Baivanhay Cảm nhận của anh/chị về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Baivanhay Cảm nhận của anh/chị về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Triều Anh
Triều Anh
  • Thành viên BQT
  • Người yêu của văn chương ❤️ đến từ Sóc Trăng
Huy Cận là nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam. Tràng giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Để hiểu rõ sâu sắc hơn bài thơ Tràng giang, Cùng Triều Anh tham khảo đề bài sau:

45136E7F-6AC5-4892-B12D-6C9CDF736C73.jpeg
Ảnh: sưu tầm
Xem thêm

Soạn văn Tràng giang
Kiến thức trọng tâm bài thơ Tràng giang
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về bài thơ Tràng giang của Huy Cận.

I. Dàn ý

1. Mở bài


- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Huy Cận
+ Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp, là một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não.
+ Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
+ Tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (tập thơ, 1937 – 1940),
- Giới thiệu xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tràng giang
+ Bài thơ được sáng tác vào một chiều cuối thu 1939 khi Huy Cận đứng trước dòng sông Hồng mênh mang sông nước.
+ Tràng Giang trích trong tập Lửa Thiêng.
- Giới thiệu khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ: nỗi buồn miên man trước cảnh trời rộng sông dài ẩn chứa nỗi lòng yêu nước.

2. Thân bài

- Luận điểm 1: Nhan đề và câu thơ đề từ

+ Luận cứ 1:
Nhan đề
Nhan đề sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở ang gợi không gian cổ kính và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông.

+ Luận cứ 2: Câu thơ đề từ
. Hình ảnh: Trời rộng”, “sông dài” = >gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la
. Từ láy “bâng khuâng” kết hợp vơi biện pháp đối => một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng.
=> Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

- Luận điểm 2: Nỗi buồn thân phận trước dòng nước mênh mang (khổ 1)

+ Luận cứ 1 - Câu 1:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
. Từ láy “điệp điệp”: láy lại khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. .Ta có cảm giác như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.

+ Luận cứ 2 - Câu 2:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi vô định.

+ Luận cứ 3 - Câu 3:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang.

+ Luận cứ 4 - Câu 4:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
. Cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả ứng hiện trong một “Tràng giang” đậm chất Đường thi.
. “Củi một cành khô lạc mấy dòng" gợi sự cô đơn, hiu quạnh, vô định trào trực xô lên trong lòng người.
=>Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cuộc đời - đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.

- Luận điểm 2 - Khổ 2: Nỗi buồn thân phận nhân lên thành nỗi cô đơn rợn ngợp khi đứng trước trời rộng sông dài.

+ Luận cứ 1 - 2 câu đầu: “Lơ thơ cồn nhỏ… chợ chiều”

. Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
. Tiếng chợ chiều góp vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác...

+ Luận cứ - 2 câu cuối: “Nắng xuống… bến cô liêu”
. Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt bút.
. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người.

- Luận điểm 3 - Khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người

+ Luận cứ 1 – câu 1, 2: “Mênh mông… niềm thân mật”

. Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ.
. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.

- Luận điểm 4 - Khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

+ Luận cứ 1-2 câu đầu:

. Không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.
. So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại

+ Luận cứ 2- 2 câu kết:
. Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.
. Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

- Luận điểm 5: Đặc sắc nghệ thuật
+ Luận cứ 1:
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại.
+ Luận cứ 2: Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay rồi.

3. Kết bài
- Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hoà nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả.
- Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu quê hương đất nước.

II. Bài viết tham khảo

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lý, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Thi phẩm Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ngắm dòng sông Hồng mênh mông sông nước. Đặc biệt là thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận trước cảnh trời rộng sông dài. Đó là nỗi buồn miên man trước cảnh trời rộng sông dài ẩn chứa nỗi lòng yêu nước.

Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ. Nhan đề sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở ang gợi không gian cổ kính và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông. Hình ảnh trời rộng, sông dài, gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la. Từ láy “bâng khuâng” kết hợp vơi biện pháp đối gợi một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng. Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng


Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nỗi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của Huy Cận. Từ láy “điệp điệp” khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. Ta có cảm giác như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.

“Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”


Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi vô định. Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang. Hình ảnh cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả ứng hiện trong một “Tràng giang” đậm chất Đường thi. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi sự cô đơn, hiu quạnh, vô định trào trực xô lên trong lòng người. Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cuộc đời - đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu


Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu đó” hay “đâu có”? Nhưng dù sao cũng đều rất xa xôi, mơ hồ. Tiếng chợ chiều góp vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác...Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt bút. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người. Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vật trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được. Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu


Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận. Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ xanh tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà


Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim. Không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn. Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng. Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khi nào lung linh như những núi bạc. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ. So sánh với câu thơ Lí Bạch “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu” và câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại. Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả. Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Đó không chỉ là nhớ về một vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà


Tác giả đã dùng từ láy "dợn dợn" để diễn tả những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi. Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận. Với nghệ thuật nghệ thuật đối, nhân hoá, ẩn dụ bài thơ đã thành công trong việc thể hiện nhiều tầng nghĩa của hình ảnh thơ. Việc sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm càng làm cho nỗii sầu nhân thế của Huy Cận càng thêm lan toả.

“Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” và “Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” (Xuân Diệu). Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hoà nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả. Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu quê hương đất nước.​

..........................................................
Sưu tầm và biên soạn
 
Sửa lần cuối:
Từ khóa
bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài bức tranh thiên nhiên cảm nhận bài thơ tràng giang chợ chiều huy cận lòng yêu giang sơn tổ quốc lòng yêu quê hương đất nước nỗi nhớ nhà sóng gợn sóng gợn tràng giang
830
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top