Mạng xã hội Văn học trẻ

Đến với Thơ mới là đến với thế giới cảm xúc muôn cung nghìn bậc, thế giới nghệ thuật muôn hình vạn trạng. Một Thế Lữ “rộng mở”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”… Họ đều là những cái tên không thể bỏ quên khi nhắc về Thơ mới. Nhưng sẽ mãi mãi là thiếu sót, là chưa đủ nếu không có sự góp mặt của Xuân Diệu. Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của thơ mới. Những tên gọi đầy trân trọng ấy đã xác lập một chỗ đứng riêng cho Xuân Diệu trong làng thơ, để đến tận hôm nay người đời vẫn không thôi nhắc đến và ngưỡng mộ.

“Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. “Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”. “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường:

"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi."


Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: tắt nắng, buộc gió. Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng. Nhịp thơ nhanh, cách điệp câu nhịp nhàng, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy.

Bằng con mắt “xanh non biếc rờn” cùng lòng yêu cuộc sống, bằng “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"


Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây. Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân. Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế. Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch: Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất

Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi. Ta chợt ngộ ra, cái đẹp của con người trong mắt nhà văn mới là cái đẹp chuẩn mực. Chính con người mới là trung tâm cho mọi sự so sánh. Rõ ràng ở đây có cả một sự thay đổi lớn về quan niệm thẩm mỹ. Người xưa ví vẻ đẹp người con gái với hoa, núi, nước, mây, ví khí phách người anh hùng như mai, trúc, phượng, điểu. Còn Xuân Diệu trong cái nhìn của một con người hiện đại lại chỉ luôn mong muốn tôn vinh con người.

Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh một xúc cảm khác: Lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:

"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian"


Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy. Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi. Tình non sắp già rồi


Nhưng nghĩ một cách sâu hơn, thì có thể thấy tình yêu cuộc sống và nỗi ám ảnh thời gian của nhà thơ là hoàn toàn biện chứng. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, con người càng tiếc thời gian và tuổi trẻ bấy nhiêu, huống chi là Xuân Diệu – một người có khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời. Với Xuân Diệu cái đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người là mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Trôi qua những cái đó, cuộc đời chỉ còn là vô nghĩa. Nỗi ám ảnh và sự hối thúc về thời gian của nhà thơ còn cho ta một nhận thức về nhân sinh: Cuộc đời vô thủy vô chung, dòng đời trôi không đứng đợi, tuổi trẻ chẳng thắm lại lần hai và mùa xuân chẳng bao giờ quay lại. Triết lí ấy lại là một bước tiến vượt bậc trong tư tưởng của nhà thơ. Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống.

Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:

"Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…"


Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi. Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.

Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:
"Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng"


Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ xưng “tôi” ở đầu bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” như nói lên một khát vọng chung cho mọi người – khát vọng hòa nhập. Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn. Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác. Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.

Và một lẽ tất nhiên, để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật không thể bỏ ngoài các yếu tố về hình thức nghệ thuật. Xuân Diệu “mới” không chỉ ở tư tưởng mà “mới” cả ở cách thể hiện. Thể thơ tự do với sự chuyển mạch, co duỗi linh hoạt theo cung bậc cảm xúc, các phép tương giao ảnh hưởng của thơ tượng trưng cũng sử dụng triệt để. Những câu thơ vắt dòng, từ ngữ táo bạo và hình ảnh tân kì cũng góp phần làm nên một thi phẩm “rất Xuân Diệu”. Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. "Vội vàng" xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.​
Thêm
3K
3
3
Viết trả lời...
Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.

Xuân Diệu là một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp ta lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nề văn học Việt Nam hiện đại.Từ sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và rất giàu tính thời sự. Ông cổ vũ và hăng hái thể nghiệm khuynh hướng tăng cường chất hiện thực trong thơ. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nhà văn hóa lớn. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).

Xuân Diệu để lại một sự nghiệp văn học lớn, tiêu biểu là các tập thơ: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982) ; các tập văn xuôi : Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945); các tập tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học : Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, hai tập (1981),(1982), Công việc làm thơ (1984)…

POEMAS DE XUÂN DIỆU.jpg

Nhà thơ Xuân Diệu. Ảnh Pinterest.
Các tác giả nổi tiếng cũng có nhiều ấn tượng mạnh với cây bút dạt dào sức trẻ ấy mà không tiếc những lời nhận định đầy thực tâm. Dưới đây là một số nhận định của một số nhà văn, nhà thơ về Xuân Diệu và các tác phẩm của ông:

1. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận định về bài thơ Vội vàng: "Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống".

2. Thế Lữ trong lời tựa tập Thơ thơ: "Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian"

3. Có thể nói, nồng nàn và trẻ trung là hai phẩm chất, đồng thời cũng là hai giọng điệu chính trong thơ Xuân Diệu.. Trong số đó, Vội vàng là một trong những thi phẩm thuộc loại tiêu biểu nhất cho giọng điệu nồng nàn của Xuân Diệu (Nguyễn Đăng Điệp)

4. "Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian" (Thế Lữ – Lời tựa cho tập Thơ thơ).

5. "Xuân Diệu nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới" (Hoài Thanh).

6. "Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong Thơ mới thôi, thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu" (Nguyễn Đăng Mạnh).

7. "Xuân Diệu không quan niệm tình yêu chỉ là sự giao cảm xác thịt mà còn là sự giao cảm của những linh hồn mà đấy mới là cái khát vọng cao nhất, cái đích cao nhất trong tình yêu" (Nguyễn Đăng Mạnh).

8. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này (Hoài Thanh)
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
1K
1
1
Viết trả lời...
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới và cùng là ông hoàng của thơ tình yêu. Bài thơ Vội vàng của thi sĩ là một trong những thi phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Cùng Triều Anh học tốt hơn với bài văn hay Cảm nhận về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.

62D7094A-FE40-40F8-82F6-104CF7B70324.jpeg

Ảnh sưu tầm


Xem thêm

Soạn văn Vội vàng
Trọng tâm kiến thức bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Đề bài: Viết bài văn nghị luận trình bày cảm nhận của anh/chị về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.

I. Dàn ý

1. Mở bài


- Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông nổi tiếng với tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”.

- Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc của Xuân Diệu, trích từ tập “Thơ thơ” (1938) - tập thơ đầu tay của Xuân Diệu.

- Vội vàng là một bài thơ xuất sắc về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tình yêu với những quan điểm sâu sắc về cuộc sống, về thời gian.

2. Thân bài

a. Luận điểm 1 - Tình yêu cuộc sống tha thiết, đắm say của Xuân Diệu qua đoạn thơ ngũ ngôn
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
- Luận cứ 1: Điệp cấu trúc “tôi muốn, cho”, điệp từ “đừng”: như một lời cầu xin khẩn thiết. Nhấn mạnh khao khát chảy bỏng, tha thiết, được “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ màu cho cuộc sống, giữ hương cho đời, lưu giữ mãi khoảnh khắc đẹp nhất của thiên nhiên hiện tại.

- Luận cứ 2: Điệp cấu trúc, đảo ngữ “của này đây, này đây của” kết hợp với nghệ thuật liệt kê. Phơi bày ra vẻ đẹp không kể hết, cảm nhận đầy đủ hương vị và thanh sắc của cuộc đời

b. Luận điểm 2 - Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế (câu 6 - 13)

- Luận cứ 1:
Nghệ thuật liệt kê kết hợp các tính từ đã khắc hoạ những vẻ đẹp mỗi ngày như một bữa tiệc đầy đủ, thịnh soạn, bày ra gõ cửa mang niềm vui đến từng nhà.

- Luận cứ 2: Vẻ đẹp của mùa xuân tình yêu qua biện pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.

- Luận cứ 3: Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Trong văn học xưa, coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì trong thơ Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của cái đẹp, tôn vinh vẻ đẹp của con người.

- Luận cứ 4: Suy tư của Xuân Diệu - “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.

c. Luận điểm 3 - Quan niệm mới về thời gian của Xuân Diệu (đoạn 2)

- Luận cứ 1 - 2 câu thơ đầu
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
+ Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại. Cách ngắt nhịp tuần tự trong cả hai câu thơ 3/4, diễn tả bước đi của thời gian. Điệp cấu trúc - điệp cấu trúc kiểu câu định nghĩa. Cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.
=> Tác giả muốn nhấn mạnh quy luật bước đi, sự vận hành của thời gian, tuần tự, không trở lại.

- Luận cứ 2 - 7 câu thơ tiếp theo

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
+ Mùa xuân đi qua mang theo tuổi thanh xuân của con người, quy luật mang tính tác động tiêu cực.
+ Nghệ thuật đối lập: Rộng - chật/ Xuân tuần hoàn - tuổi trẻ/ Còn trời đất - chẳng còn tôi mãi. Cảm xúc của nhà thơ: bâng khuâng, tiếc nuối.

- Luận cứ 3 - 7 câu thơ cuối:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”
+ Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: tháng năm có mùi vị, tháng năm được cảm nhận bằng giác quan khứu giác “mùi”, vị giác “chia phôi”, thị giác “rớm”, hữu hình hóa tháng năm vốn trừu tượng.
+ Dòng chảy của thời gian khiến vạn vật từng giây phút luôn có những cuộc chia li, vạn vật chia li với một phần đời đã qua của mình.​
"Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…"

d. Luận điểm 4 - Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời (đoạn cuối)

- Luận cứ 1: Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tuổi trẻ là gian đoạn đẹp nhất của đời người.

- Luận cứ 2: Cách xưng hô: “tôi” sang “ta” kết hợp với việc dùng một loạt các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu.
=> Muốn tận hưởng bằng tất cả các giác quan. Vẻ đẹp cuộc đời nhiều vô cùng, đầy ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, cuộc đời.

- Luận cứ 3: Sử dụng nhiều tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê. Diễn tả sự thỏa mãn tột cùng khi tận hưởng.​
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

- Luận cứ 4: Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác - mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng, tác giả hình dung mùa xuân như trái chín ửng hồng, muốn “cắn”. Đó là mong muốn được hưởng thụ.

- Luận cứ 5: Quan niệm sống của tác giả - Hãy tăng tốc độ sống, tận hưởng và tận hiến.

đ. Luận điểm 5 - Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Vội vàng

- Luận cứ 1: Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí.

- Luận cứ 2: Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.

- Luận cứ 3: Sử dụng ngôn từ, nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

3. Kết bài

- Quan niệm sống mới mẻ của tác giả là yêu cuộc sống trần thế xung quanh ta và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người. Đó là quan niệm sống rất người, rất tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.

- Những cách tân của thơ mới được thể hiện một cách sáng tạo và táo bạo qua ngòi bút Xuân Diệu từ cảm hứng, ý tưởng thơ cho đến hình ảnh, nhịp điệu, ngôn từ,...Tất cả đều in dấu ấn phong cách Xuân Diệu.

II. Bài văn tham khảo

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh viết: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”. Thơ Xuân Diệu bộc lộ hồn thơ trẻ trung, nồng nàn và tình yêu cuộc sống đến độ đam mê ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ Vội vàng. Bài thơ cũng thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.

Về cấu tứ bài thơ, bài thơ là một phép biện chứng tâm hồn. Xuân Diệu rất yêu cuộc sống nhất là tuổi trẻ nhưng nhà thơ cũng rất sợ mất nó, nghĩ đến điều đó không tránh khỏi tiếc nuối buồn bã, để không hoang phí cái đẹp một cách vô ích nên cuối cùng nhà thơ chạy đua với thời gian, vội vàng hưởng mọi vẻ đẹp mà đời đã ban cho. Đó là lý lẽ của thái độ sống vội vàng. Bài thơ thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc với những trạng thái phức tạp, yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi bừng dậy một tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời. Bài thơ chủ yếu nói đến mối quan hệ giữa thời gian với cái đẹp của cuộc sống và đời người - nhất là tuổi trẻ. Vì thời gian mà dẫn đến một lối sống, thái độ sống. Ý thức về sự chảy trôi của thời gian nên tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:​

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi.

Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này nắng và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân - cái đẹp. Tác giả đã dùng những động từ mạnh như tắt (nắng), buộc (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa, muốn giữ lại màu và hương của mùa xuân. Muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để giữ mãi cái đẹp của cuộc sống là một khát vọng rất nghệ sĩ - thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bất chấp mọi quy luật. Câu thơ ngắn, giọng thơ mạnh cũng góp phần thể hiện thái độ vội vã, tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống của tác giả. Tác giả muốn đoạt quyền tạo hóa để giữ lấy mãi mùa xuân vì mùa xuân đẹp quá:​

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si

Cách miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới. Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân - thời gian là mật ngọt, không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực vừa duyên dáng, hân hoan. Vẻ đẹp của mùa xuân còn được cảm nhận qua cảm giác thích thú:​

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo - tia nắng bình minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà. Ở bài thơ khác nhà thơ so sánh ngược lại:​

Tà áo mới cũng say múi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.
(Xuân đầu)

Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui. Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa. Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ “này đây” dồn dập đã liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với những thức ngon sẵn có cho con người. Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban cho, không nên để nó quá rồi lại nuối tiếc:​

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Đây chính là tư tưởng cốt yếu của bài thơ - tranh thủ thời gian, tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống nên dẫn đến thái độ sống vội vàng. Nhạc điệu chung của đoạn thơ là sôi nổi, si mê. Tác giả đã cảm thức được bước đi quyết liệt của thời gian:​

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cách cảm nhận thời gian tịnh tiến, thơ ca xưa nay đã nói nhiều: “Đông qua xuân đã tới liền / Hè về rực rỡ, êm đềm thu sang”, nhưng (với tiết tấu thơ nhanh) chỉ có Xuân Diệu mới thấy được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa thấy xuân đến mà cũng thấy xuân đi. Điệp ngữ nghĩa là như nhấn mạnh, rồi day đi day lại cái quy luật phũ phàng. Thời gian trôi đi quá nhanh, cái đẹp rồi sẽ không còn nữa, tuổi trẻ sẽ đi qua. Tác giả tiếc cho cái đẹp - cái hữu hạn của đời người nên giọng thơ trở nên hờn dỗi:​

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,...
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân - tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người: lòng tôi rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên của nó:​

Mùi tháng năm điều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Tác giả bất lực trước sự ra đi của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột:​

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.

Thế nhưng tác giả không buông xuôi theo sự sắp đặt của tạo hóa mà vùng lên tranh thủ chạy đua với thời gian, dẫn đến thái độ sống đặc biệt:​
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Cụm từ “Ta muốn ôm” đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống... mơn mởn... Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ “Ta muốn” diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt, vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy. Những động từ mạnh: ôm, riết, thâu, cắn diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, thiên về cảm giác. Tác giả như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng. Tác giả đã mở rộng mọi giác quan để tận hưởng và sống hết mình cho mùa xuân, tuổi trẻ:​
Sống toàn tâm toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức mọi giác quan.

Với giọng thơ táo bạo, đầy đắm say, lãng mạn, Vội vàng đã kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí. Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ. Sử dụng ngôn từ, nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt đã góp phần thể hiện ró quan niệm sống mới mẻ và táo bạo của Xuân Diệu trước cuộc sống, tình yêu và tuổi trẻ.

Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống. Nhất là mùa xuân - tuổi trẻ. Từ đó tác giả bộc lộ tình yêu đắm đuối, cuồng nhiệt, say mê cuộc sống và tuổi trẻ - một cái đẹp có thực nơi trần thế, không phải nơi hoang tưởng xa lạ nào trong các thuyết giáo. Bài thơ đem đến một nhân sinh quan tích cực phải biết sống đủ đầy, sống có ý nghĩa, biết tận hưởng những vẻ đẹp mà cuộc sống ban tặng, đừng để cuộc đời, nhất là tuổi trẻ trôi qua một cách hoang phí vô ích.
........................................
Sưu tầm và biên tập​
Thêm
2K
0
5
Viết trả lời...
“Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” và “Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” (Xuân Diệu). Để hiểu hơn về bài thơ Tràng Giang, cùng Triều Anh tham khảo bài soạn sau:

25CDBB74-839C-4828-BDA3-DF634BF47E25.jpeg
Ảnh: Huy Cận (sưu tầm)

Xem thêm

Kiến thúc trọng tâm về bài thơ Tràng Giang
Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài trơ Tràng giang của Huy Cận

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Vài nét về tác giả Huy Cận

- Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
- Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp.
- Huy cận là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não.
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
- Tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (tập thơ, 1937 – 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942), Trời mỗi ngày lại sáng (tập thơ, 1958), Đất nở hoa (tập thơ,1960), Hạt lại gieo (tập thơ, 1984),...

2. Xuất xứ

- Bài thơ được sáng tác vào một chiều cuối thu 1939 khi Huy Cận đứng trước dòng sông Hồng mênh mang sông nước.
- Tràng Giang trích trong tập Lửa Thiêng.
3. Bố cục
- Phần 1 (Ba khổ thơ đầu): Bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ.
- Phần 2 (Khổ thơ cuối): Tình yêu quê hương, đất nước thầm kín, sâu sắc.

4. Gợi ý trả lời câu hỏi hướng dẫn học bài, sgk trang 30

* Câu 1

Lời đề từ thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả.

- Bâng khuâng thể hiện nỗi niềm của nhà thơ: nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la bát ngát.
- Cảnh: Trời rộng, sông dài → Không gian rộng lớn.
=> Lời đề từ đã định hướng cho cảm xúc chủ đạo của bài thơ: nỗi buồn trước không gian rộng lớn.

* Câu 2
Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn, vừa bâng khuâng vừa sâu lắng.

- Âm điệu đó được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn.
- Nhịp thơ chủ yếu là nhịp 2/2/3 đan xen với nhịp 4/3 hoặc 2/5. Nhịp thơ đều, chậm, gợi nỗi buồn mênh mang.

* Câu 3
Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà gần gũi, quen thuộc, đậm chất Đường thi.

- Chất liệu tạo nên bức tranh đó là các hình ảnh ước lệ được sử dụng trong thơ ca trung đại: Tràng Giang, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng, mây đùn núi bạc, bóng chiều, vời con nước, khói hoàng hôn,...
- Dòng sông dài mênh mông vắt ngang bầu trời cao rộng, bến vắng cô liêu, con thuyền lênh khênh xuôi ngược, cánh chim nhỏ chao nghiêng dưới hoàng hôn. → cảnh vật gần gũi, quen thuộc.
→ Bức tranh ấy được thể hiện cụ thể qua các khổ thơ, góp phần tô đậm màu sắc cổ điển.
* Câu 4
Tác giả đã gửi gắm nỗi buồn, nỗi sầu của một “cái tôi” Thơ Mới qua bức tranh thiên nhiên “Tràng Giang” rộng lớn và hoang vắng.

- Tác giả kín đáo bộc lộ tình yêu nước thầm kín đối với quê hương, đất nước.
- Tình yêu quê hương, đất nước được thể hiện trực tiếp qua hai câu thơ cuối bài thơ:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
- Lòng quê: tấm lòng, tình cảm với quê hương, đất nước.
- Từ láy “dợn dợn” diễn tả tình cảm của tác giả đang trào dâng theo con sóng.
→ Tình yêu quê hương lấy cảm hứng từ sông nước và trải dài theo từng con sóng.

* Câu 5
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:

- Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại.
- Thể thơ thất ngôn cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo sự cân đối, hài hòa.
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- Sử dụng nhiều từ láy có giá trị gợi hình gợi cảm.
- Sử dụng thành công nhiều biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh...

5. Luyện tập, sgk trang 30

* Bài tập 1

- Cách cảm nhận không gian: không gian rộng lớn
- Tràng Giang đã khắc họa một không gian sông nước mênh mang.
- Không gian vận động: từ chiều dọc (sông dài) không gian mở ra chiều ngang (trời rộng), lan tỏa đôi bờ (bến cô liêu).
=>không gian vũ trụ mở ra bầu trời sâu chót vót.
- Thời gian: hiện tại - quá khứ - hiện tại => kín đáo bộc lộ nỗi niềm, nỗi sầu nhân thế.

* Bài tập 2
Hai câu thơ cuối gợi nhớ đến hai câu thơ cuối trong bài Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu.
Nhật mộ hương gian hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sống khói sóng cho buồn lòng ai?)

- Bởi vì:
+ Sự tương đồng giữa hình ảnh khói sóng và khói hoàng hôn
+ Sự tương đồng trong tình cảm, cảm xúc giữa hai nhà thơ: lòng yêu quê hương đất nước.​
..........................................................
CHÚC CÁC EM HỌC TỐT
Thêm
1K
0
1
Viết trả lời...
Ngẫu Nhiên anh đến bên đời
Tuổi thơ êm ấm trong Lời Mẹ Ru.
Trăm năm Giọt Lệ Thiên Thu
Bay Đi Thầm Lặng
lãng du cuối trời.
Biết Đâu Nguồn Cội rong chơi
Đời Cho Ta Thế muôn lời tri ân.

Em ơi Cúi Xuống Thật Gần
Để nghe Tiếng Hát Dạ Lan êm đềm.
Này Em Có Nhớ chăng em
Lời Ru Mẹ hát ngọt mềm tháng năm.
Ngày mai Tôi Sẽ Đi Thăm
Vườn Xưa của mẹ bao năm vẫn chờ.

Quê Hương, Một Cõi Đi Về
Nằm nghe trong lá Tiếng Ve Gọi Hè.
Đêm
về trên những triền đê
Một Lần Thoáng Có ước thề gió mây.
Em ơi Lặng Lẽ Nơi Này
Mình tôi Như Cánh Vạc Bay cuối trời.

Lắng nghe Biển Nhớ đầy vơi
Xin Cho Tôi mãi ru đời đắm say.
Mai sau Còn Có Bao Ngày
Thì xin em hãy về đây Ru Tình.
Cuộc đời như Nắng Thủy Tinh
Đường Xa Vạn Dặm
một mình dạo chơi.

Mong sao Còn Thấy Mặt Người
Diễm Xưa
ngày ấy bây giờ nơi đâu.
Để rồi Còn Mãi Tìm Nhau
Bao năm Hạ Trắng bạc đầu chẳng nguôi.
Biết rằng Gió Cuốn Mây Trôi
Cớ sao chẳng thể quên thôi Tình Sầu
Như là biển Sóng Về Đâu
Ngàn năm chìm nổi bạc đầu Phôi Pha
Này Em Có Nhớ, Nguyệt Ca

Tình Xa hoen lệ Ru Ta Ngậm Ngùi.
Bên Đời Hiu Quạnh
ngủ vùi
Trả Lại Em những niềm vui ngày thường.

Đêm về những đóa Quỳnh Hương
Dịu dàng lan tỏa Con Đường Mùa Xuân.
Này em Thiên Sứ Bâng Khuâng
Nhẹ nâng gót ngọc Dấu Chân Địa Đàng.
Hoa Vàng Mấy Độ
mơ màng
Tôi Ru Em Ngủ nhẹ nhàng cuối xuân.

Tạ Ơn một mối tình trần
Đời Gọi Em Đã Bao Lần biết không.
Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng
Hoa Xuân Ca mãi phiêu bồng dịu êm.
Ca Dao Mẹ hát êm đềm
Lời Ru Đêm ấy ru em lặng thầm.

Dẫu đời như Vết Lăn Trầm
Ru đời Ru Mãi Ngàn Năm ấm nồng.
Hè sang phố nhuộm Mưa Hồng
Em Đi Bỏ Lại Con Đường phượng rơi.
Người Về Bỗng Nhớ chơi vơi
Còn ta ở lại Ngậm Ngùi Riêng Ta.

Phúc Âm Buồn những xót xa
Đời sao vội nở Đóa Hoa Vô Thường
Ướt Mi
mắt lệ sầu vương
Khóc người nay đã Về Trong Suối Nguồn
Ngày Về suối lệ chứa chan
Giã từ Cõi Tạm an nhàn Người ơi!

Ngũ Ánh Tuyên
20/03/2018
Ảnh sưu tầm
( Kỉ niệm 18 năm ngày mất cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn)

1677672907737.png
Thêm
591
5
4
Viết trả lời...
Tháng ba về anh có nhớ không anh?
Tiết trời xuân đang chuyển mình sang hạ
Dòng đời trôi vẫn ngày đêm hối hả
Gốc gạo già giờ cũng đã trổ hoa

Mùa hoa gạo là mùa nhớ tháng ba
Là mùa những cơn mưa rào lui tới
Là nỗi nhớ trong em cao vời vợi
Ở nơi lòng dệt mãi sợi nhớ thương

Tháng ba về xin dành trọn yêu thương
Tô thêm thắm má hường em ửng đỏ
Cả những lời yêu thương còn bỏ ngỏ
Tháng ba về anh còn nhớ không anh.

Thơ Vũ Thuý, ảnh sưu tầm.
Thêm
  • inbound292044111.jpg
    inbound292044111.jpg
    66.3 KB · Lượt xem: 121
632
4
4
Viết trả lời...
IMG_UPLOAD_20221215_104159 (1).jpg


Lại một mùa hè đến, một mùa hoa phượng nhớ mối tình đầu. Năm nay mùa hè đến muộn, tháng năm rồi mà sương vẫn chùng chình cùng cái tiết se se như mới lập xuân. Vẫn còn những cơn mưa phùn kéo dài suốt buổi. Cả không gian hiu hắt. Con đường có nhộn nhịp hơn một chút, nhưng mọi thứ hàng hóa vẫn ế ẩm như những ngày còn trong đại dịch. Bên ngoài trời vẫn đang mưa, cơn mưa lặng lẽ tới nhẹ nhàng như cách mà người đàn ông đó đến và đi trong đời tôi. Đã mười hai năm, từ ngày chùm hoa phượng mới điểm từng chấm đỏ. Hình ảnh người con trai cao cao gầy gầy vẫn len lỏi trong suy nghĩ, có nhiều khi tôi cố gắng quên nhưng không làm được.

Trời dạo này thật lạ. Trong gian hàng nhỏ mọi thứ dường như vẫn còn nguyên như buổi sáng. Qua cánh cửa sắt ọp ẹp từng hạt mưa li ti rơi trên mái tôn tạo thành từng giọt lớn, lăn xuống rơi vỡ tan trên nền gạch. Lại một buổi ế hàng, tôi cũng chẳng buồn quan tâm, bởi lẽ nó đã quá quen với một đứa bán rau củ nơi xóm núi. Mơ mơ màng màng khi vài câu thơ đột ngột xuất hiện trong ý thức. Câu thơ cũ nhưng rất hợp với cảnh lúc này :
" Trời mưa trốn việc ngồi nhà
Em ơi còn nhớ hôm qua đã từng
Trên cành hoa phượng nở bung
Mùa hè còn đợi em chung lối về”.
Mùa hè còn đó, nhưng lối về. Ôi cứ nghĩ lại thấy buồn, không biết ở một nơi trên dải đất hình chữ S hiện giờ người ta còn nhớ mình như mình nhớ người ta không?. Tự cười nói mình quá viển vông, chắc vì cái tội mê thơ đã sinh ra một đứa hay đa sầu đa cảm. Sở dĩ tôi hay viết thơ cũng có một phần nguyên nhân từ người con trai ấy. Tôi là đứa sống nội tâm, mọi suy nghĩ luôn được cất giấu sau nụ cười và câu trả lời cho có lệ. Thơ, là cách tôi bộc lộ, là phương pháp giải tỏa hữu hiệu, là cách để trái tim sống lại một thời đã qua. Nhưng riêng về người con trai ấy, có viết cả ngàn bài thơ với những lời sến súa nhất cũng không thể tả hết cái cảm giác chơi vơi, lạ lẫm khi đối mặt với anh. Chàng trai tuổi mười bảy hoàn mỹ như một vị hoàng tử bước ra từ chuyện cổ tích, còn tôi là cô công chúa ngủ say cả trăm năm chỉ để chờ một nụ hôn khiến tòa lâu đài bừng tỉnh.
Sài Đồng B mùa hè năm 2010 nóng như đổ lửa, cả khu đô thị mới thi công ngổn ngang gạch, đá,sắt, xi.. . Trong dãy lán nhỏ, tiếng người đàn bà oang oang:
__ Long ơi! Từ mai bảo ông Tuyến chuyển giờ làm buổi sáng từ sáu giờ đi. Trời nóng thế này mà bảy giờ tới mười một giờ đằng đẵng, ai mà chịu nổi.
Đó là tiếng dì Kha. Một người đàn bà ngoài năm mươi, thấp bé với khuôn mặt sạm nắng, cùng giọng nói the thé.
_ Vâng!. Cháu bảo mấy lần rồi mà cái ông kỹ thuật ấy có nghe đâu. Họ dân văn phòng, quen ngồi máy lạnh có phải như dân lao động mình đâu mà biết.

Tiếng anh Long từ giường bên đáp lại. Anh Long là chủ cai lán công nhật. Là một người thanh niên hai bảy tuổi. Dáng cao gầy, làn da đen, mái tóc húi trọc, trên cằm có mấy sợi râu lưa thưa cứ rung rinh mỗi khi nói chuyện. Anh thẳng tính, nhưng được cái rất dễ gần, luôn coi mọi người trong lán như người thân, có nhiều lúc tức là chửi thẳng vào mặt. Mặc dù toàn dân tứ xứ, nhưng dưới tay anh ba mươi con người già trẻ sống chung, cả năm vẫn không có một lời to tiếng.

__ Nào, tất cả tập trung lại đây điểm danh. Con Lan, con Ngọc đâu?. Vào lán xem còn đứa nào không gọi ra hết đi. Trời nắng thế này mà còn đủng đỉnh. Không nhanh tí sếp chấm công, không có tên thì đến lúc đừng có mà kêu.

Đó là tiếng anh Long, và công việc thường ngày mỗi sáng của cả đoàn người. Ngày nào cũng thế, bảy giờ làm thì sáu giờ bốn năm tập trung để kỹ thuật chấm công và giao việc.
__ Gọi chúng nó ra nhanh lên, tao giao việc. Mẹ kiếp! Có mỗi mấy bước chân mà cứ lề mề.
Tiếng ông Tuyến sang sảng. Đó là kỹ thuật của chúng tôi. Một người đàn ông ngoài năm mươi, béo, lùn, da đen như cục than, tóc xoăn, tính nóng như lửa. Công việc của ông ấy mỗi ngày là đi chấm công và kiểm tra chúng tôi làm việc. Ông rất hay bắt bẻ, nên không chỉ lán công nhật mà các lán sắt, lán cốt pha, lán bê tông..không một ai ưa cả.

Trời hôm nay nắng chang chang. Mới sáng sớm mà từng cơn gió lào đã thổi bụi cát bay nóng hầm hập. Trên khu đất nền ngổn ngang sắt thép, từng lớp người như những đoàn kiến làm việc miệt mài. Tiếng máy xúc, máy đóng cọc, máy bê tông... ầm ầm. Nơi bãi thi công một tốp người đang đi lại nhộn nhịp, trên vai họ là những cây sắt phi 32 to bằng cổ tay, dài tới hơn mười mét.
_ Này béo, để anh nhấc đầu này lên trước rồi em hãy cầm vào. Này béo, để ý khi nào anh bảo ném xuống thì cùng thả tay nhé.
__ Em biết rồi!. Ơ người ta cũng có tên rõ đẹp sao anh không gọi?. Gọi gì kỳ lạ thế.
__ Kệ! Thích thì gọi thôi.
__ Này béo! Uống nước không?. Trời hôm nay nắng quá, lại đây ngồi nghỉ đã.
__ Không, em ra chỗ mẹ ngồi cơ. Ở đây toàn sắt xi ngồi chỗ nào.
__ Ra làm gì? Em không thấy góc kia còn nắng hơn à. Và lại cả đám người già, ngồi chỉ tội nóng thêm.
__ Kệ! Em thích ra đó hóng.
Những lời đối thoại ấy ngày nào cũng lặp lại. Hầu như mỗi lần tôi đi đến đâu khi ngoảnh lại là thấy anh lững thững bước sau.

_ Mấy bà đi xuống nhét túi bóng vào những chỗ cốt pha hở đi, nhét chặt vào nhé chiều mai đổ bê tông rồi. Còn sáu đứa này xuống chỗ đang ghép cốt pha kê dầm, lấy xà cầy bẩy góc sắt lên cho con kê vào, lấy loại mười phân lúc chiều qua cô Nhâm đổ nhé. Rồi đi đi.
Ông Tuyến giao xong cũng không nói thêm gì, cứ thế bước đi xuống kiểm tra mấy tổ khác đang làm việc.
_ Này béo! Sang đây đi với anh.
Tôi đang bỡ ngỡ không biết chọn đi với ai thì anh gọi. Kệ! gọi rồi thì còn ngại gì nữa. Quay sang con Lan, con ngọc tụi nó đã đi từ bao giờ.
_ Dạ!
_ Em đi nhặt kê, anh lấy xà cầy. Đi đi cần anh soi đường cho không?.
_ Dạ thôi! Sáng thế này soi làm gì. Lấy xong đứng chỗ đường xuống chờ em nhá.
_ Ừ! Em đi trước đi. Nhìn đường không lại vấp ngã bây giờ, sắt gỗ đầy đường đấy.
_ Biết rồi! Đại ca.
Tôi sách xô bước lững thững đi về bãi nhặt kê. Và phía sau lưng vẫn còn một ánh mắt dõi theo.
_ Này béo! Ước mơ của em lớn lên làm nghề gì?.
_ Em hả?. Ước mơ lớn lên trở thành một nhà thơ, cuốn sách đầu tiên xuất bản sẽ đem tặng hết cho bộ đội.
_ Hử! Sao kỳ thế? Không bán lấy tiền à?. Anh thấy người ta viết thơ được nhuận bút đó.
_ Không! Đã gọi ước mơ thì tiền bạc gì nữa. Còn anh thì thế nào?.
_ Anh hả?. Anh thích môn sinh học, khi tốt nghiệp anh muốn thi vào trường đại học Thái Nguyên chuyên ngành bác sỹ.
_ Còn em thích vào trường đại học Văn Hóa khoa sáng tác Văn học.
_ Ừ! Cố gắng nhé. Anh còn một năm nữa, em thì hai năm.
_ Này béo! Nốt mấy con kê này thì em ngồi im đây để anh đi lấy kê cho nhé. Này béo! Đi từ từ thôi đầy đinh kia kìa không khéo lại đạp phải bây giờ.
_ Biết rồi đại ca, anh còn cằn nhằn hơn mẹ em rồi đó.
Mười một giờ đêm, trời bỗng dưng nổi gió. Từng cơn gió ù ù từ đâu thổi đến, cả khu công trường chìm trong cát bụi. Tiếng các loại máy vẫn hoạt động bình thường. Trời không một ánh sao. Bỗng dưng, một tia sét sáng rạch ngang rồi dồn dập là những tiếng sấm rung chuyển. Một trận mưa không báo trước đổ xuống. Cả khu công trường nháo nhào chạy.
Lúc chúng tôi về tới lán là nửa tiếng sau. Cả lán toang hoang, bạt ở hai bên tốc ngược hết lên cao, nước từ trên mái, từ bốn bên tạt vào lênh loáng. Cả căn phòng ngập nước. Tất cả quần áo, chăn, màn, chiếu của mọi người đều ướt sũng. Mẹ tôi mở vội túi quần áo ra tìm mãi được một bộ còn khô đưa cho tôi mặc.
Lần đầu tiên trong mười sáu mùa hoa phượng tôi cảm nhận được sự bất lực, tủi thân, lạnh, rét, không có chỗ tắm và đói. Bên ngoài trời mưa vẫn rơi, mẹ tôi ướt sũng, đội cái nón đứng gọi mấy đứa từ vách phòng kế bên chưa có người ở.
_ Mấy đứa ơi! ôm quần áo sang đây thay đi, mẹ sách nước vào rồi. Nhanh lên không lạnh.
Ba đứa vội vàng ôm sẵn túi quần áo chạy ùa sang. Vừa thay đồ Vừa run cầm cập.

Đêm, mưa tạnh, trên bầu trời ánh trăng mờ mờ sau những đám mây, từng ngôi sao lấp lánh như những ánh mắt dõi theo nhịp bước nhân gian quay cuồng đêm ngày lẫn lộn. Đêm, từng cơn gió mang hơi nước tạt vào căn phòng, thổi bay cánh cửa màn tuyn đang ẩm ướt. Chiếu ướt, chăn ướt, tôi nằm co ro bên trên mảnh áo mưa mượn tạm trong kho công ty, xoay dọc ngang mãi không ngủ được.
_ Nhắm mắt ngủ đi con, mai dậy sớm còn đi làm.
Không nhớ rõ đây là lần thứ bao nhiêu mẹ nhắc tôi đi ngủ. Và ở tuổi tôi dù vứt xuống vũng nước lúc nửa đêm cũng chưa chắc đã tỉnh nổi, nhưng hôm nay thức trắng một phần là do tiếng ồn của máy nhồi cọc cả đêm, một phần là vì lạnh.
_ Dạ! Mẹ ơi mấy giờ rồi? Đêm nay lạnh quá mẹ nhỉ. Mẹ ơi! Mẹ lạnh không?. Mẹ cần con ôm không?.
Mẹ tôi lần mò tìm được chiếc điện thoại nokia đen trắng dưới gối ấn mở, tôi nhìn rõ từ màn hình con số 03h 30. Thầm nghĩ, sao hôm nay thời gian dài thế.
_ Ngủ đi con, lạnh thì quấn tạm cái áo mưa cho đỡ. Chờ sáng nắng lên mới phơi được chăn màn. Cố nhắm mắt ngủ đi.
_ Dậy! Dậy thôi mấy đứa, sáng tỏ rồi. Dậy đánh răng rửa mặt còn ăn cơm đi làm.
Anh Long đứng ở cửa lán gọi vọng vào. Trong khi bên dãy chúng tôi các bác mẹ đã dậy từ lâu chăn màn gọn gàng, thì dãy còn lại mấy anh vẫn mắt nhắm mắt mở nằm trên giường uể oải. Cho tới khi gọi đến lần thứ n thì từ trong màn những cái bóng im lìm mới thoát ra khỏi cái chăn, ngồi dậy bước xuống giường.

_ Mấy đứa ngó xem còn Hà ở đâu gọi về ăn cơm?. Không biết nó đi đâu mà từ sáng dậy anh chưa thấy mặt.
_ Đêm qua chị đi cả đêm có về đâu mà anh tìm. Chắc lại ngủ chơi ở đâu rồi. Chậc Chậc “gái công trường như giường bệnh viện”. Vừa nói anh T vừa lắc đầu.
Chị Hà là người ở xóm tôi. Gần ba mươi tuổi, làn da hơi ngăm, mái tóc tuy xoăn nhưng trên đầu chị luôn được tết thành hai bím dài. Chị không xinh nhưng được cái ưa nhìn. Cả đám con trai lán tôi không ai thích chị một phần vì chị hơn tuổi, một phần chị có tính trăng hoa.
_ Anh T vơ đũa cả nắm vừa thôi. Ối người cũng gái công trường mà đâu phải ai cũng thế.
Con Ngọc vừa nói vừa nhanh chân đi xếp bát lên mâm.
_ Rồi mấy đứa mày giỏi nhất. Nhanh lên ăn sớm đi làm sớm, hôm cả lán xuống K7 nhé. Chà..chà! Hôm nay lại nắng vỡ đầu.
Bình minh lên, từng tia nắng ban mai lan tỏa khắp mọi nơi trên mặt đất. Tiếng ồn của máy móc hòa chung với tiếng bước chân tạo nên một khúc nhạc rộn ràng. Thời gian trôi, ngày tháng trôi, tuổi thanh xuân cũng lặng lẽ đến rồi đi xóa sạch dấu vết như chưa từng xuất hiện. Điều lưu lại trong mỗi người có chăng là những kỷ niệm vụ vặt về cuộc sống, về chữ duyên kỳ diệu trong đời. Với tôi thứ còn lưu luyến là những khắc khoải về ước mơ dang dở, về lời ước hẹn với ai đó không thành. Chắc trên đời chỉ những ai như tôi mới thấu hiểu hết cái cảm giác chênh vênh tiếc nuối ấy.
_ Bà chủ ơi?. Bán em mớ rau nào. Khiếp tháng năm rồi mà còn mưa rét. Chậc chậc biến đổi khí hậu rồi.
Tiếng hỏi của người đàn ông kéo tôi ra khỏi mớ suy nghĩ hỗn độn. Một người thanh niên ngoài ba mươi trong bộ quần áo mưa lụp xụp bước vào.
_ Anh ăn rau gì ạ?
_ Gì cũng được. Mà bán anh mớ rau muống đi. Về xào tỏi ăn nóng cho ngon. Cho thêm nửa con gà với năm nghìn sả nhé.
_ Vâng chờ em tí.
Tiễn người khách thứ ba trong ngày ra về. Tôi đứng nhìn theo lòng ngổn ngang bao cảm xúc. Ngoài trời vẫn mưa, từng giọt mưa lặng lẽ buông mình rơi rồi vỡ tan trên mặt đất, như cuộc đời mỗi người hôm qua còn trên đỉnh cao hôm nay đã rơi xuống tan vào hư vô không ai còn nhớ. Chẳng biết tôi đã quá quen thuộc với cảnh ế ẩm hay tại bản thân quá hững hờ, quá lạc quan tin vào một tương lai tươi sáng. Cơn gió ù ù thổi qua từng cánh hoa phượng rơi lả tả đỏ cả lề đường. Tôi vẫn tự nhủ tin rằng, ngày mai trời lại nắng. Và đâu đó trên trái đất này có một người cũng đang nhìn mưa rơi, cũng đang nhớ đến tôi.

Ảnh con đường sau cơn mưa sưu tầm
Hoa phù sa
Thêm
736
4
2
Viết trả lời...
THÁNG BA VỀ

Tháng ba về trong sắc nắng vàng tươi
Hoa xoan nở giữa khung trời thơ mộng
Màu hoa tím nhẹ nhàng chao cánh mỏng
Khúc giao mùa xao động bước thiên di.

Em nghe chăng lời của gió thầm thì
Như trao gửi mộng tình si vương vấn
Xuân giã biệt hạ đang về hiệp cẩn
Sợi tơ huyền ngơ ngẩn tiễn mùa sang.

Ánh bình minh trong sương sớm mơ màng
Chim ríu rít hát ca vang ngoài nội
Xuân cất bước nhưng sao lòng bối rối
Cứ ngập ngừng không vội vã chia xa.

Tháng ba về miền thương nhớ giao thoa
Tình sương khói tan hòa vào mây gió
Xuân quay gót đi về bên lối nhỏ
Để tháng ngày trăn trở nhớ Xuân qua!

Ngũ Ánh Tuyên

1677756236338.png
Thêm
611
5
4
Viết trả lời...
1. Khái niệm trần thuật

Trần thuật là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn học. Về bản chất, trần thuật là hành vi ngôn ngữ nhằm kể, thuật, miêu tả, cung cấp thông tin về sự kiện, nhân vật, theo một thứ tự nhất định trong không gian, thời gian và về ý nghĩa. Trần thuật có nhiệm vụ cho người đọc biết ai, xuất hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong tình huống nào...

Trần thuật có thể được thực hiện bằng các phương tiện phi ngôn ngữ như diễn viên biểu diễn trên sân khấu, phim ảnh dùng hình ảnh, âm nhạc dùng âm thanh, hội hoạ dùng đường nét... Vì thế, miêu tả cũng có ý nghĩa trần thuật. Ở đây đang nói về trần thuật trong văn học. Trần thuật không đồng nhất với tự sự, vì thế không nên nghĩ rằng chỉ trong truyện mới có trần thuật, trong thơ trữ tình cũng sử dụng trần thuật. Trần thuật có thể tìm thấy trong các bài thơ Kinh Thi, trong ca dao. Các nhà thơ trung đại Việt Nam gọi các bài thơ trữ tình là “thuật hoài”, “tự tình” (kể nỗi lòng). Hãy đọc một vài câu thơ:​
Bước tới Đèo Ngang hóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa...​
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)​
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa...​
(Bạn đến chơi nhà - Nguyễn Khuyến)​
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.​
(Ngắm trăng - Hồ Chí Minh)
Trần thuật được sử dụng rất phổ biến trong thơ. Ví dụ như Thạch Hào lại, Bài ca nhà tranh bị gió thu phá, Chinh phụ ngâm, Hầu trời, Tương tư, Xa cách, Vội vàng, Nắng mới, Lượm, Theo chân Bác, Đêm nay Bác không ngủ... Tuy vậy, trần thuật thể hiện sự đa dạng và phong phú nhất trong tác phẩm tự sự.

Trần thuật đòi hỏi phải có người kể, người thổ lộ. Chủ thể của lời kể trong thơ trữ tình là nhân vật trữ tình, người kể trong truyện là người kể chuyện. Trần thuật phải xử lí mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi sự kiện và nhân vật. Như vậy có hai nhân tố quy định trần thuật: người kể và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật. Lời trần thuật chính là văn bản tự sự, sản phẩm của hoạt động trần thuật của người kể chuyện. Văn bản tự sự gồm hai thành phần: lời trần thuật của người kể chuyện và lời của nhân vật. Lời nhân vật do người kể giới thiệu, do đó là bộ phận của lời trần thuật. Xét riêng lời trần thuật ta có thể kể đến các yếu tố: lược thuật; dựng cảnh; hồi thuật, dự báo, gây đợi chờ (huyền niệm); phân tích bình luận; giọng điệu.
2. Người kể chuyện, ngôi trần thuật, vai trần thuật và điểm nhìn

Người kể chuyện (người trần thuật) là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó là một vai do nhà văn tạo ra để thay mình thực hiện hành vi trần thuật. Khác với người kể chuyện trực tiếp lộ diện như trong diễn xướng dân gian, có thể sử dụng các yếu tố phi ngôn từ như điệu bộ, ánh mắt..., người kể chuyện trong văn bản viết ẩn mình sau dòng chữ. Người kể chuyện ấy có thể được kể bằng “ngôi thứ ba”, ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Và chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy như người trong cuộc, người chứng kiến hay người biết trước sự việc xảy ra bằng tất cả giác quan, sự hiểu biết của mình. Do đó về căn bản, mọi người kể chuyện đều kể theo ngôi thứ nhất. Cái gọi là kể theo “ngôi thứ ba” thực chất là hình thức kể khi người kể chưa được ý thức (như trong truyện thần thoại, truyện cổ tích...) hoặc là đã được ý thức nhưng cố ý giấu mình (như trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại). Ví dụ, đoạn mở đầu Chí Phèo, Nam Cao viết: “Hắn vừa đi vừa chửi, bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời...”. Thực chất câu trần thuật này là: (Tôi thấy) “Hắn vừa đi vừa chửi...”, nhưng nhà văn giấu vai trò mình thấy đi, cho nên gọi là ngôi thứ nhất giấu mình. Thực ra ngôi thứ ba không kể được bởi vì “họ” “chúng nó”, “người ta” là đối tượng được nói đến, không phải là chủ thể trong giao tiếp.

Nhà nghiên cứu Pháp Paul Ricoeur nói hai ngôi đó không có gì khác, đều là cái tôi của người kể chuyện. Tuy nhiên ở đây sự phân biệt ước lệ về ngôi kể vẫn có ý nghĩa nghệ thuật, bởi vì mỗi ngôi kể có một trường nhìn khác nhau được quy ước, đem lại những cái nhìn khác nhau.

Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng tôi “là một nhân vật” trong truyện, chứng kiến các sự kiện đứng ra kể. Nội dung kể không ra ngoài phạm vi hiểu biết của một người, thường gắn với quan điểm đánh giá riêng của nhân vật ấy. Chẳng hạn, ông giáo kể chuyện lão Hạc trong truyện Lão Hạc của Nam Cao. Kể theo ngôi thứ nhất là hình thức nghệ thuật xuất hiện rất muộn, khi người ta đã ý thức được ý nghĩa của “cái tôi.” Vì thế mãi đến đầu thế kỉ XIX mới xuất hiện ở châu Âu và thịnh hành dần cho đến ngày nay. Ngự trị trong văn học cổ và văn học trung đại là hình thức ngôi thứ ba. Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể tất cả những gì có ở trên đời, kể cả những bí mật trong tâm hồn kẻ khác, những thế giới xa lạ, chưa có dấu chân con người hoặc những miền mà về nguyên tắc, người kể không thể biết. Đây là ngôi kể tự do nhất. Còn ngôi thứ nhất thì chỉ kể được những gì mà khả năng của một người cụ thể có thể biết được, như vậy mới tạo được cảm giác chân thực. Ngôi thứ hai (xưng “anh”) như trong tiểu thuyết Đổi thay của Michel Butor, Linh Sơn của Cao Hành Kiện cũng mang cái tôi của người kể, song với ngôi thứ hai, nó tạo ra một không gian gián cách: một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra, chứ không phải là tự kể như ngôi thứ nhất, mặc dù khi đọc, người đọc nhanh chóng “phiên dịch” cái “anh” ấy ra cái “tôi”.

Người kể là một vai mang nội dung. Trong truyện Lão Hạc, người kể xưng “tôi”, nhưng cái “tôi” ấy là một ông giáo thì có một ý nghĩa đặc biệt về mối quan hệ giữa người trí thức nghèo với người nông dân nghèo, ông giáo kể thì khác người đầy tớ kể như trong tiểu thuyết Bợm nghịch. Nhiều tác giả nam kể chuyện bằng vai nữ, và ngược lại không ít nhà văn nữ kể chuyện bằng vai nam. Điều này có khi thể hiện ý thức về giới tính trong sáng tác, có khi chỉ là tìm một giọng có âm hưởng mạnh mẽ trong lòng người.

Trong thơ trữ tình, tuy không có người kể chuyện nhưng có nhân vật trữ tình, biểu hiện tư tưởng, cảm xúc qua ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Trong thơ cũng có nhân vật trữ tình nhập vai. Hiện tượng này không hiếm, ví dụ như trong Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, hai tác giả nam giới là Đặng Trần Côn và Nguyễn Gia Thiều đều nhập vai người phụ nữ - người chinh phụ và người cung nữ.

Trong bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu, chủ thể trữ tình là một anh bộ đội, vai trữ tình này có ý nghĩa khác hẳn với cái tôi của nhà thơ. Vẫn biết rằng ý thức nhà thơ đã nhập vào vai anh bộ đội, nhưng lời anh bộ đội có một giá trị khác mà nhà thơ không thay được.

Trong một văn bản trần thuật không nhất thiết chỉ có một người trần thuật. Các văn bản phức tạp có thể có hai người trần thuật trở lên, tạo thành một kết cấu có tầng bậc hay ghép nối. Chẳng hạn, trong truyện Số phận con người của M. Sholokhov, người kể chuyện lúc đầu là một người xưng tôi, sau chuyển cho nhân vật Socolov tự kể chuyện mình. Trong truyện Rừng xà nu lúc đầu do người kể ngôi thứ ba trần thuật, sau chuyển sang lời kể của cụ Mết về sự tích chiến đấu của Tnú. Đó là cấu trúc truyện trong truyện.

Ngôi và vai có ý nghĩa trong việc tạo thành giọng điệu của văn bản, bởi vì giọng điệu bao giờ cũng là giọng của một ai đó, được thể hiện bằng những phương tiện ngôn từ nhất định. Người kể chỉ có thể kể được những điều họ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy trong không gian, thời gian, trong trạng thái cảm xúc, trình độ văn hoá, tuổi tác, quan điểm tư tưởng, giá trị. Vì thế, điểm nhìn thể hiện vị trí người kể dựa vào để quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện. Ở đây có nhiều loại điểm nhìn. Điểm nhìn bên ngoài: người kể trần thuật, miêu tả sự vật từ phía bên ngoài nhân vật, kể những điều nhân vật không biết. Ngược lại, điểm nhìn bên trong kể xuyên qua cảm nhận của nhân vật. Điểm nhìn không gian: nhìn xa, nhìn cận cảnh. Điểm nhìn di động: từ đối tượng này chuyển sang đối tượng khác. Điểm nhìn thời gian: nhìn từ thời điểm hiện tại như sự việc đang diễn ra, hay nhìn lại quá khứ, qua màn sương của kí ức. Điểm nhìn tâm lí: nhìn theo con mắt người từng trải hay kẻ mới bước vào đời, giới tính nam hay nữ, tuổi tác già hay trễ. Ngoài điểm nhìn của người kể chuyện còn có điểm nhìn của nhân vật được kể.

Theo M. Bakhtin, điểm nhìn còn mang nội dung tư tưởng, ý thức hệ. Lại có điểm nhìn tư tưởng và ý thức hệ, tuyên bố quan điểm đánh giá một chiều mà không cần giải thích. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh cựu ước phần Sách của Gióp mở đầu giới thiệu Gióp như sau: “Tại trong xứ út xơ có một người tên là Gióp; người ấy vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác.”. Sau khi kể chuyện Satan mê hoặc Thượng Đế và những tổn thất cùng nỗi buồn đau đầu tiên của Gióp, người kể kết thúc đoạn ấy như sau: “Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm thượng cùng Đức Chúa Trời”. Vì sao Gióp không phạm tội, vì sao biết Gióp không xúc phạm chúa Trời, điều đó chỉ Chúa Trời mới biết được mà thôi. Điểm nhìn tưởng có thể là đối thoại, nghĩa là hai điểm nhìn trái ngược nhau cùng tồn tại trong một tác phẩm. Đây là điều chúng tôi đã đề cập khi phân tích Truyện Kiều. Chẳng hạn, đối với nhân vật Từ Hải, có quan điểm gọi Từ là giặc, có quan điểm gọi Từ là đấng anh hùng. Đối với chữ “trinh” cũng có hai quan điểm. Khi thì nói: Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu, khi lại nói: Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường. Hiện tượng điểm nhìn nhiều chiều giải phóng người đọc khỏi cái nhìn một chiều. Điểm nhìn trần thuật gắn bó mật thiết với ngôi kể, nhưng rộng hơn ngôi kể. Bởi vì nhiều khi truyện kể theo ngôi thứ ba, nhưng có khi ngôi thứ ba kết hợp với điểm nhìn của nhân Vật. Ví dụ đoạn Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh, điểm nhìn thể hiện trong từ ngữ và cảnh sắc:​

Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.​
(Điểm nhìn bên ngoài, ngôi kể thứ ba xen điểm nhìn nhân vật)​
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.​
(Điểm nhìn người tiễn là Thuý Kiều)​
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ di muôn dặm một mình xa xôi.​
(Điểm nhìn ngôi thứ ba xen điểm nhìn nhân vật)​
Vừng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc nửa soi dăm trường.​
(Điểm nhìn của nhân vật Thuý Kiều)

“Người”, “kẻ” là điểm nhìn bên ngoài. “Trông vời”, “muôn dặm một mình”, “in gối chiếc”, “soi dặm trường” là điểm nhìn bên trong của Thuý Kiều.

Một ví dụ khác về sự đan xen điểm nhìn người kể và nhân vật trong truyện Chí Phèo ở đoạn Chí ăn cháo hành: “Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng ra nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu, thương hại (điểm nhìn thị Nở). Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muôn làm nũng với thị như với mẹ (điểm nhìn Chí Phèo). Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?” (điểm nhìn thị Nở). Sự luân phiên điểm nhìn làm người đọc vừa trông thấy theo trường nhìn bên ngoài, vừa nhìn thấu vào tâm can nhân vật; khi thì theo con mắt nhân vật này, khi thì theo mắt nhìn của nhân vật kia, tham gia vào cuộc đối thoại ngầm với văn bản.

Trong văn bản trần thuật nhiều khi cần phân biệt điểm nhìn người trần thuật (gần với tác giả) với điểm nhìn nhân vật. Nhân vật chỉ quan tâm đến cuộc sống của chính nó, còn tác giả quan tâm phân tích nhân vật cho nên có định hướng riêng. Ví dụ trong Chí Phèo, sau khi kể việc Chí Phèo chửi đổng, người kể nêu câu hởi: “Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.” Hoặc trong cuộc đối thoại nội tâm của hai nhân vật, bỗng vang lên lời phân tích theo quan điểm tác giả: “Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi, hay trận ốm thay đổi hắn về sinh lí cũng thay đổi cả tâm lí nữa?”. Đây là sự khác biệt giữa điểm nhìn được trần thuật và điểm nhìn trần thuật, không thể lẫn lộn. Qua ví dụ trên, ta cũng thấy được điểm nhìn trần thuật thường di động, dịch chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, lúc tới gần, lúc lùi xa, luôn thay đổi góc độ quan sát.

Một khía cạnh khác của điểm nhìn là điểm rơi của cái nhìn, thể hiện ở hệ thống các chi tiết, đồ vật, phong cảnh, màu sắc, âm thanh, động tác... Phân tích phương diện này giúp khám phá cả cái nhìn của tác phẩm.
3. Lời trần thuật
3.1. Lược thuật


Lược thuật là phần trình bày, giới thiệu về nhân vật, bối cảnh, tình huống... cung cấp những thông tin bước đầu về nhân vật, chuẩn bị cho các biến cố hoặc thông tin dự báo trong quá trình hoạt động của nhân vật, nhưng không đi sâu vào chi tiết, không dừng lại miêu tả. Ví dụ những đoạn giới thiệu lai lịch nhần vật trong Truyện Kiều, đoạn giới thiệu về Vôtơranh trong tiểu thuyết Lão Gôriô...Ví dụ đoạn lược thuật về Hoạn Thư:​
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư.
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.​
(Truyện Kiều — Nguyễn Du)

Ở đây không có biến cố, hành động, sự giới thiệu rất khái quát nhưng có tác dụng dự báo các xung đột gay gắt về sau. Lược thuật tuy quan trọng nhưng chỉ chiếm phần nhỏ trong văn bản. Nếu gia tăng lược thuật thì truyện thơ sẽ thành vè còn truyện ngắn sẽ biến thành bản “1í lịch trích ngang’’, làm giảm sút tính nghệ thuật.

3.2. Dựng cảnh và miêu tả chân dung

Dựng cảnh và miêu tả chân dung là phần tái hiện trực tiếp chân dung, hành động, biến cố, đối thoại của các nhân vật. Miêu tả cảnh tượng có tác dụng tái hiện sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian cụ thể, với những biểu hiện, đặc điểm cụ thể. Thường ở những đoạn miêu tả cảnh tượng thì thời gian ngừng trôi. Dựng cảnh không chỉ là chuẩn bị môi trường cho nhân vật hoạt động mà còn gián tiếp miêu tả tâm lí, cung cấp thông tin về những đổi thay, tạo không khí, dự báo biến cố mới. Cảnh Kiều tiễn Thúc Sinh, Kiều ồ lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều, cảnh chiều hôm và đếm tối nơi phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, cảnh mở đầu trong Tắt đèn đều là như thế. Cảnh ở đây còn là cảnh đối thoại, những lời đối đáp chiếm một lượng thời gian bằng lượng thời gian trong thực tế, cảnh hành động, âu yếm... Vì thế, cảnh cũng là một bộ phận không thể thiếu của truyện.

3.3. Phân tích, bình luận

Yếu tố phân tích, bình luận không hiếm trong văn học. Nghị luận trong thơ người ta đã biết từ xưa. Thơ thiền Lý Trần, thơ Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đều có nhiều yếu tố nghị luận. Ví dụ, “Thớt có tanh tao ruồi đổ đến, Gang không mật mỡ kiến bò chi”. Hoặc: “Còn bạc còn tiền, còn đệ tử, Hết cơm hết rượu, hết ông tôi”... Nhưng nghị luận trong thơ cũng như trong văn đều phải thấm đượm tình cảm, cảm xúc. Trong trần thuật, nghị luận phân tích góp phần thúc đẩy nhân vật hành động. Ví dụ, đoạn phân tích tâm lí Chí Phèo khi vào nhà Bá Kiến: “Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi của ngày xưa, hắn thấy quả là táo bạo. Không táo bạo mà dám gây sự với cha con Bá Kiến, bốn đời làm tổng lí. Và nghĩ thế, hắn thấy hắn cũng oai. Hắn làm cái ông gì ở làng này? Không vây cánh, không họ hàng thân thích, anh em không có, đến bố mẹ cũng không... Ờ, thế mà dám độc lực chọi nhau với lí trưởng, chánh tổng, bá hộ, tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kì hào, Bắc kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Thử hỏi đã có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn xuất đinh này làm được thế? Kể làm rồi có chết cũng là cam tâm. Vậy mà không: cái cụ Bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào nhà xơi nước...”. Cả đoạn phân tích này diễn giải quá trình diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.

3.4. Giọng điệu

Giọng diệu trong văn bản thể hiện cái giọng điệu riêng mang thái độ, tình cảm và đánh giá của tác giả. Giọng điệu là yếu tố tạo thành tính chỉnh thể của văn bản văn học. Giọng điệu khác khái niệm ngữ điệu trong ngữ học. Ngữ điệu thuộc về câu trong ngôn ngữ nói thành tiếng, gồm các loại như ngữ điệu thức tỉnh, trần thuật, nghi vấn, cảm thán, mệnh lệnh. Giọng điệu văn học thuộc giọng điệu phát ngôn, khác giọng điệu của câu hay của từ trong tình huống giao tiếp trực tiếp. Vấn đề số lượng và phân loại giọng điệu phát ngôn đến nay ngữ học vẫn chưa giải quyết. Tuy nhiên, giọng điệu phát ngôn phong phú hơn giọng điệu ngữ pháp rất nhiều. Có thể kể: giọng chào hỏi, chia tay, hỏi thăm, ra lệnh, mời mọc, cho phép, hoà hoãn, đấu dịu, vỗ về, yêu cầu, đòi hỏi, đe doạ, cầu xin, khen ngợi, nguyền rủa, thoá mạ, lăng nhục, cảm ơn, suồng sã, mỉa mai, châm chọc, tố cáo, khinh khỉnh, khinh bạc... Là một hiện tượng nghệ thuật, giọng điệu văn học là giọng điệu của ngôn từ bên trong, nội tại, không cần đọc thành tiếng vẫn có sự khu biệt rõ ràng. Cũng không nên đồng nhất nó với giọng điệu bẩm sinh của tác giả vốn có ngoài đời.

Trong thơ ca, giọng điệu thơ thuộc về chủ thể trữ tình, gần gũi với tác giả, phản ánh cái tôi thứ hai của tác giả. Trong truyện, giọng điệu phức tạp hơn, chủ yếu gồm hai giọng cơ bản: giọng nhân vật đối với thế giới và giọng của người kể chuyện đối với nhân vật. Tuỳ theo đặc điểm tính cách, số phận nhân vật, người kể và các mối quan hệ đa dạng của chúng mà ta có giọng điệu đa dạng. Người kể có thể là nhân vật (xưng tôi) hay người kể vô hình nhưng cũng thể hiện kín đáo cái tôi thứ hai của tác giả. Cả hai giọng điệu này đều khúc xạ giọng điệu tác giả. Chức năng của giọng điệu là liên kết văn bản thành một thể thống nhất ngữ điệu — nhịp điệu trên cơ sở sự phân tách của ngữ điệu của dòng ngôn từ. Chức năng quan trọng nhất, theo M. Bakhtin là biểu hiện, thể hiện ở âm hưởng ngữ điệu trong hình thức nội tại, là yếu tố của “sự kiện” đời sống. Giọng điệu còn là yếu tố liên kết văn bản với ngữ cảnh ngoài văn bản, với không khí xã hội, thời đại, thể hiện sự đánh giá, ý chí, xức cảm của nhà văn.

Giọng điệu thể hiện ở cách xưng hô, cách dùng từ ngữ nhằm biểu hiện tình cảm thành kính, thân mật hay xa lạ, khinh bỉ, châm biếm, giễu nhại. Một tiếng “chàng”, “nàng’’ trong văn hay một tiếng xưng hô “hắn”, “thị”' trong truyện đã tạo ra cả một trường từ vựng tương ứng và đặt người đọc vào cái không khí đặc trưng do tác giả tạo ra. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nổi bật lên giọng cảm thương, than oán, đau xót. Nổi bật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là giọng trào lộng, hài hước. Nổi bật trong truyện Thạch Lam là giọng đồng cảm, trữ tình...

Giọng điệu thể hiện ở giọng, điểm nhấn (lặp lại), sự cách quãng, nhịp điệu. Giọng điệu còn phối hợp với chi tiết, tình tiết, môtíp, động tác... làm thành cái không khí riêng của từng tác phẩm.

Trong tác phẩm cận hiện đại xuất hiện tác phẩm nhiều giọng điệu. M. Bakhtin nói tới hiện tượng phức điệu, đa thanh trong giọng điệu. Nhà nghiên cứu Nga G.N. Pospelov dựa vào đặc điểm này chủ trương một tác phẩm có thể có nhiều phong cách. Bakhtin thì giải thích hiện tượng đó bằng lí thuyết đối thoại. Ông đã chứng minh cho thấy trong tiểu thuyết của Dostoevski lời trần thuật, ngoài giọng điệu người trần thuật còn mang giọng điệu nhân vật; lời có giọng điệu của nhân vật này lại mang giọng điệu của nhân vật mà nó đối thoại. Lời thơ cũng có thể có hai giọng. Chẳng hạn trong bài Thương vợ của Tú Xương, có thể nhận thấy giọng bà Tú ẩn trong giọng thơ của tác giả qua câu thơ sau “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không”. Lời thơ là của ông Tú mà giọng chửi là của bà Tú. Nhà thơ đã lồng cái tiếng chửi mà lương tâm ông nghe được vào câu thơ trào phúng của mình.

Các yếu tố của cốt truyện, truyện, trần thuật nói trên làm thành cái biểu đạt của văn bản. Từ những yếu tố biểu đạt ấy mà ta hiểu về nhân vật, đề tài, chủ đề của tác phẩm. Xem nhẹ, bỏ sót các yếu tố ấy sẽ có nguy cơ hiểu lệch, hiểu không trọn vẹn, đầy đủ sự phong phú trong tác phẩm văn học.​
(Sưu tầm tổng hợp)
Thêm
4K
3
1
Viết trả lời...
Em về trong tiết tháng ba
Bâng khuâng màu nhớ la đà sắc hương
Mênh mang nhuộm tím cung đường
Sầu đông đã khép buồn vương tơ trời.

Xuân hồng cất bước dạo chơi
Ngoài kia hoa gạo rạng ngời thắm tươi
Long lanh một ánh mắt cười
Đôi tà áo tím cho người đắm say.

Êm đềm tóc gió thôi bay
Dịu dàng gót ngọc như mây ngang trời
Em về nhịp bước chơi vơi
Để ai ngơ ngẩn bên đời phiêu du.

Ngũ Ánh Tuyên
Ảnh sưu tầm
Thêm
  • cô gái xinh đẹp trong nắng vàng.jpg
    cô gái xinh đẹp trong nắng vàng.jpg
    49.6 KB · Lượt xem: 99
  • Like
Reactions: Triều Anh
640
1
4
Viết trả lời...
Bài viết cấm người đọc dưới 18 +

Đã mấy ngày rồi, gã không ngủ được. Nếu không ngủ lại, chắc gã chết mất. Gã sẽ chết vì mất ngủ. Gã trở mình mấy lần, ghìm chặt những suy nghĩ vẩn vơ lại. Gã phải ngủ, ngủ đi. Một, hai, ba, bốn…

Vớ vẩn, thật là vớ vẩn. Chuyện hoang đường thế mà. Mấy chuyện điên khùng này sao cứ bám lấy gã. Lẽ nào là do gã thực sự không có năng lực,.. điên, không phải. Gã nghĩ gã vẫn có thể có. Lòng tự tôn của một thằng đàn ông không cho phép gã nghĩ bậy. Nhưng gã vẫn cứ nghĩ. Gã sắp chết điên với một nồi suy nghĩ bung trào. Tức cái mình, gã ngồi phắt dậy, dứt khoát đi ra khỏi giường.

Thành phố về đêm trống vắng lạ thường. Gã nhìn đồng hồ, hai giờ sáng. Bình thường giờ này mấy tay đua với mấy tên bợm nhậu sẽ chơi ẩu ở quán nào đó. Chắc có lẽ do gã chưa thấy thôi. Chiếc xe rác nằm ven đường bơ vơ thấy tội, tự dưng gã muốn bổ nhào vô đó. Đơn giản là gã muốn chạy trốn. Giá như có tên điên nào đó húc gã bất tỉnh thì sướng biết mấy nhỉ? Để gã khỏi nghĩ nhiều, hoặc gã chỉ muốn nằm đó, không nghĩ ngợi gì về cuộc đời. Trốn khỏi cuộc đời có lẽ là sự lựa chọn tốt nhất của gã lúc này.

Gã đã đi đến cầu Trần Phú từ lúc nào. Mặt biển gợn sóng lăn tăn. Ánh đèn hiu hắt chiếu sáng lên khuôn mặt gã. Gã vô thức sờ chòm râu lún phún mấy cộng. Chà, cũng đẹp trai đấy. Khóe miệng gã nhếch lên, gã hài lòng sờ khuôn mặt mình. Nha Trang thật đẹp, nếu không phải vì quyết định ban đầu của mẹ gã thì chắc gã không có duyên với thành phố này rồi. Tự nhiên gã thấy yêu thành phố này quá. Những khu Resort chạy dọc ven biển, kiến trúc hiện đại ngon chẳng khác gì mấy em mười tám mà gã muốn xơi. Cuộc đời gã chỉ có hai thứ gã chưa chạm vào nhiều: Gái và tiền. Gã chạy theo mãi mà chẳng có được. Nghĩ đến đây, gã tiếc rẻ, giá như ngày đó gã xơi em Ngàn thì tốt biết mấy. Gã sẽ biết mùi gái là gì.

Brin…brin… Chiếc xe ào tới, gã không kịp nhìn, xém ngã nhào ra giữa đường.

-Mày đi không có mắt à. Mở mắt mà nhìn bố mày chứ.

Nói đoạn, thanh niên lồm cồm bò dậy, phóng xe cái ù đi mất.

Gã phủi quần áo, mồm chửi hai từ mà bất kì người đàn ông nào khi nổi khùng cũng sẽ nói. “Mẹ nó”.

Cuộc đời gã vui như rạp xiếc. Cơ duyên kẻ xiếc không phải thú mà là người. Nhưng mà gã thấy vui vì điều đó. Đâu phải ai đẻ ra đã được xiếc như gã. Mấy ai dám bị cuộc đời ném ra bươn chải từ bé như gã đâu.

Biết gã dạo này nhiều tâm sự, thằng Huy lại rủ gã đi bar.

  • Tao hết tiền rồi, tiền đâu nữa mà đi.
  • Yên tâm, thằng em này lo tất, cứ mượn nợ chỗ thằng Tuấn là được.
  • Được, vậy tối nay đi.
Tiếng nhạc xập xình, gã muốn quẩy tung kí ức. Cô em múa cột xéo xắt uốn éo nhìn mà thèm. Ả lắc bờ mông, ưỡn cái ngưc. Ánh đèn trên sân khấu rọi vào những bàn tay đang nhét tiền vào ngực ả. Những bàn tay thèm khát muốn nhét vào sâu hơn. Ả đã mặc ba bốn lớp áo để khỏi chạm da thịt. Nhưng mấy kẻ săn mồi thì không muốn như vậy. Ánh mắt hau háu luôn nhìn vào chỗ có vải đang đung đưa theo nhịp.

Xịt ra- Thanh niên đẩy gã ra xa. Trên mặt hắn, có vết sẹo dài.

Hắn đi thẳng lên chỗ DJ thì thầm vào tai:

Hôm nay có hàng không?

Tên DJ hất mắt về phía tên đang đứng cạnh sân khấu. Mặt Sẹo lò dò đi xuống, khi đi ngang qua gã, không quên ném cái nhìn sắc sảo đầy hàm ý.

  • Hàng thịt hay hàng bột?
  • Cả thịt, cả bột thì sao? Giá bao nhiêu?
  • Đoán xem?
  • Chục triệu?
  • Hơn đó, hàng thịt em tốn công đưa từ miền Tây về, đâu dễ gì đưa tới Nha Trang, công vận chuyển đã hơn chục triệu rồi. Anh mới chơi lần đầu đúng không?
  • Bao nhiêu thì tao cũng chiều. Chú em cứ đưa tất. Tao còn cái sổ đỏ bà già mới “đưa”.
Tên đưa hàng cười ẩn ý, là đưa hay là cướp? Chắc lại đi cướp của bà già để đi chơi đây mà.

Theo em xuống kho. Tha hồ cho anh chọn.

Thằng Huy mở cửa kho. Đoạn thằng Huy dúi vào túi Mặt Sẹo thứ gì đó, rồi ghé sát tai: “Anh chơi cho cẩn thận”.

Gã ngồi một bên nhìn thấy hết. Mấy hổm rày, cớm làm ăn lơ là quá. Nhưng nghĩ tới bận mình cũng suýt từng, gã bỗng giật thót kinh.

Huy thấy gã thì tiến lại gần:

  • Em Ngàn bữa trước… mùi vị có ngon không?
  • Ngon cái con khỉ, tao có kịp xơi đâu?
  • Thế hôm nay, quý anh có muốn xơi lại không?
Gã chần chừ giây lát.

Ông anh mà yếu là con Ngàn chê đó. Hôm nay đặt lịch nha.

Yếu? Ai bảo gã yếu? Là con Ngàn nói à? Gã muốn làm rõ cho ra ngô ra khoai mới được.

Gã không phủ nhận cũng không đồng tình. Đôi tay gã vô thức móc ra đống tiền mà thằng Tuấn đưa, đặt lên bàn.

Bao nhiêu tiền đó, cứ lấy hết đi.

Thằng Huy cầm đống tiền bỏ vội vào túi, liếc nhìn thằng Tuấn đang quẩy hăng dưới kia. Hai thằng liếc nhau cười nhếch môi.

***

-Em có thai rồi!

- Có thai? Mày bị điên à?

Thằng Huy cú đầu con Ngàn một cái.

  • Mày có biết tao bỏ ra bao nhiêu tiền mới rước được mày về không? Tao cực khổ đào tạo ra mày mà mày lại nói ra những câu thế à! Mày có thai rồi ai làm việc cho tao! Rồi mày lấy gì trả tiền cho tao?! Con của thằng nào? Mày có bị điên không?!
  • Có thể là con của anh Tuấn.
Thằng Tuấn tay đang chuẩn bị vặn nhạc, thì khựng lại.

  • Mày có bị điên không? Tao có dụng cụ, không thể nào có con được?
  • Tuần trước em với anh…
Thằng Tuấn chặn họng con Ngàn

-Có khi nào là con của thằng đó?

- Cái tên Mặt Sẹo đó hả? – Thằng Huy nghi ngờ.

- Có thể lắm, thấy hắn lớ ngớ là em nghi rồi. Còn đòi chơi cả hàng thịt lẫn hàng bột nữa.

- Mày đưa hàng kiểu gì vậy? Phải biết nhìn khách chớ? Tên đó lần đầu vào quán đó – Thằng Tuấn bỗng sang nhìn Ngàn- Mày đi vào trong, lát tao vào nói chuyện với mày sau!

- Là anh kêu em đưa mà, anh liếc mắt còn gì!- Thằng Huy phân bua.

- A, em có cách rồi, ông anh đó đần lắm, cứ gá sang cho ổng là được. – Huy tiếp lời- Ông đó luôn sợ mình không có con, nên em mới đưa con Ngàn sang cho ổng chơi.

- Được không đó? Mai mày dắt con Ngàn đi khám, coi thử mấy tuần rồi. Nếu được thì bỏ, nghe chưa?

- Em nghĩ nên bỏ con Ngàn luôn đi, con đó làm ăn không được gì hết. Cứ gán sang cho ông Đông chịu hộ. Anh quên rồi à, ông Đông không rành mấy vụ này, hồi em con Ngàn, hai lần ổng đều không dám đụng vào con Ngàn chứ huống chi là…

Hai tên cùng cười phá lên…

***

Tự dưng gã có thêm một đứa con mà gã cứ ngờ ngợ. Gã được làm bố rồi sao? Không lẽ cứ nắm tay là có con? Gã sợ hãi giấu bàn tay ra sau. Con Ngàn cứ thút thít cạnh giường, đòi gã phải cưới cho bằng được.

Không lẽ anh không định chịu trách nhiệm với em sao? Anh là đồ đàn ông tệ bạc, con của anh mà anh không dám nhận à?!

Gã đưa tay lau nước mắt cho Ngàn, tự dưng lên chức bố gã thấy không quen. Gã nghĩ lại quá khứ của gã, từng thước phim tua chậm trong đầu.

Mẹ gã có thai khi chưa đầy 17 tuổi, gã được sinh ra trong cái đống rơm gần đường đi chợ của mẹ. Chợ Đồng Xuân hôm đó không hiểu sao lại đông đến kì lạ. Mẹ gã đặt đại cái tên cho gã. Gã tên là Đông.

Lên 8 tuổi, gã đánh nhau với tên trong xóm. Nó trề môi ra:

Mày là cái đồ không cha! Lêu lêu.

Gã tức mình lấy cục đá ném chảy máu đầu tên đó. Mẹ tên đó đến mắng:

Mày đúng là cái đồ không có bố nên không có ai dạy dỗ đàng hoàng cả.

Thì ra, không có cha tức có nghĩa là không thành người. Thì ra là vậy. Mẹ gã ôm chặt gã vào lòng. Mấy tháng sau, mẹ gã vì kế sinh nhai, cũng không chịu nổi những lời đàm tiếu, xách gã lên vai, lên chuyến tàu Nam – Bắc, bỏ gã ở dọc đường.

Gã sống ở Nha Trang từ lúc gã 8 tuổi rồi.

Sống bằng nghề ăn xin qua ngày. Gã chưa từng biết hạnh phúc là gì, có cái gì bỏ bụng, đó chính là hạnh phúc rồi.

Gã giơ tay sờ bụng cô gái. Không hiểu sao trong lòng gã có cái gì đó chảy ngược. Sinh linh bé bỏng này… Nếu gã bỏ đi thì ai sẽ nuôi con gã? Rồi con gã sẽ chịu cảnh như gã. Gã cũng chưa từng biết bố mình là ai.

Ngày mai tôi sẽ kiếm việc gì đó làm, nuôi con chúng ta.

Ngàn nhìn gã bất ngờ. Kéo gấu áo xuống che chỗ thịt dập tím trên người. Ả tính phá thai, đặt trước cửa Trang viên Hoa Hồng như mọi cô gái đã từng làm. Nhưng ai ngờ tên này lại ngu quá, chấp nhận nuôi mẹ con ả. Ả nghi ngờ có chịu nuôi thật không. Nghĩ như vậy chứ ả vẫn đợi góp nhiều tiền rồi bỏ đứa trẻ luôn một đặng.

Ngày mai, gã trở nên chín chắn như bao giờ hết. Lấy cái áo sơ mi được cho, khoác vội lên người, gã bỗng thấy mình chững chạc, có trách nhiệm hẳn ra. Ả nhìn thấy, cũng không nói gì, chỉnh lại cái cổ áo cho gã. Lần đầu tiên, gã cảm nhận mình được yêu thương, lần đầu tiên có người quan tâm gã. Lòng gã có chút rộn ràng, tâm trạng phấn khởi hẳn lên.

Gã vô thức sờ tay lên lồng ngực. Mặt dây chuyền hoa ti-gôn long lanh dưới nắng, Những chùm sáng chớp nhả như chơi một bản nhạc không lời. Nhìn vật như nhớ cố nhân. Mớ kí ức xa xưa bỗng ùa về trong gã.

***

  • Con tên là gì?
  • Con tên là Đông.
  • Bố mẹ con đâu? Sao con lại ở đây? Mau về đi, trời sắp khuya rồi.
Ông lão lầm bầm. “Chả biết con cái nhà ai lại đi lạc ở đây thế này.”

Đứa trẻ òa lên khóc, ông lão hoảng hốt. Dấm chặt đầu đứa bé vào lòng. Miệng không ngừng an ủi. Càng an ủi, càng khóc to hơn. Mãi cho đến khi lão chia nửa miếng bánh, đứa trẻ mới ngừng khóc.

Đó là lần đầu tiên gã gặp “bố nuôi” của gã. Một ông lão tuổi đã ngoài 70. Đứa con trai ruột của lão bỏ lão lại ngôi nhà tranh vách đất. Ông lão nhớ con nên vác thân già lên thành phố đi tìm. Tìm hoài, tìm hoài. Vẫn chưa tìm thấy. Số góa vợ, con bỏ đi kiếm kế sinh nhai, ông lão sống cô đơn cho đến khi gặp gã.

Còn trông đợi được gì vào lòng người? Thứ lạnh lùng có thể vứt bỏ tình thân, vứt bỏ trách nhiệm của người mẹ. Ông lão đã thấu hiểu sự đời, thấu hiểu đến nỗi nhẫn tâm bỏ rơi gã lại một lần nữa.

Dây chuyền hoa ti-gôn là món quà cuối cùng ông lão để lại cho gã. Dây chuyền đó chính tay ông lão làm, ông lão đi xin từng chút keo một, ngắt bông hoa ti-gôn bên đường, loài hoa mà vợ ông lão thích nhất. Ông lão mài nhẵn mặt đi, lại chà, lại trát keo, lại làm nhẵn. Cái sợi dây chuyền được ra đời như thế đó. Không khắc nạm bạc, vàng, không trắng trẻo, sáng mắt như kim cương, ấy vậy mà chứa đựng tình thương vô hạn của người với người.

Ông lão theo bà lão đi rồi.

Từ đó, gã trân quý sợi dây chuyền hơn bao giờ hết.

Nó đã bị gã sờ miết cho đen đi, nhưng mỗi khi gã tắm, gã đều cất sang một bên. Mỗi khi bị người ta đánh, gã đều cầm chặt sợi dây chuyền cho khỏi bị hư. Đối với gã, sợi dây chuyền còn quý hơn sinh mệnh.

Gã chẳng hiểu vì sao ả lại muốn đến nơi này. Tâm tư đàn bà cũng ít thằng đàn ông hiểu nổi. Nghĩ vậy, gã chẳng thèm thắc mắc làm chi. Trang viên Hoa Hồng, là nhà của hàng nghìn đứa trẻ. Ngàn đến Trang viên Hoa hồng, thắp nhang cho từng ngôi mộ thai nhi. Những đứa trẻ đáng thương chưa kịp thấy ánh sáng mặt trời, mãi mãi không bao giờ thấy. Nhìn ả tiều tụy thấy rõ, từ lúc ả biết ả bị bệnh, ả khát khao được sống. Ả muốn mặc chiếc áo đẹp nhất, ả muốn đi du lịch. Ả chợt nghĩ, ai cũng có quyên được sống mà, cớ sao lại tước đoạt đi quyền của người khác? Đúng vậy, bất cứ ai cũng có quyền được sống, được hạnh phúc, tại sao lại muốn cướp đi quyền được sống của ả. Tại sao vậy? Ả chua chát ngước nhìn ánh mặt trời. Đứa con trong bụng đạp mạnh một cái, ả đau điếng ôm bụng.

Con ngoan, mẹ sẽ cố gắng cho con được sống.

Nhất định, cho dù đánh đổi mạng sống, mẹ cũng muốn con được ra đời.



Phòng bar vẫn nóng phừng phực. DJ uể oải ngáp ngắn, ngáp dài. Thằng Huy bá cổ:

  • Hôm nay đắt hàng quá anh Ba nhỉ!
  • Bình thường thôi! -Vừa nói vừa lấy tay che miệng đã ngáp muốn sái quai hàm.
  • Theo anh thì…có nên khử con Ngàn?!
  • Chưa phải lúc, đợi nó sinh con, rồi khử luôn một lần. Hãy làm cho thật tự nhiên, sinh con là cửa tử của phụ nữ.
Huy ngầm hiểu ý, đưa tay xẹt ngang cổ để biểu thị chấp hành mệnh lệnh. Bỗng…bùm bùm…xẹt xẹt…

Phòng bar tối om.

-Đứa nào tắt cầu dao đó!

Thằng Huy gọi hai thằng em ra bên ngoài, phải coi thử là tên nào đang dở trò. Chứ quán bar này không đời nào có chuyện cúp điện được.

  • Có cớm, có cớm!
  • Chạy đi anh Ba.
Thằng Huy, thằng Tuấn vội lách vào trong đám đông để chuồn. Một cánh tay to lớn vặn ngược thằng Tuấn tại góc sân khấu. Thằng Huy cũng không trách khỏi, vừa ra ngoài đã gặp khách quen.

-Khốn nạn thật! Mẹ nó, em đâu biết nó là cớm!

-Đồ ngu, nếu mày khôn thì đã không bị nó bắt rồi!

“Bốp”- Cái bọn tép cò này có im hay không hả?

Mặt Sẹo vừa tát thằng Tuấn vừa tiếp lời:

Tao rình tụi bây lâu rồi, nay mới tóm gọn cả ổ. Chuẩn bị bục xương trong tù đi!

**

  • Trong một con hẻm nhỏ, ánh đèn hắt lên cái sẹo dài ngoằng chạy từ khóe môi tới chân mày của hắn, trông đáng sợ.
  • Mày dám giành con Ngàn với tao à? Bọn bay đâu, đứng đó làm gì nữa, đánh hắn gãy xương đi!
  • Màn đêm vang vọng tiếng đánh đập man rợ. Kẻ nhìn sát bên cột điện cũng thở không ra hơi, chậm rãi lui về.
  • Rồi, hắn cắn chặt lấy tai người đang nằm sấp, vết sẹo dài dãn ra:
  • Triển khai nhiệm vụ.
Người nằm dưới đất, nắm chặt vật gì đó trong tay, miệng thều thào:

Rõ.

Chiếc USB đặt trên bàn, Mặt Sẹo chỉnh lại trang phục, dõng dạc:

  • Thưa các đồng chí, tôi phát hiện một hang ổ buôn ma túy và mại dâm. Kính mong các đồng chí cho phép tôi thực hiện nhiệm vụ lần này.
  • Không được, nó rất nguy hiểm. Hãy để cho Bác Túc thực hiện, bác ấy đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong ngành.
  • Tôi muốn thực hiện nhiệm vụ này. Đây là hang ổ rất chuyên nghiệp, có đường dây, tổ chức chặt chẽ, có địa bàn hoạt động rộng. Hơn nữa là, bọn chúng có tên cầm đầu đã từng có tiền án. Tôi đã tìm hiểu rất kĩ và chỉ còn đang thiếu một số chứng cứ, nó hiện đang nằm trong tay tên Tuấn.
Mặt Sẹo cầm xấp tài liệu phát ra.

  • Nếu không vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con?!
  • Ai sẽ hỗ trợ đồng chí?! Ai sẽ là người tiếp ứng cho đồng chí? Tôi cần đảm bảo đồng chí đã hạn chế rủi ro hết mức có thể.
  • Tôi có người hỗ trợ, bố hắn ta từng là cảnh sát chìm.
Gã đến phỏng vấn công ty, gã ú ớ trả lời không đúng câu nào. Người HR vứt tập CV của gã xuống đất, rồi quay lưng đi. Tay chắp sau lưng ra kí hiệu số 2.

“ Số 2 nghĩa là tóm gọn.” Gã thầm nghĩ. “Chắc bên cảnh sát sắp hành động rồi”.

Gã lẻn vào bar, đến gần két sắt. Gã mường tượng lại mật khẩu két sắt mà lúc tên Tuấn cho gã mượn tiền. Két sắt mở ra, gã lấy toàn bộ giấy tờ trong đó, rồi bỏ đống giấy tờ khác vào.

Lúc đi ngang cầu dao, gã vung cùi chỏ vào mũi tên đứng gần đó.Tên đó đưa hai tay ôm mũi, nhân lúc hắn không phản ứng kịp, gã bật tập giấy thật mạnh vào mắt tên đó, rồi bấu vào hàm hắn lôi đi…

Gã trở về nhà đã quá khuya. Bóng hồng trên giường đã ngủ từ lâu rồi. Gã uể người trườn về khu tắm rửa, rồi mệt lả gục trên bồn nước.

Tin tức quán bar bị phong tỏa và tên Tuấn đã bị quân triều đình lôi đi khiến Ngàn nơm nớp lo sợ. Giờ chỉ còn ả là chưa bị tóm. Ả phải làm sao đây? Ả chỉ biết nắm chặt tay gã.

Trong bệnh viện, cảnh sát mở cửa cái cạch.

Là bé trai, xin chúc mừng anh.

Gã hồ hởi nhìn khuôn mặt nhắm nghiền của đứa trẻ, lòng dâng lên bao cảm xúc hỗn độn. Gã vui khi thấy thằng cu con đang chóm chép, gã rộn ràng khi gã được lên chức. Gã được làm cha rồi. Gã ngã khụy xuống bên giường bệnh, lúc này ả đã ngủ rồi.

Chúng tôi đã có kế hoạch cho anh và cô ấy. Yên tâm, cô ấy sẽ được chăm sóc đặc biệt.

Mặt Sẹo vỗ vào lưng gã. Tự nhiên hời thêm thằng cu con gã không biết phải làm sao. Gã vui tủm tỉm. Kìa, kì lạ quá, sao Ngàn lại không thở nữa. Gã lay ả thật mạnh. Ả vẫn nằm im. Cơ thể ả lạnh ngắt. Gã hoảng hốt giật mạnh vào tay ả.

Mặt Sẹo cúi gằm mặt:

Thật ra, cô ấy bị nhiễm HIV từ lâu rồi. Trước khi vào phòng sinh cô ấy đã cầu cứu đến bác sĩ, hãy cứu lấy con của cô ấy.

Gã gào khản cổ tên ả, ả đã hứa với gã là sẽ sống tốt cơ mà. Ả hứa sẽ cùng gã về quê, chăm sóc cho con chúng mình. Tại sao lại…

Sao ai cũng bỏ gã đi hết vậy? Tại sao? Tại sao vậy?

Kết quả xét nghiệm ADN ở trên bàn, gã không dám nhìn. Không phải vì gã không muốn biết mà là vì gã biết sự thật từ lâu rồi, chỉ là gã không muốn tên Tuấn biết sự thật. Nhưng vì đứa bé, gã không nỡ để tên đó ra đi mà không biết đến sự tồn tại của con mình.

Thằng Tuấn nhìn mặt đứa nhỏ, vô thức đưa tay lên không trung, tỏ ý định muốn sờ. Gã ôm đứa nhỏ lui ra xa, sợ hắn sẽ làm gì bậy đến đứa nhỏ. Đứa nhóc ôm chặt mặt sợi dây chuyền hoa Ti-gôn trên cổ mình. Những cánh hoa Ti-gon lấp lánh lấp lánh. Đứa trẻ chìm dần vào trong những giấc mơ…
Thêm
  • Sợi dây chuyền hoa Ti-gôn.png
    Sợi dây chuyền hoa Ti-gôn.png
    848.1 KB · Lượt xem: 162
917
0
7
Viết trả lời...
"Ngẫu hứng"
Lâu lâu muốn kiếm người chơi
Mà page im ắng quá trời im luôn
Thấy toàn khuôn mặt thân quen
Hiếm ai trạc tuổi để thèm buôn dưa
Tự dưng thấy lạc loài vừa
Kiếm người chung chí cũng chưa thấy người
Ad ơi buồn quá buồn rồi
Ad đi kiếm bạn để mời được không?
Buồn buồn lục tận mấy phòng
Mấy đề mục trống cũng không ai làm
Buồn ơi buồn tận Bắc Nam
Kiếm người chung hướng đi làm thơ văn.
Mai sau lỡ có tiếng tăm.
Cũng đừng quên bạn từng nằm forum.
Thêm
648
4
6
Viết trả lời...