Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Tình yêu nghệ thuật, con người và sự tự do là những gì mà nhà thơ, nhà soạn kịch, họa sĩ người Tây Ban Nha Lorca đã suốt đời tranh đấu. Và bài thơ “Đàn ghita của Lorca” đã được Thanh Thảo sáng tạo nên nhằm bày tỏ sự tiếc thương cùng nỗi đau vô hạn vì sự ra đi vĩnh viễn của nhà thơ vĩ đại này.

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (45).png


Ôn tập kiến thức cơ bản tác phẩm “Đàn ghita của Lorca” – Thanh Thảo

Câu 1. Trình bày hiểu biết của em về tác giả Thanh Thảo

Trả lời


- Tên thật: Hồ Thành Công;

- Năm sinh: 1946;

- Quê quán: huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi;

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

+ Tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Thanh Thảo vào công tác ở chiến trường miền Nam.

+ Hiện ông là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ngãi, phó chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn Việt Nam.

+ Thanh Thảo đã nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979, giải thưởng Ban Văn học Quốc phòng An nình, Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995, giải thưởng Nhà nước (đợt 1) về văn học nghệ thuật năm 2001 và Giải thưởng Văn học Đông Nam Á năm 2014.

+ Những năm gần đây, Thanh Thảo vẫn tiếp tục làm thơ đồng thời viết báo, tiểu luận phê bình và nhiều thể loại khác, nhưng đóng góp quan trọng và đặc sắc nhất của ông vẫn là thơ ca.

+ Từ mấy thập niên trước, Thanh Thảo đã được công chúng chú ý qua những tập thơ và trường ca mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến: Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trảng cỏ (1980), Những ngọn sóng mặt trời (1994), Khối vuông ru-bích (1985), Từ một đến một trăm (1988)...

+ Thơ Thanh Thảo là tiếng nói của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại. Tuy nhiên, ông muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở bề sâu nên luôn khước từ lối biểu đạt dễ dãi.

+ Ông luôn nỗ lực cách tân thơ Việt với xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, xóa bỏ mọi ràng buộc, khuôn sáo bằng nhịp điệu bất thường để mở đường cho một cơ chế liên tưởng phóng khoáng nhằm đem đến cho thơ một mỹ cảm hiện đại với hệ thống thi ảnh và ngôn từ mới mẻ.

Câu 2: Hoàn cảnh ra đời của “Đàn ghita của Lorca”

Trả lời


- Trước đó, Thanh Thảo đã có dịp đọc bài thơ của Lorca, thậm chí còn chép bản dịch vào vở và mang ra chiến trường nhưng chưa hiểu rõ về nhà thơ này.

- Cho đến năm 1979, sau khi nghe câu chuyện sinh tử của nhà cách mạng, nghệ sĩ chân chính Lorca, vì say mê nhà thơ tài hoa người Tây Ban Nha, Thanh Thảo đã viết bài thơ Đàn ghita của Lorca.

Câu 3. Ý nghĩa nhan đề “Đàn ghita của Lorca”

Trả lời


- Thứ nhất, nhắc đến Tây Ban Nha xinh đẹp người ta sẽ nghĩ ngay đến loại nhạc cụ truyền thống là đàn ghita hãy còn gọi là Tây Ban cầm. Như vậy, cây đàn mang nghĩa biểu tượng cho nền nghệ thuật của đất nước này.

- Thứ hai, chiếc đàn ghi ta cũng đã theo cùng Lorca trong suốt hành trình của cuộc đời của ông, nó gắn liền với sự nghiệp với nghệ thuật của ông. Nhan đề bài thơ mang hình ảnh cây đàn tượng trưng cho những cống hiến và sức sáng tạo nghệ thuật của Lorca đã để lại cho đời.

- Đàn ghita trở thành hình tượng trung tâm của bài thơ, góp phần thể hiện nội dung của tác phẩm. Tiếng đàn và Lorca như hai người bạn tri kỉ, gắn bó, thân thiết, thấu hiểu về nhau, khó có thể tách rời. Vì vậy, cách đặt nhan đề tạo nên sự hấp dẫn, tò mò và sức liên tưởng lớn lao với người đọc.

Câu 4. Viết bài văn ngắn trình bày của cảm nhận của bản thân về “Đàn ghita của Lorca”

Đoạn văn mẫu


Tình yêu nghệ thuật, con người và sự tự do là những gì mà nhà thơ, nhà soạn kịch, họa sĩ người Tây Ban Nha Lorca đã suốt đời tranh đấu. Và bài thơ “Đàn ghita của Lorca” đã được Thanh Thảo sáng tạo nên nhằm bày tỏ sự tiếc thương cùng nỗi đau vô hạn vì sự ra đi vĩnh viễn của nhà thơ vĩ đại này. Thanh Thảo nhà thơ của những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội, thơ ông giàu chất suy tư, triết lí. Đàn ghita của Lorca là một trong những bài thơ như vậy. Đây có thể coi là tác phẩm để đời trong sự nghiệp thơ ca của Thanh Thảo.

Tác phẩm được sáng tác năm 1979, nó là kết tinh từ niềm thương xót vô hạn cũng như sự cảm phục, trân trọng và ngưỡng mộ của Thanh Thảo dành cho Lorca. Bài thơ nhanh chóng gây được tiếng vang lớn trong văn học Việt Nam nhờ nội dung đầy tính nhân văn và hình thức nghệ thuật thơ hết sức sáng tạo, mới mẻ.

Thanh Thảo đã đặt cho tác phẩm của mình một nhan đề giản dị nhưng giàu ý nghĩa. Đàn ghita không chỉ là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha mà còn được coi là biểu tượng cho nền nghệ thuật ở đất nước này. Còn Lorca là nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà viết kịch nổi tiếng người Tây Ban Nha, là người đã khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Với nhan đề này, Thanh Thảo ngầm khẳng định Đàn ghi ta của Lorca là biểu tượng cho những cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ thiên tài Lorca. Nhan đề đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ.

Thanh Thảo đã sử dụng một câu thơ đồng thời cũng là tâm nguyện của Lora trước khi chết để làm lời đề từ cho bài thơ của mình. Lời để từ đã thể hiện tình yêu nghệ thuật say đắm của Lorca. Đồng thời cũng khẳng định tình yêu tha thiết của Lorca với quê hương đất nước. Không chỉ có vậy, lời để từ còn thể hiện quan điểm đầy tính nhân văn trong sáng tạo nghệ thuật. Lorca hiểu rằng những cách tân nghệ thuật của mình đến một lúc nào đó là sẽ chướng ngại ngăn cản những người đến sau sáng tạo. Bởi vậy, ông đã căn dặn thế hệ sau phải biết chôn vùi nghệ thuật của ông để đi tới và bước tiếp.

Mở đầu tác phẩm Lorca xuất hiện cùng với tiếng đàn bọt nước:

“những tiếng đàn bọt nước
Tây ban Nha áo choàng đỏ gắt”


Tiếng đàn không chỉ đơn thuần là âm thanh của tiếng ghi ta mà nó còn gợi ra sự nghiệp nghệ thuật đồ sộ, giàu giá trị của Lorca, đồng thời đây cũng chính là tiếng lòng của người nghệ sĩ, gửi gắm lại cho hậu thế. Hình ảnh bọt nước cũng là hình ảnh hết sức đặc sắc, gợi cái đẹp lung linh, gợi sự tan biến vào mênh mông, sự tồn tại mong manh, ngắn ngủi… Một câu thơ nhưng có đến hai hình ảnh biểu tượng, nó vừa gợi ra vẻ đẹp trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, vừa cho thấy số phận mong manh ngắn ngủi, đầy bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Lorca.

Câu thơ thứ hai, nhắc trực tiếp đến quê hương của người nghệ sĩ Lorca. Gắn liền với địa danh Tây Ban Nha- với hình ảnh Lorca là hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” mang nhiều nét nghĩa: trước hết về nghĩa thực, gợi ra phông nền văn hóa của đất nước Tây Ban Nha với những trận đấu bò tót nổi tiếng, đẫm máu; nhưng đồng thời cũng gợi nhắc chúng ta đến tính chất dữ dội của một đấu trường đặc biệt- đấu trường chính trị và đấu trường nghệ thuật. Nếu như câu thơ đầu gợi ra vẻ đẹp bi kịch cũng như sinh mệnh ngắn ngủi của người nghệ sĩ, thì câu thơ sâu đã khắc họa sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ. Âm thanh tiếng đàn li la li la vang vọng trong không gian để đưa người đọc đến với hành trình vươn tới lí tưởng của người nghệ sĩ:

“đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn”


Hành trình vươn đến lí tưởng là hành trình hết sức gian nan, chất chứa cả sự cô đơn, không có điểm dừng. Đây cũng chính là hành trình của Lorca trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Hành trình ấy tuy có nhiều khó khăn, nhưng đó là hành trình đẹp đẽ. Vầng trăng vốn là biểu tượng nghệ thuật, điều đó cho thấy cái mà Lorca hướng đến không phải cuộc sống xa hoa hưởng lạc, mà là tình yêu, niềm đam mê mãnh liệt cho nghệ thuật. Trên hành trình vươn tới lí tưởng trong một thế giới bạo tàn, hình ảnh Lorca hiện lên vừa đáng ngưỡng mộ vừa khiến người đọc không khỏi xót thương.

Không đi sâu vào từng tiểu tiết cuộc đời Lorca, Thanh Thảo nhấn đậm ngòi bút vào cái chết bi tráng của chàng. Bốn câu thơ đầu là sự đối lập giữa sống và chết:

“Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ”


Sự sống ở đây chính là Tây Ban Nha với điệu hát nghêu ngao, không gian phóng khoáng, tự do, Lorca hiện lên hết sức đẹp đẽ trong khung vảnh đó. Nhưng phía bên kia lại là hiện thực kinh hoàng, là cái chết đẫm máu của người nghệ sĩ tài hoa. “bỗng kinh hoàng” cho thấy sự thảng thốt, hốt hoảng, không thể tin rằng Lorca đã bị cái xấu, cái ác bức hại. Cùng với đó là cảm xúc xót thương, căm phẫn đến tận cùng. Lorca hiện lên hết sức đáng thương trong bạo lực tàn ác của chế độ độc tài. Trước cái chết ấy, Lorca như người mộng du: “Lorca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”. Câu 5 là kiểu câu bị động với những thanh trắc là hai dấu nặng đặt cạnh nhau gợi ấn tượng nặng nề, trĩu nặng về cái chết. Nhưng câu 6 lại là kiểu câu chủ động với những thanh bằng liên tiếp đã cho thấy hình ảnh Lorca nhanh chóng lấy lại thăng bằng và thái độ chủ động để đi từ hành trình kết thúc sự sống vật chất đến hành trình khởi đầu sự sống tinh thần bất tử.

Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh. Điệp khúc tiếng ghi ta lần lượt xuất hiện, mỗi âm điệu vang lên lại mang nhưng ý nghĩa khác nhau: Tiếng ghi ta nâu- bầu trời cô gái ấy: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về tình yêu của Lorca dành cho quê hương, nghệ thuật, con người, lí tưởng…; Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy/ Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về vẻ đẹp cũng như nỗi đau của Lorca; Tiếng ghi ta ròng ròng- máu chảy: Tiếng ghita được đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn. “tiếng ghi ta” là điệp khúc, đều đặn vang lên 4 lần trong nhịp thơ dồn dập, gửi gắm những tình cảm, tâm sự, nỗi niềm chất chứa của Lorca còn mãi vang vọng với hậu thế, như khẳng định sức sống bất diệt của Lorca.

Mười ba câu thơ cuối cùng là những suy tư của tác giả về cuộc đời, sự nghiệp và sự ra đi của Lorca. Tiếng đàn là biểu tượng của nghệ thuật, là biểu tượng cho lí tưởng đấu tranh vì những điều tốt đẹp của Lorca bởi vậy không ai nỡ “chôn cất tiếng đàn”. Bởi vậy, Thanh Thảo đã so sánh tiếng đàn như cỏ mọc hoang, tức nó có sức sống mạnh mẽ, sức lan tỏa mãnh liệt, bất diệt, không gì có thể ngăn cản nổi. Dù Lorca hi sinh tiếng đàn của ông còn mãi với hậu thế. Cũng chính bởi vậy vầng trăng – cái đẹp, dù bị chôn vùi nơi đáy giếng vẫn tỏa rạng nơi tối tăm, lạnh lẽo, ánh sáng lí tưởng nghệ thuật không bao giờ bị vùi lấp.

Hình ảnh đường chỉ tay đứt là một ám chỉ về sự sống vật chất đã chất dứt, và cuộc đời vô hạn vẫn không ngừng chảy trôi: “Dòng sông rộng vô cùng”. Trong tương quan với câu thơ trên, hình ảnh thơ dễ gợi một cảm giác bi quan. Nhưng Lorca đã vượt lên trên những lẽ thường tình ấy, ông dung cây đàn ghita để vượt lên mỗi cái hữu hạn, vượt lên cái ngắn ngủi của đời người để vươn đến cõi vô cùng, bất tử.

“Chàng ném lá bùa cô gái Di-gan/ vào xoáy nước/chàng ném trái tim mình/vào lặng yên bất chợt/li-la li-la li-la…”. Hành động vô cùng mạnh mẽ quyết liệt, ném “lá bùa” vào “xoáy nước” với tinh thần sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Nhưng đồng thời cũng “ném trái tim mình- vào lặng yên”– vào sự lãng quên là hi sinh sự sống của mình để dọn đường cho hậu thế vươn tới những đỉnh cao mới trong nghệ thuật. Sau sự ra đi “lặng yên” của Lorca, “bất chợt” vang lên chuỗi hợp âm “li-la li-la li-la” lan tỏa, ngân nga.

Bài thơ mang đậm phong cách thơ siêu thực: hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao độ, bài thơ có hình thức âm thanh, câu thơ không vần, không dấu, không viết hoa đầu dòng,… ; những tương phản gay gắt được sử dụng liên tiếp;… Cho thấy sự cách tân nghệ thuật sâu sắc của Thanh thảo.

Bằng những hình ảnh tượng trưng cao độ, Thanh Thảo đã tái hiện chân thực và gợi cảm vẻ đẹp của hình tượng Lorca. Đồng thời thể hiện tiếng lòng tri âm của một người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ. Và thể hiện triết lí nghệ thuật của Thanh Thảo: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, sức sống của nghệ thuật làm nên sự bất tử của người nghệ sĩ.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY
Thêm
Ôn tập tác phẩm “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo mới nhất
  • Love
Reactions: Hoa Phù Sa
413
1
0
Việc đưa bài thơ Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo vào Chương trình Ngữ văn 12 đã tạo nên một dư luận khá sôi động. Quả thật, so với những giai phẩm được đưa vào nhà trường từ trước đến nay và trong thói quen tiếp nhận của đông đảo công chúng thì dẫu sao đây vẫn là một bài thơ lạ. Lạ nên còn gây không ít lúng túng cho việc tiếp cận.

Chúng ta hãy cùng nhau đọc bài viết của Nguyễn Thư về tác phẩm "Đàn ghita của Lorca" (Thanh Thảo) để hiểu hơn về bài thơ này nhé!


5176

Đàn ghita của Lorca - một bài thơ lạ​


ĐÀN GHITA CỦA LORCA – MỘT BÀI THƠ LẠ

Có người từng băn khoăn: đọc bài thơ thì thấy có một “chất men” rất cuốn hút nhưng “chất men” đó là gì, toát ra từ đâu thì chịu. Đã thế, khi được hỏi về nội dung tư tưởng trong bài thơ, chính Thanh Thảo cũng trả lời một cách rất mơ hồ: “Tôi không dám nói chắc cái gì, chỉ biết, tôi viết bài thơ trong trạng thái không nghĩ ngợi gì, một trạng thái mà vô thức chiếm lĩnh tôi trọn vẹn” (thethaovanhoa.vn).

Đúng là với những bài thơ dạng này thì không thể trông mong vào những gợi ý từ tác giả để cắt nghĩa, lý giải. Những phát hiện của Freud về cõi vô thức quả là có ý nghĩa với việc nghiên cứu quy luật sáng tạo, giải mã những biểu tượng văn hóa trong tác phẩm. Sáng tạo nghệ thuật không hoàn toàn giống như trạng thái “lên đồng” nhưng nhiều khi, nhà nghệ sĩ cũng bị dẫn dắt bởi một linh lực bí ẩn nào đó, thăng hoa trong những xúc cảm mãnh liệt để (có khi) chỉ trong một thời khắc ngắn ngủi mà có thể tạo ra những kiệt tác “ngàn thu”. Sau những phút thăng hoa ythường chính tác giả cũng không hiểu tại sao mình viết được như vậy. Chuyện Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống chẳng hạn. Chả thế mà Nguyễn Bính cứ than thở làm thơ là do “giời đày”, còn Chế Lan Viên thì nói là “ma làm”,… Tất nhiên, nói thế cũng là để cực đoan hóa một chút vai trò của vô thức chứ với người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu văn học thì vẫn phải dùng tư duy phân tích, suy biện để tìm ra dòng mạch (dù là “vô thức”) của tác phẩm. Chỉ từ đó may ra mới tìm ra giá trị thẩm mĩ, nét đặc sắc về phong cách, ý nghĩa, tư tưởng… của tác phẩm.

Vậy đâu là căn cứ để hiểu bài thơ?

Cần bắt đầu từ lí do khiến Thanh Thảo dành niềm tri âm sâu sắc với Lor-ca. Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 - 1936) là một trong những thiên tài của thi ca Tây Ban Nha. Ông được ngợi ca trên hai phương diện: trước một nền chính trị độc tài Phrăng-cô, Lor-ca là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đấu tranh vì tự do; trước một nền nghệ thuật Tây Ban Nha già cỗi hồi đầu thế kỷ XX, ông là thi sĩ nồng nhiệt khát vọng cách tân. Thanh Thảo dễ xúc cảm trước thi hào Tây Ban Nha này trước hết vì Lor-ca là một kiểu người nghĩa khí – thuộc mẫu người mà thơ Thanh Thảo thường dành những ưu ái đặc biệt; sau nữa, còn vì chính Thanh Thảo cũng là một trong những nghệ sĩ luôn chan chứa một khát vọng cách tân thơ Việt sau 1975. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca nằm trong tập Khối vuông ru-bích - Tập thơ hoàn thành năm 1985, là thời kì mà văn học, nghệ thuật Việt Nam đã qua thời chiến, làm tròn trách nhiệm của một nền văn nghệ kháng chiến nhưng vẫn chưa kịp đổi mới để thích ứng với chặng đường mới của đất nước.

Căn cứ thứ hai chính là nhan đề và lời đề từ của bài thơ. Hình tượng đàn ghi ta và những biến ảnh của nó như tiếng đàn, tiếng ghi ta, chiếc ghi ta trong bài thơ là một biểu tượng, là tượng trưng cho thơ Lor-ca, tượng trưng cho tư tưởng của Lor-ca. Tính biểu tượng thể hiện rõ hơn trong lời đề từ mà Thanh Thảo mượn một câu thơ nổi tiếng. Đó là câu thơ có ý nghĩa như một di nguyện của thi hào Tây Ban Nha này - Nếu tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn. Đúng như nhiều nhà nghiên cứu đã đọc ra ý nghĩa của câu thơ không chỉ đơn giản nói lên tình yêu nghệ thuật của Lor-ca. Nghĩ đến tương lai của nền nghệ thuật Tây Ban Nha, ông lo lắng vì sự thành công của mình có thể trở thành vật cản án ngữ con đường sáng tạo của thế hệ sau. Lor-ca muốn chôn theo cây đàn khi ông chết tức là muốn hậu thế thoát khỏi cái bóng của mình để tự do bước tới tương lai.

Cũng cần nói đến nguồn thi liệu trong bài thơ. Thanh Thảo đã huy động rất nhiều hình ảnh, thi liệu từ thơ Lor-ca rồi nhào nặn lại bằng phép tương giao của thơ Tượng trưng và tính bất trật tự cú pháp kiểu Siêu thực. Điều này khiến bài thơ chứa đựng một “bầu khí quyền” đặc trưng của văn hoá Tây Ban Nha và rất giàu nhạc tính. Có nhà phê bình đã rất tinh tế khi nhận ra Đàn ghi ta của Lor-ca vừa mang màu sắc thơ ai điếu phương Đông lại vừa chứa đựng âm hưởng của nhạc giao hưởng phương Tây. Có thể nhận ra những nét đặc sắc ấy ngay trong khổ thơ đầu. Hình tượng Lor-ca được tái hiện trên phông nền rộng lớn của văn hoá Tây Ban Nha cùng những thi ảnh quen thuộc trong thơ của thi hào: tiếng đàn ghi ta, áo choàng đấu sĩ, hoa li- la, con ngựa đen, vầng trăng đỏ,...

những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn.


Trong những câu thơ này, hai câu đầu tạo ra một sự tương phản gay gắt như nước với lửa : "tiếng đàn bọt nước" và "áo choàng đỏ gắt". Đành rằng cả thơ Tượng trưng và Siêu thực, nhất là thơ Siêu thực đều khước từ lối cú pháp thông thường để tạo ra những làn nghĩa cộng hưởng giao thoa nhưng trong trường hợp này, có thể tạm khôi phục lại ngữ pháp câu thơ để hiểu lớp nghĩa sơ giản nhất (?). Như thế ngữ pháp hoàn chỉnh của câu thơ đầu sẽ là: những tiếng đàn thơ Lor-ca như bọt nước? như những khối cầu bong bóng nước; tròn trịa, là biểu tượng của cái đẹp toàn bích nhưng rất đỗi mong manh và càng trở nên mong manh khi đặt cạnh màu chói gắt như lửa của sắc áo choàng. Áo choàng đỏ là trang phục của các đấu sĩ trong những trận đấu bò tót ở các đấu trường - một truyền thống thượng võ đặc trưng của Tây Ban Nha. Nhưng “áo choàng đỏ gắt” thì lại rất bất thường, chữ “gắt” ở cuối câu thơ thứ hai không chỉ tả được màu sắc mà còn gợi lên một “độ nóng” đến ngạt thở. Hình ảnh bất thường và nhạc điệu cũng bất thường. Điều đó gợi không khí chính trị nóng bỏng của đất nước Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài. Như vậy, trong mối quan hệ với đời sống chính trị đương thời, tiếng đàn - thơ Lor-ca đứng trước đầy những nguy cơ bất trắc và đây là những hình ảnh dự báo trước những bi kịch oan khuất của một đấng tài hoa. Bốn câu thơ sau lại diễn tả hình ảnh thi sĩ Lor-ca cùng cây đàn hành trình về "miền đơn độc". Câu thơ thứ ba mô phỏng những nốt tỉa ghi ta có dạng một khúc thức trong âm nhạc - Li-la li-la li-la - được tấu lên, kết hợp với những hình ảnh vầng trăng, yên ngựa gợi bóng dáng chàng nghệ sĩ lãng tử cùng tiếng đàn cứ mải miết trong một cuộc lãng du. Câu thơ “với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn’’ có thể được hiểu là con người cùng với vầng trăng chếnh choáng, cùng trong trạng thái say sưa dâng hiến. Đó là hình ảnh một thi sĩ Lor-ca đầy nhiệt huyết say sưa trong sáng tạo. Nhưng càng nồng nhiệt thì càng dấn sâu vào “miền đơn độc”. Nghĩa là những tư tưởng tự do, khát vọng cách tân nghệ thuật của thi sĩ (do quá mới mẻ) chưa được sự đồng hành của đất nước Tây Ban Nha. Nếu hai câu đầu đặt tiếng đàn thơ Lor-ca trong quan hệ với đời sống chính trị thì bốn câu sau của khổ thơ lại đặt tiếng đàn thơ ấy trong mối quan hệ với nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Trong mối quan hệ này, thi sĩ là kẻ độc hành cô đơn. Đó là một bi kịch của người nghệ sĩ - sự thiếu vắng tri âm.

Và bi kịch Lor-ca được đẩy cao hơn với những câu gợi lại thời khắc định mệnh khi Lor-ca bị chính quyền độc tài hành hình:

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du”



Có nên diễn xuôi khổ thơ này là: “Tây Ban Nha đang hát nghêu ngao thì bỗng kinh hoàng vì áo choàng bê bết đỏ”? Nghĩa cú pháp của khổ thơ có thể là thế nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì chẳng cần phải mượn đến tài thơ Thanh Thảo mới viết được. Mỗi câu thơ được viết ra một cách tự nhiên như văn xuôi, và chúng đang kể với ta về một đất nước Tây Ban Nha (đang) “hát nghêu ngao”. Hát “nghêu ngao” là giọng hát vô hồn, lạc điệu, là những âm thanh nhàm tẻ, rời rạc. Phải chăng, đó là chi tiết ám chỉ một đất nước Tây Ban Nha đang tồn tại một nền nghệ thuật già nua, bằng lặng. Và sẽ cứ bằng lặng, già nua như thế nếu không có cú sốc “bỗng kinh hoàng”, đột ngột khi Lor-ca bị “điệu về bãi bắn”. Có lúc, tôi đã tin vào sự cắt nghĩa này là đúng nhưng càng ngày càng thấy hoài nghi. Trong những câu thơ này, có lẽ không phải đất nước Tây Ban Nha mà chính là Lor-ca hát “nghêu ngao”. Nếu hiểu như thế thì từ “ngêu ngao” đã xóa đi tính trang trọng của âm nhạc thính phòng, gợi nhớ âm điệu Flamenco hoang dã, tự do, khỏe khoắn. Và hình như phải hiểu như thế mới hợp với hình tượng người nghệ sĩ hát dong lãng tử, đang say sưa dâng hiến, say sưa đem tiếng đàn - thơ của mình đến với công chúng. Trong đoạn thơ này, đáng chú ý là câu “bỗng kinh hoàng”. Đó là cú đảo phách rất đột ngột nhằm diễn tả sự giật mình choáng váng. Tác giả đã phục hiện lại thời khắc định mệnh của thi hào Tây Ban Nha bằng những thủ pháp đặc trưng của trường phái ấn tượng. Từ “áo choàng đỏ gắt” có độ căng giãn hết mức rồi vỡ ra thành “áo choàng bê bết đỏ” đã chứa đựng một sự tăng “cường độ” những bi thương. Thanh Thảo hóa thân vào hình tượng Lor-ca để thể hiện tâm trạng của chàng nghệ sĩ “đi như người mộng du” ra pháp trường. Trong sáng tác thơ ca, Lor-ca hay nhắc đến thần chết và cái chết. Nhà nghệ sĩ luôn dự cảm được những bất trắc sẽ đến với mình bởi một lẽ đơn giản; trong một thể chế độc tài, bất kỳ người nghệ sĩ nào ca ngợi tự do cũng đều có đều có thể chuốc lấy những nguy cơ bất trắc. Chỉ có điều, dường như Lor-ca không ngờ bi kịch lại đến với mình sớm như vậy khi mà khát vọng cách tân còn dang dở. Không ngờ nên mới “bỗng kinh hoàng” choáng váng. Nói tóm lại, khổ thơ này là một tầng khác của bi kịch - Đó là bi kịch của người chiến sĩ bị hành quyết, bị thủ tiêu sinh mệnh.

Sát hại Lor-ca, kẻ thù của nền dân chủ cũng vùi dập cả tiếng đàn của chàng:
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy


Những câu thơ này đã miêu tả tiếng đàn của Lor-ca như một sinh mệnh trong bi kịch. Ở đây, tiếng đàn được nhân hóa, có tâm trạng, cảm giác; được hữu hình hóa thành màu sắc, hình khối.

Từ góc độ ngữ âm, có thể thấy mỗi câu thơ như một cung bậc của tiếng đàn mà các âm giai đã hòa vào thành hợp âm bi tráng của một bản nhạc cứ tăng dần về cường độ và trường độ. Cách hòa phối âm thanh như thế đã gợi liên tưởng đến hình ảnh một con người kiên gan, bất khuất như cố ngẩng cao đầu trước khi ngã gục, "ròng ròng máu chảy".

Từ góc độ ngữ nghĩa, những câu thơ này lại mở ra một trường liên tưởng khác. Kể cũng có lý khi lý luận văn học hiện đại đã phân biệt rõ văn bản tác phẩm và tác phẩm. Văn bản tác phẩm thì chỉ có một, cùng lắm là có thêm một vài dị bản (trừ văn học dân gian) còn tác phẩm thì có muôn vàn. Tác phẩm là cái phần cảm thụ mang màu sắc chủ quan của mỗi người đọc. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết về Đàn ghi ta của Lor-ca và ở khổ thơ này, mỗi người lại “nghe” ra những ý nghĩa thú vị. Trong số đó chắc chắn không khỏi có những ý áp đặt nhưng tôi tin Thanh Thảo cũng không nỡ trách người đọc bởi cấu trúc cú pháp thơ và đặc biệt là cú pháp bài thơ này vốn lỏng lẻo, mơ hồ. Vả lại người đọc - ở một chừng mực nào đó cũng có quyền “vẽ” ra cho mình một tác phẩm riêng từ những gợi ý trong văn bản của tác giả. Trở lại với khổ thơ thứ ba bài thơ, bắt đầu là "tiếng ghi ta nâu" còn hiền hoà với chủ âm là thanh bằng, là hình ảnh tả thực, là tiếng của chiếc ghi ta màu nâu (khác với “chiếc ghi ta màu bạc” mà có người đó cho rằng đó là chiếc ghi ta đã được hóa, như nghi lễ hóa vàng trong tín ngưỡng dân gian). Gắn với âm thanh ấy là hai hình ảnh tương phản : “bầu trời” và “cô gái ấy”. Tương phản bởi lẽ, “bầu trời” là hình ảnh thuộc về cái bao la, vô cùng, “cô gái ấy” là hình ảnh con người hữu hạn. Câu thơ tái hiện bóng dáng một cô gái lẻ loi trên một nền trời trống trải, mênh mang. Theo chú thích của hai bộ sách giáo khoa ngữ văn 12 hiện hành, đó có thể là An-na Ma-ri-a, người mà sau khi Lor-ca chết đã chưa từng một lần lên xe hoa, đó cũng là người đã từng gợi bao tứ thơ kỳ diệu về tình yêu, cuộc sống cho thơ Lor-ca. Nếu tin như vậy thì câu thơ này còn là sự ngậm ngùi thương cảm cho một mối tình tan vỡ mà thi sĩ bỏ lại?. Hình ảnh "tiếng ghi ta lá xanh biết mấy’’ lại là ẩn dụ nói lên một bi kịch xót xa. Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy hay tài năng Lor-ca đang ở độ chín, sức dâng hiến đang dồi dào mà cái chết “bỗng kinh hoàng” xảy đến mang theo bao nỗi tức tưởi. Những thi ảnh nối tiếp từ “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” đến “ròng ròng máu chảy” tạo tính lôgic của những dòng thơ càng gợi lên nỗi bàng hoàng. “Tròn bọt nước” là toàn bích, là độ hoàn mĩ của tiếng đàn nhưng cũng là cái mốc dẫn đến “vỡ tan” rồi ứa ra “dòng dòng máu chảy”. Không chỉ là “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay’’ (Truyện Kiều) mà là tiếng đàn đang tuôn máu. Tâm trạng của Nguyễn Du khi than thở cho tập ký của Tiểu Thanh “văn chương vô mệnh lụy phần dư” (văn chương vốn không có số mệnh mà sao vẫn bị đốt đến chỉ còn lại phần dư cảo) hay Hoàng Cầm than khóc cho số phận tranh Đông Hồ trước sự tàn phá của giặc Pháp chắc cũng đến thế là cùng. Như thế, nếu khổ thơ trên tái hiện bi kịch của người chiến sĩ bị hành quyết thì khổ thơ này lại thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ bị thủ tiêu tác phẩm.

Nhưng chưa hết, điều băn khoăn nhất trong mối tri âm của Thanh Thảo là những di nguyện của Lor-ca: “không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng”. Nếu cần viện dẫn để chứng minh tính giao thoa giữa các lớp nghĩa của thơ ca viết theo lối tương giao thì đây là một ví dụ điển hình. Ở lớp nghĩa bề mặt có thể hiểu Lor-ca tuy chết nhưng tiếng đàn bất tử, bất diệt, dẫu là "dòng dòng máu chảy". Kẻ thù của nền dân chủ có thể giết hại Lor-ca nhưng không thể chôn nổi tiếng đàn. Nó vẫn như "cỏ mọc hoang" lan nhanh và mạnh mẽ. Khi hành quyết, bọn độc tài đã ném xác Lor-ca xuống giếng hòng phi tang. Đây là nỗi đau của cả đất nước Tây Ban Nha mà sự thật, đến nay, hài cốt của Lor-ca vẫn lẫn khuất trong số hàng bao nhiêu nạn nhân của các vụ đàn áp. Nếu “diễn nghĩa” ý thơ của những câu này thì có thể hiểu, Lor-ca chết thảm, vốn đã đau đớn nhưng còn đau đớn hơn vì di nguyện “hãy chôn tôi với cây đàn” đã không được thực hiện. Sự nghiệp cách tân nghệ thuật của thi hào không có người kế tiếp. Đó là vì thần tượng Lor-ca quá lớn khiến người ta không thể chôn vùi được tiếng đàn hay vì quá yêu Lor-ca mà hậu thế không nỡ quên, không thể quên? Và vì thế tiếng đàn trở thành một thứ cỏ mọc hoang níu chân người đến sau. Thế nên những giọt nước mắt tức tưởi kia không chịu ngủ yên, không thể nguôi yên, không thể lặn chìm ngay vào cõi vĩnh hằng mà cứ ánh lên, nhức nhối một niềm đau “long lanh trong đáy giếng”. Nghĩa là hình ảnh "giọt nước mắt vầng trăng" kia lại thêm một lần tổn thương. Càng long lanh càng đau xót. Không hiểu trong lúc viết những câu thơ này, Thanh Thảo có bị ám ảnh bởi những câu thơ tả nhạc trong bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu không nhưng rõ ràng giữa Thanh Thảo và Xuân Diệu vẫn có nét tương đồng. Mượn tứ bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị để viết về cái chết của người thiếu phụ trên bến Tầm Dương (Vì nghe nương tử trong câu hát / Đã chết đêm rằm theo nước xanh), Xuân Diệu cũng dùng từ “long lanh” để diễn tả nỗi sầu hận: “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận / Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người”. Tuy nhiên ở Nguyệt Cẩm, Xuân Diệu chỉ muốn mượn lời tri âm với nàng “nương tử” để trải nghiệm đến cùng nỗi sầu, muốn được “Sống toàn thân và thức nhọn giác quan” còn Thanh Thảo thì khác. Nhắc lại di nguyện của Lor-ca, chắc chắn, tác giả muốn bộc lộ khát vọng thực hiện di nguyện ấy - khát vọng muốn góp phần cách tân thơ ca Việt Nam sau chiến tranh.

Với Lor-ca, cái chết là bi kịch nhưng cũng thật bất ngờ, cái chết lại là một sự giải thoát: “đường chỉ tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lor-ca bơi sang ngang / trên chiếc ghi ta màu bạc”. Dựa trên cách phối thanh của những câu thơ này, có thể nhận thấy ở đây có một hụt hẫng, ngậm ngùi. Hình ảnh “đường chỉ tay đã đứt” tượng trưng cho định mệnh nghiệt ngã. Nghiệt ngã vì Lor-ca muốn gắn bó với cuộc đời mà đường chỉ tay đoản mệnh của đấng tài hoa chỉ có vậy, không thể bước tiếp về phía trước cùng làn sóng dân chủ, cùng xu hướng cách tân nghệ thuật mà đành phải tách mình, phải bơi tạt “sang ngang”. Phương tiện giúp người nghệ sĩ ham cách tân bơi “sang ngang” (tức là siêu thoát) lại chính là cây đàn, là chiếc ghi ta màu bạc. Những câu cuối miêu tả hành trình đi vào cõi bất tử của Lor-ca thật mãnh liệt, dữ dội:

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...


Hành động “ném” được miêu tả hai lần với hai mục đích khác nhau. Ném lá bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước là ném vào cái dữ dội, danh giới giữa khổ đau và siêu thoát, để "dòng sông rộng vô cùng" trở nên bình lặng, giúp thi sĩ sang bờ bên kia một cách bình yên. Như đã nói ở trên, một con người tha thiết gắn bó với cuộc sống, đấu tranh hết mình vì tự do mà bỗng phải rời khỏi thế giới này là điều không dễ. Sự ra đi khó nhọc ấy được hình tượng hóa thành hình tượng một “dòng sông rộng vô cùng” với những xoáy nước dữ dằn. Cũng trên con đường siêu thoát ấy, trước khi phải rời bỏ thế giới này để sang bên kia bờ, “chàng” nghệ sĩ lãng tử đã kịp ném trái tim mình - một biểu tượng của sự sống nồng nhiệt về phía cuộc đời. Nghĩa là thi sĩ dùng chính bầu nhiệt huyết cách tân nghệ thuật, khát vọng đấu tranh vì tự do của mình gửi lại cho đất nước Tây Ban Nha đang ngột ngạt, nóng bỏng. Thanh Thảo hình dung khi trái tim ấy được ném trở lại, nó lập tức khiến cõi “lặng im” bỗng “bất chợt” tấu lên rộn rã những âm thanh: “li-la li-la li-la...”. Đó liệu có thể là những chi tiết ngầm chỉ vai trò, ảnh hưởng của thơ Lor-ca với làn sóng đấu tranh vì tự do của Tây Ban Nha hồi đầu thế kỷ XX? Nghĩa là trước khi chết, Lor-ca đã kịp để lại một di sản nghệ thuật có sức thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của nhân dân. Mặt khác, điệp khúc “li-la li-la li-la” trở lại cuối tác phẩm không chỉ nhằm mô phỏng lại tiếng đàn. Li-la - như người ta đã đọc ra - còn là tên gọi khác của hoa tử đinh hương, một loài hoa đặc trưng của Tây Ban Nha. Thế nên, cái nhịp điệu li-la còn gợi hình ảnh những sắc hoa cứ bừng nở dần như những vòng nguyệt quế dành cho Lor-ca, là những sắc hoa tôn vinh sự chiến thắng, sự bất diệt của nghệ thuật, của những tư tưởng tự do dân chủ trong cuộc sống và trong thơ Lor-ca.

Đàn ghi ta của Lor-ca không chỉ là tiếng nói tri âm, không chỉ là lời tôn vinh cao nhất mà Thanh Thảo dành kính tặng Lor-ca; thể hiện sự ngưỡng mộ, đồng cảm với một bậc tài hoa, oan khuất. Hơn thế, thi phẩm còn gửi vào đó một triết lí về sức sống của nghệ thuật: nghĩa là dù bị vùi giập nhưng những gì là nghệ thuật chân chính vẫn luôn bất diệt, bất tử.

Nguyễn Thư
Thêm
"Đàn ghita của Lorca" (Thanh Thảo) - Một bài thơ lạ (Bài viết của Nguyễn Thư)
  • Like
Reactions: Trần Ngọc 2021
1K
1
1

baivanhay

Moderator
Thành viên BQT
19/8/19
131
63
62,937
Xu
1,357
Việc đưa bài thơ Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo vào Chương trình Ngữ văn 12 đã tạo nên một dư luận khá sôi động. Quả thật, so với những giai phẩm được đưa vào nhà trường từ trước đến nay...
 
  • Like
Reactions: Trần Ngọc 2021
Khi nhắc đến cây bút luôn nỗ lực cách tân thơ Việt chúng ta không thể không nhắc đến Thanh Hải - người luôn đem đến cho thơ một mỹ cảm hiện đại với hệ thống thi ảnh và ngôn ngữ hiện đại. Ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc qua bài "Đàn ghita của Lorca"
Hôm nay, hãy cùng www.vanhoctre.com đi phân tích bài thơ "Đàn ghita của Lorca" để tìm ra những nét mới lạ, độc đáo trong cách viết của ông nhé!


5087

Phân tích bài thơ "Đàn ghita của Lorca"

"Đàn ghita của Lorca" của tác giả Thanh Thảo là một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lorca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.

Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lorca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc:

"những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du

tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan"

Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lorca". Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lorca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lorca, là bản mệnh của Lorca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghita - âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)...

Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lorca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lorca - người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ", "con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lorca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng "song trùng" với hình tượng Lorca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lorca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lorca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lorca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý :

"Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du

tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy"

Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lorca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lorca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này.

Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lorca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lorca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn.

Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lorca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lorca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau: áo choàng bê bết đỏ tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lorca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này).

Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lorca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lorca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ "li-la li-la li-la" xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lorca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn.

Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng !

Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lorca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ :

"không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh đáy giếng

đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt

li-la li-la li-la..."

Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lorca trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghita của Lorca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lorca - một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí: "không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được!" Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.

Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng logic tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo logic tồn tại của chính cuộc đời tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,... Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lorca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại...

Trên thực tế, cái chết của Lorca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lorca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn ghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lorca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo.

Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la...

Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan - để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghita của Lorca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lorca -.cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch.
Thêm
Phân tích bài "Đàn ghita của Lorca" - Thanh Thảo
  • Like
Reactions: baivanhay
1K
1
1

Lan Hương

Truyền thông VHT
Thành viên BQT
5/4/21
652
383
62,999
19
forum.vanhoctre.com
Xu
6,835,772
Khi nhắc đến cây bút luôn nỗ lực cách tân thơ Việt chúng ta không thể không nhắc đến Thanh Hải - người luôn đem đến cho thơ một mỹ cảm hiện đại với hệ thống thi ảnh và ngôn ngữ hiện đại. Ông đã...
 
  • Like
Reactions: baivanhay
Mỗi tác phẩm của nhà thơ, nhà văn, người hoạ sĩ,... đều được lựa chọn rồi đặt những tên mỹ miều để thu hút người đọc ngay từ cái nhìn đầu tiên nhưng ẩn chứa sau đó đa phần đều muốn nói lên nội dung của tác phẩm. Bên cạnh đó, lời đề từ cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó là chiếc chìa khóa mà tác giả trao cho bạn đọc nhằm mở cánh cửa tìm được con đường khai phá, thâm nhập vào tác phẩm. Nó giúp độc giả giải mã những ý nghĩa sâu kín của tác phẩm.
Cùng www.vanhoctre.com đi phân tích ý nghĩa nhan đề và lời đề từ của bài thơ "Đàn ghita của Lorca" nhé!


5013


Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ bài "Đàn ghita của Lorca"
1.Tên tác phẩm:
- Nội dung chính của bài thơ được thể hiện ở ngay tên bài thơ. Nhiều khi tên tác phẩm có thể gợi mở cho độc giả nội dung chủ yếu, cốt lõi của tác phẩm. Nhan đề bài thơ “ Đàn ghi ta của Lor-ca” cũng thuộc trường hợp ấy.
- Ý nghĩa nhan đề:
+ Đàn ghi-ta được coi là nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha. Vì thế, ngoài tên gọi chính, ghi-ta còn được nhiều người gọi bằng cái tên khác là Tây Ban Cầm.
+ Đàn ghi-ta gắn bó thân thiết với Lor-ca trên những nẻo đường ca hát và sáng tạo. Theo nhà thơ Thanh Thảo: cây đàn ghi-ta ở đây là biểu tượng của thơ ca. Như vậy, bài thơ của Thanh Thảo trước hết viết về thơ ca (nghệ thuật) của Lor-ca, là sự suy tư, cảm nhận của Thanh Thảo về thơ Lor-ca.
+ Đàn ghi ta là biểu tượng cho tình yêu của Lor-ca đối với đất nước Tây Ban Nha, cho con đường nghệ thuật của tác giả, cho khát vọng cao cả mà Lor-ca nguyện phấn đấu suốt đời.
+ “Thơ tức là người”, thơ Lor-ca là phần tinh hoa, tinh túy nhất của tâm hồn Lor-ca: “dường như không thể phân biệt được cuộc đời của Lor-ca với thơ ông bởi chúng quyện chặt vào nhau và thơ Lor-ca chính là cuộc đời của ông, đúng đến từng câu, từng giây phút một” (Thanh Thảo). cho nên nhan đề bài thơ không chỉ dừng lại ở một nhạc cụ Tây Ban Nha, về thơ của Lor-ca mà sâu thẳm hơn nhan đề bài thơ ấy còn là viết về chính con người Lor-ca.

2. Lời đề từ: “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”
- Lời đề từ của thi phẩm nhiều khi là chiếc chìa khóa mà tác giả trao cho bạn đọc nhằm mở cánh cửa tìm được con đường khai phá, thâm nhập vào tác phẩm. Nó giúp độc giả giải mã những ý nghĩa sâu kín của tác phẩm:
- Lời đề từ có xuất xứ từ bài thơ “Ghi nhớ” của Lor-ca. Đây làdi chúc sớm của nhà thơ. Sinh thời Lor-ca luôn linh cảm về “một cái chết được báo trước”.
khi nào tôi chết
hãy vùi xác tôi cùng với cây đàn
dới lớp cát.
khi nào tôi chết
hãy vùi xác tôi giữa rặng cây cam
và đám bạc hà.
khi nào tôi chết
hãy vùi xác tôi, tôi xin các người đó
nơi một chiếc chong chóng gió.
khi nào tôi chết!
- “Hãy chôn tôi với cây đàn” thể hiện tình yêu Tổ quốc nồng nàn và cũng là tình yêu nghệ thuật say đắm của Lor-ca.
- “Hãy chôn tôi với cây đàn” còn biểu trưng cho sự nghiệp của Lor-ca, ước nguyện suốt đời theo đuổi sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật. Nhưng ông sợ một lúc nào đó, thơ ca của mình sẽ là bước cản đối với những người đến sau. Vì vậy, lời đề từ còn là mong muốn xóa bỏ ảnh hưởng của bản thân để dọn đường cho thế hệ sau vươn tới. Đây là một nhân cách cao đẹp. Thông điệp của Lor ca có sự gặp gỡ với Booc ghết, biểu tượng vĩ đại của văn học Acghentina, ông đã nói khi xuống tàu giã biệt bạn bè: “Hỡi tuổi trẻ hãy giết chết Booc ghết”. Hay Trần Dần cũng từng tuyên bố: “Hãy chôn thơ mới”.
Thêm
Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ của bài thơ “Đàn ghita của Lorca” (Thanh Thảo)
  • Like
Reactions: baivanhay
1K
1
0
Nhà thơ Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Tài năng thờ ca của Thanh Thảo phát triển và trưởng thành trong những năm cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Thanh Thảo đem đến cho thơ ca thời đó tiếng nói trung thực của một thế hệ tình nguyện cầm súng bảo vệ Tổ quốc, vẫn là cái tôi công dân đầy nhiệt huyết nhưng thơ Thanh Thảo nghiêng về phản ánh tiếng nói của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở trước các vấn đề nóng bỏng của xã hội và thời đại. Thanh Thảo muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu bản chất của nó nên ông không chấp nhận lối biểu đạt ồn ào, dễ dãi. Những tập thơ viết về con người trong chiến tranh và hòa bình của Thanh Thảo đã được đánh giá cao: Những người đi tới biển, Dấu chân qua trảng cỏ, Những ngọn sóng mặt trời, Khối vuông ru-bich, Từ một đến một trăm… Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca in trong tập Khối vuông ru-bich, xuất bản năm 1985 được dư luận đánh giá là thành công về nhiều mặt của Thanh Thảo:

“Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn”.
(Ph. G. Lor-ca)

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la ti-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

Tây Ban Nha hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt
vầng trăng long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi tar màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…

Bài thơ viết về cái chết của Fê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 – 1936), thi sĩ, nhạc sĩ, nhà biên kịch thiên tài người Tây Ban Nha. Dòng máu nóng bỏng nhiệt tình thôi thúc nhà thơ cất cao tiếng đàn, tiếng hát, lời thơ để ca ngợi tự do bất diệt, phản đối bản chất tàn bạo, xấu xa của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô. Ông đã bị chúng sát hại ngày 19-8-1936, khi ông mới 38 tuổi. Cả đất nước Tây Ban Nha khóc thương ông, một nhà thơ – chiến sĩ của tự do.

Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động dư luận không những ở Tây Ban Nha mà còn trên toàn thế giới, không chỉ lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo vô cùng khâm phục và yêu mến khí phách cũng như tài năng của Lor-ca nên đã dành tâm huyết để viết nên bài thơ giống như dựng một tượng đài sừng sững về Lor-ca trong tâm tưởng những người mến mộ ông qua một hình ảnh quen thuộc mà độc đáo: cây đàn ghi ta.

Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lor-ca và biểu tượng nghệ thuật Lor-ca trong mạch cảm xúc và suy tư đa chiều, vừa sâu sắc, vừa mãnh liệt của tác giả. Hình tượng Gar-xi-a Lor-ca trong bài thơ có thể được cảm nhận ở nhiều cấp độ, nhiều khía cạnh khác nhau nhưng khái quát lại có thể thấy một số nét chính : Đó là một nghệ sĩ tự do và cô đơn. Tuy bị giết chết bởi thế lực phát xít tàn ác nhưng tâm hồn Lor-ca bất diệt. Bài thơ làm sống lại huyền thoại về một con người, một nghệ sĩ, một chiến sĩ của đất nước có truyền thông âm nhạc, thi ca và những vũ điệu rực lửa.
Câu nói nổi tiếng : Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn của Lor-ca được lấy làm đề từ của bài thơ giống như một “chìa khóa” ngầm hướng người đọc tới sự hiểu biết đúng đắn thông điệp của bài thơ. Trong nhận thức của một người đọc bình thường, câu nói này hiển nhiên bộc lộ tình yêu say đắm của Lor-ca với nghệ thuật. Nhưng không chỉ có vậy, nó còn là tình yêu tha thiết của người nghệ sĩ với xứ sở của mình.


Mở đầu bài thơ là tiếng đàn rộn rã đầy hứng khởi tượng trưng cho tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, yêu đời của Lor-ca nói riêng và của dân tộc Tây Ban Nha nói chung. Hình ảnh Lor-ca – một nghệ sĩ tự do và đơn độc – được giới thiệu bằng những nét chấm phá gây ấn tượng mạnh mẽ:

những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Màu áo choàng đỏ gắt nhắc tới một nét độc đáo trong đời sống văn hóa của người dân Tây Ban Nha vừa giúp chúng ta hình dung khá cụ thể về Lor-ca, vừa gợi hồi tưởng đến trò chơi đấu bò tót mạo hiểm, dũng mãnh có sức cuốn hút rất lớn với đông đảo dân chúng Tây Ban Nha và du khách quốc tế. Các chàng đấu sĩ nổi bật giữa đấu trường với chiếc áo choàng đỏ thắm trên vai và mảnh vải đỏ trong tay. Đơn độc với thanh kiếm hoặc mũi lao, chàng đấu sĩ bằng sự sáng suốt, khéo léo và lòng dũng cảm sẽ hạ gục chú bò tót to lớn, hung dữ trong một hiệp đấu ngắn ngủi trước sự chứng kiến của hàng vạn khán giả trên sân.



Nhưng ở đây không, phải là đấu trường với cuộc đấu giữa võ sĩ với bò tót mà là một đấu trường đặc biệt với cuộc đấu dai dẳng, bền bỉ mà không kém phần ác liệt giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài phát xít Phơ-răng-cô.

Ở khổ thơ thứ hai và thứ ba, tác giả diễn tả cái chết đột ngột của Lor-ca bằng các chỉ tiết đặc biệt gây ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc. Từ sự sống bừng bừng đột ngột chuyển sang cái chết bi thảm chỉ trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc nghiệt ngã, kinh hoàng :


Tây Ban Nha hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy


Có thể nói Thanh Thảo đã thực sự hóa thân vào nhân vật trữ tình để cảm nhận thấm thía nỗi đau đớn vô biên và thể hiện điều đó bằng ngôn ngữ của trái tim, của ngòi bút như rướm máu. Thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong đoạn thơ này là cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lor-ca. Đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực tàn ác của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời với hiện thực phũ phàng đẫm máu.


Cái chết đến với Lor-ca hoàn toàn bất ngờ. Người nghệ sĩ ấy tuy luôn bị ám ảnh bởi cái chết nhưng không hề nghĩ là nó lại đến sớm như thế và đến vào lúc không ngờ nhất. Tiếng hát tượng trưng cho sự sống bỗng nhiên tắt lịm trước cái chết khủng khiếp hiện diện qua hình ảnh gây ấn tượng rùng rợn : áo choàng bê bết đỏ. Dòng máu sôi sục khát vọng tự do của Lor-ca đã tuôn đổ trên mảnh đất mà ông yêu quý. Hình ảnh này chứa đựng ý nghĩa tố cáo tội ác dã man của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô đối với nhân dân Tây Ban Nha yêu chuộng tự do, hòa bình, công lí. Sự kiện thảm khốc ấy tạo ra những cú sốc dây chuyền được tác giả diễn tả theo lối ẩn dụ tượng trưng với sự chuyển đổi cảm giác liên tục khá mới mẻ, táo bạo, qua những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần nêu bật ý nghĩa tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc khác nhau, hoàn cảnh khác nhau. Mỗi so sánh là một ẩn dụ về cái đẹp, về tình yêu, về nỗi đau, về cái chết: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy.


Hình ảnh tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy không đơn thuần chỉ là nghệ thuật nhân hóa mà cao hơn thế, nó là con người, là số phận, là linh hồn của Lor-ca. Đây là một hình ảnh gây ấn tượng và ám ảnh sâu đậm, day dứt khôn nguôi trong tâm hồn người đọc.


Niềm tin vào sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca còn biểu hiện tập trung ở những khổ thơ cuối. Sự khâm phục chân thành và lòng tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca là cơ sở vững chắc của niềm tin mãnh liệt ấy. Tình cảm đau xót thể hiện qua những câu thơ có âm điệu ngắt quãng giống như tiếng khóc nghẹn ngào, thổn thức:



không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt
vầng trăng long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…


Ở đoạn thơ này, Thanh Thảo vẫn tiếp tục sử dụng các biện pháp so sánh và ẩn dụ tượng trưng để khắc đậm niềm tin. Cùng với ý không ai chôn cất tiếng đàn, hình ảnh đường chỉ tay là ẩn dụ về số phận, về định mệnh nghiệt ngã, ít nhiều nhắc nhớ đến chi tiết Gar-xi-a Lor-ca bị bọn phát xít thủ tiêu và ném xác xuống giếng. Các hình ảnh tượng trưng như giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng, dòng sông, lá bùa, chiếc ghi ta màu bạc,… đều được sáng tạo theo lối thơ tượng trưng ám chỉ cõi chết, nơi siêu thoát. Các hành động ném lá bùa, ném trái tim mình cũng có ý nghĩa tượng trưng cho sự giã từ vĩnh viễn, một sự lựa chọn của Lor-ca.


Câu thơ: không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang… chứa đựng nhiều tầng nghĩa. Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lor-ca, cho tình yêu tự do và yêu con người mà ông suốt đời theo đuổi. Đấy là cái đẹp không bạo lực nào có thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống mãi, truyền lan mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại. Đây cũng là nỗi xót thương trước cái chết bi thảm của một thiên tài; trước hành trình cách tân nghệ thuật dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Nghệ thuật bỗng thành thứ cỏ mọc hoang ?! Nhưng ý thơ đâu chỉ dừng lại ở đó. Dường như còn có cả tâm trạng của người nghệ sĩ đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn: giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… như giọt nước mắt khóc thương người nghệ sĩ chân chính của nhân dân. Câu thơ gợi những suy tư, liên tưởng đa chiều trong lòng người đọc.



Nói về cái chết và để cái chết của Lor-ca bớt phần bỉ thảm, nhà thơ Thanh Thảo đã kết hợp những hình ảnh dân gian với những hình ảnh hiện đại để thể hiện sáng tạo nghệ thuật của riêng mình: đường chỉ tay đã đứt, dòng sông rộng vô cùng; phận người thì ngắn ngủi mà thế giới thì mênh mang. Lor-ca đã đi vào cõi bất tử với hình ảnh: Lor-ca bơi sang ngang – trên chiếc ghi ta màu bạc.


Các hành động ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim mình vào cõi lặng yên bất chợt đều mang nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự với những ràng buộc và hệ lụy trần gian… Cây đàn ghi ta quen thuộc gắn bó với Lor-ca như hình với bóng giờ đây đã trở thành con thuyền đưa linh hồn ông sang thế giới bên kia, một thế giới an lạc vĩnh hằng không có chiến tranh, không còn đổ máu. Cuộc đời, số phận của Lor-ca đã kết thúc nhưng tiếng đàn của ông vẫn ngân nga, vang vọng mãi: li-la li-la li-la.


Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ dồi dào nhạc tính, được sáng tạo với chủ ý tô đậm hình tượng Gar-xi-a Lor-ca – nghệ sĩ hát rong vĩ đại – người đã dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. Có thể nhận ra nhạc tính của bài thơ từ vần và nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ, sự kết hợp ngẫu hứng giữa các từ ngữ tạo nên những giai điệu mang tính chất âm nhạc. Những từ mô phỏng âm thanh qua các nốt đàn ghi ta. Giai điệu bài thơ mang dáng dấp một bản nhạc không lời.


Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật, cho tình yêu tự do, tình yêu con người của Lor-ca, tượng trưng cho Cái Đẹp của đời. Bạo lực phát xít giết chết Lor-ca nhưng không thể nào giết chốt tiếng đàn du dương, réo rắt của ông đã gieo vào lòng người dân Tây Ban Nha những hạt giống tự do và khát vọng. Cái Đẹp là bất tử. Lor-ca được coi là thần tượng bởi lòng yêu tự do, yêu con người, bởi khí phách kiên cường không khuất phục trước những thế lực bạo tàn. Tâm hồn trong sáng và tài năng hiếm có khiến tên tuổi Lor-ca sống mãi trong tâm hồn người dân Tây Ban Nha.


Nhắc tới Lor-ca, những người yêu mến ông nhớ ngay đến câu nói nổi tiếng bộc lộ tính cách của một nghệ sĩ chân chính: Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn. Nhà thơ Thanh Thảo đã viết về Lor-ca bằng rung động mãnh liệt của cảm xúc, bằng tấm lòng “liên tài” rất đáng trân trọng. Những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ chứng tỏ tâm huyết và khát vọng đổi mới thơ ca của tác giả, góp phần làm cho khả năng thể hiện của ngôn ngữ tiếng Việt thêm tinh tế, phong phú và đa dạng

sưu tầm
Thêm
1K
0
0

Trang cá nhân

Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Hiện tại có cuộc thi nào không các bạn
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. hưnga @ hưnga:
    cho em hỏi xu có những tác dụng gì ạ
Top