Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
1. MB:

- Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ khắc họa hình tượng chiếc xe không kính và vẻ đẹp của nguời chiến sĩ lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Điều đó thể hiện rõ qua 3 khổ thơ cuối của bài.

(trích thơ)

2. TB:

* Khái quát chung:

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra cam go, ác liệt. Bom Mĩ ngày đêm dội lên tuyến đường Trường Sơn huyết mạch.

- Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác năm 1969 (trong thời kì kháng chiến chống Mĩ), in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”.

- Đây là 3 khổ thơ cuối của bài. Phạm Tiến Duật làm nổi bật hơn hình ảnh chiếc xe độc đáo, tô đậm vẻ đẹp của những anh bộ đội cụ Hồ.

* LĐ 1: Đoạn thơ giúp ta cảm nhận được người chiến sĩ lái xe có tình đồng chí, đồng đội gắn bó bền chặt.

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

- “Những chiếc xe từ trong bom rơi” là hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách, khốc liệt của bom đạn chiến trường. Không phải một chiếc xe mà có rất nhiều những chiếc xe như thế tạo thành một tiểu đội, một tập thể cùng chung nhiệm vụ vận tải người, lương thực, vũ khí để chi viện cho chiến trường miền Nam.

- Trên suốt hành trình ấy họ thường xuyên gặp nhau. Chiếc xe không có kính đã trở thành lợi thế để họ trao nhau cái bắt tay.

- Cái bắt tay là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ, là biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.

- Họ bắt tay để truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh vượt qua khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến.

- Họ bắt tay để truyền cho nhau ý chí, niềm tin, bắt tay để thay cho lời hứa quyết tâm chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

- “Bếp Hoàng Cầm” là loại bếp dã chiến của bộ đội ta đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra để địch không phát hiện được.

- Định nghĩa về gia đình thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.

- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc, họ cùng nhau dùng bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút thanh bình hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp người kính có cảm giác gần gũi thân thương như anh em một nhà.

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

- Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3 như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính lái xe trên đường ra trận.

- Cái hay trong câu thơ là tác giả sử dụng từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không vững chắc. Từ láy “chông chênh” khiến ta liên tưởng đến cái chợp mắt, giấc ngủ chập chờn không ngon giấc. Câu thơ đã diễn tả những khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ phải đối mặt đồng thời thể hiện tính chất khẩn trương của cuộc kháng chiến.

- Điệp ngữ “lại đi” cho thấy ý chí quyết tâm của người chiến sĩ.

- “Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho bầu trời hòa bình, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong kháng chiến, bầu trời xám xịt, mịt mờ khói bom bỗng trở nên trong xanh thơ mộng. Trong tận cùng của gian khổ, hi sinh người lính vẫn hướng về ngày mai tươi sáng. Câu thơ giúp ta thấy được người lính có tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tương sáng của dân tộc.

=> Chính tình đồng chí, đồng đội, tinh thần lạc quan đã trở thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

* LĐ 2: Hình ảnh chiếc xe không kính tiếp tục được tái hiện của cuối bài khi bị chiến tranh tàn phá.

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước.

- Điệp ngữ “không có” kết hợp với biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh chiếc xe không chỉ không có kính mà còn không có đèn, không có mui xe, thùng xe găm đầy những vết đạn xước … Hàng loạt các từ phủ định “không” đã diễn tả một cách độc đáo, chân thực đến trần trụi những chiếc xe trên đường ra trận.

- Câu thơ đã giúp ta hình dung chiếc xe méo mó biến dạng, tràn trụi dưới bom đạn của kẻ thù. Qua chiếc xe ấy ta thấy được hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ và những gian khổ mà người lính phải trải qua.

* LĐ 3: Đoạn thơ đã ca ngợi người chiến sĩ lái xe có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng dân tộc.

Xe vẫn chạy vì miền Nam phái trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

- “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi. Chiếc xe cũng có mục đích sống cao đẹp giống như con người: chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.

- “Trái tim” là hình ảnh hoán dụ chỉ người lính lái xe, chỉ ý chí quyết tâm chiến đấu.

+ Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng mình qua lửa đạn.

+ Câu thơ đã thể hiện sự dũng cảm ngoan cường, làm nổi bật lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường của người chiến sĩ.

- Tác giả lấy cái không của chiếc xe để làm nổi bật cái có của người lính làm sáng ngời chân lí của thời đại: Chiến tranh, bom đạn của kẻ thù có thể làm chiếc xe méo mó, biến dạng, có thể cướp đi tính mạng của con người nhưng không thể hủy hoại được ý chí quyết tâm chiến đấu của người lính…để rồi họ làm nên chiến thắng của dân tộc.

* LĐ chốt:

- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ cảm xúc, cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn khai thác chất thơ từ hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến. Giọng thơ sôi nổi, trẻ trung đậm tính khẩu ngữ, ngôn ngữ bình dị cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ, liệt kê…

- Với những nghệ thuật đó, tác giả đã tái hiện một cách chân thực cuộc kháng chiến Mĩ ác liệt qua hình ảnh chiếc xe không kính. Đồng thời đoạn thơ còn ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe: có tình đồng chí đồng đội gắn bó, có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí quyết tâm chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Và đó cũng là vẻ đẹp chung của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

3. Kết bài:

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ mãi hình ảnh chiếc xe không kính trần trụi, méo mó biến dạng dưới bom đạn kẻ thù.

- Ta còn ấn tượng về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn với những vẻ đẹp đáng tự hào.

- Là thế hệ trẻ, chúng ta cần tích cực học tập, rèn luyện để viết tiếp trang sử vàng dân tộc, xứng đáng với truyền thống cha anh.
Thêm
117
0
0
1. MB:

- Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ khắc họa hình tượng chiếc xe không kính và vẻ đẹp của nguời chiến sĩ lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Điều đó thể hiện rõ qua 4 khổ thơ đầu của bài.

(trích thơ)

2. TB:

* Khái quát chung:

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra cam go, ác liệt. Bom Mĩ ngày đêm dội lên tuyến đường Trường Sơn huyết mạch.

- Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác năm 1969 (trong thời kì kháng chiến chống Mĩ), in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”.

- Vị trí + khái quát đoạn thơ: Đoạn thơ là 4 khổ thơ đầu của bài. Tác giả tập trung miêu tả hình ảnh những chiếc xe không kính. Qua đó làm nổi bật vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe: có phong thái ung dung tự tại, dũng cảm, kiên cường bất chấp mọi khó khăn gian khổ…

* LĐ 1: Đoạn thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh chiếc xe không kính:

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.

- Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện.

- Ở hai câu thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực bằng giọng thơ giàu chất khẩu ngữ giống như lời ăn tiếng nói hàng ngày.

- Nghệ thuật điệp ngữ với các từ phủ định “không” được lặp lại nhiều lần, tác giả đã khẳng định bản thân chiếc xe này là có kính.

- Với các động từ mạnh “giật, rung”, điệp ngữ “bom” lặp lại hai lần lời thơ giúp ta thấy được chính bom đạn của chiến tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính.

- Qua hình ảnh chiếc xe không kính, tác giả đã nhấn mạnh tính chất gian khổ, khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

* LĐ 2: Trong gian khổ ấy, người chiến sĩ lái xe càng tỏa sáng nhiều phẩm chất cao đẹp. Trước hết, người lính có tư thế hiên ngang, bình tĩnh, tự tin giữa chiến trường.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

+ Biện pháp đảo ngữ đưa từ láy “ung dung” lên đầu câu gợi thái độ ung dung, đường hoàng, bình thản của những người lính.

+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần cùng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường.

+ Nghệ thuật liệt kê “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã làm nổi bật tư thế vững vàng, chủ động của người chiến sĩ trước mọi hoàn cảnh. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.

- Câu thơ giúp ta cảm nhận được người chiến sĩ sẵng sàng đối diện với gian khổ mà không hề né tránh, không hề run sợ.

+ Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

- Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.

+ Điệp ngữ “nhìn thấy…nhìn thấy…thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.

+ Chiếc xe không kính khiến người chiến sĩ đối diện với bao khó khăn gian khổ mà trước hết là bị gió tạt thẳng vào mắt. Hình ảnh nhân hóa “xoa mắt đắng” thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.

+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim.

+ Từ láy “đột ngột”, hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái. Giữa chiến trường ác liệt người chiến sĩ vẫn mở rộng tâm hồn để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy người chiến sĩ có tâm hồn mơ mộng, lãng mạn.

=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên được miêu tả chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, khốc liệt của cuộc kháng chiến.

* LĐ 3: Người chiến sĩ lái xe luôn lạc quan, yêu đời, anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy.

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.



Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

- “Gió”, “bụi”, “mưa” là những hình ảnh tượng trưng cho những gian khổ nơi chiến trường. Hết gió lại đến mưa, đến bụi, khó khăn chồng chất khó khăn. Đường Trường Sơn hai mùa mưa nắng rõ rệt, mùa khô bụi bay mù trời, mùa mưa đường trơn ngập cả bánh xe như thử thách bản lĩnh người chiến sĩ.

- Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” với các động từ mạnh “phun, tuôn, xối” đã diễn tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường…

- Gian khổ là thế mà các anh vẫn phì phèo châm điếu thuốc, vẫn mặc kệ trời mưa lái trăm cây số nữa.

- Cấu trúc lặp: “không có…ừ thì” đi liền với kết cấu phủ định “chưa cần” đã nhấn mạnh thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe.

=> Với ngôn ngữ giản dị, giọng điệu thản nhiên, hóm hỉnh tác giả làm nổi bật tính cách trẻ trung, ngang tàng, tinh thần lạc quan và bản lĩnh kiên cường bất chấp mọi khó khăn thử thách của người chiến sĩ lái xe trên con đường huyết mạch Trường Sơn.

* LĐ chốt:

- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ cảm xúc, cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn khai thác chất thơ từ hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến. Giọng thơ sôi nổi, trẻ trung đậm tính khẩu ngữ, ngôn ngữ bình dị cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh, ẩn dụ, liệt kê…

- Với những nghệ thuật đó, tác giả đã tái hiện một cách chân thực cuộc kháng chiến Mĩ ác liệt qua hình ảnh chiếc xe không kính. Đồng thời đoạn thơ còn ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe: bình tĩnh, tự tin, lạc quan yêu đời, anh dũng kiên cường bất chấp mọi gian khổ. Và đó cũng là vẻ đẹp chung của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

3. Kết bài:

- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ mãi hình ảnh chiếc xe không kính trần trụi, biến dạng dưới bom đạn kẻ thù.

- Ta còn ấn tượng về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn với những vẻ đẹp đáng tự hào.

- Là thế hệ trẻ, chúng ta cần tích cực học tập, rèn luyện để viết tiếp trang sử vàng dân tộc, xứng đáng với truyền thống cha anh.
Thêm
138
0
0
1. Tác giả

- Là một trong số những nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

- Đề tài: viết về người lính và những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường sơn

- Phong cách thơ: trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch mà sâu sắc

2. Tác phẩm:

a. Xuất xứ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa

b. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt. Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường huyết mạch Trường Sơn. Trong khi đó những đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam máu thịt.

c. Nội dung.

- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.

d. Nghệ thuật:

- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.

- Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm nhưng có sự gia tăng đáng kể của các yếu tố tự sự.

- Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường.

- Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn, tinh nghịch, lạc quan.

e. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.

- Từ “Bài thơ” tưởng như thừa. => Gợi ra vẻ đẹp, chất thơ, chất lãng mạn

- “Những chiếc xe không kính”: Xe bị hỏng, xấu xí => Gợi ra sự tàn khốc, ác liệt của chiến tranh

=> Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà

chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh.
Thêm
81
0
0
Nhan đề bài thơ vô cùng lạ:
- Trước hết, nó đã làm nổi bật một hình ảnh rất độc đáo của toàn bài và đó là hình
ảnh hiếm gặp trong thơ - hình ảnh những chiếc xe không kính. Hình ảnh ấy gợi lên
hiện thực khốc liệt của chiến tranh.
- Vẻ khác lạ còn ở hai chữ “bài thơ” tưởng như rất thừa nhưng là sự khẳng định chất
thơ của hiện thực, của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm
nguy của chiến tranh.
- Nhan đề góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, tâm
hồn của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đồng
thời thể hiện cảm hứng khai thác chất thơ từ trong hiện thực chiến tranh khốc liệt
của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Thêm
71
0
0
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” khắc họa được nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính và hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, gắn bó với những cung đường và những chiến sĩ lái xe quân sự. Bài thơ chủ yếu kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ, có chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, sáng tạo được những hình ảnh độc đáo, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.

Nhận định hay Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Lời tác giả Phạm Tiến Duật

Hình ảnh cuối cùng tỏa lên cả bài thơ, làm bài thơ lung linh một ý nghĩa, một tình yêu. Phải, chỉ cần có “một trái tim”, một trái tim yêu nước, một lòng khát khao giải phóng miền Nam thì tất cả những cái thiếu kia đâu có hề gì. Vậy đó, khí phách ngang tàng mà vẫn tha thiết yêu thương.
Đó là anh lính lái xe của tôi.
Bài thơ là một trong những hình mẫu tiêu biểu cho thơ ca của tôi. Ngắn, khoảng chứng ba mươi dòng: ngôn ngữ mộc mạc; những hình ảnh khỏe, chân thực, như đời sống chân phương ùa vào thơ, sinh động mà không kém phần lôi cuốn. Tôi thích bài thơ, thích cái vẻ ngang tàng, khí phách, thích cái chất kiêu hùng trong vẻ giản dị nhất của nhân vật. Tứ “không có kính” là cách để làm bật lên tình yêu lớn của người lính lái xe đối với Tổ quốc, với miền Nam.

(Nguyễn Quang Thiều (Chủ biên), Tác giả nói về tác phẩm, NXB Trẻ, 2000)​

2. Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ; cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị.

(Vũ Dương Quý)

3. Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên con đường xe chạy liên tục. Thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàng mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định con người mạnh hơn sắt thép.

(Trần Đình Sử)

4. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có cái mãnh liệt thần kì ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tầm vóc lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thế phải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đáo của người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam.

(Võ Minh)
Thêm
3K
3
0
Nhan đề độc đáo luôn mang đến những sự trải nghiệm thú vị và tăng tính tò mò cho độc giả khi được tiếp xúc với tác phẩm văn chương. Và nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng vậy.

xkk (25).png



Câu hỏi: Cách đặt nhan đề tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính có gì đặc biệt? Hãy làm rõ giá trị độc đáo của cách đặt tựa đề ấy.

Trả lời 1:


Điều ấn tượng đầu tiên trong nhan đề của bài thơ là hình ảnh “tiểu đội xe không kính”. Tiểu đội là đơn vị cơ sở nhỏ nhất trong biên chế của quân đội nhân dân Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 - 1968, đội hình xe chủ yếu là tiểu đội do tình hình đường xá, cầu cống, hệ thống pháo cao xạ bảo vệ.

Nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có điểm khác lạ. Khi đọc nội dung, người đọc chắc hẳn biết được đó là một “bài thơ”. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại đưa vào nhan đề là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “bài thơ” đã cho ta thấy rõ cách khai thác, cách nhìn hiện thực cuộc sống của tác giả. Không chỉ viết về những chiếc xe không kính hay hay hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu nói về chất thơ từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ của những người lính lái xe.

Còn hình ảnh những chiếc xe không kính lại rất độc đáo. Những chiếc xe không kính vốn không phải vì không có kính, mà trải qua những năm tháng bom rơi, bão đạn khiến kính của chúng bị vỡ đi. Đây không phải là một trường hợp hy hữu mà là hoàn cảnh chung của những chiếc xe vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn. Tiểu đội xe không kính được tác giả khắc họa cũng chỉ là một trong rất nhiều tiểu đội như vậy. Từ đó làm nổi bật lên sự khốc liệt của chiến tranh, sự hiểm nguy nơi chiến trường và tinh thần lạc quan của người lính lái xe.

lên từ hiện thực, từ tâm hồn hào hoa lãng mạn, lạc quan yêu đời của người lính - tuổi trẻ Việt Nam giữa khói bom lửa đạn với đầy niềm tự hào, chiến đấu và chiến thắng.

Trả lời 2:

Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ. Bởi rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “bài thơ” - cách ghi như thế có vẻ hơi thừa. Lẽ thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính. Xe không kính tức là xe hỏng, không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ. Vì đã nói đến thơ, tức là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng. Vậy, đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.

Tiếp đến là hình ảnh độc đáo, gây ấn tượng mạnh là những chiếc xe không kính. Từ bài thơ có vẻ như hơi thừa, nhưng thực ra từ đó lại nằm trong chủ định của tác giả và tạo nên sự liên kết giữa hai sự vật có vẻ xa lạ nhau: “bài thơ” và “xe không kính”. Xe không kính thì chẳng có gì làm nên thơ cả, vậy mà nó đã trở thành hình ảnh trung tâm của một bài thơ. Tác giả đã tìm ra chất thơ ở những điều tưởng chừng rất khô khan, trần trụi. Đó chính là chất thơ từ hiện thực gian khổ, ác liệt ở nơi chiến trường.

Chính chất liệu chân thực từ cuộc sống ấy đã làm nên sức sống lâu bền của bài thơ. Cách đặt nhan đề tự nhiên thể hiện sâu sắc phong cách thơ Phạm Tiến Duật: tinh nghịch, sôi nổi, tràn đầy niềm tin vào cuộc sống và chiến đấu. Tác giả đã tìm thấy, phát hiện và khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất. Thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh. Đó cũng là bút pháp của nền văn học kháng chiến chiến chống Mĩ cứu nước, vừa tự nhiên, sôi động vừa đậm chất sử thi hào hùng.

Trả lời 3:

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một hình ảnh mới lạ và hoàn toàn độc đáo. Cách mà Phạm Tiến Duật đặt tên nhan đề cho bài thơ gây sự tò mò cho người đọc vì những chiếc xe khi ra trận làm sao mà không có kính? Nhưng thực chất đây là một dụng ý của tác giả, rằng giữa một hoàn cảnh khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, luôn có những điều phi thường và lạ lùng biết nhường nào.

Những chiếc xe khi ra chiến trường Trường Sơn đều có một điểm chung là không có kính. Bom đạn của kẻ thù, của máy bay Mỹ đã bắn phá trên con đường mà quân ta ra trận, chính vì thế mà tất cả mọi chiếc xe đều bị vỡ hết kính. Bên cạnh đó, Phạm Tiến Duật còn cho người đọc thấy được chất thơ của những người lính khi ra trận thông qua hai chữ “Bài thơ”.

Những người lính luôn trong một tâm trạng phấn khởi, lạc quan, yêu đời và luôn giữ một niềm tin vững vàng dù bom đạn và chiến tranh có khiến họ phải hy sinh. Đây cũng là một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ vừa có tính chân thật và lãng mạn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Các bạn có thể xem các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Giá trị độc đáo của cách đặt tựa đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
369
0
0
Vẻ đẹp của người lính Trường Sơn đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa rõ nét qua bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Ở đó, hình ảnh những chiếc xe dù không có kính nhưng vẫn chạy bon bon cùng với trái tim đầy quả cảm của người cầm lái đã tạo nên một tác phẩm đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật.

xkk.png

Ôn tập kiến thức cơ bản tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Phạm Tiến Duật


Câu 1. Trình bày hiểu biết của em về tác giả Phạm Tiến Duật?

Trả lời


- Năm sinh : 1941 ;

- Năm mất : 2007;

- Quê quán : Huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ;

- Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ ;

- Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam ;

- Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam ;

- Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam ;

- Những đóng góp chủ yếu của ông cho văn học là tác phẩm thơ ;

- Phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ ;

- Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch” nhưng cũng rất sâu sắc;

- Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” ;

- Những tác phẩm chính:

+ Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970) ;

+ Ở hai đầu núi (thơ, 1981) ;

+ Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983) ;

+ Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994).


Câu 2. Trình bày hoàn cảnh sáng tác của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Trả lời


- Giai đoạn cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt, hàng vạn sinh viên tình nguyện gác bút nghiên để cầm súng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Khi đó, tuyến đường Trường Sơn được coi là con đường huyết mạch nối tiền tuyến với hậu phương, chính vì vậy, nơi đây ngày đêm đều phải hứng chịu bom đạn phá hoại của kẻ thù.

- Bài thơ được viết năm 1969, trong thời kì cuộc chiến tranh chống Mĩ đang diễn ra ác liệt, lấy cảm hứng từ hiện thực những chiếc xe tải ngày đêm vận chuyển nhu yếu phẩm chi viện cho miền Nam ruột thịt trên tuyến đường Trường Sơn bị bom giật, bom rung khiến chúng đều không còn cửa kính, Phạm Tiến Duật đã sáng tác bài thơ này.

Câu 3. Ý nghĩa nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Trả lời


- Xe không kính tức là xe hỏng, không có kính, không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, không đảm bảo tiêu chí an toàn cho người sử dụng. Hình ảnh “xe không kính” là hình ảnh trung tâm xuyên suốt cả bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính", một phát hiện thú vị thể hiện sự am hiểu, gắn bó với đời sống chiến tranh của tác giả.

- Tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.

- Cách đặt nhan đề tự nhiên thể hiện sâu sắc phong cách thơ Phạm Tiến Duật: tinh nghịch, sôi nổi, tràn đầy niềm tin vào cuộc sống và chiến đấu.

Câu 4. Viết một đoạn văn trình bày của cảm nhận của bản thân về tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”?

Đoạn văn mẫu


Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thơ của ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tiêu biểu là bài thơ " bài thơ tiểu đội xe không kính" ra đời năm 1969 khi cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang diễn ra ác liệt. Qua việc khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính nhà thơ làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Trước hết nguồn cảm hứng của bài thơ bắt đầu từ hình ảnh độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không kính, những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh thực, thực đến mức trần trụi. Nhưng kì diệu thay, những chiếc xe không còn nguyên vẹn ấy vẫn kiên cường vượt qua mọi thử thách mưa bom, tiến về miền Nam yêu dấu, những chiến sĩ lái xe đã tạo nên sức mạnh ấy. Ngoài sự ác liệt của chiến tranh, các chiến sĩ còn phải chịu nhiều gian khổ bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết, những câu thơ trên đầy ắp chất sống hiện thực ở chiến trường, hiện thực đầy gian khổ nhưng các chiến sĩ đã bình thường hóa cái gian khổ ấy, chấp nhận nó như một tất yếu vẫn đùa vui, tếu táo: "Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha." Một tâm hồn đáng yêu sôi nổi làm sao? Đó còn là bản lĩnh kiên cường của những người chiến sĩ, vẻ đẹp ấy còn được tác giả khắc họa bằng giọng thơ trẻ trung như lời nói của miệng "Không có kính, ừ thì có bụi", , gian khổ là vậy nhưng qua cách nhìn của những người lính thì vô cùng nhẹ nhàng, bởi lòng dũng cảm đã trở thành cốt lõi, bản chất người lính trong cuộc chiến đấu. Bốn câu thơ cuối bài đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe bởi ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam và lòng yêu nước nồng nhiệt của họ. Trái tim là hình ảnh hoán dụ, là hình ảnh yêu nước nồng nàn, trái tim của ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thân yêu, trái tim dũng cảm, trái tim ấy có sức mạnh vô biên, mạnh hơn mọi nỗi nguy nan. Chúng ta mãi yêu mến, tự hào về họ - những con người đẹp nhất trong thời đại Hồ Chí Minh.


Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Ôn tập tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật mới nhất
1K
2
0
Trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy, hình ảnh những chiếc xe ngày đêm chuyên chở vũ khí, lương thực của hậu phương để phục vụ cho tiền tuyến đã đi vào lịch sử. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính" đã ghi nhận những nét đẹp bình dị nhưng quá đỗi hào hùng của những chiếc xe ấy thông qua lăng kính sáng tạo đậm chất thơ của Phạm Tiến Duật.

btvtdxkk.png



Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
BÀI LÀM MẪU

Nhà thơ Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ ca chống Mĩ với giọng thơ vừa khoẻ khoắn, tự nhiên, tràn trề sức sống vừa tinh nghịch, vui tươi đến ngỡ ngàng. Nhà thơ đã thể hiện không khí chiến tranh sôi nổi và sự can trường, tự tin của người lính. Và một trong những tác phẩm hay nhất trong thời kì này của ông chính là "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".

Ở bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là một thực tế, là hình ảnh thường gặp trên tuyến đường Trường Sơn.

Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường ấy:

“Không có kính không phải vì xe không có kính


Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.”

Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng những câu thơ rất thực, đậm chất văn xuôi, điệp ngữ “không”, cùng với động từ mạnh “giật”, “rung”. Tác giả đã lí giải nguyên nhân không có kính của những chiếc xe. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”. Từ đó, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.Vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết thể hiện ở tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời:

“Ung dung buồng lái ta ngồi


Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai đã nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Từ chiếc xe không kính, người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài. Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, vừa trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh mà không hề run sợ, né tránh – một bản lĩnh vững vàng. Mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.”

Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Điều này được thể hiện ở nhịp thơ đều đặn, trôi chảy như xe lăn với việc vận dụng linh hoạt điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê. Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính. Các hình ảnh “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”… diễn tả rất cụ thể cảm giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, chính vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim. Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:

“Không có kính, ừ thì có bụi,


Bụi phun tóc trắng như người già



Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn hóm hỉnh. Cấu trúc: “không có…”; “ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”, “cười ha ha”, “mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niềm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!Sâu sắc hơn,bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi


Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Hình ảnh những chiếc xe không kính, xấu xí, trần trụi xếp hàng tập trung thành tiểu đội. Một hình ảnh mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng gai góc. Những chiếc xe “họp” mặt chính là hình ảnh của những anh lính lái xe cùng quây quần bên nhau để trò chuyện, chia sẻ những chuyện vui buồn của đời lính. Chỉ cần nhìn thấy “bạn bè dọc đường đi tới” là niềm vui, hạnh phúc dâng trào trong tâm hồn họ. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái “bắt tay” thật đặc biệt “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Đây là cái bắt tay thân tình của những con người cùng chung chí hướng, cái bắt tay truyền lửa – ngọn lửa soi sáng những chặng đường khốc liệt được thắp lên từ triệu trái tim chiến sĩ tràn đầy nhiệt tình cách mạng. Những con người vốn “xa lạ”, gặp nhau nơi chiến trường, đồng điệu nhau ở tình yêu Tổ quốc và trở thành đồng đội, “đồng chí‘. Họ kề vai, sát cánh bên nhau không chỉ trong những giờ phút khốc liệt băng qua mưa bom bão đạn, đối mặt với kẻ thù, cận kề cái chết mà cả trong những phút giây ấm áp, thân tình. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi lại đi trời xanh thêm.”


Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường. Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu. Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm”, “võng mắc chông chênh” là hiện thực của cuộc sống chiến trường được đưa vào thơ tự nhiên như hơi thở núi rừng. Hồn thơ cứ tự nó được khởi nguồn từ chính những hiện thực bình dị ấy. Nhưng nhịp điệu thơ lại được tạo nên bởi nhịp võng đưa, bởi nhịp bánh xe quay đểu. Từ láy “chông chênh” không chỉ mang lại vần điệu cho câu thơ mà còn có ý nghĩa gợi hình sâu sắc. Đó là hình ảnh thực của con đường xe chạy hay là những khó khăn trở ngại, những hiểm nguy mà người lính phải đối mặt trong chiến tranh? Nhưng khí phách, ý chí chiến đấu của những người lính ấy vẫn luôn vững vàng, kiên định. Ngọn lửa trái tim và tình đồng chí – tình cảm của những con người trong cùng “gia đình” đã nâng những bước chân lạc quan, phơi phới, ngân lên thành câu hát, băng qua “bom giật bom rung” để “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” lặp lại hai lần vừa thể hiện nhịp sống, chiến đấu của tiểu đội xe không kính vừa khẳng định tinh thần, ý chí cách mạng kiên định vững vàng không sức mạnh bạo tàn nào có thể ngăn nổi của những người lính. Dường như chính những bước chân ấy đã nhuộm lên màu xanh của bầu trời – màu xanh chứa chan hi vọng gợi lên tâm hồn lạc quan, sức trẻ, khát vọng và niềm tin chiến thắng của người lính Trường Sơn. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam:

“Không có kính rồi xe không có đèn


Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chủ cần trong xe có một trái tim.”

Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “ không có” đi cùng với phép liệt kê “ kính , đèn , mui xe, thùng xe” càng khắc họa tô đậm rõ nét, chân thực sự tàn phá, hủy hoại khủng khiếp của chiến tranh. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính gặp chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.Nhưng nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bào? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ gợi tả “vẫn” cho thấy ý chí, quyết tâm của người lính, không hề lung lay trước sự hiên ngang ấy. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”. “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn. Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.

Người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ, hào hùng.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mới nhất
2K
0
0
Hình ảnh những chiếc xe trần trụi chạy dọc theo tuyến đường Trường Sơn lịch sử trong những năm kháng chiến ác liệt đã ghi dấu ấn đậm nét trong tâm hồn mỗi của con người Việt Nam. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật càng làm cho hình ảnh thân thương ấy trở nên rõ ràng và chân thật hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, nhà thơ Phạm Tiến Duật với tâm thế của cả một nghệ sĩ đồng thời cũng là một người chiến sĩ đã diễn tả trọn vẹn hình ảnh những chiếc xe không kính.

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (63).png


Đề bài: Em hãy viết 1 đoạn văn để thể hiện cảm nhận về hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật


BÀI LÀM MẪU

Hình ảnh những chiếc xe trần trụi chạy dọc theo tuyến đường Trường Sơn lịch sử trong những năm kháng chiến ác liệt đã ghi dấu ấn đậm nét trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật càng làm cho hình ảnh thân thương ấy trở nên rõ ràng và chân thật hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, nhà thơ Phạm Tiến Duật với tâm thế của cả một nghệ sĩ đồng thời cũng là một người chiến sĩ đã diễn tả trọn vẹn hình ảnh những chiếc xe không kính. Cách đặt nhan đề bài thơ đã gây ấn tượng đầu tiên đối với người đọc. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, nhan đề khá dài và tác giả thêm vào hai chữ “bài thơ” nhằm muốn khẳng định và nhấn mạnh chất thơ có trong bài thơ, thể hiện được tâm hồn và cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực chiến tranh khốc liệt, gian khổ. Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận. Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là một thực tế, những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra tiền tuyến. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong đó ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của địch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính. Những chiếc xe như vậy vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. Hơn nữa, viết về những người lái xe thì không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà làm nổi bật hình ảnh người lái xe. Thật vậy, hình ảnh những chiếc xe không kính đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật chuyên chở vào dòng thơ bằng những con chữ chứa đựng cả tâm tư tình cảm của một người con dành trọn vẹn thanh xuân để cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY
Thêm
Hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật
477
0
0
Thơ Phạm Tiến Duật không lôi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn hay ngôn ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương,… Ngược lại, người đọc thích thơ ông bởi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo. Có thể coi, “Bài thơ về tiều đội xe không kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ này. Thông qua bài thơ, Phạm Tiến Duật ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui trẻ trung, sôi nổi cùng quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (21).png


Đề bài: Phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Phạm Tiến Duật.

Phạm Tiến Duật là một trong những tác giả tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống MĨ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật có giọng ngang tàng, tinh nghịch mà sôi nổi, tươi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ - đặc biệt là lớp trẻ ở tuyến đường Trường Sơn và không khí của thời đánh Mĩ gian khổ, ác liệt. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ra đời trong hoàn cảnh đó. Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo : Những chiếc xe không kính để làm nổi bật hình ảnh những người lái xe ở chiến trường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi…Qua đó nhà thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng Cách mạng của Việt Nam thời đánh Mĩ.


Với bốn khổ thơ đầu, hình tượng thơ thể hiện ra khung cảnh đạn bom, cùng với chiếc xe và tâm hồn người lính:

Không có kính, không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thầng


Những chiếc xe vào trận, ra tuyến đầu vốn có những khung kính còn nguyên nhưng hình ảnh từ dòng thư có sức gợi bùng nổ dây chuyền “bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi" bỗng tái hiện lên cái dữ dội, tàn phá của chiến trường, của đạn bom rải thảm không ngừng, phóng đi từ những pháo đài bay giặc dữ. Cái “không có" chỉ rõ nguyên nhân, hằn sâu mất mát và câu thơ không dừng ở đó mà rõ ra cái giọng ngang tàng: “Ung dung buồng lái ta ngồi, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thắng... ”, và rõ ra cả những cái nhìn từ khối óc, trái tim. Đó là chiều sâu tâm hồn người lính khởi từ chất giọng và đọng lại nơi hình ảnh tương phản đầy cảm giác và ấn tượng:

Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thắng vào trái tim.


Tất cả hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng: Trong cái không, cái thiếu vẫn điềm tĩnh, ung dung, vẫn nhận rõ thêm nỗi đắng, nỗi đau mà kẻ thù gieo rắc, đồng thời kiên định thêm duy nhấtt một con đường chiến đấu, thu về cho bằng được quê hương đặt vào giữa những trái tim sắt son vì đất nước. Trong ý nghĩa đó, hình ảnh tiếp nối của những dòng thơ đã mở rộng ra hiện thực ở ngày mai, ngày chiến thắng và thanh bình vẫy gọi:

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.


Và hiện thực đó như đã đầy ắp trong tâm hồn người lính, như bay bổng một tình yêu. Và cũng chính tin yêu sẽ vượt qua những thử thách của những xe “không có kính" đã bật ra cái phong cách nghịch ngợm, bông phèng, đùa vui của người lính:“không có kính, ừ thì có bụi"...nhưng "chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha... ”, Rồi cái lãng mạn của lính trẻ tiền phương, cái lạc quan của những người con vì đất nước cũng từ đó mà nhẹ tênh gian khổ:

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.


Cái ngôn ngữ dí dỏm từ đời lính nguyện vẹn bước vào trang thơ đó thực sự đã là thơ vì đã khởi đi từ nơi phong cách sống bình dị tràn đầy sức trẻ tin yêu.

Hai khổ thơ giữa tiếp theo chọn một khúc quanh và thời điểm khác để mở thêm nét hình của những xe không kính và mở ra những nét đẹp nơi tâm hồn:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp hạn hè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vở rồi

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đinh đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.


Các dòng thơ như vẽ lên những hình ảnh bất ngờ: Vượt qua tuyến lửa, bom rơi những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kì khôi, thú vị. Tiểu đội của những chiếc xe mà lại xe không còn kính. Nhưng đẹp thay là những đường nét từ những khung xe giữa một bối cảnh chiến trường chông chênh, trùng điệp

Gặp hè bạn suốt dọc đường di tới.
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.


đây xe không kính lại như trong suốt một tình yêu, để rồi âm hưởng nhàn nhã, dí dỏm: “Bếp Hoàng cầm ta dựng giữa trời, Võng mắc chông chênh" lại có dịp mỏ ra lối giải thích “gia đình" theo kiểu lính: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đó mở ra từ những hình ảnh chân thực đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Sức sống thơ cũng chính là ở đây và câu thơ đó đã cất cánh bay cao: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm" để gợi đến biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường rộng mỏ những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm" niềm tin chiến thắng.

Khổ thơ cuối giờ đây như thanh thản mở ra thêm cái nhìn ung dung về phía trước trên dọc con đường chiến trận:

Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.


Từ những câu thơ, hình ảnh những xe không có kính vẫn gắn bó với người lính trên dọc đường gian khổ. Và cái “không" như càng tăng thêm trong bão lửa khốc liệt của bom thù: đèn không, mui không... cộng thêm bao mất mát. Nhưng hề gì “xe vẫn chạy" bởi hướng con đường vẫn là : “miền Nam phía trước” và hơn nữa bởi cái còn không thể mất được đã khẳng định kết thành chân lí lẫn niềm tin “Chí cần trong xe có một trái tìm". Hình ảnh câu thơ bỗng trở thành khung kính của tâm hồn, biểu trưng cho sức mạnh của những người lính đi tới mà kẻ thù không làm sao phá vơ được. Ý nghĩa đó khiến giọng thơ trở thành một tinh yêu mãnh liệt.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ. Bài thơ gợi lại bao kỷ niệm hào hùng của người chiến sĩ lái xe nơi Trường Sơn khói lửa. Đọc xong bài thơ, ta càng hiểu hơn về các chiến sĩ lái xe, về lòng dũng cảm, tư thế hiên ngang bất khuất của họ. Ta cũng thấy được chất tinh nghịch hồn nhiên của mỗi người lính trẻ. Chiến tranh đã qua đi nhưng lời thơ của Phạm Tiến Duật vẫn còn văng vẳng đâu đây cái chất vui tươi khỏe khoắn yêu đời của cả một thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.


Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật mới nhất 2022
835
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
  2. hưnga @ hưnga:
    cho em hỏi xu có những tác dụng gì ạ
Top