vệ tổ quốc và lễ hội xuân. Bức tranh “Đấu vật” là một bức tranh nổi tiếng của làng tranh Đông Hồ, tả cảnh đấu vật của những người đàn ông trong ngày xuân, các đấu thủ đều đóng khố – theo đúng phong tục của người Việt xưa để lộ thân hình vạm vỡ, tráng kiện.

Ý nghĩa bức tranh là đề cao tinh thần thượng võ của dân tộc, thể hiện sự phấn khởi cùng lời chúc sức khỏe tới mọi gia đình.

Đánh ghen

Đầu tiên về bức tranh Đông Hồ “Đánh Ghen” có nội dung miêu tả cảnh đánh ghen của một gia đình, người chồng ngoại tình để vợ bắt được, con trai thì trông thấy. Thế nhưng lại lại ngược với lẽ thường khi trước mặt vợ, người đàn ông vẫn ngang nhiên khoác vai ả tình nhân ra vẻ bảo vệ. Còn ả tình nhân khi gặp vợ cả cũng chẳng sợ sệt hay lén lút, mà trái lại còn rất vênh váo, khiêu khích.

Bức tranh này mang tính răn đe, nhắc nhở đối với cả 3 đối tượng như sau:

  • Người chồng không nên có thói trăng hoa mà nên biết trân trọng vợ con, gia đình của mình
  • Người vợ không nên tức giận làm mất giá trị của mình và nên quan tâm chồng hơn
  • Người đàn bà không nên biến mình thành kẻ thứ ba, xen vào gia đình người khác và phá hoại hạnh phúc gia đình họ để tránh mang tiếng xấu ở đời
Ngoài ra, bức tranh còn phản ảnh hiện tượng xã hội đa thê thời bấy giờ một cách khéo léo nhưng rất mãnh liệt.

Hứng dừa

Ta có thể thấy bức tranh đang miêu tả một gia đình bao gồm người chồng đang leo lên cây dừa để hái quả - đây là một công việc vô cùng nguy hiểm nhưng để lo cho gia đình mà người chồng vẫn phải gánh vác, người vợ đang ở dưới hứng dừa giúp chồng và cuối cùng là 2 người con đang ôm cây dừa.

Đây là một bức tranh vô cùng ý nghĩa, biểu thị cho sự êm ấm hòa thuận trong gia đình, thể hiện sự vất vả và trách nhiệm của người chồng là trụ cột cho gia đình, người vợ chung tay với chồng để giữ gia đình luôn hạnh phúc. Bức tranh “Hứng dừa” như một lời chúc tới gia đình luôn được sung túc hạnh phúc, ca ngợi tình yêu đôi lứa.

Tranh Vinh hoa - Phú quý

Đây là một cặp tranh Đông Hồ nổi tiếng, nằm trong bộ tranh Lễ trí (tranh em bé ôm rùa); Nhân nghĩa (em bé ôm cóc); Vinh hoa (em bé ôm gà); Phú quý (em bé ôm vịt). Bốn bức tranh này thuộc loại tranh chúc tụng của làng tranh Đông Hồ, thường được treo cùng nhau trong dịp Tết đến, xuân về.

  • Tranh vinh hoa là hình ảnh bụ bẫm ôm con gà trống bên chậu hoa cúc, biểu hiện lòng mong mỏi sinh được con trai khỏe mạnh, sau này lớn lên sẽ thành người thành đạt, vinh hiển… Gà trống, là biểu thị cho lời chúc đại cát, đại lợi, gà trống lớn trong tiếng Hán là đại kê, đồng âm với đại cát.
  • Tranh phú quý là hình một bé gái ôm con vịt, với bông hoa sen (liên áp). Hoa sen gợi tới hình ảnh trong trắng, thanh cao “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Hai bức tranh này có bố cục đơn giản, tập trung đặc tả con người và các con vật, hoa lá, màu sắc tươi vui, các mảng màu mạnh mẽ, giàu tính trang trí gợi cảm. Đường nét to khỏe uyển chuyển, khuôn mặt em bé sinh động rạng rỡ, xinh xắn thật đáng yêu, con gà và con vịt tuy nằm phủ phục nhưng vẫn ngẩng cao đầu biểu hiện niềm khao khát vươn lên trong cuộc sống.

Ngày Tết treo cặp tranh Vinh hoa - Phú Quý thể hiện ước mơ của bao gia đình, mang ý nghĩa chúc tụng, cầu may cho gia đình có cuộc sống giàu sang, con cái đủ đầy, có trai, có gái.

Kết Luận

Trên đây là một số thông tin về Tranh Đông Hồ - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đang được bảo tồn và phát triển, và giới thiệu tới các bạn 9 bức tranh vô cùng quen thuộc và ý nghĩa để mọi người có thể tham khảo, cũng như biết thêm về một nét văn hóa đẹp, một nghề dân gian của người Việt.

Tranh Đông Hồ không chỉ dừng lại là bức tranh treo tường trang trí ngày tết, đón mừng năm mới mà còn là một nét văn hóa nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, là biểu tượng của sự sáng tạo và nghệ thuật dân gian. Qua từng nét vẽ tinh tế, kỹ thuật khắc tranh gỗ phức tạp kết hợp với chất liệu tranh đặc biệt, tranh Đông Hồ đã thể hiện được sự sáng tạo trong nghệ thuật của người Việt, nội dung tranh lột tả đời sống xã hội và tinh thần của người nông dân nông thôn, đồng thời phản ảnh một cách chân thực đầy tính châm biếm về những vấn đề nhức nhối trong xã hội bất giờ như: tham nhũng, hối lộ, đa thê,… cùng với những lời chúc tụng cho năm mới được bình an, sung túc.
Thêm
  • Dam-Cuoi-Chuot.jpg
    Dam-Cuoi-Chuot.jpg
    231.2 KB · Lượt xem: 92
438
2
2
Viết trả lời...
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~

Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Thêm
473
0
5
Các cụ Đồ trên phố Hàng Bồ, gần Tết năm 1907, khách thuê viết câu đối có vẻ ít.


Ảnh của sĩ quan Pháp Edgar Imbert. Có những nét văn hóa bị văn hóa phương Tây làm mai một. Cho đến nay chúng ta đang cố gắng phục dựng và duy trì lại. Và để cho tiện, người ta kiến nghị bỏ luôn Tết coi như bỏ hết luôn.

Ông Đồ.

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

(Vũ Đình Liên)
1936/ Bài thơ đăng trên báo Tinh hoa.
 
Viết trả lời...
Kính gửi BQT Mạng xã hội Văn học trẻ (@Vanhoctre)
Hôm nay tôi muốn báo một lỗi. Đó là không thể in đậm, nghiêng, cũng như chỉnh màu,... cho văn bản
Kính mong bộ phận kỹ thuật sẽ sớm khắc phục lỗi này
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thêm
  • Screenshot (145).png
    Screenshot (145).png
    179.5 KB · Lượt xem: 137
519
2
3
Viết trả lời...
"Cuối đông,gió vẫn xào xạc theo gió
Tình tôi vẫn ở đó thoảng theo mây."​
Thời tiết Hà Nội thất thường quá, mới đây thôi nắng tháng 5 như tìm về, ấy thế mà bây giờ gió mùa đông đã thổi từng cơn từng cơn về nơi đây.
Cơn gió ấy nhẹ nhàng, dịu dàng thế mà lại thổi cả những cơn sốt, những đêm mệt nhoài khiến thân xác em úa tàn. Em mệt lắm anh ạ, đã có những khoảnh khắc em như chạm đến cái khoảng không sâu trong tâm hồn mình, em tự hỏi anh đang nơi chốn nào giữa biển người ấy?
Em thả hồn mình vào những giọt mưa đông, men theo từng làn gió để tìm về nơi anh. Anh nhớ mặc áo ấm, nhớ ngủ sớm, nha anh.
Lỡ như anh có tay trong tay với ai thì hãy chăm sóc người ấy, theo một cách ân cần nhất mà anh dành cho người thương của mình, anh nhé. Em chẳng biết anh giờ sao rồi, em khao khát được bước vào cuộc sống của anh lắm. Ấy thế mà sao nơi đó xa vời vợi, sao em chẳng chạm được đến trái tim anh?
Thêm
  • 57638de6cae54a5150e358cd5f650913.jpg
    57638de6cae54a5150e358cd5f650913.jpg
    38 KB · Lượt xem: 117
380
3
1
Mùa đông đến mới chợt thấy cô đơn, chợt thèm hơi ấm. Và lòng chợt nhớ ai đó quen.

Mùa đông đến nhớ Hà Nội mình cũng thường nhớ nhiều gương mặt thân quen. Giờ mỗi người một nơi, người thảng qua thấy nhau trên facebook, người lặng lẽ hỏi thăm nhau... Nhưng có người, nhớ chẳng thể nào biết giờ ở đâu?
 
  • Like
Reactions: Thu Hoài
Viết trả lời...
Two million rural residents will move into newly .......... areas just outside the city.
A. Urbanize
B. Urbanized
C. Urbanizing
D. Urbanization
Thêm
408
2
2
Viết trả lời...
Thật ra một trong những điều khó hiện thực nhất trong đời chính là suy nghĩ bắt đầu lại một cuộc sống mới.
Sinh mệnh không phải một trò chơi, không thể cứ game over rồi lại chơi thêm một lần nữa, hoàn toàn cắt đứt với quá khứ.
Bắt đầu lại, có lẽ là mong muốn sắp xếp lại những rộn ràng của quá khứ, ủi phẳng phiu những bộn bề bên trong.
Bắt đầu lại, có lẽ là muốn nhìn thấy mình ở một hình thái khác. Bình tĩnh hơn, rực rỡ hơn, hoặc là yên ả hơn.
Bắt đầu lại, có lẽ là mong muốn cho mình một cơ hội mới, một tâm thế mới. Không phải quên đi tất cả, rũ sạch con đường đã đi mà là nhìn vào tương lai phía trước, đi lên con đường mình từng nghĩ đến.
Nhưng suy nghĩ thì dễ dàng, thực hiện đôi lúc lại không hẳn thế. Nó là từng bước nhỏ góp nhặt lại từng ngày. Bởi thói quen hình thành con người, nên thay đổi chính là từng chút một điều chỉnh thói quen. Mà thói quen lại là thứ khó di dời nhất.
Thế nên suy nghĩ bắt đầu lại một cuộc sống mới, không phải là phá vỡ để xây lại, mà phải là dũng cảm bước đi bước đầu tiên, kiên trì đi qua những bậc thang kế tiếp.
Hẳn là vậy?
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
382
1
1
"Bắt đầu lại" luôn diễn ra mà chúng ta không thực sự để ý, chỉ khi những sự kiện, hay mối quan hệ tác động sâu sắc vào tâm trí. Như mùa đông đến, chúng ta bắt đầu lại với những xúc cảm chỉ mùa đông mới có. Rồi mùa đông qua, mùa xuân đến sẽ bắt đầu lại những bận tâm như lạ như quen..

Nhưng có những xúc cảm mà không bao giờ giờ muốn bắt đầu lại.
 
  • Like
Reactions: Thích Vị
Viết trả lời...
Khoảnh khắc cô dâu Doãn Hải My được bố dắt vào lễ đường và hạnh phúc trong vòng tay của chú rể Đoàn Văn Hậu, đẹp đôi quá, chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.

Đám cưới Đoàn văn Hậu - Hải My - Vanhoctre (2).jpg


Đám cưới Đoàn văn Hậu - Hải My - Vanhoctre (5).jpg


Đám cưới Đoàn văn Hậu - Hải My - Vanhoctre (4).jpg


Đám cưới Đoàn văn Hậu - Hải My - Vanhoctre (3).jpg


Đám cưới Đoàn văn Hậu - Hải My - Vanhoctre (6).jpg


Đám cưới Đoàn văn Hậu - Hải My - Vanhoctre (1).jpg

Ảnh: Linh Lê Chi
Thêm
431
0
0
Viết trả lời...
Nhắc đến những nhân vật nữ “chán chồng” trong các tác phẩm văn học kinh điển, không thể bỏ qua hai cái tên lớn: ANNA KARENINA của Lev Tolstoy và BÀ BOVARY của Gustave Flaubert. Và với hai "bà" này, đáp án đúng là C.

Anna là một mệnh phụ phu nhân thuộc tầng lớp thượng lưu vốn quen sống hưởng thụ và giả tạo. Nàng xinh đẹp, thông minh, và trái tim khao khát tự do, hạnh phúc, nhưng lại có một cuộc hôn nhân sắp đặt với một người chồng cứng nhắc vô cảm. Trong xã hội của Anna Karenina, người ta dần coi ngoại tình như là một xu hướng của giới sang chảnh, cặp bồ công khai, sống trụy lạc như để khỏa lấp cuộc sống vương giả nhưng rỗng tuếch bê tha. Anna cũng ngã vào một mối tình như thế.

Emma Bovary xuất thân là một thiếu nữ nông thôn được học trong tu viện và đọc rất nhiều tiểu thuyết tình cảm. Với ước mong được làm vai nữ chính trong tiểu thuyết lãng mạn, được yêu thương bởi một người chồng tài năng, giàu có, hào hoa phong nhã, chí lớn, danh vọng đầy mình, luôn cùng nàng nói về những chủ đề bay bổng diễm lệ, nàng nhanh chóng chán ngán người chồng bác sĩ tầm thường nhạt nhẽo và tìm thú vui trong những cuộc tình.

Cuộc ngoại tình của cả Anna lẫn Emma đều kết thúc trong đau khổ. Nhân tình của Anna là một công tử bột được xã hội thượng lưu nuông chiều, và chính Anna cũng không đủ dũng cảm dứt bỏ địa vị, đặc ân của tầng lớp mình. Với Emma, nỗi đau lớn nhất đến từ sự vỡ mộng. Những cuộc tình dan díu nhanh chóng kết thúc trong sự chán nản và suy sụp về kinh tế khiến Emma tuyệt vọng phải tìm đến cái chết.

Thông qua hai cuộc đời bi kịch, cả Lev Tolstoy lẫn Gustave Flaubert đã khắc họa những người phụ nữ với khát khao hạnh phúc chính đáng, nhưng lại chọn cách đi trái với đạo đức xã hội, sống ích kỷ, phụ thuộc vào của cải vật chất, để rồi chịu kết cục bi thảm.

Nguồn: Nhã Nam
Thêm
562
2
0
Viết trả lời...
Bảo Ninh là bút danh - ngoài ra còn rất nhiều bút danh khác như Nhật Giang, Mã Pí Lèng…. Ông sinh ngày 18 tháng 10 năm 1952 tại Nghệ An, tên thật là Hoàng Ấu Phương, là nhà văn nổi tiếng với nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, trong đó thành công nhất là Nỗi buồn chiến tranh. Cùng VHT đọc bài viết sau đây để hiểu thêm về Bảo Ninh và Nỗi buồn chiến tranh.


Bao-Ninh-vhsg3.jpg

Ảnh sưu tầm


Đã hơn 30 năm từ ngày tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (tên ban đầu là Thân phận của tình yêu) của nhà văn Bảo Ninh (tên thật là Hoàng Ấu Phương, quê Bảo Ninh, Quảng Bình) ra đời và nổi tiếng khắp thế giới. Nó được xem là “cuốn tiểu thuyết xúc động nhất về chiến tranh Việt Nam”, “cuốn sách chạm vào mẫu số chung của nhân loại”, “thành tựu lớn nhất của văn học Đổi mới”… Tiểu thuyết đã được dịch ra 15 thứ tiếng, và có những thứ tiếng có 2 phiên bản, giới thiệu ở 18 nước trên thế giới. Trên tờ quảng cáo bản dịch tiếng Trung ghi rõ “Bốn lần được đề cử giải Nobel”. Nhiều người đã đem Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đặt cùng hàng với Phía Tây không có gì lạ của Remarque, Người đọc của Bernhard Schlink (Đức), Người đua diều của Khaled Hosseini (Ba Tư). Đã có rất nhiều bài phê bình và cả những luận văn, luận án về tác phẩm này, hầu như không còn gì để viết nữa.

Dẫu vậy, số phận Nỗi buồn chiến tranh vẫn chưa xong xuôi, vẫn còn những ý kiến trái chiều. Tác phẩm sau khi xuất bản đã nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, rồi bị cấm từ năm 1993 đến 2005, đến 2006 lại được phép xuất bản trở lại. Sau năm 1991 đã có nhiều nhà văn có tên tuổi viết bài phê bình Bảo Ninh. Tôi nhớ tại Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 8, 2010, tại Hà Nội, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã tiến ra giữa hội trường xin lỗi nhà văn Bảo Ninh vì đã viết bài phê phán ông. Năm 2011 sách được Giải thưởng châu Á của Nhật Bản (Nikkei Asia Prize). Nhưng ở Việt Nam cho đến nay tác phẩm vẫn chưa lọt vào Giải thưởng Nhà nước, mặc dù theo tôi, nó đã xứng đáng từ lâu, vì nó đứng vào hàng kinh điển thế giới. Một số trường đại học ở Mĩ đưa Nỗi buồn chiến tranh vào loại sách bắt buộc phải đọc. Nhà văn Diêm Liên Khoa (Trung Quốc) cũng liệt vào sách phải đọc đối với học viên lớp sáng tác mà ông phụ trách.

Bảo Ninh là nhà văn cựu chiến binh, quê Quảng Bình, sinh năm 1952 tại Nghệ An, trong một gia đình nhiều đời nho gia, bố là nhà ngữ học nổi tiếng Hoàng Tuệ, từng làm Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, nghiên cứu về chuẩn tiếng Việt và nhiều vấn đề liên quan đến chính sách ngôn ngữ của Nhà nước. Sau năm 1975, Hoàng Ấu Phương được giải ngũ, học Trường viết văn Nguyễn Du khóa III, bắt đầu viết văn từ năm 1987. Thời đi bộ đội, Phương từng đọc tiểu thuyết Phía Tây không có gì lạ của nhà văn Erich Maria Remarque (1898 - 1970) viết về Thế chiến thứ nhất. Hòa bình, thân phụ nhà văn sau chuyến đi Pháp có mang về tập tiểu thuyết Cuộc đời và số phận của Grossman (1905 - 1964), viết về cuộc sống người dân Xô-viết trong chiến tranh chống phát xít. Cả hai cuốn sách có tính phản tư về lịch sử đều có ảnh hưởng đến tư tưởng và nghệ thuật của Bảo Ninh. Khi viết Nỗi buồn chiến tranh theo kiểu phản tư, không phải Bảo Ninh không biết trước những hiểm nguy đang chờ đợi ông. Nghệ thuật của ông có tính chất dấn thân và suốt thời gian hơn 30 năm, trước bao dư luận, ông vẫn giữ thái độ im lặng bình thản. Từ đây ta thấy ý thức nghệ thuật và tinh thần dũng cảm của nhà văn Bảo Ninh.

Nỗi buồn chiến tranh thuộc loại tiểu thuyết chỉ có một nhân vật chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Các nhân vật khác đều là phụ, xuất hiện thấp thoáng trong các tình tiết. Kiên là nhân vật chính mang ba vai. Là người chiến sĩ sống sót sau chiến tranh của một đơn vị, không thể tự giải thoát khỏi các hồi tưởng về cuộc chiến tranh vừa qua và về các đồng đội đã mất như một chứng bệnh trầm cảm. Là người đánh mất mối tình đẹp đẽ của mình. Là người viết tiểu thuyết với ý thức sứ mệnh. Với ba vai đó, tiểu thuyết thể hiện ba nội dung cơ bản: cuộc chiến tranh khốc liệt với vô vàn chết chóc; chiến tranh và sự hủy diệt hạnh phúc đời thường; ý thức về chuyện viết văn về đề tài chiến tranh, muốn vượt qua truyền thống cũ.

Vấn đề đầu tiên đối với nhà văn là viết về chiến tranh như thế nào. Khi bắt đầu tiểu thuyết Kiên đã tự nêu câu hỏi: “Vì sao anh lại chọn chiến tranh và vì sao nhất thiết phải là nó?” (Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, 2011, các trích dẫn về sau đều lấy từ nguồn này). Anh chọn nó chính là để thay đổi nó. Vấn đề chính là ở cách nhìn về chiến tranh. Cuốn sách đã đi ngược lại với truyền thống thể hiện chiến tranh đã thành công thức. Một số người cho rằng, viết như thế là “xúc phạm” người đã khuất, vì không viết họ như những anh hùng. Nhưng chiến tranh là một đề tài rộng lớn, mà các hành động anh hùng trong chiến đấu chỉ là một phương diện. Chiến tranh còn là chết chóc, là hủy diệt, là mất mát đau thương... - những điều không thể không viết. Đất nước ta ở vào một vị trí địa chính trị thế nào đó mà thường phải đương đầu với chiến tranh và buộc phải sống còn. Sau tất cả, hòa bình thật quý giá. Đó cũng là tư tưởng của Hồ Chí Minh khi ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, 19/12/1946. Từ cuộc kháng chiến chống Pháp, sang cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiểu thuyết về chiến tranh ở Việt Nam ra đời trong nhu cầu giáo dục truyền thống anh hùng. Trần Đăng, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Hồ Phương, Nguyễn Văn Bổng, Võ Huy Tâm, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Trọng Oánh, Chu Lai, Nam Hà… và biết bao nhà văn Việt Nam khác đã sáng tác tiểu thuyết về chiến tranh như thế. Trước đó đã có biết bao tác phẩm phản ánh chiến tranh vệ quốc của Liên Xô, Trung Quốc cũng nhằm giáo dục truyền thống anh hùng. Các tiểu thuyết chiến tranh, do yêu cầu tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu và chiến thắng, đều thể hiện nhất loạt ta thắng địch thua, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta dũng cảm địch hèn nhát, ta là người địch là thú vật, ta chính nghĩa thì hi sinh là chuyện lương tâm và tất yếu... Đó là công thức chung.

Là nhà văn, Bảo Ninh nghĩ: “Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn tự xem mình là kẻ có khả năng, có trách nhiệm và có ham thú đúc kết nhân tình thế thái đặng tìm ra cho bản thân mình và bạn đọc của mình những giá trị, những ý nghĩa vừa cố định vừa đổi thay không ngừng của đời sống con người, một đời sống tuy ngắn ngủi và khá là ảm đạm, nhiều buồn đau và bất hạnh, song lại cũng hàm chứa vô cùng tận những lẽ đời đáng sống, những giá trị cao quý, những vẻ đẹp tuyệt vời, hạnh phúc và niềm vui.” Cái khó ở đây là ở chỗ, đối với “những giá trị, những ý nghĩa vừa cố định vừa đổi thay không ngừng”, nhiều người chỉ thấy mặt cố định, mà không thấy sự đổi thay của chúng.

Là người lính đi qua chiến tranh, nhà văn Bảo Ninh, sau khi chiến tranh kết thúc, đã nói lên một tiếng nói khác, có phần ngược lại: “Nỗi buồn chiến tranh”. Là nhân chứng của chiến tranh, là người đã chứng kiến biết bao chiến sĩ của ta đã hi sinh, ông đã thấy những giá trị đổi thay. Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết đã vượt lên chiến tranh. Ở đây chiến tranh chỉ là bối cảnh, còn nội dung tiểu thuyết là nỗi buồn đau triền miên mà chiến tranh để lại. Đó là nỗi buồn của chết chóc hủy diệt, nỗi buồn của tuổi trẻ phôi pha, nỗi đau của tình yêu tan vỡ. Viết về chiến tranh là viết về thể nghiệm đời sống đau đớn của những người trải qua chiến tranh, đó là quan điểm nhân văn. “Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn chiến tranh.” Nhà văn Kiên “thâm tâm luôn muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước”. Bảo Ninh không miêu tả, kể chuyện về cuộc chiến, không kể lại bất cứ trận đánh nào, mà kể về suy nghĩ, cách ứng xử về cuộc chiến. Hiện lên trước mắt ta là nhân vật Kiên, người lính trinh sát năm xưa nay đi tìm và quy tập hài cốt các đồng đội đã hi sinh, với vô vàn hồi tưởng về những đồng đội và những cái chết, những biến thái tâm lí, những cơn điên dại, hồi tưởng về người yêu và tình yêu đã mất, với khát vọng viết lại “nội dung của lời trăng trối” của người lính chống Mĩ. Ông từ chối chi tiết điển hình trong quá trình phát triển của lịch sử, để viết theo dòng chảy của hồi ức và tâm trạng. Chi tiết hiện thực của ông rất nhiều, nhưng không sắp xếp theo thứ tự lí tính. Truyện của ông không có cốt truyện, không có trật tự thời gian tuyến tính, không có kết cục rõ ràng. Nhân vật của ông không sống với thời đại mới sau chiến thắng chấn động địa cầu, mà sống với quá khứ. “Không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại, những tấm thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi...” Người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông không điều khiển được cái viết: “Không phải là anh, mà là một cái gì đấy đối lập, thậm chí thù nghịch với anh đang viết, đang không ngừng vi phạm, không ngừng lật ngược tất cả những giáo điều cùng tất cả những tín niệm văn chương và nhân sinh sâu bền nhất của anh. Và hoàn toàn không cưỡng nổi, mỗi ngày Kiên một dấn mình thêm vào vòng xoáy của nghịch lí hiểm nghèo ấy của bút pháp.” “Trong từng chương một, Kiên viết về chiến tranh một cách rất tùy ý như thể ấy là một cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới, như thể cuộc chiến của riêng anh.” “Ngấm ngầm anh tin mình tồn tại ở đời với một thiên mệnh vô danh, thiêng liêng và cao cả, song tuyệt đối bí ẩn.” Kiên là một trường hợp điển hình của chứng PTSD (chứng rối loạn tâm lí hậu chấn thương), và nhờ hồi tưởng, nhờ viết tiểu thuyết mà vượt qua cơn bệnh. Nhưng Kiên vẫn không phải là người đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết, mà phải là một người khác tỉnh táo hơn, bởi Kiên không thoát khỏi nhân vật để thành tác giả. Khi được hỏi mối quan hệ giữa nhân vật Kiên và Bảo Ninh như thế nào, thì tác giả Nỗi buồn chiến tranh trả lời: “Kiên là nhân vật hư cấu, hoàn toàn không phải tôi, đời sống và chiến đấu của anh ta cực kì khác tôi, nhưng Kiên cũng chính là tôi.” Kiên là nhân vật hư cấu, nhưng Kiên cũng chính là Bảo Ninh. Bảo Ninh đã thay đổi cách viết về chiến tranh. Những ai đã đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh sẽ không thể nào viết lại chiến tranh theo kiểu cũ được nữa.

Toàn bộ tiểu thuyết được kể bằng ngôi thứ ba với điểm nhìn duy nhất của Kiên, và nhiều khi Kiên gạt bỏ luôn ngôi thứ ba để đứng ra kể chuyện xưng “tôi” theo ngôi thứ nhất, nhất là khi nói về cách viết tiểu thuyết. Chỉ có chương cuối cùng là lời của một người đọc đặc biệt xưng “tôi” biên tập lại bản thảo dang dở và đánh giá đúng bản thảo. Cái “tôi” này cũng chẳng phải ai xa lạ, rất có thể là cái “tôi” đã xuất hiện trong văn bản. Người đọc xưng “tôi” này đã vượt qua các định kiến của những người hàng xóm, coi Kiên là “nhà văn phường”, một kẻ dị biệt, thị dân, tiểu tư sản, cực đoan, bạc nhược, để hiểu được “có chung một Nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ”. Toàn bộ tiểu thuyết được thể hiện bằng những hồi tưởng đứt đoạn của Kiên. Bảo Ninh thích dùng lối tạt lùi (flashback) để nhớ lại một chi tiết ngắn của quá khứ, làm cho cả tiểu thuyết được dệt bằng các đoạn hồi tưởng ngắn và suy ngẫm. Sẽ là ngây thơ nếu ai đó tin vào lời của nhà văn Kiên trong truyện, để tin rằng tiểu thuyết viết lộn xộn, tuỳ tiện vô thức. Chính những tạt lùi ngắn ngủi đã băm vụn cuộc chiến, để không tái hiện hoàn chỉnh nó nữa, vì ai cũng đã biết hết, mà chỉ tái hiện các mảnh vụn, những mảnh ghép làm nên “cuộc chiến của riêng Kiên” và nỗi buồn của anh mà mọi người chưa biết. Điểm nhìn của nhân vật Kiên và của người kể chuyện Kiên không trùng khít, bởi điểm nhìn sau hàm chứa một thái độ phản tư, phân tích những gì đã nhìn thấy và hồi tưởng, một điểm nhìn hậu chiến, điểm nhìn của người đã ra khỏi cuộc chiến và suy tư về nó, vượt lên nó. Nhìn bề ngoài, tất cả các chương của cuốn tiểu thuyết đều song hành trên một mặt bằng thời gian, bất cứ lúc nào Kiên đều có thể trở đi trở lại với những thời điểm quen thuộc với anh trong cuộc chiến, như thể thời gian không trôi qua. Nhưng đọc kĩ, sẽ thấy, cốt truyện chủ yếu là câu chuyện viết tiểu thuyết của Kiên. Từ chuyện đi làm nhiệm vụ quy tập hài cốt liệt sĩ, Kiên nảy ra ý muốn kể lại lời trăng trối của những người đã mất, rồi tiếp theo là chuyện viết, cách viết, viết thâu đêm, viết rồi bỏ, chuyện vô vàn cái chết, chuyện gia đình của Kiên, chuyện tình tan vỡ của Kiên, chuyện Kiên bất lực với câu chuyện và biến mất, và kết thúc bằng một ai đó biên tập tiểu thuyết và tiểu thuyết đã hoàn thành. Một siêu tiểu thuyết (metafiction), trong tiểu thuyết hàm chứa một tiểu thuyết, tiểu thuyết về ý thức đổi mới cách viết một đề tài. Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh mang một chủ đề kép. Nó không chỉ nêu một cách nhìn khác về chiến tranh, mà còn đề xuất một cách viết khác về đề tài chiến tranh, đề xuất một đổi thay về phương pháp sáng tác nữa.

Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh còn là một tiểu thuyết xuất sắc về ngôn ngữ văn học. Toàn bộ tác phẩm không phải lời kể chuyện thông thường, mà là lời độc thoại của nhân vật do người kể chuyện mượn để làm điểm tựa, lời của nhân vật Kiên. Vì thế đọc tiểu thuyết như là đọc lời bộc bạch, trữ tình, tâm sự của một tâm hồn. “Giấc mơ lay thức tâm hồn Kiên. Thì ra, anh, Kiên cũng có một thời trai trẻ trung, cái thời mà giờ đây khó lòng mường tượng lại được nữa, cái thời mà toàn bộ con người anh, nhân tính và nhân dạng, còn chưa bị bạo lực của chiến tranh hủy hoại, cái thời anh cũng ngập lòng ham muốn, cũng biết say sưa, si mê, cũng trải những cơn bồng bột, và cũng ngốc nghếch ngẩn ngơ, cũng từng tan nát cả cõi lòng vì tình yêu thương đau khổ, vì ghen tuông tủi hờn và cũng đáng được ưu ái như các bạn anh bây giờ. Chao ôi, chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!” Câu văn dài với nhiều thành phần phụ, với các từ trùng điệp, lặp lại, ngân nga như thơ, như ru người đọc vào hồi tưởng mà chìm ẩn trong nhịp điệu ấy là nỗi niềm tiếc nuối vô hạn và nỗi buồn sâu thẳm. Nhà văn Diêm Liên Khoa, người đánh giá cao và giới thiệu tiểu thuyết này với độc giả Trung Quốc tỏ ý tiếc là tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh giàu chất trữ tình quá. Theo ông có lẽ phải viết với lời văn giễu nhại. Ý kiến đó theo tôi không hợp. Người ta có thể giễu nhại một cuộc đại nhảy vọt, cuộc cách mạng văn hóa kệch cỡm như chính Diêm Liên Khoa đã làm trong các tiểu thuyết của ông, nhưng khó mà giễu nhại một cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, thống nhất đất nước. Nhưng khúc trữ tình với khúc ai ca tuy gần mà cũng có khác nhau. Nỗi buồn chiến tranh vẫn chỉ là nỗi buồn, nỗi đau, mà chưa phải là thể loại khúc ca, bài ca. Dịch là Chiến tranh ai ca có thể làm giảm nhẹ sức suy nghĩ hàm chứa trong tiểu thuyết. Tất nhiên bản dịch của dịch giả Hạ Lộ là một đóng góp lớn đối với văn học Việt Nam, rất đáng quý.

Mới đây, Hội Văn học nghệ thuật Danube và Nhà xuất bản AB ART của Hungary đã quyết định trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube 2022 cho nhà văn Bảo Ninh, thêm lần nữa củng cố và khẳng định vị trí của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh trên văn đàn thế giới.​
...............................................
Tác giả: Trần Đình Sử
(Triều Anh sưu tầm)
Thêm
1K
7
3
Không phải câu chuyện nào cũng có thể được xướng ngôn. Không phải câu chuyện nào cũng có thể được diễn ngôn. Không phải câu chuyện nào được chứng thính cũng phản ánh được hoàn toàn bản chất thật đang ẩn núp đằng sau vẻ ngoài mộc chân. Nó phải được kể bằng một tâm hồn thấu cảm.

Câu chuyện “Nỗi buồn chiến tranh” của chú Bảo Ninh là một minh chứng như thế. Thật sự, việc cảm nhận được phần gai góc của nhân vật chính, một người còn sót lại và cũng bị bỏ lại sau chiến tranh, là không dễ dàng giả như việc tiêu thụ thức ăn với nhiều hạt sạn hoà lẫn và khi nhai cứ răng rắc đến mức khó chịu. Bên cạnh còn có Phương, một kiểu người sinh ra giữa đương thời nhưng tâm thức bị mắc kẹt lại ở thế hệ cũ của cha cô, của mẹ cô và cô đã bỏ mặc số phận của cuộc đời mình đến tận cùng ranh giới của trắng và đen, của hư và thực, của sống và chết.

Tâm tư đan xen của nhiều lớp người bị cuộc chiến làm cho tha hoá đến mức ngây dại đã khiến họ trở nên ngờ vực, xem thường và nhục nhã với chính bản thân mình. Sống lại trong đó là những kí ức về đạn bom, khói lửa và máy bay cao xạ cứ gầm rú ầm lên và lia dội liên tục khắp mặt trận kháng chiến từ miền đồng bằng lên Tây nguyên và sang tận biên giới các nước bạn. Người may mắn sống sót trên sự hy sinh của những người nằm lại phải trải qua sự đấu tranh, giằn vặt và sâu xé tâm trí trong suốt quãng đời còn lại và liên tục là những cơn mê mộng mị ùa về hằng đêm

st
 
Viết trả lời...
Lê Lựu tự nhận mình là lão nông Khoái Châu. Ông tự hào về điều đó. Với bộ răng đen như cải mả, tóc tai bù xù, lối đi đứng thô vụng, Lê Lựu mang tác phong và dáng vẻ rành rành một lão nông không thể che giấu. Và ông cũng không muốn che giấu. Giữa thành phố hoa lệ như Moscow, Paris hay New York…lão nông ấy vẫn hỏi nhân viên khách sạn chỗ nào có điếu cày, ngô luộc. Con người ấy, dẫu khoác lên người comple Anh, giày Ý, nước hoa Pháp cũng không thay màu được.

Lê Lựu gặp Trần Đăng Khoa bên Liên Xô. Hỏi điếu cày, chè tươi, khoai lang đều không có. Ông bảo: Không có điếu cày, ngô luộc, chè xanh mà các bố sống sót qua được 7 năm ở đây. Con cũng đến lạy các bố.

Với phần lớn chúng ta, việc sinh hoạt theo Tây không quá khó, thậm chí còn là niềm thích thú. Riêng với lão nông Lê Lựu, sống phải ép mình theo sinh hoạt và ăn uống kiểu Tây, ông thà chết ngay còn hơn.

Đời cũng như văn. Tuy Lê Lựu, một nhà văn quân đội (ăn lương nhà nước) nhưng không ngậm miệng ăn tiền. Ông không thể che giấu nổi tiếng nói lương tâm và suy tư trăn trở trước nỗi thăng trầm đẩy bi kịch của thời đại.

Khác lối đi an toàn của Nguyễn Khải, Khuất Quang Thụy và Chu Lai, Lê Lựu không mất công ca ngợi Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, nhân dân hăng say chiến đấu – sản xuất. Người ta ca ngợi mãi rồi. Mình ca ngợi thêm làm gì? Lê Lựu là một trong số ít nhà văn (ăn lương Đảng) dám mô tả những góc khuất trong tâm hồn con người thời đại.

Thời đại mà chỉ một câu văn sơ ý cũng có thể bóc lịch mọt gông. Thời đại mà nỗi sợ hãi bao trùm tất cả, từ đứa bé đến ông lão gần đất xa trời. Từ lãnh tụ cao nhất đến một công chức quèn đều lo âu phấp phỏm.

Sợ gì?

Có trời mới biết! Vòng kim cô cứ lơ lửng trên đầu mọi cá nhân, mọi số phận. Chỉ cần ai khẽ niệm chú là vòng xiết lại. Bài niệm chú Kim Cô của Ngộ Không thì chỉ ba người thuộc (Như Lai Phật Tổ, Quan Thế Âm Bồ Tát và Đường Tam Tạng) còn chú Kim Cô của thời đại Lê Lựu thì ai cũng thuộc. Câu chú ấy là PHẢN ĐẢNG, CƠ HỘI, XÉT LẠI, CÁ NHÂN CHỦ NGHĨA, TIỂU TƯ SẢN. Khổ là câu thần chú đã bị công khai đến mức đứa trẻ 10 tuổi cũng thuộc nằm lòng.

Ở cái thời đại như thế, ông dám nói lên tiếng nói lương tâm chân thực và góc cạnh thì chứng tỏ hai điều. Một, tấm lòng dũng cảm, khí độ sỹ phu Hà Bắc của ông vẫn nóng và rạo rực. Hai, tài văn của ông không tệ. Chỉ dùng một chữ sai, ông có thể bung – toang tay trắng trong nháy mắt. Viết văn như thế, người viết còn khéo hơn cả bọn bịt mắt phi đao, xiếc đi dây mà bên dưới toàn mũi đao chia chỉa, ngọn hoắt. Chỉ sơ ý mất thăng bằng, thân thể sẽ bị ngàn dao xuyên nát ngực.

Thời Xa Vắng đem lại tên tuổi lừng lẫy cho Lê Lựu. Tuy nhiên, so với nhà khác, văn ấy cũng không quá sắc sảo. Truyện ấy cũng không quá đặc biệt. Vậy tại sao Thời Xa Văng lại là quả bom tấn của đời Lê Lựu?

Đem cái tâm trạng bây giờ, bất cứ ai đọc Lê Lựu sẽ không mấy ai vỗ đùi hào hứng nữa. Vì sao vậy? Vì chúng ta đã đọc những tác giả hải ngoại, hoặc những tác giả gần đây. Với ta bây giờ, li rượu Lê Lưu bày bán có độ cồn chưa mạnh. Chúng ta thì đã nghiện rượu hơn, sốc hơn. Nhưng Lê Lựu đâu bày rượu bán cho chúng ta? Cũng chẳng mong đắt hàng lúc ấy và bây giờ. Ông chỉ viết ra nỗi lòng trăn trở của ông, một cây bút có lương tâm trong sáng và lòng tự trọng lớn.

Tuy nhiên xét cho kĩ, một tác phẩm, một nhà văn phải đặt và khung cảnh ra đời của nó. Thời Xa Vắng, do đó, là một dấu ấn đặc biệt trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Vì trước đó, chưa có (công bố) một tác phẩm nào mô tả nội tâm phức tạp và đáng thương của con người XHCN như Thời Xa Vắng. Nhất là cha đẻ của nó lại là một sỹ quan quân đội.

Lê Lựu khá giỏi tiếng Anh. Trước cả Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu đại diện cho giới văn sĩ Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên sau bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ. Đó là lợi thế đặc biệt của bất kì ai lúc đó nếu giỏi tiếng Anh. Khi về nước, đài báo xúm đen xúm đỏ phỏng vấn, ông cảm thấy sao về chuyến đi này.
Lê Lựu nói:

- Các anh cứ tưởng tượng chuyện hai nhà ở gần nhau có mấy năm xích mích. Đã đến lúc cả hai đều muốn làm lành nhưng chẳng ai dám lên tiếng trước vì sợ mất sĩ diện. Bèn nghĩ ra kế hiểm, lùa mấy con gà con chó sang nhà nhau rồi nói với qua bờ tường: Này, anh ơi, có thấy con chó nhà tôi chạy qua bên đấy không. Anh kia nói, có có. Thế là hai bên giao tiếp thân thiện trở lại. Chuyến đi của tôi cũng đóng vai trò của con gà con chó ấy thôi.

Trả lời ứng khẩu sắc sảo và hóm hỉnh, Lê Lựu là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam được săn lùng như hoa hậu. Các bài phát biểu của ông, những đoạn trả lời phỏng vấn đều được sao ra băng cassette để bán như băng đĩa nhạc lậu. Đến nay, chưa nhà văn nào có cái vinh dự ấy.

Lê Lựu chơi rất thân với Trần Đăng Khoa. Với anh Khoa, Lê Lựu vừa là đồng hương vừa là bậc đàn anh. Nhưng căn bản hơn cả, hai người ấy đều mang chất lão nông. Trần Đăng Khoa có pha chút quan khí, không phải lúc nào cũng tiêu sái hồn nhiên. Bởi thế, Trần Đăng Khoa, dù nói năng lấp lửng khắp nơi, trước mặt Lê Lựu, luôn tỏ ra kính ngưỡng và chân thành, không dám dùng một li giáo điều, sách vở. Lê Lựu biết tỏng anh Khoa. Lê Lựu lại là hạng người mục hạ vô nhân, tiếu ngạo giang hồ. Anh Khoa, dính vào chức sắc, nể nang đàn anh là phải.

KẾT LUẬN

Trong tôi, Lê Lựu không phải cây bút sắc sảo xuất chúng nhưng ông là nhà văn tiêu biểu cho tinh thần sỹ phu Bắc Hà uy vũ bất năng khuất, bần tiện bất năng di. Muốn thấy cái tài, cái khí độ dũng cảm của Thời Xa Vắng, ta phải đặt nó vào bối cảnh lúc nó ra đời.

Cổ nhân trước khi chết, thường hỏi bọn gia nhân xem chân tay còn nguyên không, mắt mũi còn nguyên không. Hàm ý là, qua bao sóng gió, ta có bị nhục hình và phạm tội gì không. Nếu chân bị chặt (do phạm pháp) sẽ là nỗi nhục cho tổ tông. Ai còn nguyên vẹn thì có thể yên lòng nhắm mắt. Năm nay 82 tuổi, qua bao phen giỡn sóng bạc đầu, xỉa răng cọp dữ, Lê Lưu hẳn yên lòng về với tổ tiên. Chẳng những chân tay mặt mũi, mà danh dự và tiết tháo của ngài vẫn sáng trong như ngọc giữa cánh đồng Khoái Châu lộng gió.

Nguồn: Sang Đỗ
Thêm
  • Like
Reactions: Hoa Phù Sa
453
1
0
Viết trả lời...
Đoạn trích thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến.

Bố cục Trao duyên

- Phần 1: Từ đầu đến “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”: Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Rảy xin chén nước cho người thác oan”: Kiều trao tín vật đính ước cho em cùng với lời dặn dò.
- Phần 3. Còn lại: Nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều.

Trao duyên - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

Đọc tác phẩm Trao duyên

“... Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này,

Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân !

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như với !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !”
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
648
1
2
Kiến thức chi tiết tác phẩm Trao duyên


1. Thúy Kiều tìm cách thuyết phục, trao duyên cho Thúy Vân

a. Hai câu đầu

- Cậy → nhờ (cậy- thanh trắc→ âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói; nhờ- thanh bằng): hàm ý hi vọng tha thiết của một lời trăng trối, có ý tựa nương, gửi gắm, vật nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Nàng dùng từ này vì việc nàng cậy nhờ vừa đột ngột vừa rất quan trọng với cả hai người.
- Chịu → nhận (tự nguyện): nài ép, bắt buộc, không nhận không được.
- Lạy: mang thái độ kính cẩn với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
- Thưa: mang thái độ kính cẩn, trang trọng

Hoàn cảnh đặc biệt khác thường: Kiều là người phiền lụy, mang ơn chính người em gái ruột của mình

b. Mười câu tiếp

- Tương tư: tình yêu nam nữ; “gánh tương tư”: người xưa xem tình yêu là một gánh nghĩa vụ, gánh nặng, chữ tình đi liền với chữ nghĩa, giữa những người yêu nhau có mối duyên tiền định, sẵn có từ kiếp trước.

- Câu 3: sự dang dở, tình yêu tan vỡ.

+ Mối tơ thừa – mối tình duyên Kim – Kiều: cách nói nhún mình, trân trọng với Vân vì nàng hiểu sự thiệt thòi của em.

+ Mặc em (phó mặc, ủy thác): vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Thúy Vân phải nhận lời.


=> Câu 3- 4: Thúy Kiều mong muốn, ép buộc Thúy Vân thay mình nối duyên cùng Kim Trọng.

- Câu 5 - 8: kể lại vắn tắt câu chuyện tình yêu của Kiều- Kim.

- Câu 9 -12: lời thuyết phục Thúy Vân của Kiều

+ Ngày xuân (phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ) ý chỉ tuổi trẻ.

=> Lí do thứ nhất: Thúy Vân còn trẻ.

+ Tình máu mủ: tình cảm chị em ruột thịt.

+ Lời nước non: lời nguyện ước trong tình yêu.

=> Lí do thứ hai: Viện đến tình cảm chị em ruột thịt, Kiều mong Vân thay mình trả nghĩa với chàng Kim.

+ Thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”: chỉ cái chết.

=> Lí do thứ ba: Được vậy thì Kiều có chết cũng được mãn nguyện, thơm lây vì em đã giúp mình sống trọn nghĩa với chàng Kim.

=> Phẩm chất của Thúy Kiều:

+ Sắc sảo, khôn ngoan.

+ Luôn nghĩ đến người khác hơn cả bản thân mình → đức hi sinh, lòng vị tha.

2. Thúy Kiều trao kỉ vật cho em và dặn dò em

a. Câu 13-14

- Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu cho Thúy Vân: chiếc vành, bức tờ mây: Với người ngoài cuộc: ko có giá trị vật chất đáng kể còn với Thúy Kiều: quý giá, gợi tình cảm sâu nặng, lời thề ước thiêng liêng của Kim- Kiều.

- Của chung: của Kim, Kiều. (nay còn là của Vân à tiếc nuối, đau đớn. à Kiều chỉ có thể trao duyên (nghĩa) nhưng tình ko thể trao → ko thanh thản → nghĩ đến cái chết.)

- Của tin: phím đàn, mảnh hương nguyền đều là những vật gắn bó, gợi tình yêu Kim- Kiều.

b. Câu 15 – 24

- Cảnh sum họp của Kim Trọng – Thúy Vân >< Linh hồn cô độc, bất hạnh của Thúy Kiều.

→ tình yêu thủy chung, mãnh liệt.

→ ý thức ngày càng rõ hơn về bi kịch của Thúy Kiều.

- Ngày xưa → thời gian quá khứ xa xôi→ thời gian tâm lí, chia cuộc đời Kiều làm hai mảng đối lập:

Quá khứ >< Hiện tại

hạnh phúc, tươi chia li, tan vỡ đột ngột.

đẹp, rực rỡ. thảm khốc.

→ Quá khứ đã trở thành ảo ảnh vô cùng xa xôi.

- Hàng loạt những từ nói về cái chết: hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, thác oan → nỗi đau đớn tuyệt vọng và dự cảm tương lai bất hạnh của Kiều.

“Mất người … thác oan” → Kiều vẽ ra viễn cảnh tương lai đối lập giữa một bên là cảnh sum vầy của Kim Trọng – Thúy Vân với một bên là linh hồn cô độc, bất hạnh của nàng. Vậy là dù có chết nàng vẫn ko quên được mối tình với chàng Kim. Nói cách khác đó là một tình cảm bền chặt, thủy chung, mãnh liệt. Nàng ý thức ngày càng rõ hơn về bi kịch của mình nên đã chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Trong khi dự cảm về viễn cảnh tương lai mình phải chết oan, chết hận, hồn tả tơi bay vật vờ trong gió, ko siêu thoát được, nhưng vẫn mang nặng lời thề, Kiều như càng dần quên sự có mặt của em để độc thoại. Gv liên hệ đến câu chuyện về anh Trương Chi (giải thích câu “Dạ đài … thác oan”). Trương Chi còn tìm được sự đồng cảm của Mị Nương sau khi chàng chết nhưng với Kiều bi kịch tình yêu ko được giải quyết vì đó mới chỉ là ảo giác của mai sau.


3. Tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều (8 câu cuối)

- Ý thức về hiện tại: Bây giờ

+ Trâm gãy bình tan.

+ Phận bạc như vôi.

+ Nước chảy, hoa trôi.

→ Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người.

- Hàng loạt các câu cảm thán:

→ tình yêu mãnh liệt >< sự chia biệt vĩnh viễn.

→ nỗi đau đớn, tuyệt vọng đến mê sảng.

- “Người mệnh bạc” (phần trên) → người phụ bạc.

- “Lạy” (lạy tình quân) → tạ lỗi.

→ vĩnh biệt.

- Hai lần gọi tên Kim Trọng→ tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.

→ Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác → đức hi sinh cao quý. 8 câu cuối, Kiều chuyển hẳn sang độc thoại nội tâm mang tính chất đối thoại với người vắng mặt (Kim Trọng). Hàng loạt các câu cảm thán gợi tình yêu mãnh liệt nhưng sự chia biệt là vĩnh viễn. Bi kịch càng lên cao, Kiều càng đau đớn, tuyệt vọng đến mê sảng, quên cả ý tứ để chuyển sang nói với người vắng mặt là chàng Kim.

Thúy Kiều từ chỗ nhận mình là người mệnh bạc, giờ lại tự nhận là người phụ bạc chàng Kim. Vì vậy, đang độc thoại, nàng quay sang đối thoại tưởng tượng với Kim Trọng, gọi tên chàng trong đớn đau đến mê sảng. Cái lạy ở đây khác với cái lạy ở phần đầu. Kiều nhận tất cả lỗi về mình nhưng nào nàng có lỗi gì … Những dòng tiếp đoạn trích này, chúng ta còn thấy nàng đau đớn, tuyệt vọng đến ngất đi: “Cạn lời hồn ngất máu say/ Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng”…

tổng hợp
 
Viết trả lời...
Đoạn trích thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến.

Bố cục Trao duyên

- Phần 1: Từ đầu đến “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”: Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Rảy xin chén nước cho người thác oan”: Kiều trao tín vật đính ước cho em cùng với lời dặn dò.
- Phần 3. Còn lại: Nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều.

Trao duyên - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

Đọc tác phẩm Trao duyên

“... Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này,

Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân !

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như với !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !”
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
648
1
2
Tóm tắt Trao duyên

Thúy Kiều nhờ cậy em nối duyên với Kim Trọng vì muốn làm tròn chữ hiếu và chữ tình. Nàng trao kỉ vật và dặn dò em. Nàng dự cảm về tương lai không lành, rằng mình sẽ phải chết oan, mong em sẽ an ủi linh hồn chị khi chết. Tự nhận mình là người phụ bạc chàng Kim, xin chàng tha thứ trong tâm trạng đầy đau khổ. Trao duyên nhưng không trao được tình, đau khổ vô tận, cao đẹp vô ngần.

Ý nghĩa nhan đề Trao duyên

Gọi là “Trao duyên” nhưng thật chất lại không phải khung cảnh tình tứ mà người con trai trao gửi tiếng tình và người con gái đáp lại tâm ý đầy e thẹn.

“Trao duyên” ở đây và gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác nối lại mối duyên dang dở của mình.

Giá trị nội dung Trao duyên

- Đoạn trích là là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân khi muốn nhờ em gái trả nghĩa cho Kim Trọng. Qua đây, Nguyễn Du đã khắc họa được bi kịch tình yêu, cùng với thân phận bất hạnh cũng như nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

Giá trị nghệ thuật Trao duyên

- Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật.
- Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ…
- Sử dụng thành công ngôn ngữ, thể thơ của dân tộc.
 
Viết trả lời...