Mạng xã hội Văn học trẻ

Chúc cả nhà thi cuối học thì làm bài tốt nhé!
Và hãy cùng chia sẻ đề văn của lớp bạn lên Văn Học Trẻ liền nhé/
Hi mọi người, mình là tác giả bài thơ Tình cờ giữa thủ đô, mình đang phân vân không biết nên up plot bài thơ hay là up chi tiết cảnh tỏ tình của nam nữ chính trước, mọi người bình chọn chọn giúp mình nhé ạ ^^
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
150
1
4
Viết trả lời...
VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH HAY ĐẾN MỨC NÀO?

Nguyễn Nhật Ánh.jpg


. , , , , . - : , , , , .
"Nếu con người sống trọn một trăm năm, trừ ra cộng lại một cách chi li thì thời gian thật sự vui vẻ, bình yên, hạnh phúc chỉ gói ghém trong vỏn vẹn một năm. Chín mươi chín năm còn lại được định nghĩa bằng những từ khóa: buồn khổ, toan tính, lo lắng, ưu tư và vô vàn những thứ mệt mỏi khác." - Ngày xưa có một chuyện tình

. , .
"Trẻ con tìm thấy tất cả ở nơi chẳng có gì còn người lớn chẳng tìm được gì trong tất cả." - Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ

. , . , .
"Có một người đi qua hoa cúc. Bỏ lại sau lưng cả tuổi thơ mình. Có hai người đi qua hoa cúc. Bỏ lại sau lưng cả một mối tình." - Đi qua hoa cúc

. , . , . . , .
"Khi người ta lớn, niềm vui và nỗi buồn cũng lớn lên theo. Trong những giấc mơ của tôi, không chỉ có châu chấu, chuồn chuồn như những ngày thơ bé. Đã có bão giông theo về trong những đêm gió luồn qua mái lá. Ờ, ngay cả giấc mơ cũng lớn lên đó thôi." - Cây chuối non đi giày xanh.

. , , , , , .
"Vũ trụ này đôi lúc thật kỳ lạ, khi mình cố trốn tránh một ký ức, một con người để rồi lại bắt gặp từng mảnh của ký ức ấy, lác đác, vương vãi ở mọi nơi mình bước qua." - Mắt Biếc

. ' , ' ' !
"Chẳng lẽ vì biết ngày mai mình sẽ chết mà hôm nay mình không muốn làm gì!" Ngày xưa có một chuyện tình

Chưa từng ngừng lại, văn học Nguyễn Nhật Ánh là một thứ chất “gây nghiện” không thể nào từ bỏ với độc giả yêu thích tác phẩm của ông.

Suu tam
Thêm
  • Like
Reactions: Đại Thánh
177
1
0
Viết trả lời...
FB_IMG_1728195447415.jpg


Niềm tự hào không thể nói thành lời, khi ta được sống trong một đất nước tự do, độc lập.

TÁI HIỆN THỜI KHẮC LỊCH SỬ HÀ NỘI TRONG "NGÀY VỀ CHIẾN THẮNG"​


Sáng 6/10, tại không gian phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm, UBND TP Hà Nội tổ chức chương trình "Ngày hội Văn hóa vì hòa bình" - đây là sự kiện trong chuỗi các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô và 25 năm đón nhận danh hiệu Thành phố vì hòa bình.

Những thời khắc lịch của Hà Nội và đất nước ngày 10/10/1954 đã được tái hiện hào hùng với sự tham gia của hàng nghìn người dân.

(*) Nguồn: VTC News
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
80
1
1
Viết trả lời...
FB_IMG_1728195447415.jpg


Niềm tự hào không thể nói thành lời, khi ta được sống trong một đất nước tự do, độc lập.

TÁI HIỆN THỜI KHẮC LỊCH SỬ HÀ NỘI TRONG "NGÀY VỀ CHIẾN THẮNG"​


Sáng 6/10, tại không gian phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm, UBND TP Hà Nội tổ chức chương trình "Ngày hội Văn hóa vì hòa bình" - đây là sự kiện trong chuỗi các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô và 25 năm đón nhận danh hiệu Thành phố vì hòa bình.

Những thời khắc lịch của Hà Nội và đất nước ngày 10/10/1954 đã được tái hiện hào hùng với sự tham gia của hàng nghìn người dân.

(*) Nguồn: VTC News
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
80
1
1
Viết trả lời...
Bão số 3 Yagi đã vào đất liền hôm nay 7/9/2024. Một cơn bão vào đất liền miền Bắc nước mình rất rất mạnh, xếp hàng đầu hơn 60 năm qua. Từ sáng 7/9 đến sáng 9/9, ở khu vực Bắc Bộ và Thanh Hoá xuất hiện một đợt mưa lớn với tổng lượng mưa phổ biến từ 100-350mm, có nơi trên 500mm (mưa lớn nhất ở phía Đông Bắc Bộ tập trung trong ngày và đêm 7/9; phía Tây Bắc Bộ từ tối ngày 7/9 đến đêm 8/9).

1725720271166.webp

Mưa lớn có khả năng gây ra tình trạng ngập úng tại các vùng trũng, thấp; lũ quét trên các sông, suối nhỏ, sạt lở đất trên sườn dốc.

Khi mình viết bài này, bão đã vào đến khu vực Hà Nội


Lúc 20h ngày 7/9, tâm bão ở Khoảng 21.0 độ Vĩ Bắc; 105.8 độ Kinh Đông, trên đất liền thủ đô Hà Nội.

Sức gió mạnh nhất: Cấp 10 (89-102km/h), giật cấp 12.

Dự báo: Trong 3 giờ tới, bão di chuyển theo hướng Tây, tốc độ khoảng 15-20km/h.

Do ảnh hưởng hoàn lưu bão số 3 tại Hải Dương gió mạnh cấp 12, giật cấp 13; Lục Ngạn (Bắc Giang) gió mạnh cấp 9, giật cấp 11; Hưng Yên gió mạnh cấp 8, giật cấp 11; Bắc Giang gió mạnh cấp 7, giật cấp 9; Bắc Ninh gió mạnh cấp 7, giật cấp 10.
---

21: 34 ngày 07/09/2024


Vị trí tâm bão ở khoảng 21.0 độ Vĩ Bắc; 105.6 độ Kinh Đông, ở khu vực đất liền Hà Nội

Sức gió mạnh nhất: Cấp 9-10 (75-102km/h), giật cấp 12. Dự báo: Trong 3 giờ tới, bão di chuyển theo hướng Tây, tốc độ khoảng 15-20km/h.

Nguồn VTV
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
235
1
7
Có lẽ, chưa bao giờ miền Bắc của chúng ta phải hứng chịu một trận bão lớn như thế này. Mới một cơn bão thôi mà đã khủng khiếp và đáng sợ lắm rồi. Thế mà, mỗi năm, đồng bào miền Trung phải chống chọi với mấy cơn bão to, ngập lụt nghiêm trọng.

Nhiều người bảo, khúc ruột miền Trung là nơi đáng thương nhất, còn người miền Trung là đồng bào dũng cảm và quật cường nhất. Tôi thấy đúng, vì hằng năm bão đổ vào miền Trung như một “tất yếu”, thương vô cùng. Thôi thì, đồng bào miền Trung đã có thể vượt qua rồi, đồng bào miền Bắc cũng kiên cường lên nhé! Người Việt Nam là “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

St
 
  • Like
Reactions: Vanhoctre
Viết trả lời...
Trong muôn vàn những điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại cho mỗi người thì hòa bình là món quà vô giá nhất. Chỉ khi có được hòa bình thì chúng ta mới có thể sống một cuộc sống yên ổn hạnh phúc, không phải chịu nỗi đau mất mát chia li như trong chiến tranh. Để có được cuộc sống thanh bình như ngày hôm nay, ông cha đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt, cái giá phải trả cho một nền hoà bình là không hề rẻ.

Giá trị của hòa bình vht forum.jpg


Trong các cuộc trường chinh của dân tộc lớp lớp thế hệ cha ông lên đường ra mặt trận, bỏ lại sau lưng mẹ già em thơ vợ trẻ, họ đã chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, họ chiến đấu mất đi một phần thân thể. Độc lập, tự do, cơm no áo ấm của ngày hôm nay, được viết lên bởi những tấm lòng trung kiên, bởi một thế hệ không biết cúi đầu, một thế hệ mà chúng ta phải kính cẩn nghiêng mình ngưỡng mộ và biết ơn.

Chiến tranh đã đi vào quá khứ mất mát đau thương đã nhường chỗ cho một việt Nam tự hào và phát triển, nhưng mỗi hình ảnh, mỗi câu chuyện được kể lại khiến cho chúng ta hình dung được những tháng năm bi hùng của dân tộc. Chúng ta có thể gác lại quá khứ, nhưng không được lãng quên lịch sử, vì vậy những trang sử hào hùng của dân tộc sẽ mãi trường tồn cho dù thời gian trôi qua.

Nhìn về quá khứ không phải là để nung nấu hận thù, càng không phải để kích động tư tưởng bài ngoại, mà nhớ về quá khứ chính là cơ sở để xây dựng lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong mỗi người, từ đó suy nghĩ sáng suốt, hành động hiệu quả để không làm tổn thương cha ông ta những người đã không ngại gian khổ hy sinh để giành nền độc lập tự do cho dân tộc.

Quá khứ, hiện tại, tương lai là dòng chảy liên tục của lịch sử. Tương lai không thể tươi sáng, hạnh phúc không thể vững bền nếu như chúng ta quên đi quá khứ!

(Phương Như)
Thêm
184
0
4
50 NĂM CHƯA TỪNG MỘT LẦN HỌP LỚP



Năm 1971, cả lớp chúng tôi ghi danh để chiến đấu ở Mặt trận Quảng Trị. Ngày trước khi tách nhau cử về từng đơn vị, cả lớp ngồi với nhau liên hoan cùng với ổi, me, một chút lương khô quân nhu được cấp và pha chanh đường được trường tặng. Chúng tôi ghi dòng chữ lên bảng, rằng khi nào hòa bình sẽ quay lại đây họp lớp và tiếp tục học tập. Chúng tôi lập một sơ đồ chỗ ngồi gửi lên trường, để sau này đứa nào trở về có thể tự tìm chỗ ngồi được.

Nhưng mấy chục năm trôi qua, chúng tôi chưa từng gặp lại nhau và chúng tôi không tổ chức thêm bất cứ một cuộc họp lớp nào khác cho đến tận bây giờ và mãi mãi về sau nữa.

“Vì cả lớp tôi đều đã hy sinh trong mặt trận Quảng Trị, chỉ còn mình tôi là thương binh 1/4 trở về. Thương binh 1/4 là nặng nhất, mất hoàn toàn sức lao động, người tôi còn tới 20 mảnh đạn…”

Giấc mơ sống trở về, họp lớp và tiếp tục học tập không thể được thực hiện, nhưng một giấc mơ lớn hơn đã được chúng tôi thực hiện, là giấc mơ giúp cho Tổ Quốc được thống nhất.


Nguồn: tifosi
#vietnamtrongtoi
Câu ghi chú trong ngoặc kép của của bác Lê Quốc Thành. Chiến sĩ C7 - E95, chiến đấu mặt trận Quảng Trị.

Nội dung trích từ cuốn Một Thời Hoa Lửa
 
Viết trả lời...
Trong muôn vàn những điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại cho mỗi người thì hòa bình là món quà vô giá nhất. Chỉ khi có được hòa bình thì chúng ta mới có thể sống một cuộc sống yên ổn hạnh phúc, không phải chịu nỗi đau mất mát chia li như trong chiến tranh. Để có được cuộc sống thanh bình như ngày hôm nay, ông cha đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt, cái giá phải trả cho một nền hoà bình là không hề rẻ.

Giá trị của hòa bình vht forum.jpg


Trong các cuộc trường chinh của dân tộc lớp lớp thế hệ cha ông lên đường ra mặt trận, bỏ lại sau lưng mẹ già em thơ vợ trẻ, họ đã chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, họ chiến đấu mất đi một phần thân thể. Độc lập, tự do, cơm no áo ấm của ngày hôm nay, được viết lên bởi những tấm lòng trung kiên, bởi một thế hệ không biết cúi đầu, một thế hệ mà chúng ta phải kính cẩn nghiêng mình ngưỡng mộ và biết ơn.

Chiến tranh đã đi vào quá khứ mất mát đau thương đã nhường chỗ cho một việt Nam tự hào và phát triển, nhưng mỗi hình ảnh, mỗi câu chuyện được kể lại khiến cho chúng ta hình dung được những tháng năm bi hùng của dân tộc. Chúng ta có thể gác lại quá khứ, nhưng không được lãng quên lịch sử, vì vậy những trang sử hào hùng của dân tộc sẽ mãi trường tồn cho dù thời gian trôi qua.

Nhìn về quá khứ không phải là để nung nấu hận thù, càng không phải để kích động tư tưởng bài ngoại, mà nhớ về quá khứ chính là cơ sở để xây dựng lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong mỗi người, từ đó suy nghĩ sáng suốt, hành động hiệu quả để không làm tổn thương cha ông ta những người đã không ngại gian khổ hy sinh để giành nền độc lập tự do cho dân tộc.

Quá khứ, hiện tại, tương lai là dòng chảy liên tục của lịch sử. Tương lai không thể tươi sáng, hạnh phúc không thể vững bền nếu như chúng ta quên đi quá khứ!

(Phương Như)
Thêm
184
0
4
Phải từng lọt vào giữa biển người, biển cờ trong những đêm Hà Nội không ngủ mới thực sự cảm nhận được tinh thần dân tộc mãnh liệt của người Việt Nam.

FB_IMG_1724758430285.jpg
Đó không phải là thứ cảm xúc bộc phát hay chỉ tồn tại vài trăm năm. Tinh thần ấy đã thấm nhuần trong mỗi con người từ ngàn đời nay, như một giá trị văn hóa truyền thống được truyền từ đời này sang đời khác.

Tinh thần đoàn kết đó không chỉ là cảm xúc thoáng qua, mà là sợi dây gắn kết triệu con tim Việt Nam. Người dân chỉ mượn cớ sự kiện để cầm cờ, nhưng thực chất là để hòa mình vào bầu không khí đoàn kết, đồng lòng, thể hiện niềm tự hào dân tộc, khi triệu người cùng chung một nhịp đập.

Quá tự hào Việt Nam ơi

| Mèo
 
Viết trả lời...
Trong muôn vàn những điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại cho mỗi người thì hòa bình là món quà vô giá nhất. Chỉ khi có được hòa bình thì chúng ta mới có thể sống một cuộc sống yên ổn hạnh phúc, không phải chịu nỗi đau mất mát chia li như trong chiến tranh. Để có được cuộc sống thanh bình như ngày hôm nay, ông cha đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt, cái giá phải trả cho một nền hoà bình là không hề rẻ.

Giá trị của hòa bình vht forum.jpg


Trong các cuộc trường chinh của dân tộc lớp lớp thế hệ cha ông lên đường ra mặt trận, bỏ lại sau lưng mẹ già em thơ vợ trẻ, họ đã chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, họ chiến đấu mất đi một phần thân thể. Độc lập, tự do, cơm no áo ấm của ngày hôm nay, được viết lên bởi những tấm lòng trung kiên, bởi một thế hệ không biết cúi đầu, một thế hệ mà chúng ta phải kính cẩn nghiêng mình ngưỡng mộ và biết ơn.

Chiến tranh đã đi vào quá khứ mất mát đau thương đã nhường chỗ cho một việt Nam tự hào và phát triển, nhưng mỗi hình ảnh, mỗi câu chuyện được kể lại khiến cho chúng ta hình dung được những tháng năm bi hùng của dân tộc. Chúng ta có thể gác lại quá khứ, nhưng không được lãng quên lịch sử, vì vậy những trang sử hào hùng của dân tộc sẽ mãi trường tồn cho dù thời gian trôi qua.

Nhìn về quá khứ không phải là để nung nấu hận thù, càng không phải để kích động tư tưởng bài ngoại, mà nhớ về quá khứ chính là cơ sở để xây dựng lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong mỗi người, từ đó suy nghĩ sáng suốt, hành động hiệu quả để không làm tổn thương cha ông ta những người đã không ngại gian khổ hy sinh để giành nền độc lập tự do cho dân tộc.

Quá khứ, hiện tại, tương lai là dòng chảy liên tục của lịch sử. Tương lai không thể tươi sáng, hạnh phúc không thể vững bền nếu như chúng ta quên đi quá khứ!

(Phương Như)
Thêm
184
0
4
NGƯỜI VIỆT NAM LÀ THẾ ĐÓ❗

Trải qua suốt chiều dài lịch sử dân tộc, người Việt Nam có một khái niệm rất đáng trân trọng và tự hào mà các dân tộc khác trên thế giới không có được đó là khái niệm “đồng bào”.

Hai tiếng “đồng bào” nghe sao mà thiêng liêng, gần gũi, thân thiết đến lạ thường! Tất cả mọi người Việt Nam đang sinh sống trên mảnh đất hình cong chữ S này hoặc đang định cư ở nước ngoài đều có chung một nguồn gốc, được sinh ra từ bào thai trăm trứng của mẹ Âu Cơ.

Vì thế, người Việt Nam đều có chung dòng máu đỏ, da vàng. Có cùng chung một ý chí chịu thương, chịu khó và tinh thần đoàn kết, quật cường. Có thể xuất phát từ lẽ đó, Việt Nam ta có những câu thành ngữ, tục ngữ rất đáng yêu “tay đứt, ruột mềm” (“máu chảy ruột mềm”); “chị ngã em nâng”; “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”.

#HạtLửa
 
Viết trả lời...
Trong muôn vàn những điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại cho mỗi người thì hòa bình là món quà vô giá nhất. Chỉ khi có được hòa bình thì chúng ta mới có thể sống một cuộc sống yên ổn hạnh phúc, không phải chịu nỗi đau mất mát chia li như trong chiến tranh. Để có được cuộc sống thanh bình như ngày hôm nay, ông cha đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt, cái giá phải trả cho một nền hoà bình là không hề rẻ.

Giá trị của hòa bình vht forum.jpg


Trong các cuộc trường chinh của dân tộc lớp lớp thế hệ cha ông lên đường ra mặt trận, bỏ lại sau lưng mẹ già em thơ vợ trẻ, họ đã chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, họ chiến đấu mất đi một phần thân thể. Độc lập, tự do, cơm no áo ấm của ngày hôm nay, được viết lên bởi những tấm lòng trung kiên, bởi một thế hệ không biết cúi đầu, một thế hệ mà chúng ta phải kính cẩn nghiêng mình ngưỡng mộ và biết ơn.

Chiến tranh đã đi vào quá khứ mất mát đau thương đã nhường chỗ cho một việt Nam tự hào và phát triển, nhưng mỗi hình ảnh, mỗi câu chuyện được kể lại khiến cho chúng ta hình dung được những tháng năm bi hùng của dân tộc. Chúng ta có thể gác lại quá khứ, nhưng không được lãng quên lịch sử, vì vậy những trang sử hào hùng của dân tộc sẽ mãi trường tồn cho dù thời gian trôi qua.

Nhìn về quá khứ không phải là để nung nấu hận thù, càng không phải để kích động tư tưởng bài ngoại, mà nhớ về quá khứ chính là cơ sở để xây dựng lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong mỗi người, từ đó suy nghĩ sáng suốt, hành động hiệu quả để không làm tổn thương cha ông ta những người đã không ngại gian khổ hy sinh để giành nền độc lập tự do cho dân tộc.

Quá khứ, hiện tại, tương lai là dòng chảy liên tục của lịch sử. Tương lai không thể tươi sáng, hạnh phúc không thể vững bền nếu như chúng ta quên đi quá khứ!

(Phương Như)
Thêm
184
0
4
50 NĂM CHƯA TỪNG MỘT LẦN HỌP LỚP



Năm 1971, cả lớp chúng tôi ghi danh để chiến đấu ở Mặt trận Quảng Trị. Ngày trước khi tách nhau cử về từng đơn vị, cả lớp ngồi với nhau liên hoan cùng với ổi, me, một chút lương khô quân nhu được cấp và pha chanh đường được trường tặng. Chúng tôi ghi dòng chữ lên bảng, rằng khi nào hòa bình sẽ quay lại đây họp lớp và tiếp tục học tập. Chúng tôi lập một sơ đồ chỗ ngồi gửi lên trường, để sau này đứa nào trở về có thể tự tìm chỗ ngồi được.

Nhưng mấy chục năm trôi qua, chúng tôi chưa từng gặp lại nhau và chúng tôi không tổ chức thêm bất cứ một cuộc họp lớp nào khác cho đến tận bây giờ và mãi mãi về sau nữa.

“Vì cả lớp tôi đều đã hy sinh trong mặt trận Quảng Trị, chỉ còn mình tôi là thương binh 1/4 trở về. Thương binh 1/4 là nặng nhất, mất hoàn toàn sức lao động, người tôi còn tới 20 mảnh đạn…”

Giấc mơ sống trở về, họp lớp và tiếp tục học tập không thể được thực hiện, nhưng một giấc mơ lớn hơn đã được chúng tôi thực hiện, là giấc mơ giúp cho Tổ Quốc được thống nhất.


Nguồn: tifosi
#vietnamtrongtoi
Câu ghi chú trong ngoặc kép của của bác Lê Quốc Thành. Chiến sĩ C7 - E95, chiến đấu mặt trận Quảng Trị.

Nội dung trích từ cuốn Một Thời Hoa Lửa
 
Viết trả lời...
Việc tham gia vào các diễn đàn văn học là một cách tuyệt vời để tìm hiểu và giao lưu với cộng đồng yêu thích văn chương. Văn Học Trẻ là sân chơi văn học uy tín, một nguồn tài liệu văn học miễn phí, chất lượng và đầy đủ cho giáo viên, phụ huynh và học sinh. Vậy làm sao để lan tỏa mạch nguồn yêu thương Văn Học Trẻ tới đông đảo người yêu văn chương hơn nữa?

Một số gợi ý để bạn chia sẻ Diễn đàn Văn Học Trẻ với những người quan tâm văn học:

Bạn bè và người thân:
Hãy gửi link của diễn đàn cho bạn bè, người thân hoặc những người có chung sở thích về văn học. Họ có thể tìm thấy nhiều tài liệu hữu ích và tham gia vào cộng đồng văn học.

Trường học và sinh viên:
Chia sẻ thông tin về diễn đàn với bạn bè cùng trường hoặc các bạn đồng học. Đây có thể là một nguồn tài liệu hữu ích cho việc học tập và nghiên cứu.

Các nhóm văn học trực tuyến:
Nếu bạn tham gia vào các nhóm văn học trên mạng xã hội hoặc các diễn đàn khác, hãy chia sẻ thông tin về Diễn đàn Văn Học Trẻ. Có thể sẽ có nhiều người quan tâm và tham gia.

Giáo viên và người hướng dẫn:
Nếu bạn biết đến giáo viên hoặc người hướng dẫn quan tâm đến văn học, hãy gửi cho họ thông tin về diễn đàn. Điều này có thể giúp họ tìm thêm tài liệu cho giảng dạy hoặc nghiên cứu.

Việc chia sẻ thông tin về diễn đàn Văn Học Trẻ là cách tuyệt vời để lan tỏa yêu thương với văn học và kết nối với cộng đồng văn chương!
Thêm
154
2
3
Viết trả lời...
1.Truyện ngắn là một giới hạn về thế giới nghệ thuật

Đứng về cấu trúc tự sự, truyện ngắn là một giới hạn về thế giới nghệ thuật. Với đề tài tức là phạm vi, dung lượng đời sống có hạn và không giải quyết nhiều nội dung đời sống mà thường chú trọng vào một nội dung cụ thể. Ví dụ, truyện ngắn Đời thừa là bi kịch người trí thức sống mòn mỏi, cuộc sống đầy khát vọng và bị “nợ áo cơm ghì sát đất”. Còn truyện ngắn Vợ nhặt là câu chuyện nhân vật Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khát một cách ngẫu nhiên.

Thường truyện ngắn chỉ chứa một biến cố cơ bản. Sự kiện ít, xung đột ít, cốt truyện thì đơn giản. Chính vì vậy, trong truyện ngắn thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Chỗ khác biệt quan trọng giữa tiểu thuyết và truyện ngắn là nhân vật chính của tiểu thuyết thường là một thế giới thì nhân vật truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới.

2.Truyện ngắn có thời gian và không gian của câu chuyện phụ thuộc vào người kể, môi trường, hoàn cảnh câu chuyện

Bởi truyện ngắn được lựa chọn ở những thời khắc hoặc không gian có ý nghĩa dồn nén hiện thực, có ý nghĩa nhận thức đối với nhân vật.
Ví dụ, trong truyện ngắn Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát, thì được nhà văn Nguyễn Minh Châu miêu tả thời gian và không gian mở rộng bằng sự hồi tưởng, giấc mơ, kỉ niệm. Do câu chuyện không dừng lại ở một thời điểm, mà có khả năng thâu tóm, khái quát cả cuộc đời và thế hệ.

3.Truyện ngắn miêu tả nhân vật ở những khía cạnh nổi bật nhất

Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Truyện ngắn lại có thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu loại nhân vật đa dạng của cuộc sống, chẳng hạn như chức nghiệp, xuất thân, gia hệ, bạn bè,… những kiểu loại mà trong tiểu thuyết thường hiện ra thấp thoáng trong các nhân vật phụ.
Ví dụ, trong những tình huống bắt buộc nhân vật phải tự bộc lộ, phải hành động. Tình huống trong Số phận con người của Sôlôkhốp, là một người lính cô đơn đau khổ vì mất hết gia đình, nhà cửa, mọi niềm hi vọng sau chiến tranh, lại gặp và cưu mang một thằng bé cũng trơ trọi như vậy trên cõi đời.

4.Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp

Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.

Khác với tiểu thuyết, truyện ngắn thường không nhằm tới việc xây dụng một tính cách nổi bật, điển hình đầy đặn trong tương quan với hoàn cảnh, mà thường là một nét bản chất trong trạng thái nhân sinh, một quan hệ ý nghĩa, một ý thức xã hội.

5.Truyện ngắn được tạo dựng từ những chi tiết hết sức hấp dẫn, sinh động

Chi tiết trong truyện ngắn yêu cầu rất khắc nghiệt có liên quan mật thiết đến tư tưởng của nhà văn đặt ra. Ví dụ, chi tiết ánh sáng đoàn tàu đêm trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, bát cháo hành trong Chí Phèo, … Những chi tiết ấy đã khắc họa một cách ấn tượng một tình người, một mơ ước xa xôi. Chi tiết là yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn mang ẩn ý và tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.

6.Truyện ngắn thường có kết cấu bất ngờ đột biến, hoặc tương phản, hoặc liên tưởng

Cốt truyện truyện ngắn thường có một chức năng là nhận biết một điều gì về lẽ sống, quan hệ người, một ý nghĩa nhân sinh. Ví dụ, truyện ngắn Một bữa no của Nam Cao là triết lí miếng ăn là miếng nhục. Như vậy, cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Kết cấu thường là một sự tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Dù có khối lượng nhỏ nhưng vẫn có khả năng tổng hợp chất thơ, kịch, ngụ ngôn, triết lí.

Sưu tầm
Thêm
2K
2
2
Viết trả lời...
Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta tựa như một bản hợp xướng du dương với những nốt trầm bổng làm đắm say lòng người… Ta nghe đâu đây lời thơ hùng tráng về một “Nam quốc sơn hà” vừa tự hào lại không kém phần kiêu hãnh; rồi một dấu luyến ngân lên của một thời đại mang đậm nét dân tộc; đột ngột lại giáng một âm dài thâm trầm, đau thương để rồi bản đàn ấy lại thăng lên những âm hào hùng, mang theo khí thế của một dân tộc nồng nàn yêu nước, kiên trung quật cường. Bản hùng ca ấy nên thanh, thành điệu chính là từ ngòi bút và xúc cảm chân thành của rất nhiều thi nhân, mà trong đó, mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. Trong số đó, một trong những nốt hay nhất, dịu dàng và du dương nhất hòa thành hợp âm được viết nên bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà điển hình là đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất Nước - chín câu thơ lý giải cho hai tiếng “Đất Nước” tưởng như xa xăm mà gần gũi, lớn lao mà mộc mạc - mở đầu cho chương thứ năm của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng”:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”

Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến vì độc lập tự do, nhà thơ trẻ với hai mươi tám mùa xuân Nguyễn Khoa Điềm năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ thanh niên vào một ngày mai tươi sáng bằng những vần thơ thật đẹp, để rồi giữa những ngày lửa đạn, bom rơi nơi chiến khu Trị -Thiên năm 1971, “Đất Nước” đã ra đời, nhẹ nhàng và dịu êm len lỏi vào sâu trái tim từng người dân con Lạc cháu Hồng, khảm sâu vào trí óc, trường tồn với thời gian…

Bằng giọng thơ thật dịu và thật êm của mình, nhà thơ thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên như cất lên tiếng lòng bấy lâu nay dồn nén:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai tiếng “Đất Nước” được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi… “Đất Nước”… Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”

Thế nhưng “đất nước” của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa Điềm, ông viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này…Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu sắc: “ Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguồn ra sao, thế nhưng "Đất Nước" thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời...”. Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.
Và rồi hai chữ “mơ hồ” nhòa nhạt dần đi, nhường chỗ cho Đất Nước của nhà thơ hiện thân, rõ ràng và gần gũi, thân thương đến lạ:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể…
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

"À... thì ra đất nước lại gần ta đến như thế...", tôi thốt lên ngỡ ngàng. Giọng thơ êm ái như ru ta về một thời thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”, ngày xưa yên bình với cổ tích, với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng - nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi. Ở đó, ta lớn lên trong sự che chở của cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng rõ ai viết thành và viết năm nào mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô, khờ khạo. Chao ôi! …Dịu dàng và thân thuộc biết mấy bốn tiếng “ngày xửa ngày xưa”, để rồi khi tuổi thơ vụt trôi qua, người ta không khỏi bâng khuâng, bồi hồi xúc động:

“Tôi yêu truyện cổ nước mình
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”

(“Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)

Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt, nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an... Đất nước tựa như một sinh thể, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử, còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng “đất nước” yêu kính ngàn năm...

Đối với câu hỏi hồn hậu: “Đất nước có tự bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm như tình mẹ bao la. Từ hai tiếng “đất nước” tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể, cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng - định nghĩa từ tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác.

Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ ngày xưa. Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một “Đất Nước” cùng đi...
Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và “Đất Nước” cũng lớn lên cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:

“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”

(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)

Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm… Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên cùng “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết trồng tre mà đánh giặc” nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dâng mình cùng chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em… Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc. Từ chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trên lên, vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:

“Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”

(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)

Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta - những người con yêu kính đất mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối, ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.

Viết về đề tài đất nước không phải là một chủ đề mới lạ mà trái lại, đây luôn là chủ đề khơi gợi lên nhiều xúc cảm, cũng là nguồn cảm hứng bất tận, chắp bút cho sự ra đời của bao bài thơ. Trong bài thơ “Mũi Cà Mau”, nhà thơ Xuân Diệu từng đặt bút:

“Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”.

Hay năm xưa, Nguyễn Trãi từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô”:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Trong khi Xuân Diệu vì Tổ quốc ta như một con tàu, hùng dũng và hiên ngang trên biển khơi, Nguyễn Trãi lại đưa ta bước vào âm vang hào sảng của một đất nước văn hiến ngàn năm, vĩ đại, lớn lao và sừng sững. Hai nhà thơ biểu trưng cho hai thời đại, tuy xa cách nhau bằng khoảng thời gian muôn trùng thế nhưng lại gặp nhau trong giọng thơ đầy mạnh mẽ, tự hào khi nói về đất nước. Còn đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước bằng những chiến tích hiển hách, hào hùng, lại càng không dùng ngôn từ với thật nhiều tráng lệ, hiển hách. “Đất Nước” của ông chỉ đơn thuần và bình dị như thế, dịu êm như thế, “Đất Nước” ở ngay chính nơi này - trong trái tim ta! Viết về đất nước bằng lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm không những không bị những tráng khí đi trước lu mờ, trái lại, ông đã khẳng định được tài năng và chỗ đứng riêng của bản thân trên thi đàn Việt Nam.

Viết tiếp những vần thơ vẽ về đất nước mình, nhà thơ vẫn dịu dàng thủ thỉ những lời dịu êm như ban nãy:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con. Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. n tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta:

“ Cái kèo cái cột thành tên”

Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.

Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…

Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ... Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:

“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua ... Vậy là:

“Đất Nước có từ ngày đó…”

Đất Nước đã khởi nguồn từ “đó”, nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về. Hai tiếng “ngày đó” gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa, cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, đến câu “Đất Nước có từ ngày đó…”, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.

Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cảm xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.

Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không… “Đất Nước” không những không bị cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa. Chính bởi ngôn từ bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà “Đất Nước” dịu êm như bản tình ca khắc ghi sâu vào lòng mỗi người - bản tình ca giữa “ta” và “Đất Nước - thắm thiết, đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người dân đất Việt thật trọn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi. Đúng như trong “Học văn đọc văn”, Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: “ Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ”. Đọc “Đất Nước”, người ta không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.

Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. “Đất Nước” đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng. Và dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, “Đất Nước” vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, “Đất Nước” vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến.

Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng, thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa sáng, bởi lẽ “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử” (Shelly), nên chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ. Dù đi đâu, đi đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ: “Dù đi đâu... Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam”…
---------------
Cre:st
Thêm
  • Like
Reactions: QuangNhat
2K
1
1
Viết trả lời...
Trên Ted education có một clip tên là “Tác phẩm hư cấu có thể thay đổi thực tại như thế nào?”, đã đưa một hình ảnh so sánh thú vị để nói về việc đọc tác phẩm văn học. Khi đọc tác phẩm văn học, ta giống như lên một chiếc thuyền để đến thế giới trong văn bản. Ở trong thế giới ấy, ta bắt gặp rất nhiều dấu chân sẵn có, nhưng ta không lần theo một dấu chân nào mà khám phá thế giới ấy bằng cách “đi vào đôi giày của nhân vật”.

Hình ảnh so sánh này đã diễn tả rất sinh động tính chất đặc biệt của việc đọc tác phẩm văn học. Thứ nhất, đó không phải là quá trình đọc để lấy thông tin đơn thuần, mà đó là quá trình khám phá vào một thế giới hình tượng, một thế giới tồn tại trong trí tưởng tượng của người đọc. Thứ hai, ta khám phá thế giới ấy không phải như kẻ ngoài cuộc, không phải như một người khách tham quan bảo tàng, đến rồi đi, mà ta khám phá thế giới ấy như một người dấn thân, một người trải nghiệm, qua góc nhìn của các nhân vật. (Nên nếu xem tóm tắt truyện, hay đọc lướt chỉ để biết diễn biến câu chuyện, thì chưa phải đọc văn học đâu).

Tính chất đặc biệt của việc đọc tác phẩm văn học cũng nhắc ta cẩn trọng khi làm việc với văn bản văn học. Nếu đã xác định là làm về mảng văn học, thì cần đối xử với văn bản văn học trong đúng tính chất đặc biệt của nó. Nghĩa là không đọc văn học như xem một bộ phim tài liệu, một báo cáo xã hội học, một áp phích tuyên truyền vận động thay đổi xã hội,…

Nếu đọc văn học qua lăng kính giới, thì không phải là chê Tú Xương gia trưởng kém hiểu biết nữ quyền, hay đòi người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu phải thức thời lên và tự cứu lấy mình, mà quan trọng là phải nhìn nhận được các quan niệm về tính nam hay tính nữ đã chi phối việc xây dựng hình tượng như thế nào, các góc nhìn về giới và tiếng nói về giới cất lên trong văn bản ra sao, sau cùng để thấy được những tư tưởng về phái tính sẽ tác động đến người đọc như thế nào.

Nếu đọc văn học qua lăng kính sinh thái, thì không phải biến tác phẩm thành áp phích bảo vệ môi trường, hay slogan tuyên truyền lối sống xanh bảo vệ thiên nhiên, mà trước hết cần thấy được cách xây dựng hình tượng thiên nhiên và con người đã khắc hoạ như thế nào về mối quan hệ của hai đối tượng này, tự nhiên có được tồn tại trong giá trị tự thân của nó hay chỉ là một sự gán ghép các giá trị từ mắt nhìn của con người, … để từ đó xác định tư tưởng triết lí về sinh thái trong tác phẩm.

Nếu đọc tác phẩm qua “văn hoá tâm linh” (mình không chắc đây là một thuật ngữ khoa học), thì không phải liệt kê ai cúng ai, cúng bao nhiêu nén nhang, bói toán thế nào, nhập thánh ra sao, mà quan trọng là phải thấy được từ các chi tiết có tính biểu tượng ấy, văn bản gợi ra ý nghĩa gì, các chi tiết tâm linh hiện ra qua góc nhìn của ai, và từ góc nhìn ấy thì ý nghĩa hình tượng, ý nghĩa thẩm mĩ gợi ra như thế nào.

(Mình không phủ nhận tác dụng của việc đọc văn bản văn học để lấy thông tin lịch sử, xã hội, tâm lí, nhưng mấu chốt ở đây là từ khoá “Xác định làm về văn học”)
Nói tất cả những điều trên, để chúng ta hiểu rằng tác phẩm văn học tồn tại dưới dạng đặc biệt (hiện tượng tinh thần trong trí tưởng tượng của chúng ta), đọc tác phẩm văn học là một cách đọc đặc biệt (khám phá thế giới hình tượng như một cách dấn thân, trải nghiệm). Và sự đặc biệt ấy nhắc ta nhớ: thế giới trong tác phẩm không phải và không minh hoạ cho thế giới thực tại này.

Câu chuyện phân biệt chủ thể trữ tình (nhân vật trữ tình) và tác giả ngoài đời cũng vậy thôi.

Mình hay hình dung mối quan hệ giữa hai đối tượng này giống bộ phim Avatar. Người Trái Đất, do không thể sống được trên môi trường hành tinh Pandora, đã tạo ra những avatar – những “cỗ máy sinh học” mang mọi đặc điểm của người Navi, nhưng do một bản thể người Trái Đất điều khiển. Dưới sự điều khiển của người trái đất, avatar có suy nghĩ, hành động, nói năng, cảm xúc không khác gì bản thể. Nhưng dù giống mấy, người ở trái đất đang điều khiển và cỗ máy avatar trên hành tinh Navi vẫn là hai thực thể khác nhau.

Nhà thơ ngoài đời thật bằng xương bằng thịt không thể tự mình tồn tại trong thế giới tinh thần của tác phẩm, vì vậy cần phải tạo ra một “avatar” để đại diện mình bày tỏ cảm xúc trong thế giới ấy. Chủ thể trữ tình chính là “avatar” của nhà thơ.

Dù chủ thể trữ tình gần với nhà thơ ngoài đời thực cách mấy, dù nhà thơ có tận mắt chứng kiến các câu chuyện ngoài đời mà lấy nguyên mẫu, cảm hứng sáng tác thơ, thì chủ thể trữ tình vẫn không bao giờ là một với nhà thơ bằng xương, bằng thịt.

Thông qua chủ thể trữ tình, ta hiểu điều nhà thơ gửi gắm và cảm nhận được một phần mảnh tâm hồn nhà thơ, nhưng chẳng ai trên đời đủ thực tế mà lại tuyên bố, chỉ cần hiểu chủ thể trữ tình là đã hiểu hết tất cả mọi ngóc ngách tắm tối sâu kín của con người bằng xương, bằng thịt tạo ra nó.

Việc phân định chủ thể trữ tình – nhà thơ bằng xương bằng thị là quan trọng, bởi nó liên quan đến việc hình thành tư duy đọc văn học theo đúng bản chất của nó.
Trước đây, ta chỉ giảng văn, học sinh thuộc lời ta giảng rồi làm bài thi để tái hiện lại, việc nhập nhằng hai khái niệm này không ảnh hưởng gì đến chuyện thi cử.
Nhưng giờ đây, học sinh của chúng ta cần khái niệm công cụ để tự đọc hiểu văn bản văn học, việc nhầm lẫm này sẽ gây ra hai sự rất đáng tiếc.

Đáng tiếc thứ nhất là một thế giới hình tượng đầy phong phú, hấp dẫn sẽ không được khám phá, cảm thụ đúng cách. Đáng tiếc thứ hai là những người đọc văn nhưng không được trang bị tư duy và công cụ để khám phá thế giới hình tượng trong trang văn.
----------
Nguồn T. L. D
Thêm
1K
3
0
Viết trả lời...
Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
13K
5
9
Chia sẻ cùng mọi người một số bài làm để cùng tham khảo nhé!

Bài tham khảo 1

Mỗi con người chúng ta đều có những ước mơ, hoài bão riêng, không ai giống ai. Con người nếu sống mà không có đam mê và hoài bão cuộc sống sẽ trở nên vô vị, nhạt nhẽo. Khi đó chẳng ai còn động lực phấn đấu và ý chí vươn lên trong cuộc sống để đạt được mục tiêu mà mình mong muốn.

Mỗi người trong chúng ta đều có ước muốn, dự định riêng có người mong muốn cuộc sống hạnh phúc, công việc ổn định, có người thích đi du lịch đây đó,.... Ước mơ và hoài bão là điều giúp cho cuộc sống ý nghĩa hơn, cuộc sống cần có niềm vui và cả những ước mơ, hai yếu tố luôn đi song hành với nhau.

Một người có thể có nhiều ước mơ, có thể ước mơ trở thành sự thật và cả những ước mơ chỉ là mơ ước mà thôi. Nhưng chúng ta nên học cách cảm nhận và nuôi dưỡng nó, sau cùng là biến thành hiện thực. Muốn làm được điều đó mỗi chúng ta cần học hỏi thêm kiến thức và nền tảng giáo dục. Học cách kiên trì, nhẫn nại và nỗ lực để đi đến thành công. Tại sao phải kiên trì ? không thành công nào mà không trải qua thất bại, học cách kiên trì bạn sẽ đi đến thành công và ước mơ sẽ thành sự thật.

Tất nhiên rằng cuộc sống không dễ để bạn để biến ước mơ thành hiện thực sẽ luôn có những vật cản trở ngại. Nhưng ước mơ sẽ mãi chỉ là tên gọi nghĩa đen của nó nếu bạn không có ý chí và nỗ lực vượt qua. Không thành công nào mà chưa từng trải qua thất bại, từ các thất bại, vất ngã sẽ hun đúc cho bạn ý chí, quyết tâm chinh phục đỉnh cao.

Cuộc sống của bạn cho chính bạn quyết định, hãy tự mình viết nên một trang mới đầy tươi sáng bằng khả năng, động lực của bản thân. Cuộc sống có ước mơ, khát vọng thật thú vị, những ước mơ đó sẽ hiện diện trong tâm hồn mỗi người từng giờ và sẽ giúp cho mỗi chúng ta vững tin, mỗi người nếu làm được điều đó thì cuộc sống sẽ tràn ngập niềm vui, hạnh phúc. Sống có mục đích chắc chắc sẽ thú vị hơn những con người sống lay lắt qua ngày.

Nếu bạn đang có trong mình những ấp ủ dự định riêng, hãy hành động ngay đừng để trôi hoài uổng phí theo năm tháng. Với các bạn học sinh đang còn ngồi ghế nhà trường hãy ra sức rèn luyện học tập tìm hiểu thêm kiến thức và tu dưỡng đạo đức để chuẩn bị hành trang chinh phục ước mơ trong tương lai không xa.
st
----

Bài làm tham khảo 2

Để sáng tạo tương lai, cần bắt đầu bằng một ước mơ. Ước mơ hay chính là những khao khát, mong muốn mà ta luôn cố gắng để hiện thực hóa trong tương lai. Nếu như cuộc đời là một con đường dài nhiều ngã rẽ, thì ước mơ chính là đích đến của con đường ấy. Có ước mơ là chúng ta có thêm động lực để phấn đấu. Ước mơ, khát vọng giống như chiếc đồng hồ báo thức, đánh thức ta mỗi lúc còn chênh vênh, vô định trên bước đường đời. Ước mơ với mỗi người là khác nhau. Có những ước mơ giản dị, là nụ cười trên môi những đứa con của cô bán hàng rong giữa dòng đời thường nhật. Có ước mơ lớn lao, muốn trở thành tỉ phú của cậu học trò còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Chẳng ai đánh thuế những ước mơ, ước mơ rất diệu kì nhưng không hề khó để có được. Nếu không mơ, sống không có khát vọng, hoài bão thì đâu là câu trả lời cho những hành động bạn đang làm hàng ngày, những nỗ lực mà bạn đang bỏ ra? Nếu không phải là mong muốn, ước vọng về một nền hòa bình độc lập cho dân tộc, thì người thanh niên Nguyễn Tất Thành trong một ngày tháng 6 năm ấy làm sao có thể can đảm, dũng cảm rời bến cảng Nhà Rồng để chính thức bắt đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước? Nếu không phải là ước mơ về những năm tháng say mê học hỏi trên giảng đường đại học, thì làm sao hàng ngàn sĩ tử có thể quyết tâm ôn luyện, học tập từng ngày như vậy? Con đường đời sẽ bớt những sai lầm không đáng có nếu ta xác định được đích đến, ước mơ của bản thân mình. Thật đáng buồn, đáng phê phán những cuộc đời vô nghĩa, những con người sống mà không có khát vọng, hoài bão. Ước mơ không phải là mơ mộng hão huyền, những dự định là ước mơ tốt đẹp khi dự định ấy nằm trong khả năng cố gắng của bạn, những dự định mà bạn có thể hoàn thành bằng lòng quyết tâm, kiên trì và lương thiện. Viết về ước mơ, tôi tự nhìn lại mình, nhận thức được vai trò của ước mơ trong cuộc sống và sẽ tận tâm, tận hiến, hết mình để hiện thực hóa ước mơ tôi. Ở trên đời, mọi chuyện sẽ không có gì khó khăn nếu ước mơ của mình đủ lớn.
st
------

Bài làm tham khảo 3

Con người chúng ta từ khi sinh ra cho tới lúc trưởng thành, ai cũng có một ước mơ, hoài bão của riêng mình. Ước mơ giúp chúng ta có thể sống vui vẻ, có ý nghĩa và mục đích, khi thực hiện được ước mơ của mình con người cảm thấy được thành quả của quá trình nỗ lực cố gắng đúng như dân gian ta thường nói “Sống là phải có ước mơ”. Ước mơ là gì? Nó chính là những dự định, khát khao mà mỗi chúng ta mong muốn đạt được trong thời gian ngắn hoặc dài. Là mong muốn được cống hiến sức lực của mình cho xã hội và khi chúng ta đạt được ước mơ cũng là lúc chúng ta được thừa nhận năng lực của mình. Nếu không có ước mơ bạn sẽ không xác định được mục tiêu sống của mình là gì. Chính vì không xác định được phương hướng sẽ dẫn tới bạn sẽ sống hoài sống phí, và trở thành người tụt hậu bị bạn bè, xã hội bỏ lại phía sau. Con đường dẫn tới ước mơ cũng vô cùng khó khăn, không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được, nhưng với những người kiên trì, bền chí, thì ước mơ sẽ giúp cho bạn định hướng cho tương lai của mình một cách tốt đẹp nhất. Là một học sinh ngồi trên ghế nhà trường chúng ta cần phải có ước mơ mục đích sống cho riêng mình. Để đạt được ước mơ chúng ta cần ra sức rèn luyện học tập, tu dưỡng đạo đức để chuẩn bị những tư trang cần thiết cho con đường đi tới ước mơ của mình.
st
 
Viết trả lời...
Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
13K
5
9
Viết trả lời...
An-tôn Sê-khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, một trong những đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga cuối thế kỷ XIX. Ông có nhiều tác phẩm đồ sộ với hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, từ những cốt truyện giản dị, tác phẩm của Sê-khốp thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, ý nghĩa nhân bản sâu xa. "Người trong bao" là một trong những truyện ngắn có chung chủ đề về cuộc sống tầm thường, trong vỏ ốc của giới trí thức Nga cuối thế kỷ XIX.


Thông qua việc xây dựng nhân vật Bê-li-cốp cùng hình tượng "chiếc bao", nhà văn Sê-khốp trong truyện ngắn "Người trong bao" đã tái hiện đầy thành công hiện thực của xã hội Nga đương thời, đó là bầu không khí tù đọng, u ám của chế độ sa hoàng, cũng chính hiện thực đen tối ấy đã làm nảy sinh những tiêu cực trong đời sống con người Nga, nổi bật hơn cả chính là căn bệnh sợ hãi cuộc sống, một căn "bệnh dịch" có khả năng lây lan mạnh mẽ trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp chính là nhân vật đại diện cho lối sống thu mình trong bao cùng nỗi sợ cuộc sống đến cực đoan. Khi còn sống Bê-li-cốp là một hiện tượng kì dị, là đối tượng bàn tán, là trò cười đồng thời cũng là nỗi ám ảnh của người dân trong thành phố. Ngay cả khi đã chết đi thì cái chết của Bê-li-cốp cũng tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của người dân nơi đây, đặc biệt hơn cả, thông qua cái chết ấy, nhà văn Sê-khốp đã truyền tải được những quan niệm, tư tưởng sâu sắc.

Bê-li-cốp trở nên "nổi tiếng" trong trường học và thành phố mình sinh sống bởi lối sống kì dị, khác người, hắn luôn xuất hiện một một diện mạo dị hợp: ăn mặc kín mít, chân đi ủng cao su, mắt đeo kính râm, tay cầm ô, và một chiếc bao đựng đủ mọi vật dụng lỉnh kỉnh khác. Không chỉ có diện mạo, trang phục khác người mà Bê-li-cốp còn là con người cổ hủ, cứng nhắc luôn sống theo những thông tư, giáo điều; hắn tôn sùng quá khứ, sợ hãi thực tại nên có thể nói trang phục, lối sống khép kín chính là lớp vỏ bọc, là "chiếc bao" mà hắn tự dựng lên để bảo vệ mình khỏi những tác động của cuộc sống xung quanh. Khi còn sống Bê-li-cốp chính là nỗi ám ảnh khủng khiếp đối với những người dân trong thành phố bởi, những người "may mắn" đến nhà và rồi dùng cái nhìn soi mói, đánh giá để "gắn kết mối quan hệ" đều không tránh được cảm giác ghét bỏ, sợ hãi; sự tồn tại của hắn khiến nhiều người phải dè chừng, e ngại.

Ấy thế mà một ngày nọ, mọi người trong thành phố bỗng kinh hoàng, sau đó cảm thấy vui vẻ, nhẹ nhõm vì Bê-li-cốp đã chết đi. Sự hiện diện của Bê-li-cốp vốn đã kì lạ thế nhưng ngay cả cái chết của hắn cũng thật kì lạ, khác người. Mọi người chỉ biết hắn chết do bệnh nặng, thế nhưng không ai biết rằng nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của hắn. Bị Kô-va-len-cô đẩy ngã từ trên cầu thang vốn chỉ gây ra những vết thương ngoài da, thế nhưng chính tiếng cười lảnh lót "ha ha ha" của Va-len-ca mới là đòn trí mạng đối với hắn, tâm hồn nhu nhược cùng nỗi bất an thường trực trước cuộc sống của hắn bị đả kích đến không phục hồi được. Tiếng cười của Va-len-ca đã trở thành bóng đen ám ảnh trong tâm trí của Bê-li-cốp khiến hắn mắc tâm bệnh, kết hợp với vết thương thể xác mà chết.

Với người dân trong thành phố hay đối với chính bản thân Bê-li-cốp thì cái chết ấy cũng có rất ý nghĩa, đó chính là sự giải thoát. Đối với người dân trong thành phố, khi Bê-li-cốp chết đi họ cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái sau mười lăm năm tù đọng, u tối, tuy cảm giác ấy không kéo dài lâu nhưng trong giây phút nào đó họ cũng đã cảm thấy tự do và được thoải mái sau một thời gian dài bị tác động bởi "lối sống Bê-li-cốp". Đối với bản thân Bê-li-cốp lại là sự giải thoát sau những bất an, tuyệt vọng cùng nỗi sợ khủng khiếp đối với cuộc sống. Khi còn sống Bê-li-cốp bị bủa vây bởi những nỗi sợ hãi, tuy đang sống nhưng hắn luôn cảnh giác, đề phòng với mọi thứ, ngay cả khi nhốt mình trong căn phòng kín mít của mình hắn vẫn chẳng thể yên tâm. Hắn sống đấy nhưng luôn phải gồng mình lên để chống chọi với những nỗi sợ không tên, sống là một niềm hạnh phúc nhưng nhìn vào hắn người ta sẽ hình dung ra rằng, đó chính là sự đầy ải khủng khiếp. Cái chết đến bất ngờ nhưng lại giải thoát cho hắn khỏi những bi kịch, bế tắc của cuộc đời.

Cái chết là kết thúc buồn, là nỗi mất mát lớn nhất trong cuộc đời mỗi người, thế nhưng đối với Bê-li-cốp đó lại là hạnh phúc bởi cuối cùng sau bao nỗi bất an, sợ hãi hắn cũng đã tìm được "chiếc bao" vững chắc và an toàn nhất cho cuộc đời mình, chính nét tươi tỉnh, hạnh phúc của hắn khi nằm trong quan tài đã khiến cho độc giả bất ngờ nhưng cũng vô tình thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng Bê-li-cốp đã có thể buông bỏ được những đề phòng, hoài nghi để sống một "cuộc sống" nhẹ nhàng hơn.

Cái chết của Bê-li-cốp tuy kì lạ, mang đến bất ngờ cho người dân trong thành phố và cả độc giả đang theo dõi câu chuyện, thế nhưng đây cũng là cái chết mang tính tất yếu. Lối sống bảo thù, hèn nhát của Bê-li-cốp hay cũng chính là của một bộ phận trí thức Nga đương thời không chỉ gây ra những bất an cho chính họ, những phiền toái, chán ghét đối với những người xung quanh mà khi nó lây lan, trở thành một căn bệnh dịch có thể kéo theo sự đi xuống của cả một xã hội; lối sống dị biệt ấy có thể tác động, kìm hãm sự phát triển của xã hội, nó khiến con người đánh mất đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Do đó, với kiểu người như Bê-li-cốp và lối sống trong bao đầy tiêu cực, sớm muộn cũng sẽ bị xã hội đào thải như một lẽ tất yếu. Tuy là kết thúc buồn nhưng lại là kết thúc hoàn hảo nhất cho cuộc đời của Bê-li-cốp, lựa chọn kết thúc như vậy nhà văn Sê-khốp cũng đã thể hiện được sự quyết liệt, dứt khoát trong việc loại bỏ lối sống tiêu cực, vạch ra con đường sáng để con người có thể sống tự do, hạnh phúc.

Thông qua cái chết của nhân vật Bê-li-cốp, Sê-khốp đã thể hiện quan niệm sâu sắc về sống sống của con người: Cuộc sống không chỉ là nơi con người tồn tại mà còn là nơi con người tìm kiếm hạnh phúc, phát triển và hướng đến sự tự do. Để có được tự do, hạnh phúc thì con người trước hết phải loại bỏ được những chiếc vỏ ốc vô hình để bước ra cảm nhận ý nghĩa đích thực của cuộc sống.

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/nguoi-trong-bao-se-khop.1134/
Thêm
  • Like
Reactions: Văn Học
2K
1
2
Bài tham khảo
---

“Người trong bao” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của đại văn hào người Nga Sê-khốp. Trong truyện, Sê-khốp đã xây dựng thành công hình “chiếc bao” – biểu tượng cho một lối sống, kiểu người tiêu cực từng tồn tại ở xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp là nhân vật trung tâm, chủ nhân của những chiếc bao đồng thời là nhân vật được Sê-khốp xây dựng để truyền tải những quan niệm, tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Cả cuộc đời của mình, Bê-li-cốp luôn sống trong những nỗi sợ hãi, tự ngăn cách mình với thế giới bên ngoài vì những nỗi sợ vô hình. Để đến cuối cùng, đến khi chết đi Bê-li-cốp mới có thể cảm thấy hạnh phúc, thỏa mãn vì đã hoàn toàn cách li được với cuộc sống đầy rẫy những điều khiến hắn ta sợ hãi để sống trong chiếc bao ( chiếc quan tài) an toàn, vững chãi nhất của cuộc đời mình. Cái chết của Bê-li-cốp cuối tác phẩm không chỉ là tình tiết quan trọng giúp phát triển và kết thúc tác phẩm mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Cái chết của Bê-li-cốp do bị Kô- va-len-cô đẩy ngã từ cầu thang, lần ngã này đã khiến hắn bị thương, tuy không quá nguy kịch nhưng hắn lại không chịu chạy chữa mà chỉ nằm mãi ở trong phòng. Tuy nhiên, nghiêm trọng hơn vết thương về thể xác, Bê-li-cốp đã phải trải qua cú sốc khủng khiếp về tinh thần. Vốn là con người nhu nhược, sợ hãi cuộc sống, sợ hãi những điều tiếng và coi trọng danh dự một cách cực đoan nên tiếng cười như phá lên của Va-ren-ca chính là điều kinh khủng nhất với hắn.

Tiếng cười vốn bình thường khi chứng kiến cảnh Bê-li-cốp ngã lộn từ cầu thang xuống nhưng đối với con người như Bê-li-cốp thì đó chính là đả kích khủng khiếp để cuối cùng hắn ta chết đi trong sự bế tắc do chính mình tạo dựng. Khi chết đi, Bê-li-cốp được nằm trong quan tài, khuôn mặt của hắn bỗng trở nên tươi tắn, hạnh phúc. Dường như hắn ta rất thỏa mãn với chiếc bao vững chắc cuối cùng của cuộc đời mình, chiếc bao ấy có thể bao bọc, tách biệt hoàn toàn cho hắn khỏi những tác động của cuộc sống. Cái chết của bê-li-cốp có phần kì lạ, gây bất ngờ cho mọi người xung quanh cũng như độc giả khi theo dõi câu chuyện, tuy nhiên cái chết ấy đối với một người kì quặc, khác người như Bê-li-cốp lại là điều dễ hiểu.

Cái chết của Bê-li-cốp là điều tất yếu sau những bế tắc, tuyệt vọng, bất mãn của hắn đối với cuộc sống xung quanh. Cuộc sống của hắn đầy rãy những sợ hãi, hắn luôn trong trạng thái cảnh giác trong chính ngôi nhà của mình, cuộc sống luôn hoài nghi, sợ hãi như vậy chẳng phải quá mệt mỏi hay sao? Do đó, cái chết của Bê-li-cốp trước hết là sự giải thoát cho hắn khỏi những bi kịch. Cái chết là điều mất mát, là kết thúc buồn nhất cho cuộc đời mỗi người nhưng đối với Bê-li-cốp thì cái chết ấy lại nhẹ nhàng hơn cả, vì cuối cùng hắn ta cũng tìm thấy cái bao đích thực, nơi có thể khiến hắn buông bỏ những đề phòng, hoài nghi để thoải mái, tươi tỉnh hơn.

Xem thêm: So sánh nhân vật Hoàng và Độ trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao
Cái chết của bê-li-cốp còn là kết thúc tất yếu cho kiểu người, cho lối sống trong bao đầy tiêu cực. Lối sống ấy không thể tồn tại trong xã hội hiện đại bởi nó dị biệt và kìm hãm sự phát triển của xã hội, đánh mất đi ý nghĩa cuộc sống của con người. Lựa chọn cái kết như vậy, tác giả Sê-khốp đã thể hiện thái độ quyết liệt trong việc loại trừ lối sống tiêu cực, gò bó, kìm hãm sự phát triển của con người để hướng con người đến cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Như vậy, qua cái chết của Bê-li-cốp, nhà văn Sê-khốp đã thể hiện được những quan điểm sâu sắc về cuộc sống đích thực của con người. Cuộc sống là nơi con người có thể tự do phát triển, để cảm nhận những hạnh phúc, vang vọng, nếu con người mãi thu mình trong vỏ ốc thì họ mãi mãi không vượt ra khỏi nỗi sợ của mình để sống cuộc sống thực sự của con người.
------
st
 
Viết trả lời...
An-tôn Sê-khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, một trong những đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga cuối thế kỷ XIX. Ông có nhiều tác phẩm đồ sộ với hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, từ những cốt truyện giản dị, tác phẩm của Sê-khốp thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, ý nghĩa nhân bản sâu xa. "Người trong bao" là một trong những truyện ngắn có chung chủ đề về cuộc sống tầm thường, trong vỏ ốc của giới trí thức Nga cuối thế kỷ XIX.


Thông qua việc xây dựng nhân vật Bê-li-cốp cùng hình tượng "chiếc bao", nhà văn Sê-khốp trong truyện ngắn "Người trong bao" đã tái hiện đầy thành công hiện thực của xã hội Nga đương thời, đó là bầu không khí tù đọng, u ám của chế độ sa hoàng, cũng chính hiện thực đen tối ấy đã làm nảy sinh những tiêu cực trong đời sống con người Nga, nổi bật hơn cả chính là căn bệnh sợ hãi cuộc sống, một căn "bệnh dịch" có khả năng lây lan mạnh mẽ trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp chính là nhân vật đại diện cho lối sống thu mình trong bao cùng nỗi sợ cuộc sống đến cực đoan. Khi còn sống Bê-li-cốp là một hiện tượng kì dị, là đối tượng bàn tán, là trò cười đồng thời cũng là nỗi ám ảnh của người dân trong thành phố. Ngay cả khi đã chết đi thì cái chết của Bê-li-cốp cũng tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của người dân nơi đây, đặc biệt hơn cả, thông qua cái chết ấy, nhà văn Sê-khốp đã truyền tải được những quan niệm, tư tưởng sâu sắc.

Bê-li-cốp trở nên "nổi tiếng" trong trường học và thành phố mình sinh sống bởi lối sống kì dị, khác người, hắn luôn xuất hiện một một diện mạo dị hợp: ăn mặc kín mít, chân đi ủng cao su, mắt đeo kính râm, tay cầm ô, và một chiếc bao đựng đủ mọi vật dụng lỉnh kỉnh khác. Không chỉ có diện mạo, trang phục khác người mà Bê-li-cốp còn là con người cổ hủ, cứng nhắc luôn sống theo những thông tư, giáo điều; hắn tôn sùng quá khứ, sợ hãi thực tại nên có thể nói trang phục, lối sống khép kín chính là lớp vỏ bọc, là "chiếc bao" mà hắn tự dựng lên để bảo vệ mình khỏi những tác động của cuộc sống xung quanh. Khi còn sống Bê-li-cốp chính là nỗi ám ảnh khủng khiếp đối với những người dân trong thành phố bởi, những người "may mắn" đến nhà và rồi dùng cái nhìn soi mói, đánh giá để "gắn kết mối quan hệ" đều không tránh được cảm giác ghét bỏ, sợ hãi; sự tồn tại của hắn khiến nhiều người phải dè chừng, e ngại.

Ấy thế mà một ngày nọ, mọi người trong thành phố bỗng kinh hoàng, sau đó cảm thấy vui vẻ, nhẹ nhõm vì Bê-li-cốp đã chết đi. Sự hiện diện của Bê-li-cốp vốn đã kì lạ thế nhưng ngay cả cái chết của hắn cũng thật kì lạ, khác người. Mọi người chỉ biết hắn chết do bệnh nặng, thế nhưng không ai biết rằng nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của hắn. Bị Kô-va-len-cô đẩy ngã từ trên cầu thang vốn chỉ gây ra những vết thương ngoài da, thế nhưng chính tiếng cười lảnh lót "ha ha ha" của Va-len-ca mới là đòn trí mạng đối với hắn, tâm hồn nhu nhược cùng nỗi bất an thường trực trước cuộc sống của hắn bị đả kích đến không phục hồi được. Tiếng cười của Va-len-ca đã trở thành bóng đen ám ảnh trong tâm trí của Bê-li-cốp khiến hắn mắc tâm bệnh, kết hợp với vết thương thể xác mà chết.

Với người dân trong thành phố hay đối với chính bản thân Bê-li-cốp thì cái chết ấy cũng có rất ý nghĩa, đó chính là sự giải thoát. Đối với người dân trong thành phố, khi Bê-li-cốp chết đi họ cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái sau mười lăm năm tù đọng, u tối, tuy cảm giác ấy không kéo dài lâu nhưng trong giây phút nào đó họ cũng đã cảm thấy tự do và được thoải mái sau một thời gian dài bị tác động bởi "lối sống Bê-li-cốp". Đối với bản thân Bê-li-cốp lại là sự giải thoát sau những bất an, tuyệt vọng cùng nỗi sợ khủng khiếp đối với cuộc sống. Khi còn sống Bê-li-cốp bị bủa vây bởi những nỗi sợ hãi, tuy đang sống nhưng hắn luôn cảnh giác, đề phòng với mọi thứ, ngay cả khi nhốt mình trong căn phòng kín mít của mình hắn vẫn chẳng thể yên tâm. Hắn sống đấy nhưng luôn phải gồng mình lên để chống chọi với những nỗi sợ không tên, sống là một niềm hạnh phúc nhưng nhìn vào hắn người ta sẽ hình dung ra rằng, đó chính là sự đầy ải khủng khiếp. Cái chết đến bất ngờ nhưng lại giải thoát cho hắn khỏi những bi kịch, bế tắc của cuộc đời.

Cái chết là kết thúc buồn, là nỗi mất mát lớn nhất trong cuộc đời mỗi người, thế nhưng đối với Bê-li-cốp đó lại là hạnh phúc bởi cuối cùng sau bao nỗi bất an, sợ hãi hắn cũng đã tìm được "chiếc bao" vững chắc và an toàn nhất cho cuộc đời mình, chính nét tươi tỉnh, hạnh phúc của hắn khi nằm trong quan tài đã khiến cho độc giả bất ngờ nhưng cũng vô tình thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng Bê-li-cốp đã có thể buông bỏ được những đề phòng, hoài nghi để sống một "cuộc sống" nhẹ nhàng hơn.

Cái chết của Bê-li-cốp tuy kì lạ, mang đến bất ngờ cho người dân trong thành phố và cả độc giả đang theo dõi câu chuyện, thế nhưng đây cũng là cái chết mang tính tất yếu. Lối sống bảo thù, hèn nhát của Bê-li-cốp hay cũng chính là của một bộ phận trí thức Nga đương thời không chỉ gây ra những bất an cho chính họ, những phiền toái, chán ghét đối với những người xung quanh mà khi nó lây lan, trở thành một căn bệnh dịch có thể kéo theo sự đi xuống của cả một xã hội; lối sống dị biệt ấy có thể tác động, kìm hãm sự phát triển của xã hội, nó khiến con người đánh mất đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Do đó, với kiểu người như Bê-li-cốp và lối sống trong bao đầy tiêu cực, sớm muộn cũng sẽ bị xã hội đào thải như một lẽ tất yếu. Tuy là kết thúc buồn nhưng lại là kết thúc hoàn hảo nhất cho cuộc đời của Bê-li-cốp, lựa chọn kết thúc như vậy nhà văn Sê-khốp cũng đã thể hiện được sự quyết liệt, dứt khoát trong việc loại bỏ lối sống tiêu cực, vạch ra con đường sáng để con người có thể sống tự do, hạnh phúc.

Thông qua cái chết của nhân vật Bê-li-cốp, Sê-khốp đã thể hiện quan niệm sâu sắc về sống sống của con người: Cuộc sống không chỉ là nơi con người tồn tại mà còn là nơi con người tìm kiếm hạnh phúc, phát triển và hướng đến sự tự do. Để có được tự do, hạnh phúc thì con người trước hết phải loại bỏ được những chiếc vỏ ốc vô hình để bước ra cảm nhận ý nghĩa đích thực của cuộc sống.

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/nguoi-trong-bao-se-khop.1134/
Thêm
  • Like
Reactions: Văn Học
2K
1
2
Dàn ý chi tiết cho đề suy nghĩ về cái chết của Bê-li-cốp

1. Mở bài

Giới thiệu nhân vật: Bê-li-cốp là nhân vật trung tâm của truyện ngắn Người trong bao, chủ nhân của những chiếc bao đồng thời là nhân vật được Sê-khốp xây dựng để truyền tải những quan niệm, tư tưởng nhân văn sâu sắc.

2. Thân bài

– Bê-li-cốp luôn sống trong những nỗi sợ hãi, tự ngăn cách mình với thế giới bên ngoài vì những nỗi sợ vô hình.

– Khi chết đi Bê-li-cốp cảm thấy hạnh phúc, thỏa mãn vì đã hoàn toàn cách li được với cuộc sống đầy rẫy những điều khiến hắn ta sợ hãi để sống trong chiếc bao ( chiếc quan tài) an toàn, vững chãi nhất của cuộc đời mình.

– Cái chết của Bê-li-cốp cuối tác phẩm không chỉ là tình tiết quan trọng giúp phát triển và kết thúc tác phẩm mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc:

+ Cái chết của Bê-li-cốp do bị Kô- va-len-cô đẩy ngã từ cầu thang, lần ngã này đã khiến hắn bị thương, tuy không quá nguy kịch nhưng hắn lại không chịu chạy chữa mà chỉ nằm mãi ở trong phòng.
+ Nghiêm trọng hơn vết thương về thể xác, Bê-li-cốp đã phải trải qua cú sốc khủng khiếp về tinh thần.

Vốn là con người nhu nhược, sợ hãi cuộc sống, sợ hãi những điều tiếng và coi trọng danh dự một cách cực đoan nên tiếng cười như phá lên của Va-ren-ca chính là điều kinh khủng nhất với hắn.

+ Khi chết đi, Bê-li-cốp được nằm trong quan tài, khuôn mặt của hắn bỗng trở nên tươi tắn, hạnh phúc.
+ Cái chết của bê-li-cốp có phần kì lạ, gây bất ngờ cho mọi người xung quanh cũng như độc giả khi theo dõi câu chuyện, tuy nhiên cái chết ấy đối với một người kì quặc, khác người như Bê-li-cốp lại là điều dễ hiểu.
+ Cái chết của Bê-li-cốp là điều tất yếu sau những bế tắc, tuyệt vọng, bất mãn của hắn đối với cuộc sống xung quanh.
+ Cái chết của bê-li-cốp còn là kết thúc tất yếu cho kiểu người, cho lối sống trong bao đầy tiêu cực.

3. Kết bài
Qua cái chết của Bê-li-cốp, nhà văn Sê-khốp đã thể hiện được những quan điểm sâu sắc về cuộc sống đích thực của con người.
 
Viết trả lời...
Văn chương chân chính luôn làm sống dậy những nghịch lí, những bối rối của con người trong những khoảnh khắc đời thường. Những giây phút phân vân, ngập ngừng ấy đôi khi mới là bản chất muôn thuở của của con người. Văn chương không tạo dựng những nhân vật hoàn hảo, những nhân vật chỉ sống đơn thuần theo lí trí và lúc nào cũng có thể hành động một cách đúng đắn, dễ dàng. Văn chương tạo dựng những nhân vật biết sai, biết loay hoay khi đứng trước các lựa chọn, biết đau đớn khi chẳng may làm điều tội lỗi, những nhân vật mà chẳng thể đóng khung, vo tròn trong một khuôn khổ nhất định. Chính điều đó mới khiến nhân vật còn thật hơn cả ngoài đời thật. Bạn đọc ngắm nhìn những thân phận trên trang sách như được nhìn thấy chính mình ở ngoài đời.

Vì sao “Truyện Kiều” trở thành sáng tạo có một không hai của Nguyễn Du mặc dù cốt truyện được lấy từ cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Đó là bởi vì nếu Thúy Kiều của Trung Hoa chỉ được miêu tả trên phương diện hành động thì Thúy Kiều của ta lại được khắc họa trên phương diện tâm lí. Nếu Thúy Kiều của Trung Hoa làm việc gì cũng rạch ròi, quyết đoán thì Thúy Kiều của ta đôi lúc lại dùng dằng giữa lí trí và tình cảm. Trong Kim Vân Kiều truyện, Thúy Kiều “trao duyên” cho em là xong; thế nhưng Thúy Kiều của Nguyễn Du lại rơi vào giằng xé nội tâm: kỉ vật đã trao nhưng tình yêu thì chẳng thể dứt, duyên đã đứt nhưng lòng thì không thể quên: “Chiếc vành với bức tờ mây/ Duyên này thì giữ vật này của chung”. Đó dường như là những tình thế của đời sống mà con người bắt buộc phải đứng trước những nghịch lí, những trạng huống mà sự lựa chọn nào cũng không vẹn tròn.

Con người của Kiều cũng thay đổi theo từng giai đoạn của cuộc đời nàng. Cuộc đời có lắm bước ngoặt đã cho thấy những giới hạn khác nhau của chiều kích tâm hồn. Với Kim Trọng, Kiều thỏa mãn những rung động tinh thần bên người tình đồng điệu. Với Thúc Sinh, Kiều hưởng những ngày tháng hạnh phúc trần thế của đôi vợ chồng trẻ. Với Từ Hải, Kiều được sống với khát vọng làm chủ vận mệnh, có cơ hội báo đền ân oán. Tình cảm ngày một mới, ước vọng ngày càng cao. Giáo sư Trần Đình Sử đã bày tỏ quan điểm mà mình cảm thấy vô cùng ấn tượng: “Chả trách ngày tái hợp Kim Kiều đối với nàng chỉ là tình “cầm cờ”, vì vết thương lòng của Kiều còn đó, mà Kim Trọng trước sau cũng chỉ là người tình “cũ” với những ham mê buổi đầu! Chàng Kim thua xa nàng Kiều về trải nghiệm nhân sinh”. Có thể nói, phải đến Nguyễn Du, những phương diện cá nhân nhất, riêng tư nhất của con người mới được bộc lộ. Quân tâm đến cá nhân tức là quan tâm đến những suy nghĩ, những phần sâu kín của nội tâm mà không thể diễn giải thành lời.
Con người trong văn chương không thể vo tròn trong một khuôn khổ nhất định, và người đọc văn chương cũng thế. Chính bởi sự bí ẩn, khó nói của tâm hồn con người mà chúng ta mới cần đến những tác phẩm văn học để có thêm những công cụ để lắng nghe chính mình. Và mình vẫn luôn tin rằng, việc đọc những áng văn, áng thơ thực thụ khiến ta thêm rộng lớn về đời sống tinh thần, một sự rộng lớn đáng kinh ngạc và bất ngờ.

Nguồn: Fanpage Tinh Van
Thêm
  • Like
Reactions: Jenny Lục Ngạn
580
1
0
Viết trả lời...