Mạng xã hội Văn học trẻ

1.Truyện ngắn là một giới hạn về thế giới nghệ thuật

Đứng về cấu trúc tự sự, truyện ngắn là một giới hạn về thế giới nghệ thuật. Với đề tài tức là phạm vi, dung lượng đời sống có hạn và không giải quyết nhiều nội dung đời sống mà thường chú trọng vào một nội dung cụ thể. Ví dụ, truyện ngắn Đời thừa là bi kịch người trí thức sống mòn mỏi, cuộc sống đầy khát vọng và bị “nợ áo cơm ghì sát đất”. Còn truyện ngắn Vợ nhặt là câu chuyện nhân vật Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khát một cách ngẫu nhiên.

Thường truyện ngắn chỉ chứa một biến cố cơ bản. Sự kiện ít, xung đột ít, cốt truyện thì đơn giản. Chính vì vậy, trong truyện ngắn thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Chỗ khác biệt quan trọng giữa tiểu thuyết và truyện ngắn là nhân vật chính của tiểu thuyết thường là một thế giới thì nhân vật truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới.

2.Truyện ngắn có thời gian và không gian của câu chuyện phụ thuộc vào người kể, môi trường, hoàn cảnh câu chuyện

Bởi truyện ngắn được lựa chọn ở những thời khắc hoặc không gian có ý nghĩa dồn nén hiện thực, có ý nghĩa nhận thức đối với nhân vật.
Ví dụ, trong truyện ngắn Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát, thì được nhà văn Nguyễn Minh Châu miêu tả thời gian và không gian mở rộng bằng sự hồi tưởng, giấc mơ, kỉ niệm. Do câu chuyện không dừng lại ở một thời điểm, mà có khả năng thâu tóm, khái quát cả cuộc đời và thế hệ.

3.Truyện ngắn miêu tả nhân vật ở những khía cạnh nổi bật nhất

Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Truyện ngắn lại có thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu loại nhân vật đa dạng của cuộc sống, chẳng hạn như chức nghiệp, xuất thân, gia hệ, bạn bè,… những kiểu loại mà trong tiểu thuyết thường hiện ra thấp thoáng trong các nhân vật phụ.
Ví dụ, trong những tình huống bắt buộc nhân vật phải tự bộc lộ, phải hành động. Tình huống trong Số phận con người của Sôlôkhốp, là một người lính cô đơn đau khổ vì mất hết gia đình, nhà cửa, mọi niềm hi vọng sau chiến tranh, lại gặp và cưu mang một thằng bé cũng trơ trọi như vậy trên cõi đời.

4.Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp

Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.

Khác với tiểu thuyết, truyện ngắn thường không nhằm tới việc xây dụng một tính cách nổi bật, điển hình đầy đặn trong tương quan với hoàn cảnh, mà thường là một nét bản chất trong trạng thái nhân sinh, một quan hệ ý nghĩa, một ý thức xã hội.

5.Truyện ngắn được tạo dựng từ những chi tiết hết sức hấp dẫn, sinh động

Chi tiết trong truyện ngắn yêu cầu rất khắc nghiệt có liên quan mật thiết đến tư tưởng của nhà văn đặt ra. Ví dụ, chi tiết ánh sáng đoàn tàu đêm trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, bát cháo hành trong Chí Phèo, … Những chi tiết ấy đã khắc họa một cách ấn tượng một tình người, một mơ ước xa xôi. Chi tiết là yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn mang ẩn ý và tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.

6.Truyện ngắn thường có kết cấu bất ngờ đột biến, hoặc tương phản, hoặc liên tưởng

Cốt truyện truyện ngắn thường có một chức năng là nhận biết một điều gì về lẽ sống, quan hệ người, một ý nghĩa nhân sinh. Ví dụ, truyện ngắn Một bữa no của Nam Cao là triết lí miếng ăn là miếng nhục. Như vậy, cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Kết cấu thường là một sự tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Dù có khối lượng nhỏ nhưng vẫn có khả năng tổng hợp chất thơ, kịch, ngụ ngôn, triết lí.

Sưu tầm
Thêm
2K
2
2
Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta tựa như một bản hợp xướng du dương với những nốt trầm bổng làm đắm say lòng người… Ta nghe đâu đây lời thơ hùng tráng về một “Nam quốc sơn hà” vừa tự hào lại không kém phần kiêu hãnh; rồi một dấu luyến ngân lên của một thời đại mang đậm nét dân tộc; đột ngột lại giáng một âm dài thâm trầm, đau thương để rồi bản đàn ấy lại thăng lên những âm hào hùng, mang theo khí thế của một dân tộc nồng nàn yêu nước, kiên trung quật cường. Bản hùng ca ấy nên thanh, thành điệu chính là từ ngòi bút và xúc cảm chân thành của rất nhiều thi nhân, mà trong đó, mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. Trong số đó, một trong những nốt hay nhất, dịu dàng và du dương nhất hòa thành hợp âm được viết nên bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà điển hình là đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất Nước - chín câu thơ lý giải cho hai tiếng “Đất Nước” tưởng như xa xăm mà gần gũi, lớn lao mà mộc mạc - mở đầu cho chương thứ năm của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng”:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”

Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến vì độc lập tự do, nhà thơ trẻ với hai mươi tám mùa xuân Nguyễn Khoa Điềm năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ thanh niên vào một ngày mai tươi sáng bằng những vần thơ thật đẹp, để rồi giữa những ngày lửa đạn, bom rơi nơi chiến khu Trị -Thiên năm 1971, “Đất Nước” đã ra đời, nhẹ nhàng và dịu êm len lỏi vào sâu trái tim từng người dân con Lạc cháu Hồng, khảm sâu vào trí óc, trường tồn với thời gian…

Bằng giọng thơ thật dịu và thật êm của mình, nhà thơ thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên như cất lên tiếng lòng bấy lâu nay dồn nén:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai tiếng “Đất Nước” được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi… “Đất Nước”… Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”

Thế nhưng “đất nước” của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa Điềm, ông viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này…Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu sắc: “ Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguồn ra sao, thế nhưng "Đất Nước" thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời...”. Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.
Và rồi hai chữ “mơ hồ” nhòa nhạt dần đi, nhường chỗ cho Đất Nước của nhà thơ hiện thân, rõ ràng và gần gũi, thân thương đến lạ:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể…
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

"À... thì ra đất nước lại gần ta đến như thế...", tôi thốt lên ngỡ ngàng. Giọng thơ êm ái như ru ta về một thời thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”, ngày xưa yên bình với cổ tích, với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng - nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi. Ở đó, ta lớn lên trong sự che chở của cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng rõ ai viết thành và viết năm nào mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô, khờ khạo. Chao ôi! …Dịu dàng và thân thuộc biết mấy bốn tiếng “ngày xửa ngày xưa”, để rồi khi tuổi thơ vụt trôi qua, người ta không khỏi bâng khuâng, bồi hồi xúc động:

“Tôi yêu truyện cổ nước mình
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”

(“Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)

Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt, nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an... Đất nước tựa như một sinh thể, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử, còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng “đất nước” yêu kính ngàn năm...

Đối với câu hỏi hồn hậu: “Đất nước có tự bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm như tình mẹ bao la. Từ hai tiếng “đất nước” tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể, cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng - định nghĩa từ tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác.

Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ ngày xưa. Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một “Đất Nước” cùng đi...
Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và “Đất Nước” cũng lớn lên cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:

“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”

(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)

Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm… Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên cùng “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết trồng tre mà đánh giặc” nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dâng mình cùng chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em… Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc. Từ chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trên lên, vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:

“Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”

(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)

Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta - những người con yêu kính đất mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối, ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.

Viết về đề tài đất nước không phải là một chủ đề mới lạ mà trái lại, đây luôn là chủ đề khơi gợi lên nhiều xúc cảm, cũng là nguồn cảm hứng bất tận, chắp bút cho sự ra đời của bao bài thơ. Trong bài thơ “Mũi Cà Mau”, nhà thơ Xuân Diệu từng đặt bút:

“Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”.

Hay năm xưa, Nguyễn Trãi từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô”:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Trong khi Xuân Diệu vì Tổ quốc ta như một con tàu, hùng dũng và hiên ngang trên biển khơi, Nguyễn Trãi lại đưa ta bước vào âm vang hào sảng của một đất nước văn hiến ngàn năm, vĩ đại, lớn lao và sừng sững. Hai nhà thơ biểu trưng cho hai thời đại, tuy xa cách nhau bằng khoảng thời gian muôn trùng thế nhưng lại gặp nhau trong giọng thơ đầy mạnh mẽ, tự hào khi nói về đất nước. Còn đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước bằng những chiến tích hiển hách, hào hùng, lại càng không dùng ngôn từ với thật nhiều tráng lệ, hiển hách. “Đất Nước” của ông chỉ đơn thuần và bình dị như thế, dịu êm như thế, “Đất Nước” ở ngay chính nơi này - trong trái tim ta! Viết về đất nước bằng lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm không những không bị những tráng khí đi trước lu mờ, trái lại, ông đã khẳng định được tài năng và chỗ đứng riêng của bản thân trên thi đàn Việt Nam.

Viết tiếp những vần thơ vẽ về đất nước mình, nhà thơ vẫn dịu dàng thủ thỉ những lời dịu êm như ban nãy:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con. Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. n tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta:

“ Cái kèo cái cột thành tên”

Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.

Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…

Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ... Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:

“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua ... Vậy là:

“Đất Nước có từ ngày đó…”

Đất Nước đã khởi nguồn từ “đó”, nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về. Hai tiếng “ngày đó” gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa, cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, đến câu “Đất Nước có từ ngày đó…”, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.

Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cảm xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.

Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không… “Đất Nước” không những không bị cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa. Chính bởi ngôn từ bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà “Đất Nước” dịu êm như bản tình ca khắc ghi sâu vào lòng mỗi người - bản tình ca giữa “ta” và “Đất Nước - thắm thiết, đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người dân đất Việt thật trọn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi. Đúng như trong “Học văn đọc văn”, Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: “ Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ”. Đọc “Đất Nước”, người ta không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.

Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. “Đất Nước” đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng. Và dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, “Đất Nước” vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, “Đất Nước” vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến.

Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng, thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa sáng, bởi lẽ “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử” (Shelly), nên chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ. Dù đi đâu, đi đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ: “Dù đi đâu... Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam”…
---------------
Cre:st
Thêm
2K
0
0
Trên Ted education có một clip tên là “Tác phẩm hư cấu có thể thay đổi thực tại như thế nào?”, đã đưa một hình ảnh so sánh thú vị để nói về việc đọc tác phẩm văn học. Khi đọc tác phẩm văn học, ta giống như lên một chiếc thuyền để đến thế giới trong văn bản. Ở trong thế giới ấy, ta bắt gặp rất nhiều dấu chân sẵn có, nhưng ta không lần theo một dấu chân nào mà khám phá thế giới ấy bằng cách “đi vào đôi giày của nhân vật”.

Hình ảnh so sánh này đã diễn tả rất sinh động tính chất đặc biệt của việc đọc tác phẩm văn học. Thứ nhất, đó không phải là quá trình đọc để lấy thông tin đơn thuần, mà đó là quá trình khám phá vào một thế giới hình tượng, một thế giới tồn tại trong trí tưởng tượng của người đọc. Thứ hai, ta khám phá thế giới ấy không phải như kẻ ngoài cuộc, không phải như một người khách tham quan bảo tàng, đến rồi đi, mà ta khám phá thế giới ấy như một người dấn thân, một người trải nghiệm, qua góc nhìn của các nhân vật. (Nên nếu xem tóm tắt truyện, hay đọc lướt chỉ để biết diễn biến câu chuyện, thì chưa phải đọc văn học đâu).

Tính chất đặc biệt của việc đọc tác phẩm văn học cũng nhắc ta cẩn trọng khi làm việc với văn bản văn học. Nếu đã xác định là làm về mảng văn học, thì cần đối xử với văn bản văn học trong đúng tính chất đặc biệt của nó. Nghĩa là không đọc văn học như xem một bộ phim tài liệu, một báo cáo xã hội học, một áp phích tuyên truyền vận động thay đổi xã hội,…

Nếu đọc văn học qua lăng kính giới, thì không phải là chê Tú Xương gia trưởng kém hiểu biết nữ quyền, hay đòi người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu phải thức thời lên và tự cứu lấy mình, mà quan trọng là phải nhìn nhận được các quan niệm về tính nam hay tính nữ đã chi phối việc xây dựng hình tượng như thế nào, các góc nhìn về giới và tiếng nói về giới cất lên trong văn bản ra sao, sau cùng để thấy được những tư tưởng về phái tính sẽ tác động đến người đọc như thế nào.

Nếu đọc văn học qua lăng kính sinh thái, thì không phải biến tác phẩm thành áp phích bảo vệ môi trường, hay slogan tuyên truyền lối sống xanh bảo vệ thiên nhiên, mà trước hết cần thấy được cách xây dựng hình tượng thiên nhiên và con người đã khắc hoạ như thế nào về mối quan hệ của hai đối tượng này, tự nhiên có được tồn tại trong giá trị tự thân của nó hay chỉ là một sự gán ghép các giá trị từ mắt nhìn của con người, … để từ đó xác định tư tưởng triết lí về sinh thái trong tác phẩm.

Nếu đọc tác phẩm qua “văn hoá tâm linh” (mình không chắc đây là một thuật ngữ khoa học), thì không phải liệt kê ai cúng ai, cúng bao nhiêu nén nhang, bói toán thế nào, nhập thánh ra sao, mà quan trọng là phải thấy được từ các chi tiết có tính biểu tượng ấy, văn bản gợi ra ý nghĩa gì, các chi tiết tâm linh hiện ra qua góc nhìn của ai, và từ góc nhìn ấy thì ý nghĩa hình tượng, ý nghĩa thẩm mĩ gợi ra như thế nào.

(Mình không phủ nhận tác dụng của việc đọc văn bản văn học để lấy thông tin lịch sử, xã hội, tâm lí, nhưng mấu chốt ở đây là từ khoá “Xác định làm về văn học”)
Nói tất cả những điều trên, để chúng ta hiểu rằng tác phẩm văn học tồn tại dưới dạng đặc biệt (hiện tượng tinh thần trong trí tưởng tượng của chúng ta), đọc tác phẩm văn học là một cách đọc đặc biệt (khám phá thế giới hình tượng như một cách dấn thân, trải nghiệm). Và sự đặc biệt ấy nhắc ta nhớ: thế giới trong tác phẩm không phải và không minh hoạ cho thế giới thực tại này.

Câu chuyện phân biệt chủ thể trữ tình (nhân vật trữ tình) và tác giả ngoài đời cũng vậy thôi.

Mình hay hình dung mối quan hệ giữa hai đối tượng này giống bộ phim Avatar. Người Trái Đất, do không thể sống được trên môi trường hành tinh Pandora, đã tạo ra những avatar – những “cỗ máy sinh học” mang mọi đặc điểm của người Navi, nhưng do một bản thể người Trái Đất điều khiển. Dưới sự điều khiển của người trái đất, avatar có suy nghĩ, hành động, nói năng, cảm xúc không khác gì bản thể. Nhưng dù giống mấy, người ở trái đất đang điều khiển và cỗ máy avatar trên hành tinh Navi vẫn là hai thực thể khác nhau.

Nhà thơ ngoài đời thật bằng xương bằng thịt không thể tự mình tồn tại trong thế giới tinh thần của tác phẩm, vì vậy cần phải tạo ra một “avatar” để đại diện mình bày tỏ cảm xúc trong thế giới ấy. Chủ thể trữ tình chính là “avatar” của nhà thơ.

Dù chủ thể trữ tình gần với nhà thơ ngoài đời thực cách mấy, dù nhà thơ có tận mắt chứng kiến các câu chuyện ngoài đời mà lấy nguyên mẫu, cảm hứng sáng tác thơ, thì chủ thể trữ tình vẫn không bao giờ là một với nhà thơ bằng xương, bằng thịt.

Thông qua chủ thể trữ tình, ta hiểu điều nhà thơ gửi gắm và cảm nhận được một phần mảnh tâm hồn nhà thơ, nhưng chẳng ai trên đời đủ thực tế mà lại tuyên bố, chỉ cần hiểu chủ thể trữ tình là đã hiểu hết tất cả mọi ngóc ngách tắm tối sâu kín của con người bằng xương, bằng thịt tạo ra nó.

Việc phân định chủ thể trữ tình – nhà thơ bằng xương bằng thị là quan trọng, bởi nó liên quan đến việc hình thành tư duy đọc văn học theo đúng bản chất của nó.
Trước đây, ta chỉ giảng văn, học sinh thuộc lời ta giảng rồi làm bài thi để tái hiện lại, việc nhập nhằng hai khái niệm này không ảnh hưởng gì đến chuyện thi cử.
Nhưng giờ đây, học sinh của chúng ta cần khái niệm công cụ để tự đọc hiểu văn bản văn học, việc nhầm lẫm này sẽ gây ra hai sự rất đáng tiếc.

Đáng tiếc thứ nhất là một thế giới hình tượng đầy phong phú, hấp dẫn sẽ không được khám phá, cảm thụ đúng cách. Đáng tiếc thứ hai là những người đọc văn nhưng không được trang bị tư duy và công cụ để khám phá thế giới hình tượng trong trang văn.
----------
Nguồn T. L. D
Thêm
607
3
0
Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
NLXH: VAI TRÒ CỦA ƯỚC MƠ ĐỐI VỚI TUỔI TRẺ
9K
5
9

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Chia sẻ cùng mọi người một số bài làm để cùng tham khảo nhé!

Bài tham khảo 1

Mỗi con người chúng ta đều có những ước mơ, hoài bão riêng, không ai giống ai. Con người nếu sống mà không có đam mê...
 
Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
NLXH: VAI TRÒ CỦA ƯỚC MƠ ĐỐI VỚI TUỔI TRẺ
9K
5
9
An-tôn Sê-khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, một trong những đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga cuối thế kỷ XIX. Ông có nhiều tác phẩm đồ sộ với hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, từ những cốt truyện giản dị, tác phẩm của Sê-khốp thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, ý nghĩa nhân bản sâu xa. "Người trong bao" là một trong những truyện ngắn có chung chủ đề về cuộc sống tầm thường, trong vỏ ốc của giới trí thức Nga cuối thế kỷ XIX.


Thông qua việc xây dựng nhân vật Bê-li-cốp cùng hình tượng "chiếc bao", nhà văn Sê-khốp trong truyện ngắn "Người trong bao" đã tái hiện đầy thành công hiện thực của xã hội Nga đương thời, đó là bầu không khí tù đọng, u ám của chế độ sa hoàng, cũng chính hiện thực đen tối ấy đã làm nảy sinh những tiêu cực trong đời sống con người Nga, nổi bật hơn cả chính là căn bệnh sợ hãi cuộc sống, một căn "bệnh dịch" có khả năng lây lan mạnh mẽ trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp chính là nhân vật đại diện cho lối sống thu mình trong bao cùng nỗi sợ cuộc sống đến cực đoan. Khi còn sống Bê-li-cốp là một hiện tượng kì dị, là đối tượng bàn tán, là trò cười đồng thời cũng là nỗi ám ảnh của người dân trong thành phố. Ngay cả khi đã chết đi thì cái chết của Bê-li-cốp cũng tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của người dân nơi đây, đặc biệt hơn cả, thông qua cái chết ấy, nhà văn Sê-khốp đã truyền tải được những quan niệm, tư tưởng sâu sắc.

Bê-li-cốp trở nên "nổi tiếng" trong trường học và thành phố mình sinh sống bởi lối sống kì dị, khác người, hắn luôn xuất hiện một một diện mạo dị hợp: ăn mặc kín mít, chân đi ủng cao su, mắt đeo kính râm, tay cầm ô, và một chiếc bao đựng đủ mọi vật dụng lỉnh kỉnh khác. Không chỉ có diện mạo, trang phục khác người mà Bê-li-cốp còn là con người cổ hủ, cứng nhắc luôn sống theo những thông tư, giáo điều; hắn tôn sùng quá khứ, sợ hãi thực tại nên có thể nói trang phục, lối sống khép kín chính là lớp vỏ bọc, là "chiếc bao" mà hắn tự dựng lên để bảo vệ mình khỏi những tác động của cuộc sống xung quanh. Khi còn sống Bê-li-cốp chính là nỗi ám ảnh khủng khiếp đối với những người dân trong thành phố bởi, những người "may mắn" đến nhà và rồi dùng cái nhìn soi mói, đánh giá để "gắn kết mối quan hệ" đều không tránh được cảm giác ghét bỏ, sợ hãi; sự tồn tại của hắn khiến nhiều người phải dè chừng, e ngại.

Ấy thế mà một ngày nọ, mọi người trong thành phố bỗng kinh hoàng, sau đó cảm thấy vui vẻ, nhẹ nhõm vì Bê-li-cốp đã chết đi. Sự hiện diện của Bê-li-cốp vốn đã kì lạ thế nhưng ngay cả cái chết của hắn cũng thật kì lạ, khác người. Mọi người chỉ biết hắn chết do bệnh nặng, thế nhưng không ai biết rằng nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của hắn. Bị Kô-va-len-cô đẩy ngã từ trên cầu thang vốn chỉ gây ra những vết thương ngoài da, thế nhưng chính tiếng cười lảnh lót "ha ha ha" của Va-len-ca mới là đòn trí mạng đối với hắn, tâm hồn nhu nhược cùng nỗi bất an thường trực trước cuộc sống của hắn bị đả kích đến không phục hồi được. Tiếng cười của Va-len-ca đã trở thành bóng đen ám ảnh trong tâm trí của Bê-li-cốp khiến hắn mắc tâm bệnh, kết hợp với vết thương thể xác mà chết.

Với người dân trong thành phố hay đối với chính bản thân Bê-li-cốp thì cái chết ấy cũng có rất ý nghĩa, đó chính là sự giải thoát. Đối với người dân trong thành phố, khi Bê-li-cốp chết đi họ cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái sau mười lăm năm tù đọng, u tối, tuy cảm giác ấy không kéo dài lâu nhưng trong giây phút nào đó họ cũng đã cảm thấy tự do và được thoải mái sau một thời gian dài bị tác động bởi "lối sống Bê-li-cốp". Đối với bản thân Bê-li-cốp lại là sự giải thoát sau những bất an, tuyệt vọng cùng nỗi sợ khủng khiếp đối với cuộc sống. Khi còn sống Bê-li-cốp bị bủa vây bởi những nỗi sợ hãi, tuy đang sống nhưng hắn luôn cảnh giác, đề phòng với mọi thứ, ngay cả khi nhốt mình trong căn phòng kín mít của mình hắn vẫn chẳng thể yên tâm. Hắn sống đấy nhưng luôn phải gồng mình lên để chống chọi với những nỗi sợ không tên, sống là một niềm hạnh phúc nhưng nhìn vào hắn người ta sẽ hình dung ra rằng, đó chính là sự đầy ải khủng khiếp. Cái chết đến bất ngờ nhưng lại giải thoát cho hắn khỏi những bi kịch, bế tắc của cuộc đời.

Cái chết là kết thúc buồn, là nỗi mất mát lớn nhất trong cuộc đời mỗi người, thế nhưng đối với Bê-li-cốp đó lại là hạnh phúc bởi cuối cùng sau bao nỗi bất an, sợ hãi hắn cũng đã tìm được "chiếc bao" vững chắc và an toàn nhất cho cuộc đời mình, chính nét tươi tỉnh, hạnh phúc của hắn khi nằm trong quan tài đã khiến cho độc giả bất ngờ nhưng cũng vô tình thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng Bê-li-cốp đã có thể buông bỏ được những đề phòng, hoài nghi để sống một "cuộc sống" nhẹ nhàng hơn.

Cái chết của Bê-li-cốp tuy kì lạ, mang đến bất ngờ cho người dân trong thành phố và cả độc giả đang theo dõi câu chuyện, thế nhưng đây cũng là cái chết mang tính tất yếu. Lối sống bảo thù, hèn nhát của Bê-li-cốp hay cũng chính là của một bộ phận trí thức Nga đương thời không chỉ gây ra những bất an cho chính họ, những phiền toái, chán ghét đối với những người xung quanh mà khi nó lây lan, trở thành một căn bệnh dịch có thể kéo theo sự đi xuống của cả một xã hội; lối sống dị biệt ấy có thể tác động, kìm hãm sự phát triển của xã hội, nó khiến con người đánh mất đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Do đó, với kiểu người như Bê-li-cốp và lối sống trong bao đầy tiêu cực, sớm muộn cũng sẽ bị xã hội đào thải như một lẽ tất yếu. Tuy là kết thúc buồn nhưng lại là kết thúc hoàn hảo nhất cho cuộc đời của Bê-li-cốp, lựa chọn kết thúc như vậy nhà văn Sê-khốp cũng đã thể hiện được sự quyết liệt, dứt khoát trong việc loại bỏ lối sống tiêu cực, vạch ra con đường sáng để con người có thể sống tự do, hạnh phúc.

Thông qua cái chết của nhân vật Bê-li-cốp, Sê-khốp đã thể hiện quan niệm sâu sắc về sống sống của con người: Cuộc sống không chỉ là nơi con người tồn tại mà còn là nơi con người tìm kiếm hạnh phúc, phát triển và hướng đến sự tự do. Để có được tự do, hạnh phúc thì con người trước hết phải loại bỏ được những chiếc vỏ ốc vô hình để bước ra cảm nhận ý nghĩa đích thực của cuộc sống.

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/nguoi-trong-bao-se-khop.1134/
Thêm
Suy nghĩ về cái chết của nhân vật Bê-Li-Cốp trong truyện ngắn "Người trong bao"
  • Like
Reactions: Văn Học
1K
1
2

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Bài tham khảo
---

“Người trong bao” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của đại văn hào người Nga Sê-khốp. Trong truyện, Sê-khốp đã xây dựng thành công hình...
 
An-tôn Sê-khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, một trong những đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga cuối thế kỷ XIX. Ông có nhiều tác phẩm đồ sộ với hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, từ những cốt truyện giản dị, tác phẩm của Sê-khốp thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, ý nghĩa nhân bản sâu xa. "Người trong bao" là một trong những truyện ngắn có chung chủ đề về cuộc sống tầm thường, trong vỏ ốc của giới trí thức Nga cuối thế kỷ XIX.


Thông qua việc xây dựng nhân vật Bê-li-cốp cùng hình tượng "chiếc bao", nhà văn Sê-khốp trong truyện ngắn "Người trong bao" đã tái hiện đầy thành công hiện thực của xã hội Nga đương thời, đó là bầu không khí tù đọng, u ám của chế độ sa hoàng, cũng chính hiện thực đen tối ấy đã làm nảy sinh những tiêu cực trong đời sống con người Nga, nổi bật hơn cả chính là căn bệnh sợ hãi cuộc sống, một căn "bệnh dịch" có khả năng lây lan mạnh mẽ trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp chính là nhân vật đại diện cho lối sống thu mình trong bao cùng nỗi sợ cuộc sống đến cực đoan. Khi còn sống Bê-li-cốp là một hiện tượng kì dị, là đối tượng bàn tán, là trò cười đồng thời cũng là nỗi ám ảnh của người dân trong thành phố. Ngay cả khi đã chết đi thì cái chết của Bê-li-cốp cũng tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của người dân nơi đây, đặc biệt hơn cả, thông qua cái chết ấy, nhà văn Sê-khốp đã truyền tải được những quan niệm, tư tưởng sâu sắc.

Bê-li-cốp trở nên "nổi tiếng" trong trường học và thành phố mình sinh sống bởi lối sống kì dị, khác người, hắn luôn xuất hiện một một diện mạo dị hợp: ăn mặc kín mít, chân đi ủng cao su, mắt đeo kính râm, tay cầm ô, và một chiếc bao đựng đủ mọi vật dụng lỉnh kỉnh khác. Không chỉ có diện mạo, trang phục khác người mà Bê-li-cốp còn là con người cổ hủ, cứng nhắc luôn sống theo những thông tư, giáo điều; hắn tôn sùng quá khứ, sợ hãi thực tại nên có thể nói trang phục, lối sống khép kín chính là lớp vỏ bọc, là "chiếc bao" mà hắn tự dựng lên để bảo vệ mình khỏi những tác động của cuộc sống xung quanh. Khi còn sống Bê-li-cốp chính là nỗi ám ảnh khủng khiếp đối với những người dân trong thành phố bởi, những người "may mắn" đến nhà và rồi dùng cái nhìn soi mói, đánh giá để "gắn kết mối quan hệ" đều không tránh được cảm giác ghét bỏ, sợ hãi; sự tồn tại của hắn khiến nhiều người phải dè chừng, e ngại.

Ấy thế mà một ngày nọ, mọi người trong thành phố bỗng kinh hoàng, sau đó cảm thấy vui vẻ, nhẹ nhõm vì Bê-li-cốp đã chết đi. Sự hiện diện của Bê-li-cốp vốn đã kì lạ thế nhưng ngay cả cái chết của hắn cũng thật kì lạ, khác người. Mọi người chỉ biết hắn chết do bệnh nặng, thế nhưng không ai biết rằng nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của hắn. Bị Kô-va-len-cô đẩy ngã từ trên cầu thang vốn chỉ gây ra những vết thương ngoài da, thế nhưng chính tiếng cười lảnh lót "ha ha ha" của Va-len-ca mới là đòn trí mạng đối với hắn, tâm hồn nhu nhược cùng nỗi bất an thường trực trước cuộc sống của hắn bị đả kích đến không phục hồi được. Tiếng cười của Va-len-ca đã trở thành bóng đen ám ảnh trong tâm trí của Bê-li-cốp khiến hắn mắc tâm bệnh, kết hợp với vết thương thể xác mà chết.

Với người dân trong thành phố hay đối với chính bản thân Bê-li-cốp thì cái chết ấy cũng có rất ý nghĩa, đó chính là sự giải thoát. Đối với người dân trong thành phố, khi Bê-li-cốp chết đi họ cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái sau mười lăm năm tù đọng, u tối, tuy cảm giác ấy không kéo dài lâu nhưng trong giây phút nào đó họ cũng đã cảm thấy tự do và được thoải mái sau một thời gian dài bị tác động bởi "lối sống Bê-li-cốp". Đối với bản thân Bê-li-cốp lại là sự giải thoát sau những bất an, tuyệt vọng cùng nỗi sợ khủng khiếp đối với cuộc sống. Khi còn sống Bê-li-cốp bị bủa vây bởi những nỗi sợ hãi, tuy đang sống nhưng hắn luôn cảnh giác, đề phòng với mọi thứ, ngay cả khi nhốt mình trong căn phòng kín mít của mình hắn vẫn chẳng thể yên tâm. Hắn sống đấy nhưng luôn phải gồng mình lên để chống chọi với những nỗi sợ không tên, sống là một niềm hạnh phúc nhưng nhìn vào hắn người ta sẽ hình dung ra rằng, đó chính là sự đầy ải khủng khiếp. Cái chết đến bất ngờ nhưng lại giải thoát cho hắn khỏi những bi kịch, bế tắc của cuộc đời.

Cái chết là kết thúc buồn, là nỗi mất mát lớn nhất trong cuộc đời mỗi người, thế nhưng đối với Bê-li-cốp đó lại là hạnh phúc bởi cuối cùng sau bao nỗi bất an, sợ hãi hắn cũng đã tìm được "chiếc bao" vững chắc và an toàn nhất cho cuộc đời mình, chính nét tươi tỉnh, hạnh phúc của hắn khi nằm trong quan tài đã khiến cho độc giả bất ngờ nhưng cũng vô tình thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng Bê-li-cốp đã có thể buông bỏ được những đề phòng, hoài nghi để sống một "cuộc sống" nhẹ nhàng hơn.

Cái chết của Bê-li-cốp tuy kì lạ, mang đến bất ngờ cho người dân trong thành phố và cả độc giả đang theo dõi câu chuyện, thế nhưng đây cũng là cái chết mang tính tất yếu. Lối sống bảo thù, hèn nhát của Bê-li-cốp hay cũng chính là của một bộ phận trí thức Nga đương thời không chỉ gây ra những bất an cho chính họ, những phiền toái, chán ghét đối với những người xung quanh mà khi nó lây lan, trở thành một căn bệnh dịch có thể kéo theo sự đi xuống của cả một xã hội; lối sống dị biệt ấy có thể tác động, kìm hãm sự phát triển của xã hội, nó khiến con người đánh mất đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Do đó, với kiểu người như Bê-li-cốp và lối sống trong bao đầy tiêu cực, sớm muộn cũng sẽ bị xã hội đào thải như một lẽ tất yếu. Tuy là kết thúc buồn nhưng lại là kết thúc hoàn hảo nhất cho cuộc đời của Bê-li-cốp, lựa chọn kết thúc như vậy nhà văn Sê-khốp cũng đã thể hiện được sự quyết liệt, dứt khoát trong việc loại bỏ lối sống tiêu cực, vạch ra con đường sáng để con người có thể sống tự do, hạnh phúc.

Thông qua cái chết của nhân vật Bê-li-cốp, Sê-khốp đã thể hiện quan niệm sâu sắc về sống sống của con người: Cuộc sống không chỉ là nơi con người tồn tại mà còn là nơi con người tìm kiếm hạnh phúc, phát triển và hướng đến sự tự do. Để có được tự do, hạnh phúc thì con người trước hết phải loại bỏ được những chiếc vỏ ốc vô hình để bước ra cảm nhận ý nghĩa đích thực của cuộc sống.

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/nguoi-trong-bao-se-khop.1134/
Thêm
Suy nghĩ về cái chết của nhân vật Bê-Li-Cốp trong truyện ngắn "Người trong bao"
  • Like
Reactions: Văn Học
1K
1
2

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Dàn ý chi tiết cho đề suy nghĩ về cái chết của Bê-li-cốp

1. Mở bài

Giới thiệu nhân vật: Bê-li-cốp là nhân vật trung tâm của truyện ngắn Người trong bao, chủ nhân của những chiếc bao đồng thời là...
 
Văn chương chân chính luôn làm sống dậy những nghịch lí, những bối rối của con người trong những khoảnh khắc đời thường. Những giây phút phân vân, ngập ngừng ấy đôi khi mới là bản chất muôn thuở của của con người. Văn chương không tạo dựng những nhân vật hoàn hảo, những nhân vật chỉ sống đơn thuần theo lí trí và lúc nào cũng có thể hành động một cách đúng đắn, dễ dàng. Văn chương tạo dựng những nhân vật biết sai, biết loay hoay khi đứng trước các lựa chọn, biết đau đớn khi chẳng may làm điều tội lỗi, những nhân vật mà chẳng thể đóng khung, vo tròn trong một khuôn khổ nhất định. Chính điều đó mới khiến nhân vật còn thật hơn cả ngoài đời thật. Bạn đọc ngắm nhìn những thân phận trên trang sách như được nhìn thấy chính mình ở ngoài đời.

Vì sao “Truyện Kiều” trở thành sáng tạo có một không hai của Nguyễn Du mặc dù cốt truyện được lấy từ cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Đó là bởi vì nếu Thúy Kiều của Trung Hoa chỉ được miêu tả trên phương diện hành động thì Thúy Kiều của ta lại được khắc họa trên phương diện tâm lí. Nếu Thúy Kiều của Trung Hoa làm việc gì cũng rạch ròi, quyết đoán thì Thúy Kiều của ta đôi lúc lại dùng dằng giữa lí trí và tình cảm. Trong Kim Vân Kiều truyện, Thúy Kiều “trao duyên” cho em là xong; thế nhưng Thúy Kiều của Nguyễn Du lại rơi vào giằng xé nội tâm: kỉ vật đã trao nhưng tình yêu thì chẳng thể dứt, duyên đã đứt nhưng lòng thì không thể quên: “Chiếc vành với bức tờ mây/ Duyên này thì giữ vật này của chung”. Đó dường như là những tình thế của đời sống mà con người bắt buộc phải đứng trước những nghịch lí, những trạng huống mà sự lựa chọn nào cũng không vẹn tròn.

Con người của Kiều cũng thay đổi theo từng giai đoạn của cuộc đời nàng. Cuộc đời có lắm bước ngoặt đã cho thấy những giới hạn khác nhau của chiều kích tâm hồn. Với Kim Trọng, Kiều thỏa mãn những rung động tinh thần bên người tình đồng điệu. Với Thúc Sinh, Kiều hưởng những ngày tháng hạnh phúc trần thế của đôi vợ chồng trẻ. Với Từ Hải, Kiều được sống với khát vọng làm chủ vận mệnh, có cơ hội báo đền ân oán. Tình cảm ngày một mới, ước vọng ngày càng cao. Giáo sư Trần Đình Sử đã bày tỏ quan điểm mà mình cảm thấy vô cùng ấn tượng: “Chả trách ngày tái hợp Kim Kiều đối với nàng chỉ là tình “cầm cờ”, vì vết thương lòng của Kiều còn đó, mà Kim Trọng trước sau cũng chỉ là người tình “cũ” với những ham mê buổi đầu! Chàng Kim thua xa nàng Kiều về trải nghiệm nhân sinh”. Có thể nói, phải đến Nguyễn Du, những phương diện cá nhân nhất, riêng tư nhất của con người mới được bộc lộ. Quân tâm đến cá nhân tức là quan tâm đến những suy nghĩ, những phần sâu kín của nội tâm mà không thể diễn giải thành lời.
Con người trong văn chương không thể vo tròn trong một khuôn khổ nhất định, và người đọc văn chương cũng thế. Chính bởi sự bí ẩn, khó nói của tâm hồn con người mà chúng ta mới cần đến những tác phẩm văn học để có thêm những công cụ để lắng nghe chính mình. Và mình vẫn luôn tin rằng, việc đọc những áng văn, áng thơ thực thụ khiến ta thêm rộng lớn về đời sống tinh thần, một sự rộng lớn đáng kinh ngạc và bất ngờ.

Nguồn: Fanpage Tinh Van
Thêm
  • Like
Reactions: Jenny Lục Ngạn
361
1
0
Chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, nhưng đề tài chiến tranh vẫn được các nhà văn thời hậu chiến dành cho nhiều ưu ái. Họ đã dồn bút lực của mình để dựng lại cho hậu thế bối cảnh của hiện thực cuộc sống, xã hội Việt Nam trong những năm trong và sau chiến tranh cũng như những nỗi thống khổ của con người thời chiến. Số lượng các tác phẩm viết về chiến tranh ngày càng tăng từ sau năm 1986, vì thế mà cuộc đời và con người được soi chiếu dưới những góc nhìn đa dạng, với những cảm hứng mới mẻ.

Dương Hướng là một trong những nhà văn thời hậu chiến có tác phẩm viết về chiến tranh. Ông thuộc thế hệ nhà văn cùng thời với Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,… khi nền văn học Việt Nam đang có những bước chuyển mình quan trọng. Nhắc tới nhà văn Dương Hướng độc giả sẽ nghĩ ngay tới tác phẩm “Bến không chồng” – tiểu thuyết đã giúp nhà văn Thái Bình gây ấn tượng sâu sắc tới văn đàn lúc bấy giờ.

Tiểu thuyết “Bến không chồng” của nhà văn Dương Hướng là những dòng văn chân thực và thấm đẫm những nỗi thống khổ của kiếp người hậu chiến nhất là người phụ nữ. Có thể nói, “Bến không chồng” là một trong những tác phẩm đã đánh dấu sự thay đổi của nền văn học, từ nền văn học chỉ biết “thuyết trình và minh hoạ” sang một nền văn học với những đào sâu, lia ngòi bút của mình vào từng góc cạnh xù xì của cuộc sống con người.

“Bến không chồng” lấy bối cảnh làng Đông - một làng quê được đặc tả với những nét văn hoá điển hình tại đồng bằng Bắc Bộ. Không gian bao phủ trong lũy tre, mái đình, cây đa, bến nước. Thời gian bao phủ trong những ngày miền Bắc đang hối hả vừa lo xây dựng nông thôn vừa lo chi viện cho chiến trường miền Nam.

Trở về sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trước ngực Nguyễn Vạn rung rinh những huân chương cùng những bước chân tập tễnh do hậu quả của chiến tranh. Anh về với quê hương thân thương của mình, nơi mà anh cùng đồng đội đã đánh đổi cả thanh xuân và máu thịt để bảo vệ. Nơi đây vốn có nhiều câu chuyện kỳ lạ, bí ẩn và hoang đường như chuyện: “mắt tiên”, “gò ông Đổng”, “Con ma mặt đỏ chuyên đi hiếp đàn bà góa chồng”,… Ở làng lại có một bến sông với vẻ quyến rũ kỳ lạ mà các cụ gọi đó là Bến không chồng. Chính nơi đây đã xảy ra câu chuyện bi thảm giữa hai dòng họ Nguyễn và họ Vũ: cô con gái rượu của cụ tổ dòng họ Nguyễn bị chàng trai dòng họ Vũ hãm hiếp bên bến không chồng, vì thế mà dòng họ Nguyễn đã khắc một lời thề không đội trời chung với dòng họ Vũ. Éo le thay, những thế hệ sau như Nguyễn Vạn hay Nghĩa là con cháu của dòng họ Nguyễn lại đem lòng yêu thương những người phụ nữ bên dòng họ Vũ.

Người ta vẫn thường nói, muốn đội vương miện phải chịu sức nặng của nó. Mang trên mình chiến công và danh hiệu anh hùng Điện Biên, Vạn phải sống khép mình vào khuôn khổ dưới cái nhìn khắt khe của hàng trăm con mắt. Chính những hủ tục, những lề thói cũ mòn của dòng họ, của làng quê đã bóp nát tình yêu của anh, khiến anh không dám vượt qua rào cản để đến với chị Nhân dù bản năng thôi thúc. Chị Nhân cũng không thể đến với Vạn hay bất kỳ ai bởi chị là vợ và là mẹ liệt sĩ. Chồng hy sinh khi chị Nhân còn quá trẻ, chị ở vậy thờ chồng, nuôi con. Chỉ một lần nghĩ về vạn thôi đã khiến chị day dứt khôn nguôi. Chị sẽ sống ra sao nếu làng xóm biết chuyện? Hai con người đáng thương ấy sống trong sự kìm nén bất hạnh, cả cuộc đời buộc bản thân phải giữ gìn hình ảnh, một đời phải sống trong cô độc. Đã có một thời như thế, những lề thói cổ hủ nghiệt ngã, những suy nghĩ cũ xưa lạc hậu áp đặt lên cuộc sống tinh thần của toàn bộ người dân, khiến họ sống khép kín, khiến họ tồn tại như cái xác không hồn để rồi kẹt vào những bi kịch không lối thoát.

Song song với cuộc đời của Nguyễn Vạn là mối tình, mối nhân duyên đầy éo le của Nghĩa và Hạnh. Cả hai là thanh mai trúc mã, nhưng Nghĩa họ Nguyễn còn Hạnh thì họ Vũ. Mối thù truyền kiếp của hai họ Nguyễn – Vũ đã không thể ngăn cản được hai trái tim trẻ trung đang hừng hực cháy. Họ đến với nhau mặc cho những định kiến, dè bỉu, thậm chí là sự lạnh lùng của cha mẹ. Tình yêu của Nghĩa và Hạnh có thể đánh bại được những ngoại nhân tác động, nhưng lại không thắng nổi nội nhân ham muốn, tính dục, suy nghĩ và sự thay đổi theo thời gian của con người. Sau khi Nghĩa đi bộ đội, tuổi trẻ của Hạnh trôi qua hơn 10 năm trời ròng rã trong sự làm việc cật lực và chăm lo hết sức cho gia đình hai bên. Cô dần dần trở thành trụ cột của cả nhà mẹ đẻ lẫn nhà chồng, khi những người đàn ông gia đình lần lượt ra đi mãi mãi. Đến ngày đoàn tụ, đến khi chiến tranh chấm dứt, Nghĩa trở về với quân hàm thiếu tá, hai vợ chồng hi vọng có một đứa con trai để nối dõi tông đường nhưng vô vọng. Trước áp lực của gia đình nhà chồng cùng dư luận xã hội “Bà thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc”, Hạnh đã quyết định ly hôn. Nghĩa với mẹ lên tỉnh, anh lấy Thuỷ (em gái của một người bạn). Từ đó, Hạnh như một người điên, lúc cười, lúc khóc. Tưởng rằng sẽ được hưởng hạnh phúc viên mãn, ngờ đâu Hạnh cuối cùng là người dứt áo ra đi, bởi cô nhầm tưởng rằng chính mình không thể có con, không thể làm tròn bổn phận của một người phụ nữ, và nhất là không thể giữ được tình yêu của Nghĩa được nữa.

Đọc đến cái kết của “Bến không chồng” có lẽ người đọc thấy buồn hơn cả. Trong những bước ngoặt cùng cực của cuộc đời, Hạnh (con gái chị Nhân) đã bị xô đẩy vào bế tắc cùng với Nguyễn Vạn. Trong ngày gặp gỡ các thương binh và gia đình liệt sĩ, Vạn đã quá chén và khi về đến nhà bất ngờ nghe thấy tiếng hét và cánh cửa mở toang “bóng người đàn bà lao tới giường và ôm ghì lấy Vạn”. Bóng tối, hơi men, cùng thân thể của người đàn bà cộng hưởng vào nhau khiến Vạn đã buông thả cho thân xác tự do gây tội lỗi. Sau đêm đó Vạn luôn sống trong đau khổ và dằn vặt còn Hạnh thì đã bỏ đi. Hạnh đã có thai, và cha đứa bé trong bụng cô không ai khác ngoài Nguyễn Vạn. Sau khi sinh con, Hạnh trở về làng, chính cái tin này đã khiến Nguyễn Vạn – người đàn ông đã sống thoi thóp trong lề thói làng xã bao năm qua phải đau đớn, phải sững sờ rồi tìm đến cái chết để chạy trốn. Còn Nghĩa cuối cùng cũng biết được anh không có khả năng làm bố nên đã li dị với Thuỷ và trở về làng Đông.

Tiểu thuyết “Bến không chồng” là tác phẩm mà trong đó, bi kịch chồng chất bi kịch. Chiến tranh đã cướp đi mưu cầu hạnh phúc của Nguyễn Vạn và chị Nhân, đã cướp khả năng làm cha của Nghĩa, đã cướp Nghĩa khỏi vòng tay Hạnh, đã cướp đi khuôn mặt của Thành, đã cướp đi chồng và hai đứa con trai của chị Nhân,… Cuộc chiến để lại những cuộc tình duyên đắng cay cho những thiếu nữ xinh đẹp như Cúc, như Thắm; một đứa con thụ thai vội vã; một lễ cưới vá víu với người đàn ông tâm thần; hay một anh chàng thợ ảnh hèn hạ, sở khanh bỗng trở nên đắt giá ở làng quê,… Chiến tranh trong chuyện của Dương Hướng chỉ thể hiện qua lời kể của người trở về, qua từng tờ giấy báo tử vô hồn, và hiếm hoi với vài lần máy ném bom bay lượn lờ trên không… ở đấy không có súng đạn đì đùng mà là những mảnh đời đong đầy nước mắt. Cuộc chiến để lại làng quê quạnh quẽ thiếu vắng bóng dáng đàn ông, chỉ còn lại những cuộc tình dang dở, những thiếu nữ lỡ làng, những người phụ nữ mòn mỏi, cứ chiều chiều lại tưởng chừng như hiện hữu bức tranh tố miêu dưới ngòi bút của Picasso, diễn một vở được phác họa là “vọng phu” bên bến nước đầu làng.

Nguồn st
Thêm
  • Like
Reactions: Hoa Phù Sa
222
1
0
Có ai yêu một loài hoa không sắc không hương? Có ai quyến luyến những vần thơ khô khan không cảm xúc? Văn chương phản ánh hiện thực nhưng nó không phải là một tấm hình khô cứng và vô hồn, mà đó là tiếng lòng thổn thức từ những câu chuyện của cuộc đời – câu chuyện được ngân vang trên ngọn đồi tuyết phủ trắng trời, thấp thoáng những đóa sơn trà e ấp trong làn sương giăng mờ ảo. Chính hiện thực cuộc sống luôn là cảm hứng cho sáng tác văn học, là cội nguồn gọi thức con chữ, là cầu nối tâm hồn đồng điệu của người nghệ sĩ với độc giả. Chính vì vậy, … đã khẳng định: …
--------

Này là gió thổi khúc tình ca khẽ lay động những bông cúc dại đang nằm ủ rũ bên vệ đường vươn mình đón cái vuốt ve ngọt ngào của gió. Này là bầu trời nhẹ nhàng lững lờ để lộ những đám mây ánh hồng trong ánh nắng hoàng hôn. Này là những giọt nước mắt thoát ra từ trong sách vào cuộc đời để gột rửa bao cằn cỗi sỏi đá để làm mát lòng nhân thế, để những điều hồn khẽ trở mình như những bong bóng mưa len lỏi trên khắp lôsi về. Có phải vậy không mà hàng ngàn năm nay văn chương cuộn mình trong cái dòng máu nóng hổi của tình yêu, tình người nồng thắm. Bao quan niệm độc đáo về văn chương nghệ thuật được đưa ra. Từ biêlinxki đến Sêchxpia, Victo Huygo.. và giờ đây.. đã góp thêm một tiếng nói để hình thành những mảnh ghép độc đáo về nghệ thuật.
---------

"Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy
Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều
Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy
Trái tim nghèo, nhưng cũng đã tin yêu”.

Nếu hội họa dùng đường nét và màu sắc để phác họa nên bức tranh cuộc sống, âm nhạc dùng ca từ và giai điệu để tạo nên những tiếng ca thì văn học dùng ngôn ngữ và hình ảnh để làm chất liệu cho sáng tác. Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Nói như …:
-------

Sáng tác văn học được ví như công việc của một người chèo thuyền trên sông. Nước chảy thuyền trôi … Con thuyền đi qua mọi bến bờ của thời gian, không gian và ở một nơi xa nào đó trên bờ hoang vắng đầy cỏ dại, nó đã cập bến, mang theo những khuôn hàng để trao tay đến độc giả những bài học, những cảm xúc và suy nghĩ của nhà văn trong suốt chặng đường lênh đênh sóng nước. Một tác phẩm chân chính phải có chức năng hàng đầu là giáo dục và hướng con người đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Nói như …:
----

Nếu phải chọn một loài hoa đẹp nhất, tôi sẽ chọn lấy một cành hồng còn e ấp trong sương đêm. Nếu phải chọn một thanh âm cao nhất, tôi sẽ chọn lấy tiếng hót thiết tha của loài chim họa mi. Nếu phải chọn một bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Tiếng ca từ văn chương bao giờ cũng vui tươi và rạo rực, giai điệu của văn chương bao giờ cũng đằm thắm và ngọt ngào. Khi những cung bậc cảm xúc ấy được cất lên, chúng giống như một nốt nhạc du dương va chạm với tâm hồn người đọc. Từ đó, văn chương sẽ giúp con người có những nhận thức mới mẻ và cảm nhận sâu sắc hơn về cái đẹp của cuộc đời, cái đẹp trong từng trang thơ. Nói như …:
--------


Nhà thơ puskin từng viết" Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm ". Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca. Một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút. Và nhà văn.. đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm.. bay lên qua hình tượng nhân vật..
---


Đã bao lần tôi băn khoăn tự hỏi: Điều gì khiến mỗi tác phẩm mang hình hài một chiếc lá, thả mình theo dòng chảy miên viễn của thời gian? Một cốt truyện li kì hấp dẫn? Một vần thơ sâu thẳm tự tâm hồn? Văn học bật ra từ những cơn mê tỉnh của người nghệ sĩ, từ cõi lòng tinh tế đến nhạy cảm mong manh, để rồi nhìn thấu nỗi đau thực tại, để rồi một đời trăn trở, một đời băn khoăn. Văn học vốn dĩ nặng nợ thế gian, cũng như nỗi niềm muôn đời của người nghệ sĩ đối với văn chương, để rồi từ đó anh cất lên những vấn thơ, những câu chữ say đắm lòng người. Nói như…:
---


"Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới" (Pautopxky). Kỳ diệu làm sao khi cảm xúc được ngân lên thành thơ, thành nhạc, khi tiếng lòng ta được xuôi bóng trong những mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái ngọt, cho sự sống vút cao trên mỗi trang văn, trang thơ. Từ văn học dân gian tới văn học viết, từ truyện ngắn tới thơ.. Tất cả đều đóng đinh vào thời gian một giá trị vĩnh cửu: Hướng con tới cõi Thiện..
---


Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ca ngợi con người? Văn chương thật lớn lao và đầy ý nghĩa khi đi sâu và khám phá từng cảm giác, suy nghĩ, chiều sâu nội tâm để từ đó ta yêu quý, trân trọng những con người bình dị nhất, để ta phải giật mình, sửng sốt khi nhận ra vẻ đẹp lấp lánh ẩn chứa bên trong những hình hài tưởng như gàn dở xấu xa. Đó là lúc nhà văn lý giải cuộc sống theo cách của riêng mình. Vậy nên, trong sáng tác văn chương "nhà văn có thể viết về bóng tối nhưng từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng". Phải chăng, cũng vì lẽ đó mà.. đã viết lên.. để gửi gắm vào cuộc sống những giá trị nhân văn cao cả.
---


Thế giới thiên nhiên đẹp và quyến rũ lòng người bởi những thung lũng đầy ánh sáng và cây cỏ, bởi những làn sóng biển rì rầm suốt ngày đêm, những dãy núi cao hùng vĩ cũng giống như điểm nhấn của tạo hóa giữa thiên nhiên tươi đẹp. Nó thử thách ý chí, nghị lực của người muốn chinh phục. Văn học cũng vậy, nó đi vào thượng tầng kiến trúc của cuộc đời như một xương sống vô cùng quan trọng. Bởi "văn học chẳng những giúp ta nhận ra cái thiện cái ác cái đúng và cái sai ở đời mà còn khơi dậy ở ta những tình cảm thẩm mỹ phong phú và đa dạng"..
---

Giáo sư Nguyễn Đăng mạnh đã từng nhận xét: "Ở truyện ngắn mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy. Đúng thế, văn chương là một loại hình nghệ thuật buộc người nghệ sĩ phải sàng lọc chắt chiu từng hạt bụi quý giữa cuộc sống bộn bề ngoài kia để lúc lên những bông hồng vàng văn chương đưa vào trang viết. Những chi tiết ấy phải thật cô đọng, dồn nén và có sức khái quát cao. Như ai đó đã từng quan niệm..
---


"Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện cổ tích do chính cuộc sống viết ra ". (Andecxen). Vậy là thế giới huyền diệu lung linh của cổ tích mà bao lần tuổi thơ đã hằng mơ ước được tìm đến lại chính là cuộc sống gần gũi quanh đây. Cuộc sống với những âm thanh muôn sắc, với những hình ảnh muôn màu lại chính là chiếc nôi nâng giấc cho những trang truyện, trang thơ. Văn học bắt nguồn từ cuộc đời giống như những hạt nảy mầm trên đất mẹ rồi tỏa hương tô sắc cho cuộc sống thêm xinh tươi. Đó dường như đã trở thành quy luật bất diệt của văn chương, nghệ thuật..


---
mở bài bằng lí luận văn học
Nguồn: Diễm Hằng
Thêm
  • Like
Reactions: Jenny Lục Ngạn
508
1
1

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Mở bài bằng lí luận văn học

1. Người nghệ sĩ có thể sống sung sướng không kém thiên hạ về vật chất, nhưng anh ta không có quyền đau khổ và dằn vặt ít hơn mọi người. Bởi thế mà người đời vẫn coi...
 
Mục đích của văn chương không phải để phản ánh hiện thực, cũng không phải là để chiêm nghiệm hiện thực, mà nó phải là tấm gương phản chiếu thời đại, phản chiếu theo đặc tính của văn chương. Đó là độ sâu của những tấm gương nghệ thuật. Đừng bắt nó phải như thật.

Chất lượng nghệ thuật


Từ xưa, trong cuộc sống, ông cha ta đã coi trọng chất lượng, thể hiện qua các câu tục ngữ: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, “Một nghề chín, hơn chín mười nghề”… Nghệ thuật là cái đẹp, là tinh túy của cuộc sống, nên nó càng đòi hỏi chất lượng cao. Giở lại một cuốn “Sổ tay văn học” thời mình còn là sinh viên, tôi ghi ở trang đầu câu nói của một danh nhân nước ngoài: “Văn học xuất phát từ những định luật của vô cùng. Chỉ một mình nó không công nhận cái chết”. Ôi, đúng là một thời bồng bột khi đứng ở ngưỡng cửa của văn chương nên thích những lời to tát. Chẳng có gì xuất phát từ định luật của vô cùng cả, mà chỉ có những lĩnh vực đi từ sự vật sự việc cụ thể để đến với vô cùng mà thôi! Và chẳng có một lĩnh vực nào tự nó đã bất tử, mà sự bất tử có ở tất cả các lĩnh vực, khi nó đạt đến đỉnh cao của vô cùng. Văn chương nghệ thuật là một lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng của cuộc sống, nó cũng mang đầy đủ những đặc điểm như mọi lĩnh vực khác.

Kho tàng văn chương dân gianvăn chương bác học của dân tộc, mà chúng ta biết được còn lại không quá đồ sộ thì chắc chắn thời gian đã xóa đi một số lượng ít nhất phải gấp hàng mấy chục lần như thế. Hơn trăm bài thơ của phong trào Thơ Mới còn lại trong Thi nhân Việt Nam, sau khi Hoài Thanh và Hoài Chân đã loại đi một vạn bài mà các ông được đọc. Tức là lịch sử văn chương chỉ giữ lại khoảng 1% số sáng tác mà thôi. Biết được điều này, các nhà văn nhà thơ sẽ cẩn trọng và nghiêm túc hơn trong quá trình sáng tác của mình, làm sao phải có được những sáng tác hay, những tác phẩm có chất lượng. Còn làm thế nào để có được tác phẩm hay, thì nhiều nhà thơ, nhà văn nói rằng câu hỏi ấy không thể trả lời được. Riêng nhà văn Đình Kính tác giả của tiểu thuyết Sóng chìm thì trả lời rằng, đó là: Tài năng, tài năng và tài năng. Thực ra, hai cách trả lời đó cũng chỉ là một, và đều còn là một sự bí ẩn. Nhưng danh nhân Trương Triều (đời Thanh – Trung Quốc) là tác giả của tập cách ngôn U mộng ảnh nổi tiếng, viết một câu mà tôi cho là chân lý: “Văn chương tuyệt đỉnh cổ kim đều được viết bằng máu và nước mắt”. Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Nhật ký trong tù… có thể là minh chứng.

Lịch sử văn chương nhân loại từ cổ chí kim rất ít tác giả để lại cho đời được một khối lượng đồ sộ tác phẩm có giá trị cao. Họa chăng chỉ là những thiên tài! Mà thiên tài thì phải hàng trăm năm mới có. Tầm cỡ như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, thì đất nước hơn một tỉ dân như Trung Quốc, mấy chục năm nay nào có được ai? Ở Việt Nam, thì tầm cỡ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du… mười thế kỷ văn chương bác học, cố tính cũng chỉ được mươi người. Còn phần lớn là các tác giả có số lượng sáng tác đồ sộ, nhưng chất lượng thì cũng chỉ có được một hai tác phẩm, cũng là quý lắm rồi. Tâm trạng hoảng hốt của thi sĩ Xuân Diệu khi tuổi đã cao nhìn lại những sáng tác của mình, không biết có gì còn lại với đời là một tâm trạng thực, cũng đáng trân trọng. Đó là một người tinh tường và biết sợ. Khi còn ở thời kỳ sáng tác sung sức, thi sĩ cũng đã phải thốt lên: “Thơ ơi, quặng thải bao lần/ Biết bao giờ mới ra vần kim cương!”. Một tài năng lớn như Xuân Diệu, một tài năng mà khi ông ra đi, báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam đã viết: “Một cây lớn nằm xuống, cả khoảng rừng trống vắng” mà vẫn còn trăn trở đến như thế về chất lượng nghệ thuật, thật đáng là bài học cho mỗi người cầm bút.
Vì thế, những sáng tác văn chương nghệ thuật hay là rất hiếm và rất quý. Một bài thơ hay có thể đánh đổ hàng vạn bài, vì nếu tác phẩm không hay thì chẳng là gì cả. Đây phải là điều tâm niệm của mỗi người cầm bút. Làm sao để cả đời có thể viết được một tác phẩm hay. Mỗi tác phẩm hay là một hạt kim cương, mỗi nhà văn có một tác phẩm hay thì nền văn chương nước nhà sẽ có một kho kim cương đồ sộ. Nhưng những viên kim cương có hình dáng và màu sắc rất khác nhau. Có khi là một khối trong suốt như Truyện Kiều, có khi lại là những hạt vụn lẻ tưởng gần với hoang dã như những bài thơ của Hồ Xuân Hương, có khi chỉ vài ba hạt thăm thẳm như “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến, hoặc những chùm hạt có màu sắc khác nhau được gom lại trong Thi nhân Việt Nam… Có điều, không ai có thể cố tình sản xuất mà thành kim cương cả. Kim cương đó là những hạt tự nhiên, do sự kết tinh của những chất đặc biệt trong một hoàn cảnh và điều kiện đặc biệt. Nhưng khi biết được hoàn cảnh và điều kiện có thể nảy sinh kim cương, thì ta có thể tạo dựng điều kiện, hoàn cảnh và chờ đón. Điều kiện và hoàn cảnh thuận tiện càng dồi dào thì khả năng nảy sinh kim cương sẽ càng cao.

Tác phẩm đỉnh cao ư? Nó chỉ có thể ra đời theo đúng quy luật đó. Vì vậy, muốn có được những tác phẩm đỉnh cao thì phải tạo dựng môi trường cho nó xuất hiện, chứ đừng dông dài những chuyện không đâu.

Quyền năng của nghệ thuật


Kỷ niệm 100 năm sinh nhà phê bình văn học Hoài Thanh, nhiều người một lần nữa khẳng định Hoài Thanh là “người đi tìm cái đẹp”. Chính Hoài Thanh cũng đã tâm sự điều này, khi ông bỏ qua việc phê phán những câu thơ, những bài thơ dở. Thực ra thì không phải chỉ trong việc phê bình, mà ngay cả trong sáng tác, xu hướng chính vẫn là ca ngợi cái hay, khẳng định cái đẹp. Dẫu có là hiện thực phê phán thì mục đích của nó vẫn là để ca ngợi con người và cuộc sống.

Miêu tả nàng Kiều đẹp về cả hình thức và tâm hồn, với một tài năng đặc biệt, Nguyễn Du đã tạo cho nàng sức sống đến ngày nay. Thì không có nghĩa là trong cuộc đời ông không gặp người phụ nữ nào xấu cả. Chính Nguyễn Du đã phải sống cuộc đời, mười năm gió bụi, bao nhiêu nhiễu nhương trong buổi loạn ly, biết bao sự nhốn nháo của buổi đầu thị trường tư bản, nàng Kiều phải hai lần vào lầu xanh, thì còn điều gì mà Nguyễn Du không thấy? Nhưng để thể hiện cái đẹp thì phải làm mờ những cái xấu đi. Nói cách khác, trong khi tập trung mọi ánh sáng, màu sắc để làm rực rỡ nàng Kiều, trong tâm trí thi hào vẫn thoáng thấy sự đối lập, sự tương phản với hình bóng những người phụ nữ xấu. Không có những hình bóng tương phản thì Nguyễn Du không thể miêu tả được nàng Kiều đẹp đến thế.

Tương tự, trong tác phẩm hiện thực phê phán tiêu biểu giai đoạn 1930-1945 của văn chương nước nhà, nhà văn Ngô Tất Tố đã miêu tả chị Dậu đặc trưng cho lòng chung thủy, đã ném nắm giấy bạc hơn chục đồng trả tên quan phủ để giữ phẩm tiết, trong khi chị bán cái Tý và ổ chó cho vợ chồng Nghị Quế để lấy tiền nộp sưu cho chồng chỉ được hai đồng bạc. Thì không có nghĩa, nhà văn Ngô Tất Tố không biết gì về những cô gái làm tiền dễ dãi thời ấy. Căm tức cái xấu, phê phán xã hội thối nát là một thái độ rất đáng trân trọng. Nhưng vượt lên trên sự căm giận, tố cáo để khẳng định cái tốt đẹp phải đứng ở mức cao hơn. Ở điểm này, trước đây tôi đã không đồng tình với Trần Đăng Khoa khi anh phê phán chị Dậu bán con trong tác phẩm Chân dung và đối thoại của anh, lúc sách mới xuất bản lần đầu. Ngô Tất Tố còn có cách nào khác là để cho chị Dậu bán con? Mà đây là một thực tế diễn ra ở không ít gia đình trong những năm tháng ấy. Dẫu phải bán con nhưng con vẫn sống, còn hơn là để cả nhà cùng chết. Đấy là tầm tư tưởng cao của Ngô Tất Tố, ông phải vượt lên rất nhiều điều để khẳng định cái đẹp. Và tư tưởng ấy đã vượt qua được thời gian sóng gió đến nay.

Thế thì khi miêu tả thể hiện cái xấu, nhà văn có thấy những điều tốt đẹp không? Có chứ. Phía sau của nhân vật bao giờ cũng có bóng dáng của hàng loạt những con người khác, cả những người xấu và người đẹp. Nếu nhà văn miêu tả những nhân vật và sự việc tốt đẹp, thì bóng dáng những người tốt đẹp ở phía sau sẽ tô đậm thêm cho vẻ đẹp ấy, còn những người xấu sự việc xấu sẽ làm những bóng tối tương phản để nhân vật và sự việc tốt đẹp nổi bật hẳn lên. Trong tâm hồn nhà văn không bao giờ đơn thuần một loại cảm xúc. Tuy nhiên không phải các loại cảm xúc đều dạt dào mức độ đồng đều, nó đậm nhạt, gần xa, ẩn hiện một cách rất phù hợp và nghệ thuật. Khi nhà thơ nhà văn nào có được độ sâu cảm xúc này thì câu thơ, trang văn mới có được sức nặng mà mưa gió thời gian không thể cuốn đi trong tâm trí người đọc.

Phía sau nàng Kiều có hàng trăm hàng nghìn bóng dáng những người phụ nữ đủ các loại. Nàng Kiều trở về cùng chúng ta ngày nay là mang theo cả những bóng dáng ấy, cả xã hội và thời đại của nàng, chứ đâu phải chỉ có một mình nàng. Vì thế thi sĩ Chế Lan Viên mới viết:

Nguyễn Du có nói về cô Kiều e lệ nép vào hoa buổi ấy
Thì cũng để cho ta yêu người con gái đẹp thời nay

…….

Câu thơ ư, là một cách truyền lửa qua muôn đời
Ai hơi đâu truyền đuốc tắt mà chơi.

Càng nghĩ, tôi lại càng thấy sự cao siêu của nghệ thuật mà mình không thể nào chạm tới được. Và thấy quyền năng của nghệ thuật thật vô cùng, nó lớn gấp vạn lần quyền lực. Quyền lực chỉ có thể chinh phục được một bộ phận nào đó trước mắt. Còn quyền năng thì mới chinh phục được tất cả mọi người từ đời này qua đời khác.

Độ nông sâu của nghệ thuật

Độ nông sâu trong cuộc sống tôi cũng thấy cha ông ta nói đến nhiều. Nội dung của nó tất nhiên là để hướng tới độ sâu, mà như bây giờ chúng ta thường gọi là chất lượng cuộc sống. Độ nông sâu của cuộc sống không phải là sự đầy đủ hay thiếu thốn, nhiều hay ít, cao hay thấp, đa dạng hay đơn điệu… mà độ nông sâu có ý nghĩa triết học, sâu sắc và hướng tới chân lý. Còn gì sâu hơn lời dạy của ông cha ta đối với mỗi con người: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Vâng, tu tại gia mới là khó nhất, chứ vào chùa thì chỉ việc ăn chay niệm Phật, gõ mõ tụng kinh, sẽ dễ hơn tu tại gia nhiều. Đó là một thái độ sống cao nhất, có trách nhiệm với mọi người, với cuộc đời. Ông cha ta còn dạy cả thái độ ứng xử của người quân tử, vẫn với lời khuyên nhập thế, giống như khuyên tất cả mọi người ở câu trên: “Ẩn giữa núi rừng chỉ là tiểu ẩn, ẩn giữa triều đình mới là đại ẩn”. Bởi trốn đời, thì còn làm gì được cho đời, mà phải ở giữa cuộc đời, ở trung tâm cuộc đời mới có thể có thời cơ cứu nhân độ thế. Cũng từ dòng ý nghĩ cao sâu ấy mà đại thi hào Nguyễn Du đã viết: “Tài tri vô tự thị chân kinh” (Kinh không còn chữ mới là chân kinh)…

Ở điểm này, ứng vào thế giới văn chương nghệ thuật, Tố Như tiên sinh đã chạm tới độ sâu sắc nhất. Ở phía Tây bán cầu, đại văn hào nước Anh Sếchxpia, qua lời hoàng tử Hămlét trong vở kịch cùng tên, đã nói: “Chữ, chữ, toàn là chữ…”. Vâng, văn chương nghệ thuật phải không còn chữ thì mới là văn chương. Nhưng làm thế nào để cho chữ biến đi thì không phải là chuyện dễ. Muốn làm cho chữ biến đi phải làm cho chữ lung linh, chữ có hồn chứ không phải là làm xiếc chữ nhào lộn, lật ngược. Làm xiếc chữ nhào lộn thì chữ không biến đi mà nó thành những chữ kỳ quái, chữ ma, dị hình dị tướng. Theo tôi, muốn làm cho chữ biến đi thì tất cả phụ thuộc vào tài năng. Danh họa Picátsô (Tây Ban Nha) chỉ ký họa chim hòa bình bằng một nét bút mà có giá trị hơn nhiều những bức phù điêu hoành tráng cùng đề tài. “Chim hòa bình” của Picátsô đã bay từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, nó không còn là chữ, là màu nữa.

Thực ra thì các vĩ nhân cổ kim Đông Tây cũng đều thống nhất với nhau thôi. Thời hiện đại, thi sĩ Chế Lan Viên cũng viết:

Chỗ này sâu ư? Không, chỉ là nước đục ngầu
Chỗ này cạn ư? Không, chính vì nước trong nên ta nhìn thấy đáy
Chỗ sâu cạn trong thơ là thế đấy!

Một thời các nhà sáng tác và phê bình văn chương đã trao đổi và tranh luận mục đích của văn chương là phản ánh hiện thực hay chiêm nghiệm hiện thực? Thực ra thì mục đích của văn chương không phải để phản ánh hiện thực, cũng không phải là để chiêm nghiệm hiện thực, mà nó phải là tấm gương phản chiếu thời đại, mà là phản chiếu theo đặc tính của văn chương. Đó là độ sâu của những tấm gương nghệ thuật. Đừng bắt nó phải như thật. Còn tất nhiên nó phải đẹp. Đẹp nhưng không phải do tô điểm. Những tác phẩm đạt đến mức là tấm gương phản chiếu thời đại không nhất thiết phải là những tiểu thuyết có dung lượng đồ sộ, mà là những tác phẩm mang tâm hồn điển hình của thời đại ấy, dưới một hình thức nghệ thuật đặc sắc. Như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Điêu tàn (Chế Lan Viên), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh), Thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Tố Hữu…

Còn các nhà phê bình văn chương nghệ thuật cũng vậy. Từ xưa, ở lĩnh vực này, các danh nhân đã chỉ ra: “Đọc bằng mắt thì văn chương chỉ thấm vào da thịt; đọc bằng tâm thì văn chương thấm vào gan ruột; đọc bằng thần thì văn chương thấm vào cốt tủy”. Có thể thấy, nhiều bài đọc sách tràn lan trên các báo chỉ là những bài đọc bằng mắt. Nó ở độ nông nhất của phê bình. Những bài phê bình ở các chuyên mục “Tác phẩm và dư luận” của một số tờ báo, tạp chí chuyên ngành văn chương, có nhiều bài đọc bằng tâm. Còn những bài phê bình đọc bằng thần thì tôi thấy rất hiếm. Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh chính là những bài đọc bằng thần vậy.

Thực ra, trong một nền văn chương cũng không có được nhiều tác phẩm là “tấm gương phản chiếu thời đại” và cũng không có được mấy tác phẩm phê bình đạt đến mức “đọc bằng thần”. Đó là những tác phẩm đạt độ sâu nhất của nghệ thuật. Nhưng làm sao để sáng tác và phê bình có được những tác phẩm như thế luôn là đích hướng tới. Thế kỷ XX, ở Việt Nam, những tác phẩm văn chương đạt ở mức là “tấm gương phản chiếu thời đại” chỉ có độ vài ba chục tác phẩm. Còn tác phẩm phê bình đạt ở mức “đọc bằng thần” thì ngoài Thi nhân Việt Nam, tôi chưa thấy có tác phẩm thứ hai.

--------
Theo Văn chương – Thời cuộc – Dư luận
Thêm
235
0
0
Võ Thị Hảo là một trong số các nhà văn nữ Việt Nam giành nhiều trang văn của mình cho người phụ nữ. Hôm nay, nhân đọc Người sót lại của rừng cười, chúng ta cùng nhìn lại một chút về nhân vật Thảo trong truyện. Cô là “người sót lại của rừng cười”, trở về với cuộc sống thời bình, nhưng cái kết của truyện lại là một sự ra đi không rõ ràng của nhân vật. Có điều gì bất ổn ư? Với bài viết nhỏ này, người viết xin được rõ ràng bày tỏ ý kiến của mình như một lời khẳng định: Ra đi, “người sót lại của rừng cười” ấy đã tự định nghĩa được chính mình. Và cho những đồng đội “rừng cười” hôm nao!

Câu chuyện về những cô gái ở rừng cười ấy đã ám ảnh, ám ảnh đến ghê người chúng ta. Họ cứ như những bóng ma vật vờ trong tiếng cười của chính mình, tự chơi đùa với chính mình. Và trở nên điên dại. Điên dại vì những khao khát bản năng của người phụ nữ, vì thèm, vì thèm! Nhưng chao ôi, chưa bao giờ họ trở nên điên dại với nhiệm vụ. Người đọc không khỏi khắc khoải mãi hình ảnh “Như có phép lạ, các cô gái đang cười sằng sặc bỗng im bắt, bàng hoàng rồi sực tỉnh, vơ ngay lấy súng, nhảy vội xuống đất chĩa vào Hiên định bóp cò”. Hình ảnh ấy có phải chỉ được giải thích bằng “phép lạ”? Có lẽ chỉ khoảng khắc nhỏ ấy thôi, Võ Thị Hảo đã cho hiên nguyên hình cái tinh thần không thể giải thích của những nữ chiến sĩ rừng cười. Họ ở lại cái nơi kinh hoàng giết mòn con người ấy, một nơi chỉ có thứ an ủi duy nhất là hình ảnh về Thành-người yêu cuả Thảo, chàng hoàng tử chung của mấy chị em, nhờ nó nuôi dưỡng thứ duy nhất không chết mòn, trái tim người đang sống vì cuộc chiến tranh đang diễn ra.

Quá khứ đã lùi đi nhưng chưa bao giờ là xa xôi. Có lẽ bởi con người ta có hoài niệm. Vì thế mà ta có thể sống ở thực tại. Nhưng nhân vật Thảo đã sống ở cái thời thực tại ra sao?

Ám ảnh như tiếng cười khanh khách của rừng cười duy nhất còn sót lại, của những gì đớn đau nhất. Bóng ma của thời chiến bước về với con người thời bình. Thảo tìm về với con đường được làm người phụ nữ, được sống đúng những bản năng của mình. Tưởng như được thỏa những ước mơ về một hạnh phúc đời thường. Nhưng, một cô sinh viên năm nhất nép mình bên giường tầng với những trang nhật ký đầy ám ảnh; nhưng, một con người với hai loại giấc mơ, hoặc là tuổi thơ hoặc là chiến tranh; còn thứ cô cần nhất để bắt nhịp cô với cuộc sống hiện tại thì nó ở đâu? Cô trở lại với chàng hoàng tử của mình, hình ảnh đã giúp cô và các bạn của cô bám víu lấy để sống tiếp, hướng về. Nhưng, là một tình yêu đều đặn vào các tối thứ bảy, đầy những cảm giác bất ổn, mỏng manh được gợi lên qua những lo sợ, những im lặng của Thảo và Thành. Tất cả là những mảnh vụn duy nhất của riêng cô, chẳng ai hiểu, chẳng ai chạm tới cả. Cô đã sống trọn với những nỗi đau, với ký ức, với tình yêu mà mình có. Để….người ta yên tâm rằng Thảo đã điên, người ta yên tâm dè bửu, chê trách, yên tâm coi Thảo là một kẻ phụ tình….yên tâm bỏ mặc con người cuối cùng, sót lại của rừng cười.

Thảo có “yên tâm” trở thành kẻ cô đơn như thế? “Yên tâm” trở thành kẻ lạc loài giữa cộng đồng người của mình?

Và cô rơi về chốn nào, để giữ cho được hình ảnh của một chàng hoàng tử hào hiệp tất cả rừng cười đều tôn sùng về Thành. Và cô rơi về chốn nào? “xuôi tàu”, có chuyến tàu nào cho cô về lại rừng cười? Hay có tấm vé nào khác cho cô lại bước vào cuộc đời mới. Có thể có nhiều cách giải thích cho sự ra đi của Thảo nhưng người viết thì cho rằng, phải, cô trở về chứ không phải ra đi. Tinh thần của rừng cười, những con người của rừng cười vẫn ở lại nơi đây với những giá trị đủ đầy chưa bao giờ bị mờ đi.

Cho tới tận cùng Thảo vẫn những lời nói của chị Thắm. “Thảo ơi! Liệu em có quá yêu người ta không đấy, không hiểu sao, chị bỗng thấy sợ cho em. Em là người duy nhất trong chúng ta đang có hạnh phúc. Mai này, có trở về, dù thế nào, em cũng không được để đàn ông người ta phải thương hại mình nghe!”

Đây chính là điều người viết muốn khẳng định. “Người sót lại của rừng cười”, thứ khiến cô đã sống được ở rừng cười, tình yêu, chính nó cũng đã cho cô con đường bước về với cuộc sống bình thường. Cô đã giành trọn cho nó. Nhưng cũng chính khi ấy, cô đau đớn mà nhận ra rằng, nó không như cô đã nghĩ và đã tin tưởng. Phải, cô ra đi, chẳng có gì là bất ổn cả. Nó phù hợp với tâm lý của cô, phù hợp với tinh thần của những người chiến sĩ dũng cảm và mạnh mẽ nhất của rừng cười. Cô yếu mềm ư, cô chạy trốn ư? Không, là cô lựa chọn, lựa chọn sống hết lòng với rừng cười, với những con người ở rừng cười. Họ đáng được trân trọng. Tôi cho rằng ấy là hành động quyết liệt của Thảo. Và là tiếng nói vững vàng nhất của Võ Thị Hảo. Cô ra đi vì chính mình, và vì những đồng đội của cô, giữ cao nhất lòng tự trọng của mình, giữ cao nhất vị trí của đồng đội mình. Không có chỗ cho sự thương hại, không có chỗ cho những phụ thuộc, cô đã đặt viên gạch cuối cùng quan trọng cho những người như mình. Họ, đã có thể tự định nghĩa được chính mình!

Đây chỉ là một góc nhỏ trong tác phẩm, nhưng đã cho ta thấy được ý thức nữ quyền rất rõ. Võ Thị Hảo đã hướng ngòi bút của mình về người phụ nữ bằng một giọng văn đầy thấu hiểu và cảm thông mang đậm đặc trưng nữ quyền phân tâm học và đòi hỏi chúng ta cùng nhìn nhận. Một ngách tối nhỏ thôi nhưng cần lắm giữa đời này.

—————————
Trích bài viết của Vũ Thị Dung (Khoa Văn Học - Ngôn Ngữ - ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP HCM
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
639
1
0
Phân tích bức chân dung người lính qua đoạn thơ sau để làm sáng tỏ ý kiến: “Với bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng, lại vừa diến tả được cái tươi mát, sâu lắng, đau thương mà không hề bi lụy”.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

BÀI LÀM
--

Thơ ca là tiếng nói hồn nhiên nhất của lòng người.Thơ là tiếng mẹ, giọng bà, là lời ca cây cỏ, là tiếng vọng non sông.Thơ đến với cuộc đời bằng tấm chân tình, bằng xúc cảm dạt dào trong trái tim người nghệ sỹ. “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta gặp gỡ tâm hồn một con người”(Atone France).Tâm hồn của Quang Dũng – người thi sỹ của “Xứ Đoài mây trắng” cũng được soi chiếu qua những vần thơ bất hủ vì một lẽ giản dị như thế.Đặc biệt, “Tây Tiến” đã làm nên tên tuổi và giá trị còn mãi của nhà thơ trên diễn dàn văn học.Đã có ý kiến cho rằng: “Với bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng, lại vừa diến tả được cái tươi mát, sâu lắng, đau thương mà không hề bi lụy”.Hồn thơ phóng khoáng, nồng hậu rất riêng, sự mới mẻ trong từng câu chữ của Quang Dũng được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

“Mỗi người nghệ sỹ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ” (Lê Đạt).Có phải vì thế mà chỉ khi đến với Quang Dũng, chúng ta mới cảm nhận được những tiếng thơ rất đỗi lãng mạn mà cũng mang đậm chất sử thi nồng nàn như thế?Ngòi bút tài hoa của nhà thơ đã làm nên hương vị rất riêng, rất “Quang Dũng”.Thơ ông “khắc họa được cái dữ dội, hào hùng” – cái khí thế của con người và đất trười trong kháng chiến khói lửa, kiêu hùng, cứng cỏi chiến thắng quân địch.Dẫu là một bông hoa trên chiến trường khốc liệt nhưng Quang Dũng đã thổi hồn vào “Tây Tiến” một luồng gió mới , “tươi mát, sâu lắng”.Đó là sự rung động của tâm hồn thi sỹ sỹ trước cảnh vật nên thơ hay một dáng hình xa xăm thật thi vị. “Tây Tiến” mặc dù nhuốm màu đau thương, những mất mát của chiến tranh nhưng không hề bi lụy mà vụt sáng lên bằng chính ý chí, nghị lực, lòng lạc quan, yêu đời đáng quý của người lính.Có thể nói, “Tây Tiến” là sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn” (Đinh Minh Hằng).

Nhà thơ Quang Dũng là một sự xuất hiện đầy độc đáo trên diễn đàn văn học Việt Nam.Thi sỹ “đứng riêng mình một ốc đảo”, tự mình tỏa cho đời những bông hoa tinh khôi.Quang Dũng là một người đa tài, thông thạo cầm, kì, thi, họa nên ta thường thấy bóng dáng các yếu tố nhạc họa đan xen trong thơ ca.Thơ Quang Dũng kết tinh lấp lánh vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ, một phong cách thơ hồn nhiên, hồn hậu, dậm chất sử thi và khuynh hướng lãng mạn, giọng điệu ngang tàng, đậm chất lính và chân thật như cá tính của ông.Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác khi Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ tha thiết rừng núi Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến, những tiếng thơ bật lên vào năm 1948.Với “Tây Tiến”, Quang Dũng thật sự khẳng định được sự tài hoa vượt bậc, một hồn thơ hết sức nồng hậu, dữ dội, độc đáo của mình.Đoạn thơ trên nằm ở khổ thơ thứ sáu và bảy của tác phẩm, sau nỗi nhớ đại ngàn Tây Bắc tha thiết, nhớ những chặng đường hành quân gian khổ và những kỉ niệm ấm áp bên đồng đội và nhân dân mến thương, khắc họa nổi bật bức chân dung lớn lao của người lính Tây Tiến.

Tiếng thơ của Quang Dũng trước hết là tiếng hát hào hùng về cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc qua thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, về hình ảnh người lính Tây Tiến lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu là giữ oai hùm”

Nhà thơ Quang Dũng không gọi tên hay miêu tả chân dung một đồng đội nào mà gọi tên, khắc tạc cả một tập thể đồng đội – những con người anh hùng bằng tên gọi khá thú vị “Đoàn binh không mọc tóc”.Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt bắt nguồn từ hiện thực thiếu thốn khắc nghiệt “Tiểu đội xe không kính”.Ta cảm nhận được tinh thần lạc quan, chất dí dỏm hài hước của những người lính tự trong gian lao, khổ cực.

Nhà thơ Quang Dũng đã viết, đã cực tả hình ảnh những người lính oai hùng bằng con mắt lãng mạn mà vẫn thực đến trần trụi.Chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, ma thiêng nước độc, “chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều”(Theo Trần Lê Văn), có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc.Vì thế, hình ảnh những anh “Vệ trọc” đã phần nào cho ta cảm nhận bao gian khổ mà người lính phải chịu.Thế nhưng, hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt giày vò không cản trở được khí phách hiên ngang của họ.Phép đối rất chuẩn giữa “quân xanh màu lá’ với ‘dữ oai hùm” tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ, hùng tráng cho câu thơ.Người đọc như cảm nhận được bước chân, khí thế ra trận hừng hực của đoàn quân. “Quân xanh màu lá” là màu xanh áo lính, xanh lá ngụy trang hay chính làn da xanh xao vì thiếu máu.Những hình ảnh thực đến trần trụi đó đi vào trong thơ Quang Dũng lãng mạn, mang ý nghĩa tượng trưng, rất có khí phách.Hai câu thơ đã chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như thơ ca.Đoàn quân một thuở “xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà thành kiêu hùng hào hoa.Người lính Tây Tiến với tinh thần thép, trở thành anh hùng oai phong, lẫm liệt như mãnh thú chống rừng xanh. Hình ảnh người lính Tây Tiến hào hoa là nét oai hùng trong thơ Quang Dũng, bị sốt rét hành hạ khổ sở, đau đớn,Thơ ca kháng chiến dã từng ghi lại những hình ảnh thật cảm động về sự tiều tụy của người chiến sỹ vì sự hoành hành của bệnh tật:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
(“Đồng chí” – Chính Hữu)

Tiếng thơ của thi sĩ “Xứ Đoài mây trắng” đặc biệt độc đáo bởi ông dám đưa vào thơ mình sự lãng mạn, nhớ nhung một bóng hồng xa xăm – điều mà vốn không được chấp nhận trong thơ ca kháng chiến.Nhưng chính điều khác biệt ấy đã tạo cho thơ Quang Dũng sự tươi mát, sâu lắng, trẻ trung:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Những “mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: “Mộng” gửi biên cương đầy bóng giặc, mong muốn lập công và “mơ” những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm” ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính khi nhớ về thiếu nữ Hà thành với vẻ đẹp “sắc nước hương trời”.Sự trẻ trung, nhiệt huyết của tuổi trẻ với hạnh phúc lúa đôi vẫn luôn thường trực và cháy bỏng, cái chất lãng mạn của người lính nở thơm ngát trên chiến trường bom rơi đạn lạc.Nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí nản lỏng.Vậy mà một câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến chính Quang Dũng và nó “trải qua gió dập sóng dồi”, khổ cực suốt mấy chục năm.Nỗi nhớ của người lính dang tuổi hoa mộng, đang dở dang với giảng đường, với người thân yêu rất đẹp và đáng trân trọng.Nó khác với nỗi nhớ của người lính xuất thân từ nông dân trong “Đồng chí” của Chính Hữu.Nỗi nhớ của riêng, những nhớ thương rất hào hoa, đã làm nên đặc trưng riêng cho tiếng thơ Quang Dũng đã từng có tiếng gọi đồng điệu nơi “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi:

“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Giữa những gian khổ của chiến trường, người lính không chỉ cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, lãng mạn, trái tim họ vẫn rạo rực nhớ vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa, những nỗi niềm “bồi hồi trong ngực trẻ”.Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những nét bút thực đến trần trụi mà vẫn rất mực lãng mạn, hào hoa của những tâm hồn son trẻ, tạo sự tươi mát, sâu lắng, thi vị của riêng mình Quang Dúng.

Đặc biệt, tiếng thơ Quang Dũng dù viết chiến trường khói lửa, về những đau thương mất mát mà không hề bi lụy.Ngược lại, rực sáng và vút lên trên nền hiện thực đau thương là những vần thơ cứng cỏi, bi tráng, hào hùng:

“Rải tác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh”

Câu thơ đầu tiên thật dễ gây cảm giác nặng nề, bởi đó là câu thơ về cái chết của người lính Tây Tiến ở “viễn xứ” hoang lạnh.Từng vần thơ càng lúc càng nhấn mạnh vào nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ.Quang Dũng đã dùng phép đảo ngữ, đưa từ láy “rải rác” lên đầu câu để nhấn mạnh sự ít ỏi, gợi sự cô đơn,côi cút khi những người lính ngã xuống trên đường hành quân lại được yên nghỉ đâu đó trên đường, ở đỉnh dèo, dốc núi, dưới tầng sâu đất lạnh.Nhà thơ xót xa, đau đớn vô cùng khi nói về sự hi sinh của đồng đội mình:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Yếu tố bi tráng được nâng lên, sự bi lụy, đau thương được giảm bớt khi có sự xuất hiện của các từ ngữ Hán Việt “biên cương”, ‘viễn xứ”.Những nấm mồ hoang nơi biên giới chẳng ai biết đến giờ trở thành những mộ chí tôn nghiêm, vĩnh hằng.Hồi ấy, viết về chiến tranh, ít có ai bạo tay như Quang Dũng, đưa những hình ảnh ảm đạm, thê lương, chết chóc vào thơ ca.Nhưng Quang Dũng đã làm được, đã đứng riêng mình một khoảng trời để khẳng định cái tôi đầy bản lĩnh của mình.Nếu câu thơ này tạo nên cái “bi” thì câu thơ sau thể hiện cái “tráng”.Câu thơ nhẹ nhàng như chưa từng mang chút bi thảm của mồ viễn xứ.Cái không khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. “Chẳng tiếc trời xanh” là cách nói của người thanh niên trí thức Hà Nội, mag cả quan niệm lý tưởng chiến đấu.Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ, cho những mộng mơ rất đẹp còn dang dở.Nhưng cao hơn cả họ có tự do, có quê hương phải bảo vệ.Tổ quốc chưa yên sao họ có thể nhắm mắt làm ngơ, vui thú vui ích kỉ của riêng mình.Cụm từ “chẳng tiếc’ là cách nói hết sức ngang tàng, là thái độ tự nguyện, khẳng định rằng: “Đời xanh” – tuổi trẻ, thanh xuân dầy hoa mộng sẽ vô nghĩa nếu không xông pha trận mạc, hiến dâng vì Tổ quốc.Người lính Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, là lí tưởng quên mình chói sáng “Chết vinh còn hơn sống nhục”.
Dẫu quê hương “khổ đau là thế”, cằn cỗi đến vậy nhưng mỗi chúng ta là một “viên đá nhỏ”, “bong ra từ mảnh đất này” nên người lính Tây Tiến hi sinh cao đẹp, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, làm nên một vẻ đẹp lãng mạn xiết bao hào hùng, bi tráng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Câu thơ “áo bào thay chiếu anh về đất” là cách nói tráng lệ hóa hình ảnh, sự hi sinh của người lính Tây Tiến. “Áo bào thay chiếu” là hình ảnh vừa lệ, vừa tả thực để làm mờ đi sự thiếu thốn, gian khổ mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng.Chúng ta có thể hiểu câu thơ là: Không có chiếu nhưng có áo bào tiễn anh về với đất Mẹ, théo cách nói của Quang Dũng: “Tôi muốn nói thêm cái phần gian khổ, gian khổ của miền Tây.Khi nằm xuống, người chiến sỹ không có manh chiếu để liệm.Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách ước lệ để an ủi đồng chí của mình đã ngã xuống”. “Áo bào” là một từ Hán Việt, chỉ áo mặc bên ngoài của vua chúa, các tướng lĩnh.Thực ra, đó là tấm áo choàng ngoài, áo của đời lính qua cái nhìn lãng mạn của nhà thơ.Dù đã sờn bạc hay “rách tả tơi” vì bom đạn của giặc nhưng đó vẫn là những chiếc áo đẹp nhất, tiễn đưa các anh về nơi an nghỉ cuối cùng.Hai chữ “áo bào” làm câu thơ thêm phần cổ kính, lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ dẹp của một tráng sĩ, gợi được cái hào khí của chí làm trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây”.Chữ “về” được nói với thái độ ngạo nghễ, nhẹ nhõm. “Anh về đất” sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng – về với đồng bào, với vòng tay của nhân dân, về với đất Mẹ thân yêu để “hóa thân cho dáng hình xứ sở, làm nên Đất Nước muôn đời” chứ nào có đi đâu xa.Sông Mã “gầm” gào lên khúc độc hành đầu bi phẫn đau thương, làm rung động cả một chốn hoang sơ.Câu thơ mang cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ.Sông Mã “gầm lên” âm thanh của rừng núi, là điệu kèn vĩnh quyết, là khúc ca bi tráng của thiên nhiên, của quê hương đất nước đang quặn lòng, nghiêm mình kính cẩn tiễn đưa các anh.Sông Mã oai hùng đã được nhân hóa trở thành một sinh thể biết đớn đau,như thay cả dân tộc cúi mình trước các anh hùng.Không hề có tiếng khóc của giọt nước mắt tang thương.Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến sự hi sinh cao thượng của anh.Chỉ thấy cháy bỏng niềm tự hào vô cùng, bi tráng, hào hùng về các anh.Bóng dáng anh hòa vào núi sông, trở thành “màu hoa đỏ”.Hình bóng anh còn mãi với muôn đời.Dù hôm nay chưa có bảng vàng, bia đá để ghi tạc công ơn nhưng cả dân tộc nghiêm mình kính cẩn trước linh hồn các anh, tôn vinh anh như những người anh hùng dân tộc.

Như vậy, từ sự kết họa hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hững lãng mạn, Quang Dũng đã tạc vào lịch sử bức tượng đài bất tử của người lính cách mạng vừa chân thực, vừa hào hoa, tiêu biểu cho sức mạnh của dân tộc ta trong thời đại mới. thời đại mà cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến Vệ quốc quân thần kì chống thực dân Pháp.Đó là bức tượng đài được kết tinh từ sự hào hùng, hiên ngang trong cốt cách người lính, sự lãng mạn, hào hoa, tươi mát trong suy tư, tâm hồn son trẻ và kết đọng lại bằng âm hưởng bi tráng, hào hùng,.Cũng là những “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” được khắc họa bằng tất cả tình yêu của nhà thơ với đồng đội và đất nước.

Không chỉ chứa đựng những nội dung hào hùng, sâu sắc, vừa tươi mát như cơn mưa rào trên chiến trường khói lửa, vừa thể hiện được sự bi tráng, kiêu hùng của người lính Tây Tiến và chính Quang Dũng, tác phẩm còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật đăc sắc.Với sự thành công về ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc, giọng thơ hào hùng xen lẫn bi tráng, sự khéo léo trong việc sử dụng đan xen các thủ pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,…, đặc biệt là hình ảnh hết sức chân thật, vừa đậm chất nhạc, lại vô cùng thi vị, sự kết hợp tài tình giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng cùng hồn thơ phóng khoáng, hào hoa của thi nhân.Tất cả đã hòa quyện nên một “Tây Tiến” thật thi vị, kiêu hùng, lãng mạn, đặc trưng riêng cho phong cách thơ Quang Dũng.

Những vần thơ hay cho ta gặp gỡ tâm hồn hào sảng, phóng khoáng, ăm ắp sự lãng mạn, trẻ trung của Quang Dúng.“Tây Tiến” đã thể hiện một cách xuất sắc sự hào hùng của tấm lòng người lính pha lẫn trong nét hào hoa, hồn nhiên của những nhớ thương, mộng mơ thật đẹp, vừa cất lên tiếng hát ngợi ca, vừa bộc lộ niềm cảm thương, đau xót sâu sắc với người lính Tây Tiến, đau thương nhưng không bi lụy. “Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh” (Vũ Thu Hương).Với một “nhan sắc” hết mực duyên dáng, với “đức hạnh” – nội dung thật độc đáo, “Tây Tiến” đã để lại trong lòng mỗi người những men say đằm thắm nhất, ngọt ngào lại cay nồng, khắc sâu trong tâm trí người đọc là hương vị không thể nào quên của “Tây Tiến”, là hồn thơ độc đáo, tài hoa của Quang Dũng, là bức tượng đài bất tử về người lính anh hùng, vì nước, vì dân.

Dẫu chiến tranh đã trôi qua nhiều năm, bụi thời gian đã làm nhòa đi tất cả nhưng bức tượng đài đẹp đẽ, kiêu hùng, hiên ngang về người lính Tây Tiến vẫn sống mãi, đẹp tươi trong lòng người đọc.Các anh – những chàng trai Hà thành hào hoa, những người lính trẻ trung, hào hào, anh dũng, đi vào trong thơ ca nghệ thuật như một huyền thoại đẹp đẽ nhất.Cả dân tộc kính cẩn nghiêng mình cảm phục tấm lòng kiên trung, sự hi sinh quên mình vì dân vì nước của các anh.Các anh để lại cho đời, cho thanh niên hôm nay tấm gương sáng, đường lối cao cả để thế hệ trẻ phấn đấu hết mình, bước đi trên con đường tràn đầy dấu chân những anh hùng:

“Hoan hô anh Giải phóng quân.Kính chào Anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang, bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi!”
(“Bài ca xuân 68” – Tố Hữu)

————————————
Nguồn: Khánh Linh
Thêm
382
0
0
Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều truyện ngắn về đề tài đi săn như: “Sói trả thù”, “Trái tim hổ”, “Con thú lớn nhất” hay “Muối của rừng”. Tuy nhiên tác giả không đơn thuần chỉ kể chuyện đi săn mà thông qua đó còn gửi gắm những vấn đề nhân sinh rất phổ quát. Đó là một cuộc đấu tranh không ngừng giữa cái thiện với cái ác, giữa con người và thế giới tự nhiên. Ở “Muối của rừng”, con người xuất hiện trong một cuộc đi săn, dưới sự cứu rỗi của cái đẹp đã xóa dần những tấm màn ảo tưởng, những định kiến mà họ tự dựng lên và tin vào trước đó. Cuối cùng con người đối mặt với chính mình – dù trần trụi, lạnh lùng nhưng vô cùng đẹp đẽ với thứ duy nhất còn lại chính là thiên lương thuần khiết.

1. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác


Trong cảm quan hậu văn học hậu hiện đại, con người không còn là một lát cắt nguyên phiến với những mặt tốt đẹp đáng ngợi ca. Thế giới tâm hồn người luôn tiềm ẩn những điều kỳ lạ, những góc tối khuất lấp cần khám phá. Điều đó đòi hỏi nhà văn phải đi sâu khai thác các khía cạnh nội tâm để khắc họa tính chất đa nguyên của con người. Nhưng dù khai thác con người ở mức độ nào, nhà văn vẫn phải hướng đến bản chất của con người là “tổng hòa các quan hệ xã hội” và phải luôn có sự hài hòa giữa thực thể sinh học – xã hội. Ở “Muối của rừng”, Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn con người như một phần khăng khít của đời sống tự nhiên, và cũng chính ông ngầm chỉ ra rằng tự nhiên như một phẩm chất của con người, như bản chất Người.

Bằng trí tưởng tượng huy hoàng Nguyễn Huy Thiệp đã đưa người đọc bước vào một cuộc hành trình đầy chất thơ. Đó là một sớm xuân: “Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng vừa tình cảm”. Khung cảnh thanh bình ấy lại chính là dịp để nhân vật ông Diểu “bắt đầu cuộc đi săn”. Nhân vật đi vào rừng mang theo bao hệ lụy trần thế ám ảnh. Ông nhìn thiên nhiên cũng như cách ông đánh giá về cuộc đời. Ông tự gán những suy nghĩ cay đắng về con người cho loài vật: “Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng! Vị gia trưởng cộc cằn” hay “bởi giống cái bao giờ cũng dễ phân tâm”. Ở đây tác giả đã cố tình tạo ra tình huống nhân vật bị nhầm lẫn giữa những bản thể, giữa con người và loài vật để hợp lí hóa cho sự thay đổi tâm trạng và các hành động kế tiếp.

Từng cung bậc của tâm trạng của ông Diểu có sự thay đổi. Bắt đầu từ lúc tiếp cận đàn khỉ “không buồn, không vui, không lo lắng cũng không tính toán” đến “mỉm cười và chăm chú nhìn”. Rồi và cuối cùng là “niềm vui nhen lên từ khi ở nhà ra đi trong ông vơi đi một nữa”. Ông quyết định bắn hạ con khỉ đực với “một tiếng súng dữ dội”. Ông Diểu làm điều ác và tại thời điểm đó ông vẫn hài lòng với kết quả dù có chút “run lên” như “người vừa mới làm xong việc nặng”.

Nhưng khi nhìn đôi mắt con khỉ đực, người đàn ông ấy bổng dấy lên một niềm “thương hại” và “mủi lòng”. Hành động “tránh nhìn vào đôi mắt” con vật như là một điềm báo hiệu về xung đột bắt đầu nảy sinh trong quá trình chinh phục và chiếm đoạt của con người. Để từ cái điềm báo ấy, ông Diểu chuyển từ tâm trạng hài lòng khi làm điều ác sang trạng thái hoảng loạn, bối rối. Ông tìm cách “hái lá đắp cho con khỉ” hay loay hoay “cởi chiếc quần lót” – mảnh giáp cuối cùng trên cơ thể để băng bó cho nó. Trải qua một hành trình vất vả, chứng kiến và suy nghiệm nhiều thứ, đặc biệt là hình ảnh con khỉ con rơi xuống vực sâu thăm thẳm và con khỉ cái cứ kiên trì lẽo đẽo theo ông đi xuyên rừng, người đàn ông ấy chợt cảm thấy “cay cay sống mũi” và thức nhận “một nỗi buồn tê tái đến tận đáy lòng”. Những tâm trạng và hành động không nhất quán ấy biểu hiện cho một sự giằng xé nội tâm giữa tham vọng và tình thương, giữa khả năng của một ông già và sức mạnh của thiên nhiên, giữa phần “con” và phần “người” cũng chính là cái ác và tính thiện trong nhân vật.

2. Cái thiện “ca khúc khải hoàn”

Tâm trạng ông Diểu, từ khi đi qua một chặng đường dài vào rừng săn thú cho tới khi cay đắng hiểu ra rằng “hóa ra ở đời trách nhiệm đè lên từng sinh vật quả thật nặng nề” thể hiện một sự thức tỉnh của lương tâm con người. Như Bielinsky đã nói: “Người cao thượng không phải là người không bao giờ đê tiện. Người cao thượng là người biết mình có những lúc đê tiện”. Nhân vật sau một hành trình dài chợt nhận ra mình đang làm điều ác và quyết định buông bỏ tất cả . Nhận thức được cái ác có nghĩa là đã chiến thắng được cái ác. Để rồi sau đó trí tưởng tượng của tác giả lại tiếp tục tung hoành đẩy nhân vật “cất cánh” trong một kết thúc đầy nhân văn. Ông Diểu quyết định “phóng sinh” cho con khỉ. Dù cho con người tham vọng ban đầu tưởng như đã chiếm ưu thế, nhưng người đàn ông ấy vẫn biết “mủi lòng” trước những sinh linh, thức nhận những giá trị của yêu thương khi chứng kiến tình cảm của giống loài – ở đây là loài khỉ cũng không hề xa lạ với con người. Ông trở về cùng hai bàn tay trắng và con người trần truồng với phần người trỗi dậy và thắng thế. Khi đó ông bắt gặp loài hoa tử huyền, biểu tượng của hạnh phúc, của cái thiện và những trận mưa bụi mùa xuân đã che chở cho thân thể ông suốt quảng đường về. Hình ảnh hoa tử huyền đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng, tô đậm thêm ý nghĩa về giá trị khởi nguyên, giá trị cội nguồn và ý niệm về con người hướng thiện.

Con người ra đi với ý định huỷ hoại thiên nhiên, hủy hoại cuộc sống, khi trở về lại trong tâm thế hòa vào lòng thiên nhiên, vào lòng cuộc sống: “Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông đã nhòa vào màn mưa.” Ông Diểu trở lại hình hài ban đầu của con người tưởng như chưa từng phạm tội và trong sạch trước cuộc đời. Đúng như những hình ảnh rất đẹp của nhà phê bình PGS - TS Nguyễn Thị Minh Thái khi viết về “Muối của rừng”: “Ra khỏi rừng, được chính cuộc đi săn tẩy rửa, chỉ mang theo“tấm thân rày đã nhẹ nhàng”, với độc trọi cảm giác “phóng sinh” trong trẻo, lâng lâng đốn ngộ”. Nhân vật “Muối của rừng” cuối cùng đã thực hiện “khúc ca khải hoàn” của cái thiện trong một cuộc đấu tranh khốc liệt, dằng xé.

3. Một vấn đề nhân sinh phổ quát

“Muối của rừng” đã đưa ra một vấn đề nhân sinh phổ quát đó là mâu thuẫn giữa cái ác và cái thiện trong mỗi một con người. Con người trong thời đại nào cũng thế, luôn luôn tồn tại cuộc đấu tranh giữa phần bản năng sinh vật đê tiện thấp hèn và phẩm chất người cao quý. Đó không chỉ là câu chuyện của trí tưởng tượng mà còn là câu chuyện muôn đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người trong cuộc đấu tranh bền bĩ và dai dẳng cho việc hoàn thiện nhân cách con người.

Nguồn gốc của mọi tội lỗi, của những điều ác suy cho cùng cũng do con người đang bị mất niềm tin vào các giá trị. Họ trở nên tách rời nhau, tách rời với tình yêu và cội nguồn của sự sống. Từ đó con người luôn có cảm giác sợ hãi và thiếu an toàn. Cũng từ nỗi sợ hãi, con người trở nên tham lam với khát vọng muốn sở hữu, muốn chiếm đoạt (những thứ như vật chất, sự ca tụng, sự quan tâm của người khác…) để làm mình có giá trị hơn. Con người trong hành trình mải miết tìm cách khỏa lấp nỗi sợ đó đã quên đi tính thiện luôn ẩn chứa bên trong của mình. Chúng ta để nỗi sợ lấn át tiếng gọi của trái tim, của thiên lương thuần khiết và cứ thế chạy theo trò chơi cuộc đời. Ranh giới giữa cái thiện và cái ác trở nên rất mong manh và nhiều thách thức hơn bao giờ hết. Nếu con người chỉ sơ sẩy bước chệch chân đã lao ngay vào hố sâu thăm thẳm của cái ác mà khó lòng thoát ra được. Lúc ấy chỉ có cái đẹp xuất hiện mới đủ sức cứu rỗi và nâng đỡ con người thoát khỏi vòng bủa vây của cái ác. Nhân vật “Muối của rừng” đã may mắn có được điều đó.

4. Nghệ thuật kể chuyện độc đáo

Muối của rừng xây dựng nhiều những hình ảnh ước lệ mang triết lý sâu sắc trong một giọng văn lạnh lùng, kiêu bạc thấm đẫm con chữ. Vẫn lối viết cực ngắn trong một cốt truyện đơn giản. Đi săn, trang bị đầy đủ, cuối cùng cởi truồng trở về. Nhưng nét hấp dẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp là ở đó. Ngay trong cái hữu hạn của từng từ, từng chữ lại chứa đựng cái vô hạn về ý nghĩa mà độc giả hậu thế vẫn cứ mải mê kiếm tìm cái hay cái đẹp trong mỗi câu văn, trong tầng tầng lớp nghĩa của những hình ảnh đầy ẩn ý.
Cách xây dựng nhân vật và tình huống truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã được “lạ hóa”, chẳng giống bất kỳ ai. Một ông lão, cô độc, vào rừng đi săn trong một sớm xuân. Tên nhân vật cũng mang dụng ý của tác giả, thậm chí khó phát âm để tạo ấn tượng cho người đọc. “Diểu” theo từ điển Hán – Việt (Thiều Chửu) có nghĩa là sâu thẳm, mờ mịt khó xác định. Phải chăng đây là một yếu tố mà tác giả tạo ra để phù hợp tính chất huyền ảo của truyện ngắn.

Đọc “Muối của rừng” để thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không phải chỉ có cái ác, cái xấu xa, cái ti tiện. Bức tranh về số phận con người trong những tác phẩm của ông không chỉ toàn màu đen. Ở đó vẫn ngời sáng những nhân cách đẹp, những tâm hồn thuần khiết, sáng trong tựa suối nguồn.

Vì vậy mà người đọc vẫn cảm thấy tin yêu cuộc đời, tin vào thiên lương, vào con người bản nguyên thuần phác. Lẽ dĩ nhiên, với nhiều hình ảnh biểu tượng, những tầng tầng lớp nghĩa ẩn dấu đằng sau mỗi câu chữ sẽ là một mạch nguồn vô tận cho nhiều độc giả có cách tiếp nhận “Muối của rừng” theo nhiều hướng khác nhau. Tất cả tùy thuộc vào sự kiếm tìm, lý giải của người đọc trước một “đề án mở” về con người mà nhà văn đã cố tình “để ngỏ”. Gấp sách lại, người viết cũng mong sao một lần được gặp loài hoa trắng muốt, bé li ti như hạt muối của rừng – để biết rằng mình đã tìm thấy cái thiện – thứ mà suốt đời này con người vẫn luôn theo đuổi và tìm kiếm.
--
st
Thêm
235
0
0
Không biết từ bao giờ, người ta nhìn sông to, sông nhỏ thành sông mẹ (sông cái) sông con và sự bồi tụ phù sa của sông là sự nuôi dưỡng của một người mẹ? Và cũng không biết từ bao giờ, người ta nhìn thấy vẻ đẹp dịu dàng tha thiết của người con gái trong dáng hình mềm mại uốn lượn của dòng sông?

1. Sông - dòng đời

Trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam, sông mang ý nghĩa biểu trưng cho dòng đời. Dòng nước dài, luôn vận động chảy trôi qua các khúc, các đoạn biểu trưng cho dòng chảy vô thường của đời sống với những chuyển vần, biến dịch, thăng - trầm, được - không ngừng. Ta có thể nhận ra hướng nghĩa biểu trưng này của biểu tượng sông trong các tác phẩm“Tràng giang” của Huy Cận, “Tiếng hát sông Hương” của Tố Hữu, “Chảy đi sông ơi!” của Nguyễn Huy Thiệp, “Nhớ sông” của Nguyễn Ngọc Tư ...

Ý nghĩa biểu trưng cho dòng đời của biểu tượng sông được thể hiện rõ nét qua sự tương tác với các biểu tượng về thân phận con người như con thuyền, cành củi khô trong “Tràng giang” của Huy Cận: dòng sông biểu trưng cho dòng đời mênh mông nhiều ngả để trên/trong đó, con người (như cành củi khô, như con thuyền) nhỏ bé, lạc loài đến tội nghiệp. Trong “Tiếng hát sông Hương” của Tố Hữu, dòng sông biểu trưng cho dòng đời ô nhục của những cô gái làm nghề “buôn son bán phấn” trên sông Hương: Em đi với chiếc thuyền không/ Khi mô vô bến rời dòng dâm ô. Trong “Nhớ sông” của Nguyễn Ngọc Tư, dòng sông là hành trình mưu sinh lênh đênh nay đây mai đó của những con người miền sông nước: dòng sông dập dềnh - cuộc sống chòng chành bấp bênh, dòng sông rộng dài - cuộc sống mờ mịt tương lai...

Biểu tượng dòng sông - dòng đời có khi gắn với trải nghiệm mang tính triết lí của hành trình trở về với kí ức để nhận ra lẽ vô thường của cuộc đời. “Chảy đi sông ơi!” của Nguyễn Huy Thiệp là hành trình ngược trở về với dòng quê hương, với những con người sinh sống trên dòng sông ấy của nhân vật tôi. Chính “hành trình ngược” ấy tương tác với “hành trình xuôi” của sự chảy trôi không ngừng của dòng sông - dòng đời - dòng thời gian tạo nên sắc thái chiêm nghiệm, triết lí về dòng sông - dòng đời - dòng thời gian bất khả quy hồi và theo đó là sự mất mát, lãng quên: Chảy đi sông ơi!/ Băn khoăn làm gì?/ Rồi sông đãi hết/ Anh hùng còn chi?...

2. Sông - vẻ đẹp thiên tính nữ

Không biết từ bao giờ, người ta nhìn sông to, sông nhỏ thành sông mẹ (sông cái) sông con và sự bồi tụ phù sa của sông là sự nuôi dưỡng của một người mẹ? Và cũng không biết từ bao giờ, người ta nhìn thấy vẻ đẹp dịu dàng tha thiết của người con gái trong dáng hình mềm mại uốn lượn của dòng sông? Chỉ biết rằng, trong văn hóa Việt Nam và theo đó là trong văn học Việt Nam, từ lâu, sông mang ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp thiên tính nữ. Vẻ đẹp thiên tính nữ đó có thể là vẻ đẹp của một người mẹ và có thể là vẻ đẹp của một người con gái nào đó.

Trong “Vàm Cỏ Đông” của Hoài Vũ, sông là mẹ chở che, nuôi dưỡng: Đây con sông như dòng sữa mẹ/ Nước về xanh ruộng lúa, vườn cây/ Và ăm ắp như lòng người mẹ/ Chở tình thương trang trải đêm ngày. Hay trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy dòng sông Hương như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở... Ở góc nhìn khác, một số nghệ sĩ lại thấy ở một dòng sông cụ thể nào đó vẻ đẹp của những người con gái. Với Nguyễn Tuân, hình dáng của con sông Đà nhìn từ trên cao tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn iện trong mây trời Tây Bắc (“Người lái đò sông Đà”). Hay với Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương mang vẻ đẹp của một cô gái Digan phóng khoáng và man dại hay người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (“Ai đã đặt tên cho dòng sông”).

3. Sông - quyền năng thần thánh


Là một biến thể của biểu tượng nước, biểu tượng sông hàm chứa nét nghĩa biểu trưng: mang đến nguồn sống nhưng cũng mang đến sự chết chóc. Trong nhiều tác phẩm văn học, dòng sông được nhắc đến gắn liền với nỗi sợ hãi về sự nhấn chìm, ngập lụt: nước sông ăn lên lem lém nuốt chửng cả cánh bãi xanh non mênh mông lúa lốc và vừng (“Thời xa vắng” - Lê Lựu); Cánh đồng làng Đông chìm trong biển gió đen ngòm. Nước sông cuồn cuộn sôi lên sùng sục (“Bến Không Chồng”- Dương Hướng); Nửa đêm, vỡ đê sông Hoàng Long. Nước réo ồ ồ. Chó tru. Gà quác. Trâu bò phá gióng. Dê phá chuồng kêu khản giọng. Dân kinh hoàng, nháo nhác chạy lụt như chạy loạn (“Mười ba bến nước” - Sương Nguyệt Minh).

Sông cũng gắn với những buồn đau về sự chết chóc. Trong “Nhớ sông” của Nguyễn Ngọc Tư là cái chết của má Giang: Má ngã xuống, đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi má cong lại như chiếc võng, hụp vào sông (...) mái tóc má trôi xùm xòa phiêu phiêu trong làn nước,rồi mất hút. Trong “Bến Mom” của Văn Giá là cái chết của Dung: Dung bị hất xuống sông (...). Đúng chỗ bến đò, nước ngòi đang chảy xiết ra sông. Con bé chìm nghỉm. Cái nón trắng trôi dập dềnh...

Sông như một cái gì đó ghê gớm hãi hùng nên người Việt ta có văn hóa ứng xử với sông một cách “tôn kính và sợ hãi” và huyền thoại hóa nỗi sợ hãi của mình thành các huyền thoại về Ba Ba, Thuồng Luồng, về thần Hà Bá chuyên bắt đàn bà, trẻ em (như trong “Bến Không Chồng” - Dương Hướng, “Mười ba bến nước” - Sương Nguyệt Minh...).

4. Sông - sự minh oan, gột rửa

Ý nghĩa biểu trưng này của biểu tượng sông cũng được “di truyền” từ ý nghĩa của biểu tượng nước vốn là mẫu gốc mà biểu tượng sông chỉ là một biến thể như đã trình bày ở trên. Sông chứa nước, sông là nơi người dân thường ra tắm nên tắm sông, gieo mình xuống sông thường biểu trưng cho sự minh oan, gột rửa, thanh lọc tâm hồn con người.
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ), Vũ Nương, người phụ nữ thủy chung son sắt chờ chồng nhưng bị chồng nghi oan, đã tìm đến dòng sông để trẫm mình: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hâm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. (...) Nói xong, gieo mình xuống sông mà chết. Trong “Chảy đi sông ơi!” của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật tôi sau khi được cứu lên khỏi dòng sông, nhận thấy: Lòng tôi trào lên cảm giác dễ chịu lạ lùng, như vừa tắm xong, như vừa gột rửa được điều u ám. Và trong “Khúc hát sông quê” của Lê Huy Mậu, chúng ta cũng không khó để nhận ra rằng dòng sông quê hương có ý nghĩa như một sự thanh lọc, gột rửa bụi trần ai của con người: Quá nửa đời phiêu dạt/ta lại về úp mặt vào sông quê và ta nhận ra rằng sao ngày xưa yên ổn quá chừng/ một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng.

5. Sông - ranh giới, cách trở


Sông với các đặc tính dài, rộng, sâu... tạo sự ngăn cách tự nhiên giữa đôi bờ, giữa hai vùng địa lí, giữa quê mẹ - quê chồng... Và do đó, sông mang ý nghĩa biểu trưng cho ranh giới, sự cách trở. Đó là sự cách trở khiến các chàng trai cô gái xưa phải đau đáu nỗi niềm nhớ nhung: Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi (Ca dao). Đó là ranh giới, trở cản của phận gái theo chồng: Một lần này bước ra đi/ Là không hẹn một lần về nữa đâu/ Cách mấy mươi con sông sâu/ Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh (“Lỡ bước sang ngang”, Nguyễn Bính). Ranh giới quê mẹ - quê chồng cũng là ranh giới của hôn nhân lành - vỡ: sang sông với chồng là bắt đầu một cuộc sống hôn nhân và khi ôm túi đồ vào lòng, vừa đi vừa khóc, chạy cùn cụt ra bến nước, ới đò sang sông về nhà mẹ (“Mười ba bến nước” - Sương Nguyệt Minh) cũng có nghĩa là hôn nhân tan vỡ.

Cũng phát triển hướng nghĩa biểu trưng này của biểu tượng sông, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp lại nhấn mạnh sắc thái triết lí của ranh giới dòng sông. Với Nguyễn Minh Châu (trong “Bến quê”), hành trình vượt qua ranh giới, cách trở của sông để sang bờ bên kia là hành trình để đi đến một thế giới khám phá mới. Và trong hành trình ấy, nếu con người không cố gắng vượt qua thì dòng sông sẽ mãi mãi là sự ngăn cách khiến con người đến một lúc nào đó sẽ phải hối hận vì không thể chạm tới cái đích bên kia của khát vọng khám phá, dẫu đó có thể chỉ là cái bến gần gũi bên kia sông. Còn với Nguyễn Huy Thiệp trong truyện ngắn “Sang sông”, ông nhấn mạnh và nhuốm ý nghĩa biểu trưng sông - ranh giới trong màu sắc triết lí “đáo bỉ ngạn” của Phật giáo: sông là ranh giới, qua sông là qua được những đắm chìm dục sắc để “đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia) - nghĩa ẩn dụ là đạt tới sự hoàn thiện, không còn bị các dục vọng, phiền muộn chi phối.

Ngoài ra, còn có thể kể đến một sốhướng nghĩa biểu trưng nữa của biểu tượng sông trong văn học như sông - cố nhân, sông - chứng nhân, sông - quê hương, sông - mạch nguồn tình cảm yêu thương... Những hướng nghĩa biểu trưng này được hiện thực hóa qua các tác phẩm văn học Việt Nam ở các mức độ “đậm - nhạt” khác nhau.

---
Nguồn: Đoàn Tiến Lực.
Thêm
457
0
0
Có ai yêu một loài hoa không sắc không hương? Có ai quyến luyến những vần thơ khô khan không cảm xúc? Văn chương phản ánh hiện thực nhưng nó không phải là một tấm hình khô cứng và vô hồn, mà đó là tiếng lòng thổn thức từ những câu chuyện của cuộc đời – câu chuyện được ngân vang trên ngọn đồi tuyết phủ trắng trời, thấp thoáng những đóa sơn trà e ấp trong làn sương giăng mờ ảo. Chính hiện thực cuộc sống luôn là cảm hứng cho sáng tác văn học, là cội nguồn gọi thức con chữ, là cầu nối tâm hồn đồng điệu của người nghệ sĩ với độc giả. Chính vì vậy, … đã khẳng định: …
--------

Này là gió thổi khúc tình ca khẽ lay động những bông cúc dại đang nằm ủ rũ bên vệ đường vươn mình đón cái vuốt ve ngọt ngào của gió. Này là bầu trời nhẹ nhàng lững lờ để lộ những đám mây ánh hồng trong ánh nắng hoàng hôn. Này là những giọt nước mắt thoát ra từ trong sách vào cuộc đời để gột rửa bao cằn cỗi sỏi đá để làm mát lòng nhân thế, để những điều hồn khẽ trở mình như những bong bóng mưa len lỏi trên khắp lôsi về. Có phải vậy không mà hàng ngàn năm nay văn chương cuộn mình trong cái dòng máu nóng hổi của tình yêu, tình người nồng thắm. Bao quan niệm độc đáo về văn chương nghệ thuật được đưa ra. Từ biêlinxki đến Sêchxpia, Victo Huygo.. và giờ đây.. đã góp thêm một tiếng nói để hình thành những mảnh ghép độc đáo về nghệ thuật.
---------

"Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy
Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều
Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy
Trái tim nghèo, nhưng cũng đã tin yêu”.

Nếu hội họa dùng đường nét và màu sắc để phác họa nên bức tranh cuộc sống, âm nhạc dùng ca từ và giai điệu để tạo nên những tiếng ca thì văn học dùng ngôn ngữ và hình ảnh để làm chất liệu cho sáng tác. Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Nói như …:
-------

Sáng tác văn học được ví như công việc của một người chèo thuyền trên sông. Nước chảy thuyền trôi … Con thuyền đi qua mọi bến bờ của thời gian, không gian và ở một nơi xa nào đó trên bờ hoang vắng đầy cỏ dại, nó đã cập bến, mang theo những khuôn hàng để trao tay đến độc giả những bài học, những cảm xúc và suy nghĩ của nhà văn trong suốt chặng đường lênh đênh sóng nước. Một tác phẩm chân chính phải có chức năng hàng đầu là giáo dục và hướng con người đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Nói như …:
----

Nếu phải chọn một loài hoa đẹp nhất, tôi sẽ chọn lấy một cành hồng còn e ấp trong sương đêm. Nếu phải chọn một thanh âm cao nhất, tôi sẽ chọn lấy tiếng hót thiết tha của loài chim họa mi. Nếu phải chọn một bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Tiếng ca từ văn chương bao giờ cũng vui tươi và rạo rực, giai điệu của văn chương bao giờ cũng đằm thắm và ngọt ngào. Khi những cung bậc cảm xúc ấy được cất lên, chúng giống như một nốt nhạc du dương va chạm với tâm hồn người đọc. Từ đó, văn chương sẽ giúp con người có những nhận thức mới mẻ và cảm nhận sâu sắc hơn về cái đẹp của cuộc đời, cái đẹp trong từng trang thơ. Nói như …:
--------


Nhà thơ puskin từng viết" Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm ". Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca. Một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút. Và nhà văn.. đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm.. bay lên qua hình tượng nhân vật..
---


Đã bao lần tôi băn khoăn tự hỏi: Điều gì khiến mỗi tác phẩm mang hình hài một chiếc lá, thả mình theo dòng chảy miên viễn của thời gian? Một cốt truyện li kì hấp dẫn? Một vần thơ sâu thẳm tự tâm hồn? Văn học bật ra từ những cơn mê tỉnh của người nghệ sĩ, từ cõi lòng tinh tế đến nhạy cảm mong manh, để rồi nhìn thấu nỗi đau thực tại, để rồi một đời trăn trở, một đời băn khoăn. Văn học vốn dĩ nặng nợ thế gian, cũng như nỗi niềm muôn đời của người nghệ sĩ đối với văn chương, để rồi từ đó anh cất lên những vấn thơ, những câu chữ say đắm lòng người. Nói như…:
---


"Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới" (Pautopxky). Kỳ diệu làm sao khi cảm xúc được ngân lên thành thơ, thành nhạc, khi tiếng lòng ta được xuôi bóng trong những mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái ngọt, cho sự sống vút cao trên mỗi trang văn, trang thơ. Từ văn học dân gian tới văn học viết, từ truyện ngắn tới thơ.. Tất cả đều đóng đinh vào thời gian một giá trị vĩnh cửu: Hướng con tới cõi Thiện..
---


Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ca ngợi con người? Văn chương thật lớn lao và đầy ý nghĩa khi đi sâu và khám phá từng cảm giác, suy nghĩ, chiều sâu nội tâm để từ đó ta yêu quý, trân trọng những con người bình dị nhất, để ta phải giật mình, sửng sốt khi nhận ra vẻ đẹp lấp lánh ẩn chứa bên trong những hình hài tưởng như gàn dở xấu xa. Đó là lúc nhà văn lý giải cuộc sống theo cách của riêng mình. Vậy nên, trong sáng tác văn chương "nhà văn có thể viết về bóng tối nhưng từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng". Phải chăng, cũng vì lẽ đó mà.. đã viết lên.. để gửi gắm vào cuộc sống những giá trị nhân văn cao cả.
---


Thế giới thiên nhiên đẹp và quyến rũ lòng người bởi những thung lũng đầy ánh sáng và cây cỏ, bởi những làn sóng biển rì rầm suốt ngày đêm, những dãy núi cao hùng vĩ cũng giống như điểm nhấn của tạo hóa giữa thiên nhiên tươi đẹp. Nó thử thách ý chí, nghị lực của người muốn chinh phục. Văn học cũng vậy, nó đi vào thượng tầng kiến trúc của cuộc đời như một xương sống vô cùng quan trọng. Bởi "văn học chẳng những giúp ta nhận ra cái thiện cái ác cái đúng và cái sai ở đời mà còn khơi dậy ở ta những tình cảm thẩm mỹ phong phú và đa dạng"..
---

Giáo sư Nguyễn Đăng mạnh đã từng nhận xét: "Ở truyện ngắn mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy. Đúng thế, văn chương là một loại hình nghệ thuật buộc người nghệ sĩ phải sàng lọc chắt chiu từng hạt bụi quý giữa cuộc sống bộn bề ngoài kia để lúc lên những bông hồng vàng văn chương đưa vào trang viết. Những chi tiết ấy phải thật cô đọng, dồn nén và có sức khái quát cao. Như ai đó đã từng quan niệm..
---


"Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện cổ tích do chính cuộc sống viết ra ". (Andecxen). Vậy là thế giới huyền diệu lung linh của cổ tích mà bao lần tuổi thơ đã hằng mơ ước được tìm đến lại chính là cuộc sống gần gũi quanh đây. Cuộc sống với những âm thanh muôn sắc, với những hình ảnh muôn màu lại chính là chiếc nôi nâng giấc cho những trang truyện, trang thơ. Văn học bắt nguồn từ cuộc đời giống như những hạt nảy mầm trên đất mẹ rồi tỏa hương tô sắc cho cuộc sống thêm xinh tươi. Đó dường như đã trở thành quy luật bất diệt của văn chương, nghệ thuật..


---
mở bài bằng lí luận văn học
Nguồn: Diễm Hằng
Thêm
  • Like
Reactions: Jenny Lục Ngạn
508
1
1

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Mở bài bằng lí luận văn học

1. Người nghệ sĩ có thể sống sung sướng không kém thiên hạ về vật chất, nhưng anh ta không có quyền đau khổ và dằn vặt ít hơn mọi người. Bởi thế mà người đời vẫn coi...
 
"LOVE MYSELF’’( yêu thương lấy bản thân mình): Phương thức hàn gắn hạnh phúc thực tại.
-------

'' Nếu những cánh hoa không bay trong gió
thì cũng sẽ bay trong trí nhớ của những người từng có một lần vẫy chào!”
....
Cách đây mấy thế kỉ vẫn còn vang vọng đến hậu thế lời thề Hippocrates- tiêu chuẩn đạo đức của ngành y: “Trước tạo hóa, tôi xin thề tôi phải học cách yêu lấy mình. Tôi sẽ bao dung và tha thứ cho bản thân mình. Tôi phải nhận ra có những việc tôi không thể thay đổi được, và tôi phải yêu lấy nó’’. Yêu thương bản thân là chất dinh dưỡng thiết yếu trong cuộc sống của mỗi người, giúp chúng ta phát triển bản thân một cách toàn diện , là yếu tố cần thiết cho sự trưởng thành và trọn vẹn của chúng ta.

Yêu thương bản thân là biết cách chấp nhận những khả thể sâu bên trong mình. Thậm chí khi bạn không hoàn hảo thì bạn vẫn là một “phiên bản có giới hạn”. Năm 2018, tại trụ sở Liên Hợp Quốc, BTS đã gây chấn động thế giới với chiến dịch "LOVE MYSELF’’ bằng bài phát biểu truyền cảm hứng thông qua câu chuyện của chính mình, câu chuyện về một chàng trai trẻ, vượt qua những định kiến của xã hội để đi tìm tiếng nói, sống với ước mơ của bản thân: ‘’Có thể hôm qua tôi đã phạm sai lầm, nhưng tôi của hôm qua vẫn là tôi. Hôm nay, tôi vẫn là chính tôi với tất cả những lỗi lầm mà tôi đã từng mắc phải. Ngày mai, tôi có thể chín chắn hơn một chút, và đó cũng vẫn là tôi. Tôi yêu thương con người của chính tôi hôm nay, yêu thương cả tôi trong quá khứ và cả con người mà tôi hy vọng tôi có thể trở thành trong tương lai.’’

Bạn có thể nhìn thấy hào quang của người khác, nhưng cũng phải tin vào sức mạnh của chính mình. Trong cuốn sách “Một lít nước mắt”, tác giả Kitou Aya đã từng tự bạch đôi điều về cuộc sống của mình khi đang chiến đấu với bệnh ung thư: “Mình chỉ muốn sống như một đóa hướng dương, tỏa hương đến cho đời. Nếu được chọn lại, mình vẫn rất yêu cuộc sống này”. Không có gì mạnh mẽ hơn một người dám tiếp tục dịu dàng trong một thế giới chẳng hề dịu dàng với họ.

Nhưng có lẽ thời nay, mọi chuyện lại không đơn giản như vậy. Từng nhớ có người nói rằng: “Thế hệ chúng tôi là một thế hệ lạ lùng. Đứa trẻ nào cũng thấy mình cô độc. Đứa trẻ nào cũng thấy mình bất hạnh và thiếu thốn tình yêu hơn người khác. Đứa trẻ nào cũng bất mãn với thứ gia đình ban cho. Đứa trẻ nào cũng loay hoay không biết làm thế nào cho đỡ khổ. Đứa trẻ nào cũng tin tưởng vào những người dưng chưa bao giờ thấy mặt hơn là những khuôn mặt thân quen bên cạnh mình… Rồi chúng tôi cũng không biết đi lối nào cho qua cái tuổi dở người thích thể hiện bản thân, không biết cách gục ngã thế nào chỉ để nghỉ ngơi mà không đau đớn, không biết phương hướng tương lai ở đâu ngay cả khi đã thi xong đại học. Những niềm tự hào cũ rích phủ lên thế hệ mình một đám rong rêu vô giá trị, đi lối nào cũng không thể thoát thân…”
Những ngày cuối tháng 2 năm 2022, các phương tiện truyền thông vô cùng quan tâm đến sự kiện một sinh viên tự tử, em đã đặt một tảng đá 10kg vào balo, 4h sáng leo qua hàng rào để vĩnh viễn rời khỏi cuộc sống dưới dòng sông ấy. Và Hamlet Trương đã viết rằng : Lạnh của dòng sông, lạnh của đá… có lạnh bằng lòng người thiếu nắng không em? Đáng buồn là, phần đông những người trẻ đều giữ im lặng và gắng gượng chịu đựng sự tra tấn tinh thần một mình, cho đến khi người thân bên cạnh họ phát hiện ra mức độ nghiêm trọng của vấn đề thì trái tim của họ đã sớm không còn lành lặn nữa rồi.

Hạnh phúc cũng giống như câu nói của nhà giả kim dành cho cậu bé chăn cừu về kho báu: ‘’ Đừng hỏi ta, nhưng hãy hỏi trái tim cậu’’ .
----------
Nghị luận xã hội,
suu tam
Thêm
290
0
0
Tình yêu luôn là một chủ đề bất diệt trong thi ca. Khi viết về chủ đề tình yêu, trong thơ Xuân Diệu luôn mang hơi thở của một tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, yêu đến hết mình. Nhưng đến với thơ Xuân Quỳnh, đặc biệt trong tác phẩm Sóng người đọc lại cảm nhận một tình yêu trong trẻo, nhẹ nhàng và đằm thắm mơn man như từng con sóng nhỏ.

Sóng (Xuân Quỳnh): Tìm hiểu khổ 6 và 7

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”.

Tóm gọn 3 bài học cần rút ra:

– Quan niệm tình yêu trong đoạn thơ là gì?
– Hình tượng sóng trong đoạn này khác gì đoạn trên?
– Xuân Quỳnh đã chiêm nghiệm điều gì từ sóng?

1. QUAN NIỆM TÌNH YÊU:

Biện pháp tu từ đối lập: “xuôi” – “ngược”: ám chỉ thời cuộc đưa đẩy; “bắc” – “nam”: ám chỉ sự xa cách. → Biện pháp đối lập. → Biểu tượng dòng chảy của sóng, tượng trưng cho sự khắc nghiệt và chóng vánh của cuộc đời.

“dẫu” → Biện pháp điệp cấu trúc → Nhấn mạnh lời nói tha thiết, trăn trở, chân thành. Sự trăn trở trong cuộc đời trắc trở in hằn vào tâm trí em, thể hiện sự bức bối đồng thời mang một tâm tình muốn nói ra hết những trái ngang, lo lắng, xa cách, cô đơn, tin yêu của chính mình.

“em” – “anh”: khác với 2 cặp đối lập trên, cặp hình ảnh này không chỉ đối nhau mà còn đối với 2 cặp trên, tức trong khi xuôi – ngược, bắc – nam có sự phân cực thì em – anh chung một hướng, một phương. → Phép đối lồng phép đối. → Bày tỏ tấm lòng sâu sắc, thuỷ chung của em đối với anh, em vững bước vì có anh ở nẻo xa kia; đồng thời khẳng định trái tim con người (hay tình yêu, nỗi nhớ) không bao giờ là những đặc tính đối lập tuyệt đối (xuôi – ngược, bắc – nam) mà luôn nỗ lực tìm về nhau, nghĩ về nhau, hàn gắn nhau (nơi nào cũng nghĩ, hướng về một phương).

Xuân Quỳnh mở ra khía cạnh mới của tình yêu: yêu là hướng về nhau, yêu là nỗi nhớ; thay vì tạo nên những vùng phân cực, chính nỗi nhớ mang lại niềm tin để bước đi, để tìm kiếm nhau trên cõi đời trái ngang.

Dấu gạch ngang:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”

Dấu gạch ngang có tính chất thể hiện mối tương quan giữa các quan hệ. Ở đây có mối tương quan chính – phụ, tức là phụ chú, giải thích thêm. Nhưng giải thích thêm cho cái gì?

+ nỗi nhớ: nhớ (nghĩ và hướng) về anh như thế nào? – cả một phương và cũng chỉ mỗi một phương.
+ nơi em: nơi nào em cũng nhớ về anh, vậy cái “nơi nào” đó em đang ở như thế nào? – là cả một phương và cũng chỉ mỗi một phương.
+ anh: nhớ về anh, anh làm sao? – anh là cả một phương, và chỉ mỗi một phương.

Xuân Quỳnh đã rất độc đáo trong việc đặt dấu gạch ngang ở vị trí có thể hội tụ cả ba đối tượng (nỗi nhớ, nơi em, anh) vào đặc tính “một phương”; kết hợp với phép đối phương bắc, phương nam, “một phương” trở thành một chiều kích phi không gian, phi thời gian, thậm chí là phi chủ thể. Nỗi nhớ anh, nơi em nhớ về anh, và chính anh đều là những hình ảnh, ý niệm xuyên suốt, đồng thời, cùng lúc và tất cả chúng trở thành “một phương”: mơ hồ, xa xăm, vô định nhưng cũng gần gũi, quen thuộc.

Tình yêu đối với Xuân Quỳnh không phải là một cái gì riêng lẻ, mà là sự kết nối của những xúc cảm, ý thức mâu thuẫn nhau, chồng chéo nhau: vừa đồng hiện vừa tách biệt, vừa xa xăm vừa gần gũi, vừa vô định vừa là một phương để đi đến.

Xuôi bắc ngược nam:
– Cách nói trái ngược với thông thường “xuôi nam ngược bắc”.
– Nhân dân ta có câu “xuôi về tiền tuyến, ngược về hậu phương” để diễn tả tinh thần kháng chiến (tiến lên đánh giặc và giúp đỡ người sau).
– Dựa trên hoàn cảnh lịch sử (sáng tác năm 1967), thì lúc ấy miền Nam là tiền tuyến chống Mỹ diễn ra quyết liệt, khẩn trương thực hiện tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968), miền Bắc trong lúc đó tuy chịu ảnh hưởng từ cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ nhưng vẫn là hậu phương lớn của Tổ quốc.
Vậy tại sao Xuân Quỳnh lại có cách viết ngược kì lạ như thế: xuôi về hậu phương, ngược về tiền tuyến?

Vì hậu phương (miền Bắc) là nơi dễ dàng, thuận lợi hơn so với tiền tuyến (miền Nam) khốc liệt. Ở đây, khía cạnh mà Xuân Quỳnh muốn nói đến không chỉ là tinh thần kháng chiến như câu nói quen thuộc; chính việc đảo lộn xuôi – ngược đã bóc tách được phần ẩn sâu trong lòng yêu nước của con người, ấy là khát khao được hoà bình, được một mái ấm, và đặc biệt hơn cả: được yêu nhau.

– Nhưng dẫu cho có là Bắc, có là Nam, là xuôi hay ngược, là tình yêu nước hay tình yêu đôi lứa, với Xuân Quỳnh, đều là một phương hướng duy nhất: “hướng về anh – một phương”.

Anh đã trở thành một biểu tượng về ước mơ, hy vọng, tin yêu không chỉ của riêng em, anh là trái tim của Tổ quốc và anh là Tổ quốc của em.

2. SÓNG LÀ AI?

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam”

Dẫu xuôi (…)/Dẫu ngược (…), cái gì, ai dẫu? Dẫu em xuôi/ngược hay dẫu anh xuôi/ngược? Hai câu thơ bị lược mất chủ ngữ. Ta biết xuôi – ngược là ám chỉ sóng, nhưng chủ thể được ví như sóng là gì? Đó có thể là bất kì gì đang hiện diện trong tâm trí ngay lúc này. Nếu ở khổ thơ 5 em là sóng, thì ở khổ thơ thứ 6 sóng đã lan ra và chảy khắp mọi nơi, trở thành một sự biến hoá liên tục của tâm tư ngay trong khoảnh khắc hiện tại: anh, em, nỗi nhớ, đất nước, tình yêu…

– Hỏi: Chẳng phải cả câu có chủ ngữ là “em” hả? “Dẫu…” chỉ là trạng ngữ thôi mà?

– Đáp: Đúng là có thể giải thích rằng vế “Dẫu…” ở đây là trạng ngữ chỉ giả thiết cho “Nơi nào em cũng…” thành ra chủ ngữ là “em”, đó cũng là 1 cách hiểu. Nhưng vì ở đây là thơ, vì thơ có tính chất phân mảnh, nên câu luôn có khả năng cắt rời, để tạo sinh nhiều nghĩa.

Sóng đã lan ra và chảy khắp mọi nơi, trở thành một sự biến hoá liên tục của tâm tư ngay trong khoảnh khắc hiện tại.

3. CHIÊM NGHIỆM VỀ SÓNG:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”.

– Nghĩa thực: Sóng từ đại dương rộng lớn, vô định, nhưng sau cùng vẫn sẽ cuộn tới bờ, dù xa cách vô cùng.
– Nghĩa bóng:

“đại dương”: bể đời, bể tình, bể đấu tranh…
“Trăm ngàn con sóng”: vô số những tâm tư biến hoá liên tục.
“bờ”: nơi những tâm tư tìm thấy tri âm, ước vọng của chính nó.

Sóng: Một chân lý tình yêu được mở rộng ra thành chân lý của đời sống, rằng trong cuộc bể dâu, những tâm tư và ước vọng về lẽ phải, cái đẹp, tình yêu chắc chắn sẽ được hồi đáp.

– Chính chiêm nghiệm này đã hồi đáp cho câu hỏi ở khổ 4:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”.

Vậy lời hồi đáp ấy là gì? Như những con sóng-em sẽ cập bờ, những rộn rực, thăng trầm, những suy tư, hoài bão sẽ đến nơi nó thật muốn đến, chúng sẽ đến như một cách trở về (sau khi đã “Sóng tìm ra tận bể”), trở về trong chính tâm khảm, để tiếp tục “Dữ dội và dịu êm”, “Ồn ào và lặng lẽ”, trong niềm chân thành và dung dị nhất (đã không còn “Sóng không hiểu nổi mình”):

“Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

(Xuân Quỳnh, “Tự hát”)

4. TIỂU KẾT:
– Quan niệm tình yêu trong đoạn thơ là gì?
Yêu là hướng về nhau, yêu là nỗi nhớ; thay vì tạo nên những vùng phân cực, chính nỗi nhớ mang lại niềm tin để bước đi, để tìm kiếm nhau trên cõi đời trái ngang.

Yêu là sự kết nối của những xúc cảm, ý thức mâu thuẫn nhau, chồng chéo nhau: vừa đồng hiện vừa tách biệt, vừa xa xăm vừa gần gũi, vừa vô định vừa là một phương để đi đến.

Anh là trái tim của Tổ quốc và anh là Tổ quốc của em.

– Hình tượng sóng trong đoạn này khác gì đoạn trên?
Sóng đã lan ra và chảy khắp mọi nơi, trở thành một sự biến hoá liên tục của tâm tư ngay trong khoảnh khắc hiện tại.

– Chiêm nghiệm về sóng: Sóng: một chân lý về tình yêu được mở rộng ra thành chân lý của đời sống, rằng trong cuộc bể dâu, những tâm tư và ước vọng về lẽ phải, cái đẹp, tình yêu chắc chắn sẽ được hồi đáp.
—————
suu tam
Thêm
1K
0
0
Vào lớp 10 nên chọn khối nào? Trong nội dung bài viết này chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp làm rõ thắc mắc này.

Tại sao vào lớp 10 nên chọn khối?

Chọn khối là việc các thí sinh chọn môn học mà mình yêu thích để theo học trong suốt 3 năm trung học phổ thông. Việc chọn khối phù hợp không chỉ giúp học sinh đạt kết quả học tập tốt hơn, định hướng được trường đại học và còn đạt được nhiều thành tựu hơn trong tương lai.

Việc lựa chọn khối thi ngay khi vào lớp 10 giúp học sinh hiểu hơn năng lực của bản thân, nhằm đưa ra định hướng phù hợp trong tương lai. Học sinh sẽ dành nhiều thời gian hơn cho những môn có trong khối thi mà mình đã chọn. Thay vì dành thời gian cho tất cả các môn học cho chương trình thì các bạn học sinh sẽ tập trung vào những môn trong khối đã chọn, cơ hội đậu đại học sẽ cao hơn.

Hiện nay có nhiều trường trung học phổ thông, nhất là tại thành phố lớn như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đều có chương trình giáo dục phân chia rõ ràng theo các khối thi đại học. Vì vậy, ngay từ khi lên lớp 10, học sinh nên có định hướng riêng cho bản thân dựa trên khả năng, sở thích của bản thân, để lựa chọn học khối nào cho phù hợp.

Thông tin về các khối thi cơ bản

– Khối A

Là khối gồm các môn tự nhiên là Toán, Vật lý và Hóa học. Đây là dành cho những thí sinh có đam mê và năng khiếu về tư duy logic, tính toán chính xác và sau này muốn làm các công việc liên quan đến khoa học, công nghệ, kỹ thuật…

– Khối A1
Đây là khối thi mở rộng của khối A, được triển khai từ năm 2012. Các môn học gồm Toán, Vật lý và Ngoại ngữ. Khối A1 thay môn Hoá trong khối A bằng môn tiếng Anh. Mục đích của việc thay đổi này là giúp cho các bạn thí sinh có thêm nhiều sự lựa chọn hơn về ngành nghề và đặc biệt là những bạn học tốt môn tiếng Anh và không học tốt môn Hóa.

– Khối B
Cũng là một trong những khối chính ở cấp 3. Khối B gồm ba môn là Toán, Hóa học và Sinh học. Công việc của những bạn theo đuổi khối này chính là khối ngành Y.

– Khối C

Khối C là khối học gồm các môn xã hội là Ngữ văn, Lịch sử và Địa lý. Đây là khối dành cho những thí sinh có sở thích về khoa học xã hội.

– Khối D
Là khối đa di năng” và cũng là khối có nhiều tổ hợp môn thi nhất. Thí sinh học khối D không chỉ có nhiều lựa chọn ngành học mà cơ hội việc làm cũng rất rộng mở.
Các môn thi khối D gồm: Toán, Ngữ văn và ngoại ngữ. Trong đó, ngoại ngữ được chia như sau: D1 (tiếng Anh); D2 (tiếng Nga); D3 (tiếng Pháp); D4 (tiếng Trung); D5 (tiếng Đức); D6 (tiếng Nhật).

– Khối N
Là khối năng khiếu dành cho thí sinh đam mê âm nhạc, sáng tác nhạc. Môn thi gồm Ngữ văn và môn năng khiếu âm nhạc 1, âm nhạc 2.

– Khối M
Dành cho những thí sinh có năng khiếu trở thành giáo viên mầm non. Môn thi khối M gồm Toán và Ngữ văn và năng khiếu (đối với chuyên ngành Giáo dục mầm non), hoặc Toán, tiếng Anh và môn năng khiếu (đối với chuyên ngành Giáo dục mầm non – tiếng Anh).

– Khối H
Là khối thi dành cho thí sinh có năng khiếu về thiết kế thời trang, thiết kế nội thất… Các môn thi gồm: Ngữ văn, Năng khiếu 1, Năng khiếu 2.

– Khối S
Dành cho thí sinh có năng khiếu và đam mê lĩnh vực điện ảnh. Các môn thi và tổ hợp môn khối S gồm:
S00: Ngữ văn, Năng khiếu sân khấu điện ảnh 1, Năng khiếu sân khấu điện ảnh.
S01: Toán, Năng khiếu 1, Năng khiếu 2.

– Khối T
Là khối năng khiếu dành cho học sinh có đam mê về lĩnh vực thể dục thể thao. Môn thi khối T gồm Toán, Sinh học (đề khối B) và môn Năng khiếu Thể dục thể thao (hệ số 2).

– Khối V
Khối V là khối thi dành cho những thí sinh có năng khiếu về mỹ thuật, hội họa. Cũng như các khối năng khiếu khác như N, M, T, khối V cũng thu hút sự quan tâm của nhiều thí sinh. Các môn khối V gồm Toán, Vật lý (đề thi khối A) và môn thi năng khiếu (vẽ mỹ thuật, vẽ hình họa mỹ thuật).

Vào lớp 10 nên chọn khối nào?

Để trả lời cho câu hỏi vào lớp 10 nên chọn khối nào, học sinh cần:

– Tìm hiểu kỹ năng lực bản thân mình với từng nhóm môn học. Đó là khả năng hiểu và tiếp thu kiến thức môn học là khó khăn hay dễ dàng? Các kỹ năng, vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập, các tình huống trong thực tiễn của môn học đó ra sao?

– Tìm hiểu hứng thú học tập của bản thân với môn học nào cụ thể (thích học các nhóm môn tự nhiên hay các nhóm môn xã hội hơn?

– Hình dung thử công việc mình yêu thích, sẽ làm trong tương lai, trường đó, ngành đó phải thi những môn học nào? Là Khối A (Toán, Lý Hoá) hay Khối B (Toán, Hoá, Sinh), Khối C (Văn, Sử, Địa), Khối D (Toán, Văn, Ngoại ngữ).

– Tuyệt đối không chọn khối học theo bạn bè, phong trào. Ví dụ như thấy bạn học khối tự nhiên cũng đăng ký theo cho dù năng lực của bản thân lại yếu các môn Toán, Lý, Hóa…

Tuy nhiên, nếu như chọn một khối học không phù hợp trong năm lớp 10, bạn cũng đừng quá lo lắng, bạn có thể thay đổi khối học khi lên lớp 11. Việc lựa chọn đúng khối học sẽ giúp các em học sinh thuận lợi hơn trong học tập, không phải chịu quá nhiều áp lực khi được học những môn bản thân có năng khiếu.

Nguồn st
Thêm
181
0
0
Được xem là một kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo của Nam Cao cũng sở hữu một chi tiết có thể xem như “nhãn tự” cả tác phẩm, đó là bát cháo hành và hơi cháo hành. Với Thị Nở, bát cháo đó là tất thảy những ý thức, trách nhiệm, tình thương và chân thành mà Thị dành cho Chí. Thị cho đi, không phải là vì vụ lợi hay ép buộc, mà là xuất phát lòng thương chân chính: “Mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như vợ chồng”. “Còn gì đáng thương bằng ồm mà nằm còng queo một mình”. Có lẽ bấy giờ, Thị chỉ đơn giản muốn hắn có gì đó cho vào bụng, ăn cho đỡ đói, đỡ tủi, mà kh hay biết rằng, chính bát cháo ấy đã làm thay đổi tâm hồn hắn, chính tình yêu của ấy đã trở thành tia sáng lẻ loi duy nhất trong cuộc đời tăm tối của hắn.

Đón nhận bát cháo ấy, cùng với sự quan tâm, chăm sóc, hỏi han của Thị Nở, Chí bỗng thấy lòng mình bâng khuâng: “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt”. Con quỷ dữ của làng Vũ Đại làm đổ máu và nước mắt bao nhiêu người, vậy mà giờ đây cũng biết khóc, cũng biết rưng rưng. Bởi lẽ, lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn được ng khác thật lòng cho một thứ gì, lạ kỳ hơn còn là một ng đàn bà. Lần đầu tiên, hắn được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà, không vụ lợi, không trơ tráo, cũng chẳng tính toán, mà chỉ đơn giản là cho đi vì Thị thương. Cũng lần đầu tiên, hắn có được một điều gì đó mà không phải đi trộm cướp hay rạch mặt ăn vạ, không phải dùng những cách trò dơ bẩn mà người ta sợ, người ta khinh. Bát cháo hành ấy vừa là liều thuốc giải cảm, vừa là liều thuốc giải độc thức tỉnh phần ng nhỏ bé còn sót lại trong Chí. Nó dường như là đại diện duy nhất cho tình người còn sót lại tại làng Vũ Đại đã khô héo những cảm xúc. Bất ngờ là tình người không xuất hiện ở ai khác mà lại xuất hiện ở một người đàn bà được coi là dở hơi và xấu xí “ma chê quỷ hờn”, một ng đàn bà cũng chứa đầy thảm hại, đáng thương.

Thế nhưng, bát cháo ấy còn là một hiện thực chua chát, xót xa của xã hội Việt Nam bấy giờ: Chỉ một tình yêu, hành động quan tâm nho nhỏ, chỉ một bát cháo rất đỗi bình dị và có phần “dở hơi”, mà phải đến hơn 40 năm cuộc đời, Chí Phèo mới có thể cảm nhận được. Khi “cơ thể đã hư hỏng nhiều”, khi đã sang bên kia dốc cuộc đời, hắn mới hiểu thế nào là mùi vị cháo hành, là mùi vị tình người. Napoleon từng nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”. Trong xã hội khô héo tình người của làng Vũ Đại, chúng ta không tìm lấy được một mầm mống nào của tình cảm, dường như tất cả mọi người đều vô cảm, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác. Là do họ đã quá khổ cực, hay là do xã hội đó vốn chỉ toàn sự vô tâm? Đưa bát cháo lên mồm, Chí Phèo cảm nhận được không chỉ là vị cháo, mà còn là vị của tình yêu: “Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm.” Nó mang hương vị của tình yêu mộc mạc, chân thành mà Thị đã mang tới sưởi ấm cho trái tim đang nguội lạnh của Chí. Bấy giờ, Chí mới nhận ra: “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon”, nhưng quan trọng hơn thế, Chí hiểu ra rằng người sống với nhau không chỉ bằng tội ác, bằng chém giết, mà còn bằng tình yêu thương.

Bát cháo hành
của Thị Nở khiến ta liên tưởng đến bữa cơm có đầy đủ rượu tịt cùng những lời chào mời ngon ngọt của Bá Kiến dành cho Chí Phèo. Nếu Bá Kiến thết đãi Chí Phèo với động cơ nham hiểm là thu phục và lợi dụng thì Thị Nở chăm chút Chí phèo bằng một tình cảm yêu thương hồn nhiên, vô tư. Nếu sau bữa ăn hậu hĩnh nhà Bá Kiến, Chí Phèo lại được thêm tiền và hả hê ra về còn sau bữa ăn có phần xoàng xĩnh của Thị Nở, Chí vừa có cảm giác cay đắng khi nghĩ lại đời mình lại vừa có nỗi khát thèm hạnh phúc đời thường. Và điều quan trọng nhất, nếu bữa ăn nhà Bá Kiến là thứ “độc dược” nhằm hoàn tất công việc của nhà tù thực dân, đầu độc nhân tính của Chí Phèo thì bát cháo hành của Thị Nở lại là thứ “linh dược” làm hồi sinh nhân tính trong Chí. Sau bữa ăn nhà Bá Kiến, Chí bắt đầu những chuỗi ngày đâm thuê, chém mướn, rạch mặt ăn vạ, “triền miên trong những cơn say”. Sau khi ăn cháo hành, cái sức mạnh quỷ dữ bị gạt bỏ, bị tiêu trừ dần, khiến Chí cảm thấy yếu đuối, sợ ốm đau, tuổi già và sự cô độc, nhất là sự cô độc, “cái này còn đáng sợ hơn đói rét, ốm đau”. Rồi Chí “muốn làm nũng với Thị như với mẹ”, một so sánh thật xót xa vì hắn đã bao giờ có mẹ? Nhưng bấy giờ, có lẽ tâm hồn Chí Phèo đã được lương thiện hóa, trẻ thơ hóa, để hắn phải thốt lên đầy khao khát rằng: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”.
Tưởng chừng như Chí sẽ có một cái kết trọn vẹn hơn, nhưng ngòi bút của Nam Cao lại ấm áp một cách lạnh lùng, ông muốn ném ra giữa cuộc đời một kiếp ng bị tha hóa, lưu manh hóa, rồi bị cự tuyệt quyền làm người.

Bát cháo hành mở ra một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí, nhưng chính nó cũng đẩy câu chuyện lên tới mức đỉnh điểm. Bát cháo ấy bắt đầu một tình yêu, để rồi cũng là khởi đầu của một tình yêu vụn vỡ. Khi bị Thị Nở từ chối, vùng vằng quay về, lòng hắn như bị cắt xẻ ra từng khúc, trái tim ứa máu như bị bóp nghẹt. Còn gì đau đớn hơn với một kẻ đã chìm trong bóng tối lâu ngày, với được tia sáng lẻ loi, nhưng rồi lại choáng vụt tắt, để rồi càng thêm hụt hẫng, càng thêm đau?

Nguồn st
Thêm
211
0
0
Top