Mạng xã hội Văn học trẻ

Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.118)


I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:


II. THÂN BÀI

1. Khái quát

1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.

1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)

Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

(Bên kia Sông Đuống - Hoàng Cầm)

Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".

1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.

2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
Đoạn thơ gồm 9 câu thơ đầu này là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về Đất nước và để trả lời cho các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu? và quá trình lớn lên của đất nước như thế nào?

2.2. Hai câu thơ đầu: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Cội nguồn thiêng liêng của Đất nước (Đất nước có tự bao giờ)
Trong hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước để trả lời cho câu hỏi "Đất nước có từ bao giờ?". Với cách mở đầu rất tự nhiên, nhà thơ khẳng định đất nước đã có từ trước khi ta sinh ra, khi ta lớn lên và biết nhận thức về thế giới quanh mình thì đất nước “đã có rồi”. Không thể trả lời chính xác rằng đất nước có tự bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm đã mượn cách mở đầu của truyện cổ tích "ngày xửa, ngày xưa" để nói về cội nguồn của đất nước. Vận dụng ngôn từ một cách độc đáo, sáng tạo, nhà thơ không chỉ cho thấy đất nước chắc chắn đã có từ cái thuở xa lắc xa lơ nào đó, từ rất lâu đời mà còn gợi ra một không gian cổ tích, thần thoại, khiến cội nguồn đất nước trở nên thiêng liêng, kì diệu. Đất nước mình là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với biết bao câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm tâm hồn cho ta để lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” và bốn chữ "ngày xửa, ngày xưa" vang lên đầy tự hào góp phần khẳng định sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)

2.3. Bảy câu thơ: Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
... Đất nước có từ ngày đó
Đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người (Đất nước tồn tại ở đâu?)
Khi nói về đất nước người ta cũng thường đặt ra các câu hỏi như "Đất nước là gì?" và "Đất nước tồn tại ở đâu?" và rồi thường tự cho rằng đất nước là cái gì đó cao siêu, trừu tượng khó định nghĩa và khó nắm bắt. Nhưng ở đoạn thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã cho chúng ta thấy đất nước thiêng liêng, kì diệu nhưng không ở đâu xa, trái lại gần gũi, thân thiết đến bất ngờ.
* Đất nước là những người thân yêu nhất: Đất nước không ở đâu xa mà là những người thân yêu nhất như bà, cha và mẹ. Là hình ảnh người bà với "miếng trầu bà ăn", là hình ảnh người mẹ với "câu chuyện mẹ kể" và "tóc mẹ thì bới sau đầu", là cả cha và mẹ trong câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Không phải ngẫu nhiên khi viết về đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ba lần nhắc đến hình ảnh người mẹ và nhiều nhà thơ khác cũng thường so sánh hình ảnh đất nước, tổ quốc với hình ảnh người mẹ. Hình ảnh tổ quốc trở thành mĩ từ thật đẹp trong thơ Chế Lan Viên khiến tác giả cho rằng mình đã đi nhưng cần vượt nữa để được gặp lại bà mẹ tổ quốc: "Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương". Nhà thơ Tố Hữu lại liên tưởng đất nước giống như hình ảnh bà mẹ gánh gồng, tảo tần:
Việt Nam, Ôi tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, người đẹp hơn nhiều,
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng,
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng".
(Chào xuân 67 - Tố Hữu)
* Đất nước là những gì bình thường, bình dị nhất xung quanh cuộc sống của mỗi con người: Đất nước không cao siêu trừu tượng mà có thể đơn giản là câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, có trong những phong tục tập quán, trong cái kèo cái cột, thậm chí có trong những thứ nhỏ bé như hạt gạo...
- Đất nước gắn với những phong tục, tập quán từ bao đời của người Việt Nam như tục ăn trầu, tục bới tóc sau đầu:
+ Tục ăn trầu: Hình ảnh miếng trầu từ xưa đến nay rất quen thuộc với bao nhiêu thế hệ người Việt Nam. Người Việt Nam có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Miếng trầu không chỉ xuất hiện trong các dịp ăn hỏi, cưới xin, hội hè, ma chay... mà còn được dùng mời khách đến nhà để tỏ lòng hiếu khách. Hình ảnh “miếng trầu” cũng là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, trong ca dao, thơ ca...
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Mời trầu - Hồ Xuân Hương)
Miếng trầu trở thành hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung, son sắc trong tâm hồn dân tộc. Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt, gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Như vậy, trong miếng trầu dung dị ấy là mấy ngàn năm văn hóa, văn hiến của đất nước. Từ phong tục ăn trầu, người Việt còn có tục nhuộm răng đen:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
+ Tục bới tóc sau đầu: Câu thơ "Tóc mẹ thì bới sau đầu" không chỉ gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục lâu đời của người Việt mà còn làm hiện lên hình ảnh người mẹ với búi tóc sau gáy, làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.
- Đất nước còn có trong đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc, có trong tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Có lẽ câu thơ về tình nghĩa sâu nặng ấy được gợi ý từ một câu ca dao đẹp:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng son sắc, mặn nồng.

2.4. Hai câu thơ: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
và: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất nước lớn lên, trưởng thành
- Không dừng lại ở ở việc tìm về cội nguồn, sự tồn tại mà nhà thơ còn nỗ lực hình dung quá trình lớn lên, trưởng thành của đất nước. Phải chăng, khởi thủy và quá trình lớn lên của Đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Để nói hết được những điều đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến hình ảnh cây tre, vốn từ lâu đã trở nên quen thuộc trong tâm thế của mỗi người Việt Nam:
"Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"
(Cây tre Việt Nam - Thép Mới)
Hình ảnh cây tre đã đi vào truyền thuyết Thánh Gióng với người anh hùng nhổ tre đánh giặc. Hai chữ “lớn lên” gợi liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Ngà mới lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Cây tre vì thế đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. Cây tre còn trở thành biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam thật thà chất phác, cần cù, chăm chỉ, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình... Bởi vì:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)

Câu thơ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" như vậy đã thể hiện quá trình lớn lên của đất nước. Đất nước lớn dần lên trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ của cha ông trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
- Đất nước còn bắt đầu và lớn mạnh dần lên trong quá trình lao động lam lũ, vất vả để làm ra hạt lúa, hạt gạo, làm ra những giá trị vật chất cho đất nước thể hiện rõ qua câu thơ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Thành ngữ "Một nắng, hai sương" đã cho thấy đất nước lớn lên trong nhọc nhằn, lam lũ. Các động từ “Xay - giã - giần - sàng” là những hoạt động trong quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
(Ca dao)
Cũng vì vậy mà nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và khái quát quá trình đi lên đầy gian lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)

3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết(Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi khám phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị cao quí của lao động thi ca:
“Phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở nên bất tử. Lao động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca chân chính. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng rung cảm mãnh liệt, sự tâm huyết và tài năng nghệ thuật đặc biệt đã sử dụng một cách đầy sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian như: sử dụng cách mở đầu của chuyện cổ tích, sử dụng thành ngữ, nhắc đến các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, hình ảnh ca dao, phong tục tập quán để thể hiện quan niệm đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người. Những cấu trúc được lặp đi lặp lại như "Đất nước có từ...", "Đất nước có trong...", "Đất nước bắt đầu...", "Đất nước lớn lên..." góp phần thể hiện quá trình sinh thành, tồn tại và lớn lên của đất nước, trải qua thời gian và trong tiềm thức của con người. Cùng với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều; ngôn từ, hình ảnh giản dị, gần gũi; nhịp điệu linh hoạt; chất trữ tình kết hợp với chất chính luận, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã tạo nên những câu thơ hấp dẫn, cảm động... Những đặc sắc nghệ thuật này đã tạo ra vẻ đẹp riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và thể hiện sâu sắc hơn những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ, độc đáo của ông về đất nước. Đoạn trích "Đất nước" giúp chúng ta thấy yêu và gắn bó hơn với quê hương, đất nước mình. Từ đó ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình với đất nước.

St
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
2K
1
0
Viết trả lời...
1. " Đam mê và thành công luôn đi cùng nhau " ( Bill Gates)
2. " Sống là cho không chỉ nhận riêng mình " ( Tố Hữu)
3. " Chỉ động lực không là không đủ . Nếu bạn có một kẻ ngu và bạn truyền động lực cho hắn , giờ bạn có một kẻ ngu hăng hái " ( Jim Rohn)
4. " Hạnh phúc sinh trưởng bên lò sưởi của chúng ta , chứ không phải hái được trong vườn nhà người khác " ( Douglas Jerrold)
5. " Giáo dục là vũ khí mạnh nhất để chúng ta thay đổi thế giới" (Nelson Mandela)
Thêm
  • 4daefa82d2c87f3cc52d8e0c0e9a9770.jpg
    4daefa82d2c87f3cc52d8e0c0e9a9770.jpg
    42.1 KB · Lượt xem: 137
2K
3
6
TĂNG ĐIỂM CHO BÀI VĂN NLXH VỚI NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHẠM TỚI TRÁI TIM

1. “ Cây thông sau khi chặt ngã,
Qua một năm,
Vẫn còn chưa chết,
Thế đó.
Ai nói được thế gian này chỉ sống có một lần?”
( Ko-un)

2. “ Tôi tìm ra một nghịch lý, rằng nếu bạn yêu sâu sắc tới mức đau đớn, sẽ chẳng thể có thêm đau đớn nữa, chỉ có thêm tình yêu.” ( mẹ Teresa)

3. “ Chúng ta biết rất rõ rằng những gì chúng ta đang làm không khác nào một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu không thả giọt nước ở đó, đại dương sẽ thiếu đi một chút.” ( Mẹ Teresa)

4. “Nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là “Tôi có thể mang tới cho bạn sự bình yên và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước tiên, chính bạn phải là người có được những điều đó đã.” ( Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

5. “ Mỗi người đều có một bông hoa của riêng mình, một ngôi sao cho riêng mình, và chẳng có ai giống ai. Người cậu yêu là độc nhất, bởi cậu yêu người ấy, vậy thôi. ‘ ( “ Hoàng tử bé “- Antoine de Saint-Exupéry)

6. “Tôi chưa bao giờ thật sự tàn tật cho đến khi tôi mất hy vọng. Hãy tin tôi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn cả mất chân tay. “
( “ Cuộc sống không giới hạn” – Nick Vujicic)

7. “Sức mạnh không thể đo bằng kích cỡ cơ thể, mà phải đo bằng độ lớn của trái tim và hoài bão.” ( “One Piece” - Eiichiro Oda)

8. “Lịch sử có thể được lặp lại, nhưng con người không thể trở về quá khứ.” ( “One Piece” - Eiichiro Oda)

9. “ Nếu cuộc đời này toàn chuyện xấu xa
Tại sao cây táo lại nở hoa
Sao rãnh nước trong veo đến thế?”
( “ Phố ta” - Lưu Quang Vũ)

10. “Xin đừng nói đã đi tận con đường,
Dù đã qua nghìn vạn dặm trường,
Còn có những con đường cần đi tiếp,
xa hơn…”
( Thơ Ko-un)

11. “Bởi vì bạn đang sống nên mọi thứ đều có thể thành sự thật.” ( Thiền sư Thích Nhất Hạnh )

12. “ Em ơi! Dẫu sống trăm năm
Đến khi chết xuống, anh nằm không yên
Bởi đời đẹp quá đi, em
Yêu rồi, yêu mãi, yêu thêm chẳng thừa.”
( Huy Cận )

13. “Đường là do con người giẫm nát chỗ chông gai mà tạo ra.” (Tạp văn Cảm nghĩ nhỏ - Lỗ Tấn)

14. “ Dù đục, dù trong con sông vẫn chảy
Dù cao, dù thấp cây lá vẫn xanh
Dù người phàm tục hay kẻ tu hành
Đều phải sống từ những điều rất nhỏ.”
( “ Tự Sự “ - Lưu Quang Vũ )

15. “ Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó
Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?
Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm
Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng. “
( “ Tự Sự “ - Lưu Quang Vũ )

16. “ Những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này không thể nhìn thấy thậm chí chạm vào - chúng phải được cảm nhận bằng trái tim.” ( Hellen Keller )
 
Viết trả lời...
Bài thơ Việt Bắc nằm trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu, một tập thơ kháng chiến, là đỉnh cao của thơ Tố Hữu cũng là đỉnh cao của thơ kháng chiến.

Bài thơ ra đời gắn với một thời điểm lịch sử: Đó là cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm gian khổ và vô cùng anh dũng của đất nước ta, của nhân dân ta vừa khép lại, chuyển sang một thời kỳ cách mạng mới: Hòa bình xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Bài thơ Việt Bắc đã đưa người đọc trở về với những nhớ thương, những kỷ niệm, những nghĩa tình sâu nặng của những người cán bộ kháng chiến với chiến khu Việt Bắc.

Đoạn thơ:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

Được đánh giá là đạt đến độ toàn bích, thể hiện được nét đặc sắc trong vẻ đẹp ngòi bút thơ Tố Hữu.

Đoạn thơ có thể chia làm hai phần, phần đầu gồm hai câu:

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người."

Như lời mở đầu đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên. Trong đó người ra đi (như người con trai) vừa ướm hỏi lòng người ở lại (như người con gái), vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần hai gồm tám câu, chia đều thành bốn cặp lục bát, mỗi cặp câu đều xuất hiện hình ảnh hoa và hình ảnh con người. Có thể gọi đó là một bức tranh tứ bình về bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền quê cách mạng này.

Cấu tứ của cả bài thơ theo lối đối đáp trong hát giao duyên (của dân ca quan họ) và hai câu mở đầu trong đoạn thơ này cũng được viết theo lối cấu tứ ấy.

Lời đối là lời của người ra đi nhưng được thực hiện như là lời của người con trai trong cuộc hát giao duyên, đối đáp.

"Ta về, mình có nhớ ta".

Chữ “mình” được dùng ở ngôi thứ hai. Thường thì, trong cuộc sống, việc sử dụng ngôn từ như thế chỉ xuất hiện trong quan hệ tình yêu lứa đôi hoặc tình cảm vợ chồng.

Lời lẽ ấy, đủ tạo được giọng điệu ngọt ngào và sắc thái thân mật trong quan hệ người đi - kẻ ở. Câu thơ, không chỉ đơn thuần là một lời hỏi rằng người ở lại có nhớ người ra đi hay không mà còn ngầm chứa một thông điệp khẳng định về tình cảm của người ra đi rằng: Ta chẳng biết mình có nhớ ta không nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà, nỗi nhớ mới thật là tế nhị, thật là duyên dáng:

"Ta về, ta nhớ những hoa cùng người."

Thiên nhiên Việt Bắc, đâu chỉ có vẻ đẹp của hoa. Và ở đây, hoa được đồng hiện với người. Đó, hẳn là một dụng ý nghệ thuật của Tố Hữu. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên và con người là đối tượng đẹp nhất của cuộc sống. Dân gian có câu “Người ta là hoa của đất”. Vì lẽ ấy, hoa và người đồng hiện là sự đồng hiện của những gì đẹp nhất, tinh túy nhất trong cuộc sống này. Phải là “hoa cùng người” chứ không thể là “hoa và người” vì nếu như thế thì sẽ không làm rõ được sự hòa đồng, sự soi chiếu, sự bổ sung của cả hai đối tượng; hoa tô điểm cho người và con người xuất hiện làm cho hoa thêm sinh động có hồn.

Hai câu thơ còn như một lời giới thiệu khái quát, như lời đề từ dẫn dụ người đọc vào bức tranh tứ bình về “hoa cùng người” Việt Bắc.
Với nghệ thuật hội họa trung đại, tranh tứ bình là bộ tranh phổ biến gồm bốn bức, mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Như tùng - cúc - trúc - mai; ngư - tiều - canh - mục; long - li - quy - phượng.v.v...Mỗi bộ tranh như thế, tự nó là một cách khái quát riêng, một thế giới riêng.

Đoạn thơ của Tố Hữu là bộ tranh tứ bình đẹp và đáng quý về “hoa cùng người” của bốn mùa ở Việt Bắc.

Mở đầu, là bức tranh mùa đông, Việt Bắc hiện lên như một miền quê lặng lẽ:

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng."

Chỉ một chữ “xanh” nhưng người đọc cũng hình dung được đó là sắc màu cơ bản của bức tranh này. Màu xanh làm nền cho “hoa chuối đỏ tươi” nổi bật. Nếu màu xanh gợi ra vẻ mênh mông, trầm tĩnh của cảnh thiên nhiên nơi núi rừng thì màu đỏ của hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Gắn với hoa chuối, có lẽ chỉ một từ thích hợp là “đỏ tươi”. Hình ảnh hoa chuối bổ sung cho gam màu của bức tranh phong cảnh về mùa đông thêm sinh động, sáng tươi. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện.

"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng."
Không phải ngẫu nhiên tác giả nhớ về hình ảnh con người gắn với vị trí đang là ở “đèo cao”. Tại đỉnh đèo, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao gài ở thắt lưng của con người sẽ lóe sáng, lấp lánh. Không chỉ là thiên nhiên tô điểm cho vẻ đẹp của con người mà quan trọng hơn là câu thơ gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của con gnười làm chủ nơi núi rừng.

Bức tranh thứ hai, phác họa cũng chỉ bằng vài nét chấm phá về thiên nhiên và con người trong mùa xuân nơi núi rừng Việt Bắc:

"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang."

Khác với bức tranh mùa đông có nền là màu xanh trầm tĩnh, mùa xuân, nền là màu trắng của hoa mơ. Và, nếu ở bức tranh thứ nhất, màu đỏ của hoa chuối làm nền cho bức tranh tươi sáng thì ở đây, hai chữ “trắng rừng” cũng làm bừng sáng bức tranh phong cảnh.

Trên nền cảnh ấy, hiện ra hình ảnh con người với công việc thầm lặng:

"Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang."

Công việc ấy, không chỉ cần sự chăm chỉ, còn cần sự cẩn trọng và khéo léo. Câu thơ giúp ta hiểu thêm một nét phẩm chất đáng quý nữa ở người dân Việt Bắc.

"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình."

Khác với hai bức tranh trên, chủ yếu được tái hiện bằng màu sắc, đường nét và ánh sáng. Bức tranh thứ ba đã xuất hiện âm thanh. Đó là tiếng nhạc của ve. Dù không tả trực tiếp âm thanh của ve nhưng qua thực tế, có thể khẳng định: Âm thanh tiếng ve là âm thanh rộn ra sôi động - âm thanh có thể làm xao động cả không gian. Hè đến thì ve kêu hay âm vang tiếng ve là lời mời gọi mùa hè xuất hiện? Chỉ biết rằng khi hè đến thì mọi người được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ diệu của rừng phách.

Chữ “đổ” trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” không chỉ có ý nghĩa là “ngả” (ngả màu) mà còn nói rõ sự mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn còn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chỉ trong một vài ngày, màu vàng đã chiếm lĩnh không gian của khu rừng mùa hạ. Trên nền cảnh ấy, xuất hiện hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh cô gái gắn với công việc như thế gợi ra một vẻ đẹp chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm.

Bộ tranh tứ bình, kết thúc bằng bức tranh mùa thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, bức tranh thu là cảnh đêm:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình".

Vầng trăng tỏa sáng trong rừng thu. Đó là một cảnh đẹp, nên thơ, huyền ảo, phù hợp cho việc xuất hiện âm thanh của tiếng hát:

"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

“Tiếng hát ân tình” biểu hiện ân tình của người hát. Câu thơ, vì thế mà gợi ra đầy đủ vẻ tình tứ của người trong khúc hát giao duyên. Nhưng không chỉ có thế, qua tiếng hát ấy, ta còn thấy được phẩm chất ân tình, chung thủy của người Việt Bắc dành cho cán bộ kháng chiến, cho cách mạng.

Bốn bức tranh là bốn cảnh sắc của bốn mùa trong năm tại Việt Bắc đồng thời cũng là bốn dáng điệu, bốn nét phẩm chất nổi bật của con người trên quê hương cách mạng. Bốn chữ gắn với bốn bức tranh tạo nên âm hưởng mặn mà, da diết của cảm xúc, của giọng điệu ngọt ngào, ân tình tha thiết - giọng điệu riêng của thơ Tố Hữu.

Cre: Hồ Đức Việt
Thêm
976
0
1
BÀI LÀM HOÀN CHỈNH CẢM THỤ ĐOẠN BỨC TRANH TỨ BÌNH "VIỆT BẮC"-TỐ HỮU


Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ-là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp con người luôn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phá của những tình cảm mãnh liệt.

Ta tìm đến với một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu ở từng lời thơ, câu chữ vả cả cái tôi tài tình, giọng điệu tài hoa hay cả đến sự sáng tạo bậc thầy. Trong số những thi sĩ từng mến yêu thì Tố Hữu là một nhà thơ như thế.

Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc và giàu tính dân tộc, là biểu hiện của những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc.

“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ. Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình trong bức tranh tứ bình:

Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve keo rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân-tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Bàn về thơ, Chenier đã từng nói: Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới là thi sĩ. Một bài thơ có giá trị, ấy là khi nó bao quát và thể hiện được tư tưởng cảm xúc của người nghệ sĩ, ấy là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân thành, sâu lắng, tất cả đều bắt nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết. Nằm trong quy luật ấy, những năm đầu thế kỷ XX, những nhà thơ Mới đương thời ảnh hưởng mạnh mẽ thơ ca lãng mạn phương Tây, của Rimbaud, Verlaine…thì Tố Hữu lặng lẽ tìm về với những vần thơ lục bát của dân tộc. Chính điều này đã tạo nên một thi sĩ Tố Hữu riêng biệt, độc đáo, chính trị mà rất trữ tình.

Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người “nặng nợ” ân tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy. Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của núi rừng này.

Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn người và cảnh vật-“ta về mình có nhớ ta”. Đây là câu hỏi ngọt ngào phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, hỏi để rồi lại bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Vẫn là cách xưng hô “mình-ta” ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. “Ta-mình” còn gợi bao lời nồng nàn của ca dao tình yêu lứa đôi: “Mình về ta chẳng cho về-Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ” hay “Mình về mình nhớ ta chăng-Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Nét đặc sắc của Tố Hữu là ở chỗ, viết về sự kiện lịch sử, về chuyện chính trị nhưng không hề khô khan, cứng nhắc. Đó là nhờ nhà thơ đã vận dụng sáng tạo hai đại từ nhân xưng “mình-ta” cũng như sử dụng sáng tạo thể thơ lục bát nhuần nhuyễn trong điệu lối đối đáp trữ tình. Chuyện chia tay của nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau vì nghĩa vụ cách mạng. Lời thơ vì thế trở nên dạt dào hương vị trữ tình, chuyện cách dễ dàng đi vào lòng người, gây nhung nhớ, chạm đến trái tim.

Câu thơ thứ hai như một lời khẳng định: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Hai câu thơ đầy ắp những “ta”, “mình”, những “mình nhớ”, “ta nhớ” kết hợp điệp từ “ta” với âm “a” (âm mở) khiến cho nỗi nhớ như vang vọng, mênh mang, sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. “Hoa” cũng là cách nói hoán dụ cho ta cảm nhận: Trong tâm hồn người ra đi thì ký ức còn lại là những ký ức rất đẹp. Còn “Người” là vẻ đẹp của con người lao động nơi đây. Chữ “cùng” trong “nhớ những hoa cùng người” rất sáng tạo. Nó gợi lên nỗi nhớ lắng sâu da diết. Nỗi nhớ cùng lúc đồng hiện hoa và người. Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, mà nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Có lẽ vì vậy mà bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đan cài vào nhau dệt nên bộ tứ bình lộng lẫy.

Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp mà con người luôn muốn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phát của những tình cảm mãnh liệt. Ta tìm đến một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu trong từng lời thơ con chữ. Bởi “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” thì “Việt Bắc” của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương. Trong tâm trạng kẻ ở-người đi, hình bóng của núi rừng, con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình người lan toả.

Mở đầu bộ tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống. Vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc được đan cài, hòa quyện vào vẻ đẹp của con người Việt Bắc trong lao động và sản xuất. Trong đoạn thơ, cứ 1 câu lục tả cảnh là một câu bát tả người, thiên nhiên và con người đã hòa nhập, tỏa sáng bức tranh thơ.Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca gói trọn bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hoà nhất. Mỗi bức tranh gồm hai mảng: Một mảng xa, một mảng gần. Mỗi bức đều có sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người, sự gắn bó trong nỗi nhớ những hoa cùng người của nhà thơ:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Núi rừng Việt Bắc bao trùm một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già-màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống. Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là có sự điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi”-gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp khoẻ khoắn của người. “Nắng ánh dao gài thắt lưng” là hình ảnh của người dân miền sơn cước. Cách doán dụ không phải tình cớ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng, vật bất ly thân của người miền núi, nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ của núi rừng. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” là vẻ đẹp của con người trong tư thế đang đứng trên đỉnh đèo, ánh sáng mặt trời chói vào lưỡi dao lóe sáng. Đây là vẻ đẹp của sự vững chãi, tự tin, làm chủ núi rừng của con người Việt Bắc-họ đang cố gắng sản xuất nhiều lúa gạo hơn nữa cho cuộc kháng chiến. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất-“đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Có thể nói rằng: Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ-Đặng Thai Mai. Bởi thế thơ chính trị đã được thơ Tố Hữu đưa lên đến độ rất đỗi trữ tình, song hành với những biến cố, sự kiện trọng đại của dân tộc. Sự kết hợp sáng tạo ấy rất nhẹ nhàng, sâu lắng, tinh tế, cứ thế thấm vào lòng người bằng ý, bằng tình, bằng cảm xúc của 15 năm gắn bó nghĩa tình.

Với người nghệ sĩ thì thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay những giọt nước mắt cay đắng. Thơ là cây đàn muôn điệu gảy lên những cung bậc cảm xúc của con người, là biểu hiện cho những tình cảm thầm kín, hồn nhiên nhất. Như Tố Hữu từng nói: Bài thơ hay là bài thơ làm cho người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người, quên rằng nó là tiếng nói của ai, người ta chỉ còn cảm thấy nó như tiếng ca cách lên từ lòng mình như là của mình vậy. Thơ ca chính là sự kết tinh giữa chữ tình và cái tài của thi nhân. Tình chính là tâm sơ còn cái tài lại là cái cách biểu đạt qua từng con chữ. Để có thể chạm vào vào trái tim người đọc thì mỗi tác phẩm không chỉ mang theo tâm tình, nỗi lòng, tình yêu của tác giả.

Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa đông đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, người đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống hoang dại, mãnh liệt của thiên nhiên mùa xuân ở Việt Bắc.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Cụm từ “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.

(“Theo chân Bác”)

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

(“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”)

Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan toả khắp núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ nổi bật “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”. Dường như đối với Tố Hữu bao nhiêu sợi giang là bấy nhiêu sợi nhớ. Nỗi nhớ cứ liên tiếp, đan xen vào nhau và kéo dài suốt bốn mùa trong năm. Trong tả cảnh không có một âm vang nào của nùi rừng nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người.

Trong nốt ngân vang trong trẻo, tràn sức sống đó, mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: Cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc. Dường như bao nhiêu yêu thương, đợi chờ, mong ngóng họ đang gửi vào sợi nhớ, sợi thương để dệt nên những vành nón nghĩa tình gửi ra cho cán bộ, dân công ngoài mặt trận.

Hai câu thơ mùa xuân khơi dậy những cảm xúc thẩm mỹ tuyệt đẹp trong hoài niệm dìu dặt, nhắc người cán bộ bịn rịn về xuôi. Ai đó đã nói rằng: “Thơ hay phải có dư vị văn chương”. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy “dư vị” của nó.

Khi xưa, phải chăng Beethoven đã viết bản nhạc bằng những xúc cảm tinh tế mà mãnh liệt nhất ngay khi nhìn thấy cảnh sống của cha con cô gái mù. Còn Tố Hữu cũng đã từng khẳng định: “Thơ là chuyện đồng điệu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, là tiếng nói đồng chí”. Phải chăng nỗi nhớ, sự gắn bó keo sơn, máu thịt suốt 15 năm kháng chiến đã họa quyện thành lời, thành thơ rưng rưng trong Việt Bắc.

Sau vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc ở mùa xuân là bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

Câu thơ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của mùa hè với hai ấn tượng: Tiếng ve và phách đổ vàng. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ; còn phách đổ vàng là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Chữ “đổ” được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó làm hiện lên đồng thời cùng lúc hai hoạt động. Hoạt động của âm thanh và hoạt động của sắc màu. Dường như khi tiếng ve vừa đổ xuống thì cũng là lúc cả cánh rừng phách đồng loạt chuyển sang màu vàng. Tiếng ve lan đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Ý thơ gợi nhớ một câu thơ của Khương Hữu Dụng: “một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Đó là nghệ thuật dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy, cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Nghệ thuật ấy vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình và chính xác khoảnh khắc hè sang. Bức tranh mùa hè vì thế mà hiện lên tươi tắn, thơ mộng, dịu mát chứ không hề chói chang như trong thơ ca cổ kim. Động từ “đổ” được Tố Hữu dùng rất tinh tế và chính xác để diễn tả sự chuyển biến mau lẹ của sắc màu. Cũng giống như từ “đổ” trong câu thơ của Xuân Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.

Hiện lên giữa nền thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai chữ “một mình” giàu sức gợi. Nó vừa gợi lên dáng vẻ con người lao động cặm cụi, siêng năng, chịu thương chịu khó; vừa gợi nhớ ca dao: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình-em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Ý thơ ẩn chứa nỗi nhớ, niềm yêu, sự trân trọng của nhà thơ dành cho người em gái thương yêu.

Chuyện cách mạng, chính trị qua cách thể thơ, lối đối đáp “mình-ta” nó trở nên ngọt ngào, trữ tình quá đỗi thực sự là một sự thành công lớn trong sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu. Đúng như Xuân Diệu đã khẳng định: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình, vì vậy, Tố Hữu xứng đáng là thi sĩ của nhân dân, là “Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”.

Người thợ làm bánh làm ra chiếc bánh thạch bằng một tình yêu với món bánh quê nhà, người họa sĩ vẽ bức tranh mùa thu bằng cái hồn say đắm thiên nhiên đất nước. Còn nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu “Việt Bắc” thơ bằng chính rung động của mình trước cuộc chia tay, trước những hoài niệm của những năm tháng gian khổ, hào hùng không thể nào quên với đồng bào Việt Bắc. Đó chính là cốt lõi của sức mạnh thơ Tố Hữu trong những ngày nói với trái tim, nói với chính mình.

Khép lại bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:

Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh, dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về.

Không gian chuyển về đêm như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng nhẹ nhàng như lan toả vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên sự huyền ảo, khung cảnh gợi hồn thơ. Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng trở thành “tiếng hát ân tình thuỷ chung”.

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: Những câu thơ Tố Hữu viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể so sánh với bất kì đoạn thơ miêu tả thiên nhiên nào trong thơ cổ điển.

Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành giống như cuộc chia tay của “ta” và “mình”, của anh-em, đôi lứa…Việt Bắc là bài thơ có tính dân tộc đậm đà, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Bài thơ viết bằng thể thơ lục bát, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, dễ ngâm, dễ hát, thấm đượm ở đề tài, nội dung, hình thức nghệ thuật, đặc biệt là tình cảm của nhân vật trữ tình ở chiều sâu tư tưởng, cảm xúc.

“Việt Bắc” là khúc ân tình chung của những người cách mạng, của cả dân tộc qua tiếng lòng của tác giả. Cái chung hoà trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung. Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, tình nghĩa với đất nước, với nhân dân và cách mạng. Thông qua nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc, tác giả khẳng định lòng biết ơn, lòng thủy chung sắc son của người cán bộ kháng chiến đối với nghĩa tình sâu nặng của quê hương và con người Việt Bắc.

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình-nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỷ thăng trầm, âm thầm cái công việc của nó là phủi bụi, xoá bỏ tất cả nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi trong đó có những vần thơ của Tố Hữu mãi mãi trường tồn.

-----------

Thạch Thi
 
Viết trả lời...
Cho em hỏi ngoài Tự tình II thì còn bài thơ nào của Hồ Xuân Hương có nghệ thuật tả cảnh ngụ tình không ạ?
Thêm
814
3
1
Xem thêm


Bút pháp tả cảnh ngụ tình là gì?​

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là một thi pháp quen thuộc trong văn học trung đại. Đặc trưng của văn học trung đại là sùng cổ, phi ngã và ước lệ. Ước lệ trong văn trung đại chính là sử dụng hình ảnh tượng trưng để gợi tả nhưng chủ yếu là gợi nhiều hơn tả. chính vì vậy, những bút pháp được sử dụng chủ yếu trong văn học trung đại là bút pháp chấm phá, bút pháp đòn bẩy, bút pháp lấy động tả tĩnh, bút pháp lấy điểm tả diện,... nhưng trong đó nổi bật nhất phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tả cảnh ngụ tình chính là bút pháp bằng việc miêu tả cảnh vật thiên nhiên hoặc cuộc sống xung quanh để từ đó khắc hoạ tâm trạng, suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể trữ tình. Có thể thấy, ngụ tình mới là nội dung chính còn cái cảnh chỉ nhằm làm nổi bật cái tình. Đây là bút pháp khiến cho cảnh vật thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cảnh sẽ chỉ là cảnh vật vô hồn nếu nó không được nhìn nhận qua trái tim của nhân vật trữ tình, của chính tác giả.

Văn pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng phổ biến trong các sáng tác trung đại. Bởi lẽ do sự ràng buộc khắt khe về mặt niêm luật, thể thơ nên với một số lượng từ nhất định nhưng lại phải diễn tả được cái tình thâm thuý và khái quát nỗi niềm cả một đời người, một kiếp người thù khả năng gợi tả ấy phải tới từ việc sử dụng từ ngữ, văn pháp thẩm mỹ và nghệ thuật.

Ví dụ: Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, ta thấy chỉ vỏn vẹn hơn 20 dòng thơ nhưng có thể nói, đoạn thơ đã bộc lộ được cả cuộc đời gian truân sắp đến với Kiều. Cụ thể là:

"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"

Khung cảnh ngày xuân được hiện ra qua những chuỗi hình ảnh đặc trưng là cánh én, là nắng xuân, là cỏ non, là cành lê. Nhưng mùa xuân được Nguyễn Du lựa chọn không phải là lúc đang độ mới chớm hay xuân sắc căng tràn mà ông lại lựa thời điểm cuối xuân. Có thể nói, vào độ cuối xuân, thiên nhiên dường như đang cố gắng bung toả những sức sống đang rạo rực còn sót lại để chuẩn bị cho thời khắc giao mùa sắp đến. Ngay cả cái thời điểm tả thiên nhiên ta cũng cảm nhận được một nỗi niềm. Dường như là một sự nuối tiếc "đã ngoài sáu mươi" nghĩa là thời gian tươi đẹp sắp kết thúc. Đồng thời, bức tranh thiên nhiên hiện lên với màu xanh là gam màu chủ đạo. "Cỏ non xanh tận chân trời" có cảm tưởng thảm cỏ thiên nhiên ấy rất hài hoà nhưng lại quá bình dị. Tượng trưng cho mùa xuân ta thường nghĩ đến hoa mai vàng ấm áp hay hoa đào hồng rực rỡ. Nhưng Nguyễn Du lại lựa chọn điểm tô vào bức tranh mùa xuân bằng hoa lê trắng. Màu trắng ấy tuy gợi sự thanh khiết và trong trắng nhưng lại rất đỗi mong manh và dễ tan vỡ. Hoa lê cũng như thân phận người phụ nữ "sắc tài chi lắm cho trời đất ghen", càng tài sắc lại càng chuân chuyên.
 
  • Like
Reactions: Vanhoctre
Viết trả lời...
Vincent Van Gogh từng nói rằng “Chúng ta càng tiến bước trên đường đời, mọi việc lại càng khó khăn hơn, nhưng chính trong khi chống lại sự gian khổ mà sức mạnh nội tâm của con tim được”. Chính trong sự kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ ấy mà con người có thể khám phá ra những sức mạnh nội lực của bản thân bởi nhiều khi chúng ở sâu đến nỗi chính ta cũng không nhận ra.

Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã bại liệt cả hai tay. Không đầu hàng số phận, từ nhỏ, thầy đã miệt mài tập viết bằng chân. Biết bao lần thất bại khiến thầy đau đớn và muốn bỏ cuộc nhưng nhờ sự kiên trì phi thường, thầy đã không những viết được chữ bằng chân mà còn viết rất đẹp và su này trở thành thầy giáo ưu tú.

Thomas Edison: Ông là một trong những nhà phát minh nổi tiếng nhất trong lịch sử và đã thành công trong việc phát minh đèn huỳnh quang và hệ thống phát điện. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã thử nghiệm hơn 10.000 mẫu trước khi tìm ra vật liệu phù hợp để tạo ra bóng đèn. Ông từng nói: "Tôi không thất bại. Tôi chỉ tìm ra 10.000 cách không thành công."

J.K. Rowling: Tác giả của loạt truyện Harry Potter đã trải qua nhiều thất bại và gặp nhiều khó khăn trước khi cuốn sách đầu tiên của cô được xuất bản. Cô đã bị từ chối bởi nhiều nhà xuất bản trước khi cuối cùng tìm được nhà xuất bản cho cuốn sách. Nhưng J.K. Rowling không từ bỏ và tiếp tục viết, với lòng kiên trì, cuối cùng bà đã tạo nên một hiện tượng văn học toàn cầu.

sưu tầm dẫn chứng về lòng kiên trì.
Thêm
2K
2
5
Bài tham khảo 2

Trong cuộc sống, việc có lòng kiên trì rất quan trọng để đạt được thành công và hạnh phúc trong cuộc sống. Những người thành công không phải là những người may mắn hay có những tài năng siêu phàm, mà họ là những người biết kiên trì và nỗ lực không ngừng.

Để có được lòng kiên trì, ta cần phải có sự quyết tâm và chấp nhận những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Việc thất bại không phải là thất bại, mà là cơ hội để học hỏi và cải thiện bản thân. Nếu chúng ta có lòng kiên trì, thì mỗi lần thất bại sẽ là một bài học quý giá để cải thiện và phát triển bản thân. Ngược lại, nếu ta không có lòng kiên trì, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ cuộc khi gặp phải khó khăn, và không có cơ hội để cải thiện bản thân.

Kiên trì cũng giúp chúng ta có một mục tiêu rõ ràng và đạt được những thành tựu đáng kể. Nếu ta không có mục tiêu rõ ràng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên bừa bãi và vô nghĩa. Tuy nhiên, nếu ta biết mục tiêu của mình và kiên trì đạt được nó, chúng ta sẽ trở nên tự tin và đạt được những thành tựu đáng kể.

Để có lòng kiên trì, chúng ta cũng cần phải biết nhận ra giá trị của sự kiên trì. Những người thành công đều biết rõ rằng kiên trì sẽ đem lại cho họ những lợi ích lớn hơn so với những người không kiên trì. Chúng ta cần nhận ra rằng thành công không đến một cách dễ dàng, mà nó đến với những người kiên trì và nỗ lực. Nếu chúng ta không có sự kiên trì, thì chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội và không đạt được những gì mình mong muốn.

Cuối cùng, để có lòng kiên trì, chúng ta cần phải có sự nhẫn nại và chịu đựng. Trong cuộc sống, không có gì đạt được một cách dễ dàng, và chúng ta cần phải chịu đựng những khó khăn và thử thách trong cuộc sống.

suu tam
 
Viết trả lời...
Vincent Van Gogh từng nói rằng “Chúng ta càng tiến bước trên đường đời, mọi việc lại càng khó khăn hơn, nhưng chính trong khi chống lại sự gian khổ mà sức mạnh nội tâm của con tim được”. Chính trong sự kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ ấy mà con người có thể khám phá ra những sức mạnh nội lực của bản thân bởi nhiều khi chúng ở sâu đến nỗi chính ta cũng không nhận ra.

Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã bại liệt cả hai tay. Không đầu hàng số phận, từ nhỏ, thầy đã miệt mài tập viết bằng chân. Biết bao lần thất bại khiến thầy đau đớn và muốn bỏ cuộc nhưng nhờ sự kiên trì phi thường, thầy đã không những viết được chữ bằng chân mà còn viết rất đẹp và su này trở thành thầy giáo ưu tú.

Thomas Edison: Ông là một trong những nhà phát minh nổi tiếng nhất trong lịch sử và đã thành công trong việc phát minh đèn huỳnh quang và hệ thống phát điện. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã thử nghiệm hơn 10.000 mẫu trước khi tìm ra vật liệu phù hợp để tạo ra bóng đèn. Ông từng nói: "Tôi không thất bại. Tôi chỉ tìm ra 10.000 cách không thành công."

J.K. Rowling: Tác giả của loạt truyện Harry Potter đã trải qua nhiều thất bại và gặp nhiều khó khăn trước khi cuốn sách đầu tiên của cô được xuất bản. Cô đã bị từ chối bởi nhiều nhà xuất bản trước khi cuối cùng tìm được nhà xuất bản cho cuốn sách. Nhưng J.K. Rowling không từ bỏ và tiếp tục viết, với lòng kiên trì, cuối cùng bà đã tạo nên một hiện tượng văn học toàn cầu.

sưu tầm dẫn chứng về lòng kiên trì.
Thêm
2K
2
5
Bài tham khảo 1

Con đường đến với thành công không bao giờ dễ dàng. Chúng ta luôn đối mặt với những khó khăn, thử thách và chướng ngại cản. Đó là lúc ta cần có lòng kiên trì, đó là yếu tố quan trọng nhất để đạt được thành công trong cuộc sống. Lòng kiên trì đòi hỏi sự nhẫn nại, quyết tâm và sức mạnh trong lòng. Nó giúp cho chúng ta vượt qua được những khó khăn và tiếp tục bước đi trên con đường đến với thành công.

Lòng kiên trì là một phẩm chất tốt đẹp của con người. Nó đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, giúp cho chúng ta đạt được mục tiêu của mình. Mỗi công việc, hành động của chúng ta đều là một quá trình dài với những khó khăn, thử thách. Nếu chúng ta không có lòng kiên trì, chúng ta sẽ không bao giờ vượt qua được chướng ngại đó và hoàn thành công việc của mình. Khi ta kiên trì, ta sẽ đạt được kết quả xứng đáng với những gì mà ta bỏ ra.

Một trong những lời khuyên vô cùng sâu sắc về lòng kiên trì trong cuộc sống đó là: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Khi ta kiên trì, ta chắc chắn sẽ thành công. Nước chảy mãi rồi đá sẽ mòn, càng kiên trì thì ta càng có thể đi lên đỉnh núi cao hơn của thành công.

Ví dụ điển hình về lòng kiên trì trong cuộc sống đó là nhà bác học Thomas Edison. Ông ta nổi tiếng với rất nhiều sáng chế mang lại muôn vàn lợi ích cho nhân loại. Để sáng tạo ra dây tóc bóng đèn, ông đã phải làm thí nghiệm hàng nghìn lần. Thử hỏi nhờ đâu mà ông có thể đứng lên sau nhiều lần thất bại đến như vậy. Đó chính là nhờ lòng kiên trì, nhẫn nại đã tạo động lực cho ông làm điều đó và trở thành một nhà bác học vĩ đại của toàn nhân loại.

Trên hành trình đến với thành công, khó khăn, thất bại, thử thách là những thứ mà ai ai cũng phải trải qua. Nhưng sự khác biệt giữa những người thành công và những người thất bại chính là lòng kiên trì. Những người thành công luôn có khả năng kiên trì trong việc đối mặt với những khó khăn và thất bại, họ không bỏ cuộc trước những thử thách và luôn cố gắng tìm ra giải pháp để vượt qua những khó khăn. Trong khi đó, những người thất bại lại dễ dàng từ bỏ và chấp nhận thất bại.

Để có được lòng kiên trì, chúng ta cần có đủ niềm tin vào bản thân, tinh thần cầu tiến và sự kiên nhẫn. Chúng ta không thể trở thành người kiên trì chỉ bằng cách ngồi đợi may mắn đến với mình. Chúng ta cần có mục tiêu, đặt ra kế hoạch và cố gắng đạt được chúng. Trên hành trình đó, chúng ta sẽ gặp phải nhiều khó khăn, nhưng chính lòng kiên trì sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn đó.

Việc rèn luyện lòng kiên trì cũng tương tự như việc rèn luyện các kỹ năng khác. Chúng ta cần phải luyện tập thường xuyên và chăm chỉ để có thể phát triển nó. Việc này cần sự cố gắng và nỗ lực từ chính bản thân mỗi người. Chúng ta cần tập trung vào những điều tích cực và đặt niềm tin vào bản thân mình. Nếu gặp phải thất bại, chúng ta không nên đánh mất lòng kiên trì mà hãy tìm cách rút kinh nghiệm và tiếp tục cố gắng.

Cuối cùng, lòng kiên trì là yếu tố quan trọng để đạt được thành công trong cuộc sống. Chúng ta cần cố gắng rèn luyện nó từng ngày để có thể đối mặt với những khó khăn và thất bại, không bỏ cuộc và tiếp tục đứng lên để cố gắng tiếp tục hành trình đến với mục tiêu của mình.

suu tam
 
Viết trả lời...
Vincent Van Gogh từng nói rằng “Chúng ta càng tiến bước trên đường đời, mọi việc lại càng khó khăn hơn, nhưng chính trong khi chống lại sự gian khổ mà sức mạnh nội tâm của con tim được”. Chính trong sự kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ ấy mà con người có thể khám phá ra những sức mạnh nội lực của bản thân bởi nhiều khi chúng ở sâu đến nỗi chính ta cũng không nhận ra.

Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã bại liệt cả hai tay. Không đầu hàng số phận, từ nhỏ, thầy đã miệt mài tập viết bằng chân. Biết bao lần thất bại khiến thầy đau đớn và muốn bỏ cuộc nhưng nhờ sự kiên trì phi thường, thầy đã không những viết được chữ bằng chân mà còn viết rất đẹp và su này trở thành thầy giáo ưu tú.

Thomas Edison: Ông là một trong những nhà phát minh nổi tiếng nhất trong lịch sử và đã thành công trong việc phát minh đèn huỳnh quang và hệ thống phát điện. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã thử nghiệm hơn 10.000 mẫu trước khi tìm ra vật liệu phù hợp để tạo ra bóng đèn. Ông từng nói: "Tôi không thất bại. Tôi chỉ tìm ra 10.000 cách không thành công."

J.K. Rowling: Tác giả của loạt truyện Harry Potter đã trải qua nhiều thất bại và gặp nhiều khó khăn trước khi cuốn sách đầu tiên của cô được xuất bản. Cô đã bị từ chối bởi nhiều nhà xuất bản trước khi cuối cùng tìm được nhà xuất bản cho cuốn sách. Nhưng J.K. Rowling không từ bỏ và tiếp tục viết, với lòng kiên trì, cuối cùng bà đã tạo nên một hiện tượng văn học toàn cầu.

sưu tầm dẫn chứng về lòng kiên trì.
Thêm
2K
2
5

Dàn ý Nghị luận về lòng kiên trì​

Mở bài​

Lòng kiên trì là một phẩm chất quan trọng, cần thiết để đạt được thành công trong cuộc sống. Trong bài văn nghị luận này, tôi sẽ nêu ra những suy nghĩ và quan điểm của mình về tầm quan trọng của lòng kiên trì đối với mỗi người.

Thân bài​

Khái niệm về lòng kiên trì

Lòng kiên trì là sự bền bỉ, vững vàng, không cúi đầu trước thất bại và không buông bỏ cho đến khi đạt được mục tiêu đặt ra. Người có lòng kiên trì là những người biết cố gắng phấn đấu, không ngại khó khăn, thất bại trên con đường dẫn đến thành công.

Tầm quan trọng của lòng kiên trì

- Giúp con người rèn luyện ý chí, nghị lực, từ đó không dễ dàng bị vấp ngã.
- Làm cho con người trở nên bản lĩnh hơn, không sợ hãi hay lùi bước trước những khó khăn có thể xảy đến trong cuộc sống.
- Trang bị cho con người những phẩm chất đẹp, là chìa khóa dẫn đến sự thành công trong nhiều lĩnh vực.
- Người có lòng kiên trì tích góp được cho mình nhiều kinh nghiệm quý giá và sự dẻo dai.
- Ngược lại, người không có lòng kiên trì thường chán nản, bỏ dở mọi việc giữa chừng, khó thành công trong mọi việc.

Dẫn chứng về tấm gương của lòng kiên trì

Ví dụ về tấm gương của lòng kiên trì có thể là Thomas Edison, nhà phát minh và doanh nhân nổi tiếng của Mỹ. Edison đã thử nghiệm hơn 10.000 lần để tạo ra bóng đèn điện và không từ bỏ cho đến khi thành công. Ông cũng là người đã phát minh ra máy quay phim, máy ghi âm và nhiều công nghệ khác đóng góp cho cuộc sống của chúng ta ngày nay.
  • Tầm quan trọng của lòng kiên trì đối với sự thành công của một con người
Lòng kiên trì là yếu tố quan trọng, không thể thiếu để đạt được thành công trong cuộc sống. Nếu không có lòng kiên trì, con người sẽ dễ bỏ cuộc và sớm đạt được thành công.

Kết bài​

Trong phần này, em có thể tóm tắt lại những ý chính đã trình bày trong bài văn nghị luận của mình về lòng kiên trì. Cần nhấn mạnh lại vai trò của lòng kiên trì đối với sự thành công của con người và những lợi ích mà nó mang lại. Ngoài ra, em cũng có thể nhắc đến tầm quan trọng của việc rèn luyện lòng kiên trì trong cuộc sống của mỗi người. Em có thể tỏ ra lạc quan và động viên độc giả bằng cách khuyên họ hãy rèn luyện lòng kiên trì để có thể đạt được mục tiêu của mình. Ngoài ra, em cũng có thể đưa ra một vài lời khuyên cụ thể để giúp người đọc có thể phát triển và nâng cao sự kiên trì của mình. Cuối cùng, em có thể kết thúc bài viết bằng một lời chúc tốt đẹp và động viên độc giả tiếp tục đi đến thành công trong cuộc sống.
 
Viết trả lời...
Vincent Van Gogh từng nói rằng “Chúng ta càng tiến bước trên đường đời, mọi việc lại càng khó khăn hơn, nhưng chính trong khi chống lại sự gian khổ mà sức mạnh nội tâm của con tim được”. Chính trong sự kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ ấy mà con người có thể khám phá ra những sức mạnh nội lực của bản thân bởi nhiều khi chúng ở sâu đến nỗi chính ta cũng không nhận ra.

Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã bại liệt cả hai tay. Không đầu hàng số phận, từ nhỏ, thầy đã miệt mài tập viết bằng chân. Biết bao lần thất bại khiến thầy đau đớn và muốn bỏ cuộc nhưng nhờ sự kiên trì phi thường, thầy đã không những viết được chữ bằng chân mà còn viết rất đẹp và su này trở thành thầy giáo ưu tú.

Thomas Edison: Ông là một trong những nhà phát minh nổi tiếng nhất trong lịch sử và đã thành công trong việc phát minh đèn huỳnh quang và hệ thống phát điện. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã thử nghiệm hơn 10.000 mẫu trước khi tìm ra vật liệu phù hợp để tạo ra bóng đèn. Ông từng nói: "Tôi không thất bại. Tôi chỉ tìm ra 10.000 cách không thành công."

J.K. Rowling: Tác giả của loạt truyện Harry Potter đã trải qua nhiều thất bại và gặp nhiều khó khăn trước khi cuốn sách đầu tiên của cô được xuất bản. Cô đã bị từ chối bởi nhiều nhà xuất bản trước khi cuối cùng tìm được nhà xuất bản cho cuốn sách. Nhưng J.K. Rowling không từ bỏ và tiếp tục viết, với lòng kiên trì, cuối cùng bà đã tạo nên một hiện tượng văn học toàn cầu.

sưu tầm dẫn chứng về lòng kiên trì.
Thêm
2K
2
5
Tại Việt Nam, có nhiều ví dụ về lòng kiên trì và nhẫn nại đáng nể đã dẫn đến sự thành công và ảnh hưởng lớn đến cộng đồng. Dưới đây là một số ví dụ nổi tiếng:

  • Bác Hồ - Lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam: Bác Hồ là một trong những người nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, và sự kiên trì của ông trong cuộc đấu tranh cho độc lập và tự do của Việt Nam đã trở thành một tượng đài lịch sử. Bác Hồ đã phải trải qua nhiều gian khổ, khó khăn trong chiến tranh dẫn trước khi thành công.
  • Nguyễn Thị Kim Ngân - Nữ Chủ tịch Quốc hội Việt Nam: Kim Ngân đã phải vượt qua nhiều thách thức và khó khăn để trở thành nữ Chủ tịch Quốc hội - vị trí cao cấp nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam. Sự kiên nhẫn và nỗ lực của bà đã giúp bà vượt qua những rào cản và trở thành một trong những nữ lãnh đạo mạnh mẽ của Việt Nam.
  • Cô gái Mường Hoa - Hoàng Thị Thảo: Thảo là một người dân tộc Mường nghèo ở huyện Sơn La. Dù đối mặt với nhiều khó khăn và điều kiện sống kém, nhưng Thảo đã đánh bại mọi khó khăn để tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội và trở thành bác sĩ. Sự kiên nhẫn và quyết tâm của cô là một ví dụ về lòng kiên trì và nhẫn nại tại Việt Nam.
  • Nguyễn Thị Phương Thảo - CEO VietJet Air: Phương Thảo là một trong những phụ nữ giàu nhất và thành công nhất tại Việt Nam. Bà đã thành lập và điều hành thành công hãng hàng không VietJet Air, một trong những hãng hàng không phát triển nhanh nhất khu vực. Sự kiên nhẫn và tầm nhìn của bà đã giúp bà vượt qua nhiều thách thức trong ngành hàng không và kinh doanh.
Những ví dụ trên cho thấy rằng lòng kiên trì và nhẫn nại không chỉ quan trọng trong cuộc sống cá nhân mà còn có thể thúc đẩy sự phát triển và thành công của cả cá nhân và đất nước.
 
Viết trả lời...
Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người (Theo Nhà văn nói về môn Văn – Văn học và tuổi trẻ – NXB GD, 2015)

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào, bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại, hãy làm sáng tỏ.
--------

1. Giải thích ý kiến. – “Văn chương”: là loại hình nghệ thuật bao gồm các sáng tác dùng ngôn từ nghệ thuật để phản ánh cuộc sống con người.

– “Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc”: văn chương thầm lặng đem đến cho người đọc những trải nghiệm mà một cuộc đời khó lòng thấu trải hết. Nó giúp người đọc thỏa mãn nhu cầu nếm trải sự sống muôn hình vạn trạng. Đến với văn học, ta không chỉ khám phá, nhận thức hiện thực mà còn cảm nhận, hiểu biết tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của nhân loại và chính mình.

– Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người:
+ Nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người: Vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người: sự phát hiện của nhà văn về những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong thế giới tâm hồn con người, có tác động tích cực đối với con người, cuộc đời. Người đọc sẽ nhận ra ý nghĩa của văn chương với tâm hồn mình từ chính điều này. Nếu người đọc chủ động tìm kiếm cái đẹp ẩn kín, tiềm tàng cũng như nhận ra sự thể hiện những vẻ đẹp sâu thẳm trong hình tượng nghệ thuật ở tác phẩm thì sẽ nhận ra được những thông điệp thẩm mĩ sâu xa. Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn: tác phẩm văn học đem lại cho con người niềm vui trong sáng, thánh thiện, làm nảy nở trong tâm hồn ta những xúc cảm cao đẹp, hướng ta đến những phẩm chất tốt đẹp mang tính nhân văn.

2. Bàn luận về ý kiến. – Văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách tổng hợp, toàn vẹn trong mọi quan hệ đa dạng, phức tạp, tập trung khám phá chiều sâu khôn cùng của tâm hồn con người.
– Văn học có sứ mệnh cao cả bởi tác động sâu sắc tới đời sống tinh thần con người: văn học làm giàu thêm nhận thức của con người về thế giới xung quanh, về chính bản thân mình; văn học bồi đắp, nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người, khiến con người trở nên hoàn thiện, người hơn, sống tốt hơn.
– Văn học luôn đồng hành với nhân loại, có vị trí không thể thay thế được trong đời sống của con người.
– Mỗi tác phẩm là một thế giới. Văn học giúp chúng ra trải nghiệm cuộc sống thông qua thế giới hư cấu nhưng sinh động và chân thực.

3. Làm sáng tỏ ý kiến bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại trước 1945.

Thí sinh được tự do lựa chọn một vài truyện ngắn hiện đại mà mình yêu thích để thấu hiểu vấn đề. Tuy nhiên, đây không phải là cảm nhận toàn bộ tác phẩm mà cần tập trung vào hai phương diện:

– Chỉ ra các thông điệp nghệ thuật, những trải nghiệm về cuộc sống, số phận, nhân cách hay chiều sâu tâm hồn con người trong tác phẩm. Từ tác phẩm, khám phá những điều mới mẻ trong cái bình thường, phát hiện chân lí sâu xa trong những điều giản dị.

– Từ việc phát hiện cái Đẹp sâu xa của nội dung tác phẩm ở những vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của nhân vật, hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm mà nhận ra giá trị nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người của tác phẩm. Đó cũng chính là sứ mệnh cao cả muôn đời của văn chương nghệ thuật.

4. Bình luận ý kiến.

– Ý kiến là lời tâm sự, chia sẻ của một người cầm bút luôn yêu quý và trân trọng văn chương, chỉ ra sứ mệnh cao cả của văn chương với con người.
– Ý kiến là định hướng để người đọc tìm hiểu, tiếp cận tác phẩm trong chiều sâu tư tưởng của nó.
– Bồi dưỡng tình yêu, niềm say mê văn học nói riêng, tình nhân ái, tư tưởng sống đẹp cho bạn đọc nói chung.
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre and VHT
839
2
0
Viết trả lời...
Vincent Van Gogh từng nói rằng “Chúng ta càng tiến bước trên đường đời, mọi việc lại càng khó khăn hơn, nhưng chính trong khi chống lại sự gian khổ mà sức mạnh nội tâm của con tim được”. Chính trong sự kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ ấy mà con người có thể khám phá ra những sức mạnh nội lực của bản thân bởi nhiều khi chúng ở sâu đến nỗi chính ta cũng không nhận ra.

Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã bại liệt cả hai tay. Không đầu hàng số phận, từ nhỏ, thầy đã miệt mài tập viết bằng chân. Biết bao lần thất bại khiến thầy đau đớn và muốn bỏ cuộc nhưng nhờ sự kiên trì phi thường, thầy đã không những viết được chữ bằng chân mà còn viết rất đẹp và su này trở thành thầy giáo ưu tú.

Thomas Edison: Ông là một trong những nhà phát minh nổi tiếng nhất trong lịch sử và đã thành công trong việc phát minh đèn huỳnh quang và hệ thống phát điện. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã thử nghiệm hơn 10.000 mẫu trước khi tìm ra vật liệu phù hợp để tạo ra bóng đèn. Ông từng nói: "Tôi không thất bại. Tôi chỉ tìm ra 10.000 cách không thành công."

J.K. Rowling: Tác giả của loạt truyện Harry Potter đã trải qua nhiều thất bại và gặp nhiều khó khăn trước khi cuốn sách đầu tiên của cô được xuất bản. Cô đã bị từ chối bởi nhiều nhà xuất bản trước khi cuối cùng tìm được nhà xuất bản cho cuốn sách. Nhưng J.K. Rowling không từ bỏ và tiếp tục viết, với lòng kiên trì, cuối cùng bà đã tạo nên một hiện tượng văn học toàn cầu.

sưu tầm dẫn chứng về lòng kiên trì.
Thêm
2K
2
5
“Kiên nhẫn là chỗ dựa của thành công. Tài năng chỉ là chất xúc tác. Trên đời này có nhiều người có tài nhưng không thành công là chuyện thường tình. Kiên nhẫn và kiên quyết luôn là bài giải của những vấn đề thuộc về con người”. (Calvin Coolidge)

Kiên nhẫn là chìa khóa vạn năng. Đó là bí quyết của người thành công. Họ thấy rằng kiên nhẫn là yếu tố quan trọng chủ yếu để đạt mục tiêu. Những người thất bại thường coi rẻ hoặc xem nhẹ tính kiên nhẫn. Chúng ta thử nhìn xung quanh thì có thể thấy hầu hết người ta hay bỏ cuộc. Bạn thử hỏi có bao nhiêu người học chơi một loại nhạc cụ nào đó như guitar, dương cầm thành công? Họ thử học một thời gian và thấy tình hình tiến triển quá chậm chạp, họ bỏ cuộc và đi tìm cái khác dễ hơn. Nhiều người theo học lớp vẽ tranh sơn dầu, nhưng hầu hết đều thối lui rất sớm. Họ có nhiệt tình nhưng không có kiên nhẫn. Và vì thế, họ hào hứng tham gia nhưng rồi lặng lẽ bỏ cuộc vì thiếu kiên nhẫn để vượt qua những khó khăn. Chúng ta thử nhìn qua số lượng sinh viên ghi danh học Đại học năm đầu. Lúc đầu phòng học chật kín người, nhưng khoảng cuối năm thì phòng học dường như trống trơn có thể đủ chỗ đậu một chiếc xe tải. Rất nhiều người bắt đầu chương trình tập dưỡng sinh, hay ăn kiêng nhưng đa số đều bỏ cuộc vv… Hầu hết người ta hay bỏ cuộc. Đó là thông điệp nhắc nhở chúng ta phải kiên quyết thành công. Có nghĩa là nếu chúng ta kiên trì theo đuổi những gì chúng ta đang làm nhất định chúng ta sẽ thành công, vượt lên trên vô số người khác. Như tục ngữ có câu: “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Người thợ săn giỏi chỉ đơn giản là người thợ săn bình thường nhưng kiên trì mà thôi!” Sự kiên nhẫn đắng chát, nhưng quả của nó lại ngọt. Lịch sử có rất nhiều tấm gương nổi bật về tính kiên nhẫn. Sự nỗ lực vượt lên của họ trở thành động lực thôi thúc chúng ta hành động.

Nguồn sưu tầm
 
Viết trả lời...
Vincent Van Gogh từng nói rằng “Chúng ta càng tiến bước trên đường đời, mọi việc lại càng khó khăn hơn, nhưng chính trong khi chống lại sự gian khổ mà sức mạnh nội tâm của con tim được”. Chính trong sự kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ ấy mà con người có thể khám phá ra những sức mạnh nội lực của bản thân bởi nhiều khi chúng ở sâu đến nỗi chính ta cũng không nhận ra.

Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã bại liệt cả hai tay. Không đầu hàng số phận, từ nhỏ, thầy đã miệt mài tập viết bằng chân. Biết bao lần thất bại khiến thầy đau đớn và muốn bỏ cuộc nhưng nhờ sự kiên trì phi thường, thầy đã không những viết được chữ bằng chân mà còn viết rất đẹp và su này trở thành thầy giáo ưu tú.

Thomas Edison: Ông là một trong những nhà phát minh nổi tiếng nhất trong lịch sử và đã thành công trong việc phát minh đèn huỳnh quang và hệ thống phát điện. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã thử nghiệm hơn 10.000 mẫu trước khi tìm ra vật liệu phù hợp để tạo ra bóng đèn. Ông từng nói: "Tôi không thất bại. Tôi chỉ tìm ra 10.000 cách không thành công."

J.K. Rowling: Tác giả của loạt truyện Harry Potter đã trải qua nhiều thất bại và gặp nhiều khó khăn trước khi cuốn sách đầu tiên của cô được xuất bản. Cô đã bị từ chối bởi nhiều nhà xuất bản trước khi cuối cùng tìm được nhà xuất bản cho cuốn sách. Nhưng J.K. Rowling không từ bỏ và tiếp tục viết, với lòng kiên trì, cuối cùng bà đã tạo nên một hiện tượng văn học toàn cầu.

sưu tầm dẫn chứng về lòng kiên trì.
Thêm
2K
2
5
Bài tham khảo 2

Trong cuộc sống, việc có lòng kiên trì rất quan trọng để đạt được thành công và hạnh phúc trong cuộc sống. Những người thành công không phải là những người may mắn hay có những tài năng siêu phàm, mà họ là những người biết kiên trì và nỗ lực không ngừng.

Để có được lòng kiên trì, ta cần phải có sự quyết tâm và chấp nhận những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Việc thất bại không phải là thất bại, mà là cơ hội để học hỏi và cải thiện bản thân. Nếu chúng ta có lòng kiên trì, thì mỗi lần thất bại sẽ là một bài học quý giá để cải thiện và phát triển bản thân. Ngược lại, nếu ta không có lòng kiên trì, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ cuộc khi gặp phải khó khăn, và không có cơ hội để cải thiện bản thân.

Kiên trì cũng giúp chúng ta có một mục tiêu rõ ràng và đạt được những thành tựu đáng kể. Nếu ta không có mục tiêu rõ ràng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên bừa bãi và vô nghĩa. Tuy nhiên, nếu ta biết mục tiêu của mình và kiên trì đạt được nó, chúng ta sẽ trở nên tự tin và đạt được những thành tựu đáng kể.

Để có lòng kiên trì, chúng ta cũng cần phải biết nhận ra giá trị của sự kiên trì. Những người thành công đều biết rõ rằng kiên trì sẽ đem lại cho họ những lợi ích lớn hơn so với những người không kiên trì. Chúng ta cần nhận ra rằng thành công không đến một cách dễ dàng, mà nó đến với những người kiên trì và nỗ lực. Nếu chúng ta không có sự kiên trì, thì chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội và không đạt được những gì mình mong muốn.

Cuối cùng, để có lòng kiên trì, chúng ta cần phải có sự nhẫn nại và chịu đựng. Trong cuộc sống, không có gì đạt được một cách dễ dàng, và chúng ta cần phải chịu đựng những khó khăn và thử thách trong cuộc sống.

suu tam
 
Viết trả lời...
Thói dối trá quả là một biểu hiện của sự suy đồi đạo đức. Do đó chúng cần kiên quyết và đấu tranh cho sự thật góp phần xây dựng xã hội phát triển và văn minh hơn.

Bài tham khảo 1

Nói dối là một cách nói khác đi không đúng với sự thật, không đúng với tâm trạng, suy nghĩ của mình, cố ý che giấu một cái gì đó, thậm chí xuyên tạc, nói chệch đi khiến người nghe phải tin để đạt được mục đích cho mình. Ông cha ta đã cảnh tỉnh rằng trong xã hội không thiếu những kẻ bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao, rồi những hạng người ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa cũng không phải ít trong cuộc đời. Thử đi tìm nguyên nhân của căn bệnh này thì thấy rằng: Do thiếu trung thực, xa thực tế, chỉ muốn cầu lợi, chỉ thích được khen, không muốn bị nhắc nhở, thích được ve vuốt, được tung hô thì ắt có kẻ lợi khẩu uốn éo và khi ấy và khi ấy nói dối trở thành nghệ thuật luồn lách của những kẻ vụ lợi, háo danh. Khi đã quen nói dối và nghe nói dối rồi thì người ta sẽ dửng dưng với tất cả, coi thường tất cả. Cái đáng lo ngại là khi âm hưởng ngọt ngào của nói dối đã trở thành bùa hộ mạng có hiệu quả cho những kẻ bất tài luôn hành xử theo phương châm công thì của tôi, còn tội thì chúng ta. Do đó họ cố tình khai khống, kê khống thành tích, bằng cấp để tô son trát phấn cho mình, để oai với người khác và để... tự huyễn hoặc mình. Báo cáo không trung thực - căn bệnh thành tích này chính là nói dối vậy. Và khi cấp trên lại quan liêu nữa thì quả là một đại họa đối với xã hội. Làm thể nào để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng này? Thiết nghĩ, cần phải nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình. Đồng thời, thực hiện dân chủ sinh hoạt trong cộng đồng. Phê bình phải như một ngọn roi quất vào, gột rửa và hạn chế căn bệnh này. Phải biết tôn trọng sự thật, nói đúng sự thật. Chẳng hạn, ông huấn luyện viên Alfred Riedl - người có ấn tượng khá sâu đậm đối với người hâm mộ bóng đá Việt Nam, trong một lần trả lời Hãng thông tấn Pháp AFP nói: Bóng đá được cấu thành từ các câu lạc bộ. Các vị chủ tịch, các nhà quản lí, các huấn luyện viên và trước hết là các cầu thủ ở các câu lạc bộ cần phải nhìn lại mình trong gương mỗi khi đội tuyển thất bại. Nếu giải vô địch quốc gia tồi, chúng ta chỉ có thể có một đội tuyển quốc gia tồi. Tôi nghĩ rằng đây là một nhận xét chân tình, mặc dù người hâm mộ không mong muốn, nhưng dù sao đó là sự thật mà chúng ta phải bình tĩnh đánh giá - không thể khác được đâu!

suu tầm
Thêm
  • Like
Reactions: Macaronn001
1K
1
3
Dối trá hay giả dối là một trong những thói xấu mà con người cần phải tránh. Giả dối là không trung thực, lừa dối người khác, tạo ra cái ảo để gây điều tin tưởng cho người khác nhằm mục đích vụ lợi, làm mất đi chuẩn mực của đạo đức. Vậy đâu là những tác hại nếu như con người có lòng dối trá và tại sao cần loại bỏ nó? Vì đó là một thói quen rất xấu, một tính nết xấu làm suy đồi về mặt đạo đức của chúng ta. Giả dối sẽ khiến con người bán rẻ sự thật- thứ muôn đời vẫn được đề cao và trân trọng. Đồng thời, nếu dối trá sẽ khiến cho mọi người xung quanh có cái nhìn không tốt về ta. Bản thân sẽ đánh mất sự tin tưởng của người khác vào chính mình. Và tục ngữ cũng đã dạy "Một lần bất tín, vạn sự bất tin". Lòng tin phải được xây dựng trong 1 khoảng thời gian dài và chỉ cần một lời nói dối sẽ phá hủy gần như toàn bộ những gì mà ta đã xây nên. Từ đó, làm mất đi tình cảm quý báu của con người với nhau. Con người sống với nhau nhưng lại luôn hoài nghi, ngờ vực. Để khắc phục được thói dối trá này, cần phải nhận thức được những tác hại của nó. Đồng thời nhận ra ý nghĩa của sự thật, của đức tính trung thực.

suu tam
 
Viết trả lời...
Thói dối trá quả là một biểu hiện của sự suy đồi đạo đức. Do đó chúng cần kiên quyết và đấu tranh cho sự thật góp phần xây dựng xã hội phát triển và văn minh hơn.

Bài tham khảo 1

Nói dối là một cách nói khác đi không đúng với sự thật, không đúng với tâm trạng, suy nghĩ của mình, cố ý che giấu một cái gì đó, thậm chí xuyên tạc, nói chệch đi khiến người nghe phải tin để đạt được mục đích cho mình. Ông cha ta đã cảnh tỉnh rằng trong xã hội không thiếu những kẻ bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao, rồi những hạng người ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa cũng không phải ít trong cuộc đời. Thử đi tìm nguyên nhân của căn bệnh này thì thấy rằng: Do thiếu trung thực, xa thực tế, chỉ muốn cầu lợi, chỉ thích được khen, không muốn bị nhắc nhở, thích được ve vuốt, được tung hô thì ắt có kẻ lợi khẩu uốn éo và khi ấy và khi ấy nói dối trở thành nghệ thuật luồn lách của những kẻ vụ lợi, háo danh. Khi đã quen nói dối và nghe nói dối rồi thì người ta sẽ dửng dưng với tất cả, coi thường tất cả. Cái đáng lo ngại là khi âm hưởng ngọt ngào của nói dối đã trở thành bùa hộ mạng có hiệu quả cho những kẻ bất tài luôn hành xử theo phương châm công thì của tôi, còn tội thì chúng ta. Do đó họ cố tình khai khống, kê khống thành tích, bằng cấp để tô son trát phấn cho mình, để oai với người khác và để... tự huyễn hoặc mình. Báo cáo không trung thực - căn bệnh thành tích này chính là nói dối vậy. Và khi cấp trên lại quan liêu nữa thì quả là một đại họa đối với xã hội. Làm thể nào để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng này? Thiết nghĩ, cần phải nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình. Đồng thời, thực hiện dân chủ sinh hoạt trong cộng đồng. Phê bình phải như một ngọn roi quất vào, gột rửa và hạn chế căn bệnh này. Phải biết tôn trọng sự thật, nói đúng sự thật. Chẳng hạn, ông huấn luyện viên Alfred Riedl - người có ấn tượng khá sâu đậm đối với người hâm mộ bóng đá Việt Nam, trong một lần trả lời Hãng thông tấn Pháp AFP nói: Bóng đá được cấu thành từ các câu lạc bộ. Các vị chủ tịch, các nhà quản lí, các huấn luyện viên và trước hết là các cầu thủ ở các câu lạc bộ cần phải nhìn lại mình trong gương mỗi khi đội tuyển thất bại. Nếu giải vô địch quốc gia tồi, chúng ta chỉ có thể có một đội tuyển quốc gia tồi. Tôi nghĩ rằng đây là một nhận xét chân tình, mặc dù người hâm mộ không mong muốn, nhưng dù sao đó là sự thật mà chúng ta phải bình tĩnh đánh giá - không thể khác được đâu!

suu tầm
Thêm
  • Like
Reactions: Macaronn001
1K
1
3
Xã hội ngày càng phát triển, những đức tính không tốt đã len lỏi vào trong mỗi con người. Và có những đức tính xấu đặc biệt gây nguy hại cho xã hội. Có người cho rằng " dối ta chính là biểu hiện của sự suy thoái". Thói dối trá lại gây hại đến như vậy sao? Hành vi dối trá là việc đánh lừa người khác một cách có ý thức bằng những lời nói hoặc hành động không đúng sự thật. Nhằm thực hiện mục đích nhất định nào đó. thói dối trá là một biểu hiện sự suy đồi của đạo đức. Dối trá là không trung thực, không thành thật, hành động và lời nói không ăn khớp với nhau. Còn suy đồi về đạo đức là không tuân theo những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Ta hiểu cả câu nói này có ý nghĩa là khi ta nhiễm phải thói dối trá thì nhân cách, đạo đức của chúng ta cũng bị lây nhiễm bởi cái xấu và chắc chắn đó là điều không tốt. Thói dối trá quả là một biểu hiện của suy đồi đạo đức bời vì nó đã làm cho mọi người nhìn nhận không đúng với ý đồ của mình, khiến cho họ làm sai. Đây quả là một hành động sai trái gây hậu quả đáng tiếc, gây ra nhiều tác hại nguy hiểm về mặt đạo đức, làm cho cuộc sống không ổn định, mất thăng bằng. Nó còn tạo ra sự căm ghét, trong lòng người khác khi những người đó biết mình bị lừa dối, tạo ra những suy nghĩ và hành động đáng tiếc của những người bị lừa dối với những người lừa dối họ. Dối trá cũng gây ra nhiều thiệt hại trong nhiều lĩnh vực như kinh tế có vụ việc Vinashin đã lừa dối mọi người ăn chặn hàng trăm ngàn tỷ đồng, gây thiệt hại to lớn. Hoặc là vụ việc bệnh viện Đa khoa Hoài Đức đã “nhân bản” hàng loạt bảng xét nghiệm, làm cho bệnh nhân hiểu sai về bệnh của họ, gây ra phương pháp chữa trị sai, khiến cho nhiều chuyện đáng tiếc xảy ra. Nguyên nhân phát sinh thói dối trá này bắt nguồn từ sự tha hoá, biến chất, ích kỷ, tham lam, nó còn là những nhận thức lệch lạc về quan điểm sống của con người. Do ý muốn tiến thân quá lớn mà con người đã sử dụng những lời nói dối để tiến thân. Vì vậy mà ta cần phải có những biện pháp ngăn chặn ngay từ trong gia đình, nhà trường phải tôn trọng và ngăn chặn những việc suy thoái về đạo đức ngay từ khi mới bắt đầu, và bản thân mọi người cũng phải ý thức được việc hôm nay ta có thể nói dối nhưng không thể nói dối mãi mãi được. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những lời nói dối mang tính nhân đạo, nhằm mục đích giúp đỡ người khác, đặc biệt là trong các trường hợp những người bệnh nan y hoặc khi muốn giấu đi một sự thật có thể gây nguy hiểm cho ai khác. Mặc dù vậy sống trung thực là một biểu hiện của người có nhân cách cao đẹp, nhưng người nói dối thì có đầy vì vậy chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh để loại bỏ thói nói dối trong bản thân chúng ta. Tóm lại, thói dối trá quả là một biểu hiện của sự suy đồi đạo đức. Và tôi cũng phải rèn luyện bản thân, kiên quyết và đấu tranh cho sự thật góp phần xây dựng xã hội phát triển và văn minh hơn.

suu tam
 
Viết trả lời...
Thói dối trá quả là một biểu hiện của sự suy đồi đạo đức. Do đó chúng cần kiên quyết và đấu tranh cho sự thật góp phần xây dựng xã hội phát triển và văn minh hơn.

Bài tham khảo 1

Nói dối là một cách nói khác đi không đúng với sự thật, không đúng với tâm trạng, suy nghĩ của mình, cố ý che giấu một cái gì đó, thậm chí xuyên tạc, nói chệch đi khiến người nghe phải tin để đạt được mục đích cho mình. Ông cha ta đã cảnh tỉnh rằng trong xã hội không thiếu những kẻ bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao, rồi những hạng người ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa cũng không phải ít trong cuộc đời. Thử đi tìm nguyên nhân của căn bệnh này thì thấy rằng: Do thiếu trung thực, xa thực tế, chỉ muốn cầu lợi, chỉ thích được khen, không muốn bị nhắc nhở, thích được ve vuốt, được tung hô thì ắt có kẻ lợi khẩu uốn éo và khi ấy và khi ấy nói dối trở thành nghệ thuật luồn lách của những kẻ vụ lợi, háo danh. Khi đã quen nói dối và nghe nói dối rồi thì người ta sẽ dửng dưng với tất cả, coi thường tất cả. Cái đáng lo ngại là khi âm hưởng ngọt ngào của nói dối đã trở thành bùa hộ mạng có hiệu quả cho những kẻ bất tài luôn hành xử theo phương châm công thì của tôi, còn tội thì chúng ta. Do đó họ cố tình khai khống, kê khống thành tích, bằng cấp để tô son trát phấn cho mình, để oai với người khác và để... tự huyễn hoặc mình. Báo cáo không trung thực - căn bệnh thành tích này chính là nói dối vậy. Và khi cấp trên lại quan liêu nữa thì quả là một đại họa đối với xã hội. Làm thể nào để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng này? Thiết nghĩ, cần phải nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình. Đồng thời, thực hiện dân chủ sinh hoạt trong cộng đồng. Phê bình phải như một ngọn roi quất vào, gột rửa và hạn chế căn bệnh này. Phải biết tôn trọng sự thật, nói đúng sự thật. Chẳng hạn, ông huấn luyện viên Alfred Riedl - người có ấn tượng khá sâu đậm đối với người hâm mộ bóng đá Việt Nam, trong một lần trả lời Hãng thông tấn Pháp AFP nói: Bóng đá được cấu thành từ các câu lạc bộ. Các vị chủ tịch, các nhà quản lí, các huấn luyện viên và trước hết là các cầu thủ ở các câu lạc bộ cần phải nhìn lại mình trong gương mỗi khi đội tuyển thất bại. Nếu giải vô địch quốc gia tồi, chúng ta chỉ có thể có một đội tuyển quốc gia tồi. Tôi nghĩ rằng đây là một nhận xét chân tình, mặc dù người hâm mộ không mong muốn, nhưng dù sao đó là sự thật mà chúng ta phải bình tĩnh đánh giá - không thể khác được đâu!

suu tầm
Thêm
  • Like
Reactions: Macaronn001
1K
1
3
Trong đời sống hiện nay, có rất nhiều đức tính không tốt đang tồn tại ở trong mỗi con người chúng ta mà nổi bật trong đó là thói dối trá, được xem là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời sống xã hội. Vậy ta hiểu “dối trá” là như thế nào?

Quả đúng như vậy, dối trá là không trung thực, lừa dối người khác, tạo ra cái ảo để gây điều tin tưởng cho người khác nhằm mục đích vụ lợi, làm mất đi chuẩn mực của đạo đức. Thói dối trá đang tồn tại trong các lĩnh vực cùa đời sống như trong công việc thì lừa gạt, khoét tiền của công ty và trong trường lớp thì coi tài liệu, chép bài của bạn để nộp cho thầy cô. Thói dối trá làm thiệt hại đến vật chất và tinh thần của xã hội. Nguyên nhân có sự tồn tại của thói dối trá ở con người là trình độ học vấn không đủ để lo cho bản thân, những thói xấu từ cha mẹ truyền qua con cái, từ môi trường xung quanh tác động đến mỗi người từ đó mà sinh ra những thói hư, tật xấu. Cho nên dối trá nhằm mục đích gì đều là tội lỗi, vô đạo đức.

Hậu quả của thói dối trá là khi đi đâu cũng bị người khác chê bai, coi thường, xa lánh, mất đi sự tin tưởng của mọi người, xem mình như kẻ tội đồ, rác rưởi. Từ một người có đạo đức, trở thành một người vô đạo đức. Không còn ai quan tâm và họ xem như mình không hề tồn tại trong xã hội. Chính vì thế chúng ta cần có những biện pháp khắc phục để xã hội không còn những thành phần xấu gây ảnh hưởng không tốt đến mọi người xung quanh. Chúng ta nên giáo dục thói quen trung thực cho con em từ nhỏ, đặc biệt là những mầm non của tương lai, cho chúng biết thế nào là những đức tính tốt cần phải học, những tính cách xấu nên tránh xa và tự khắc phục; cho chúng xem hay đọc những bộ phim hay truyện cố tích mang tính giáo dục cao. Còn người lớn thì phải biết suy nghĩ điều gì hay/ dở; điều gì tốt hoặc xấu trước khi làm và cũng để làm gương cho thế hệ sau này. Đối với chính tôi, thói dối trá là một đức tính xấu cần bị loại trừ, vì nếu tôi có đức tính xấu này thì tôi sẽ mất đi tình bạn bè, trở thành gánh nặng của xã hội. Vì vậy tôi cho rằng thói dối trá là thể hiện sự suy thoái đạo đức trong xã hội hiện nay. Tóm lại, thói dổi trá là một đức tính xấu của con người. Người có thói dối trá là một con người vô đạo đức, bất chấp thủ đoạn để lấy cái lợi về cho bản thân, làm cho con người mất đi sự tin tưởng lẫn nhau.

suu tam
 
Viết trả lời...
Thói dối trá quả là một biểu hiện của sự suy đồi đạo đức. Do đó chúng cần kiên quyết và đấu tranh cho sự thật góp phần xây dựng xã hội phát triển và văn minh hơn.

Bài tham khảo 1

Nói dối là một cách nói khác đi không đúng với sự thật, không đúng với tâm trạng, suy nghĩ của mình, cố ý che giấu một cái gì đó, thậm chí xuyên tạc, nói chệch đi khiến người nghe phải tin để đạt được mục đích cho mình. Ông cha ta đã cảnh tỉnh rằng trong xã hội không thiếu những kẻ bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao, rồi những hạng người ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa cũng không phải ít trong cuộc đời. Thử đi tìm nguyên nhân của căn bệnh này thì thấy rằng: Do thiếu trung thực, xa thực tế, chỉ muốn cầu lợi, chỉ thích được khen, không muốn bị nhắc nhở, thích được ve vuốt, được tung hô thì ắt có kẻ lợi khẩu uốn éo và khi ấy và khi ấy nói dối trở thành nghệ thuật luồn lách của những kẻ vụ lợi, háo danh. Khi đã quen nói dối và nghe nói dối rồi thì người ta sẽ dửng dưng với tất cả, coi thường tất cả. Cái đáng lo ngại là khi âm hưởng ngọt ngào của nói dối đã trở thành bùa hộ mạng có hiệu quả cho những kẻ bất tài luôn hành xử theo phương châm công thì của tôi, còn tội thì chúng ta. Do đó họ cố tình khai khống, kê khống thành tích, bằng cấp để tô son trát phấn cho mình, để oai với người khác và để... tự huyễn hoặc mình. Báo cáo không trung thực - căn bệnh thành tích này chính là nói dối vậy. Và khi cấp trên lại quan liêu nữa thì quả là một đại họa đối với xã hội. Làm thể nào để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng này? Thiết nghĩ, cần phải nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình. Đồng thời, thực hiện dân chủ sinh hoạt trong cộng đồng. Phê bình phải như một ngọn roi quất vào, gột rửa và hạn chế căn bệnh này. Phải biết tôn trọng sự thật, nói đúng sự thật. Chẳng hạn, ông huấn luyện viên Alfred Riedl - người có ấn tượng khá sâu đậm đối với người hâm mộ bóng đá Việt Nam, trong một lần trả lời Hãng thông tấn Pháp AFP nói: Bóng đá được cấu thành từ các câu lạc bộ. Các vị chủ tịch, các nhà quản lí, các huấn luyện viên và trước hết là các cầu thủ ở các câu lạc bộ cần phải nhìn lại mình trong gương mỗi khi đội tuyển thất bại. Nếu giải vô địch quốc gia tồi, chúng ta chỉ có thể có một đội tuyển quốc gia tồi. Tôi nghĩ rằng đây là một nhận xét chân tình, mặc dù người hâm mộ không mong muốn, nhưng dù sao đó là sự thật mà chúng ta phải bình tĩnh đánh giá - không thể khác được đâu!

suu tầm
Thêm
  • Like
Reactions: Macaronn001
1K
1
3
Dối trá hay giả dối là một trong những thói xấu mà con người cần phải tránh. Giả dối là không trung thực, lừa dối người khác, tạo ra cái ảo để gây điều tin tưởng cho người khác nhằm mục đích vụ lợi, làm mất đi chuẩn mực của đạo đức. Vậy đâu là những tác hại nếu như con người có lòng dối trá và tại sao cần loại bỏ nó? Vì đó là một thói quen rất xấu, một tính nết xấu làm suy đồi về mặt đạo đức của chúng ta. Giả dối sẽ khiến con người bán rẻ sự thật- thứ muôn đời vẫn được đề cao và trân trọng. Đồng thời, nếu dối trá sẽ khiến cho mọi người xung quanh có cái nhìn không tốt về ta. Bản thân sẽ đánh mất sự tin tưởng của người khác vào chính mình. Và tục ngữ cũng đã dạy "Một lần bất tín, vạn sự bất tin". Lòng tin phải được xây dựng trong 1 khoảng thời gian dài và chỉ cần một lời nói dối sẽ phá hủy gần như toàn bộ những gì mà ta đã xây nên. Từ đó, làm mất đi tình cảm quý báu của con người với nhau. Con người sống với nhau nhưng lại luôn hoài nghi, ngờ vực. Để khắc phục được thói dối trá này, cần phải nhận thức được những tác hại của nó. Đồng thời nhận ra ý nghĩa của sự thật, của đức tính trung thực.

suu tam
 
Viết trả lời...
Nhà vănmột nhà văn chỉ được coi là lớn khi có tư tưởng, dù rằng tư tưởng ấy có khi là bi kịch. ! Đâu chỉ có năng khiếu, có tài – cái năng khiếu, cái tài dành riêng cho nghệ thuật. Đó còn là kết quả của những cảm xúc lớn, tri thức khổng lồ, của những dằn vặt, suy ngẫm “hành xác” tinh thần, kết quả của một trí tuệ luôn hướng tới những khái quát, suy tư triết học, từ mọi vật, mọi điều cụ thể trong cuộc sống. Mỗi người cầm bút phải tự thắp cho mình một ngọn lửa, tìm cho mình một lối đi trên con đường hun hút, tránh dẫm lên dấu chân người khổng lồ để rồi bị lọt thỏm, mờ nhòa và biến mất. . “Nhà văn tồn tại ở đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi , dồn đến chân tường.
Nhà văn lúc này có cơ hội sống thật với chính mình. Nhìn từ nhu cầu xã hội, vai trò của nhà văn và văn học trở nên khiêm nhường, ít quan trọng hơn nhưng bản chất nghệ thuật của văn học và tính nghệ sĩ của nhà văn được phát huy cao độ trong nhu cầu thẩm mĩ. nhà văn lại phải đồng thời sống trong hai tư cách: tư cách công dân và tư cách nghệ sĩ. Và “Nhà văn cũng chỉ là một con người bình thường, có thể anh ta nhạy cảm hơn một số người khác, nhưng chính vì thế mà cũng yếu đuối hơn. Nhà văn không phải là người phát ngôn cho mọi người, cũng như không đại diện cho lẽ phải. Giọng của anh ta có thể rất yếu ớt, nhưng chính đó mới là giọng thực của một con người”. Vai trò đích thực mà nhà văn trong hướng tới đó là làm giàu cho suy tư và cảm xúc của nhân loại, góp kinh nghiệm sống cho đời và làm phong phú thêm tiếng mẹ đẻ.
Nhà văn không phải là người phán truyền những chân lý. “Nhà văn và tác phẩm của họ không có nhiều sức mạnh như đã từng bị ngộ nhận”- Nguyễn Huy Thiệp đã thẳng thắn nhìn vào sự thật này và dũng cảm chấp nhận chúng, chấp nhận những giới hạn trong sứ mệnh của người nghệ sĩ để từ đó đảm nhận những sứ mệnh mới của mình. Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt yêu cầu nhà văn, văn học là phải hướng đến những giá trị nhân văn. Đó là một hằng số tồn tại vĩnh viễn: “Điều khốn nạn, trớ trêu và cũng là điểm yếu của một nhà văn là dù hiểu đời, lịch lãm đến đâu cuối cùng anh ta vẫn phải hành xử và biết trình bày tư tưởng nhân đạo một cách nghệ thuật. Giá trị nhân đạo là lí do duy nhất để văn học tồn tại”. Thường người ta xếp nhà văn cao trên ăn mày một bậc, nhà văn đứng đầu trong đám thảo dân, đứng cuối trong các phẩm trật triều đình.
Dùng cho phản biện : Và khi bàn về những người làm nghề văn chương, chữ xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp thường là: sơ xuất, nhầm lẫn, sự bắt chước lố bịch, vị kỉ, hư đốn, đểu cáng, bất lương… Thậm chí còn cho đó là một nghề "thật nguy hiểm" và "hễ mà loạn thì phải bắt ngay"… Thực ra đây cũng là một cách hành xử nghệ thuật, một việc làm tự phản tỉnh với mình và với cả những ai đang nuôi ảo tưởng hão huyền với danh vị nhà văn. Nhà văn là gì? Chẳng là gì cả. Nó chỉ là một linh hồn nhỏ đầy lỗi lầm và luôn tìm cách sám hối vượt khỏi lỗi lầm ấy”. Và văn học - cái mà nhà văn viết ra cũng không phải là "tấm gương soi của thời đại" gì hết. "Thật nực cười cho nhiều người viết ở ta ôm ấp ý định viết ra những khuôn vàng thước ngọc, biến những câu chuyện bịa đặt của mình thành sách đạo đức hay luân lý"
Nghề văn khác với nghề khác ở chỗ nó vô chiêu, không hình tướng. Nghề văn gần với tôn giáo và chính trị. Nó đi tìm Đạo, tìm ý nghĩa cuộc sống, tìm sự giác ngộ. “Văn học không phải trò chơi, là câu chuyện phiếm. Muốn văn hay phải hiểu biết và từng trải nhiều. Văn chương chữ nghĩa không phải là lời nói suông. Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi sông kỳ lạ của thiên hạ thì không thể làm văn được”. Nhà văn dùng ngôn ngữ văn học để hướng người đọc về “cái đang là” với đích đến là đạo đức. Nghề văn cũng giống như những nghề khác. Như nấu ăn, thợ xây, buôn bán v.v.. Có thành bại, vinh nhục, giầu nghèo.
Thế giới cũng là một thế giới cực kỳ phức tạp, “thế giới” mà mỗi nhà văn nhìn thấy cũng đều chỉ là một phần của thế giới. Chỉ nhà văn vĩ đại và khác biệt mới có thể nhìn thấy phần thuộc riêng về anh ta, chứ không phải là nhìn thấy phần mà người khác nhìn thấy.
( DIÊM LIÊN KHOA ) Tôi không hy vọng thứ tôi nhìn thấy, người khác cũng nhìn thấy, thứ người khác nhìn thấy, tôi cũng có thể nhìn thấy. Tôi nghĩ cách tiếp cận riêng nhất về bản chất của hiện thực chắc chắn là cách tiếp cận nghệ thuật nhất và cách tiếp cận nghệ thuật nhất cũng chính là cách tiếp cận cá tính nhất. Nếu mỗi người trên thế giới này đều trả lời được tác phẩm hay nhất của mình là cuốn nào, thì đối với tôi, có nghĩa là sáng tác của tôi quá giản đơn. Tôi hy vọng sáng tác ở mỗi giai đoạn có sự thay đổi. Nếu mỗi người trên thế giới này đều trả lời được tác phẩm hay nhất của mình là cuốn nào, thì đối với tôi, có nghĩa là sáng tác của tôi quá giản đơn. Tôi hy vọng sáng tác ở mỗi giai đoạn có sự thay đổi.
PHẢN BIỆN : Đương nhiên kiểm duyệt là điều vô cùng tệ hại. Bởi kiểm duyệt làm mất đi sự tự do ngôn luận, tính sáng tạo, những gì anh muốn nói, muốn giãi bày hay muốn lên tiếng Trong một nhà văn, văn hóa, nhân cách, nội tâm mạnh mẽ hoặc yếu đuối cấu thành quan hệ đối ứng. Những người nội tâm không mạnh mẽ lắm, viết chủ yếu để xuất bản thì sẽ hy vọng được kiểm duyệt nhiều hơn
Nguyễn Nhật Ánh cho rằng nghề văn phải bắt đầu từ con chữ, Tô Hoài nói văn nhân phải học hỏi suốt đời, còn Nguyễn Ngọc Tư định nghĩa nhà văn là người kể câu chuyện của mình. Nghề văn rất đơn giản, chỉ cần một cây bút, một xấp giấy là có thể ung dung hành nghề Nhưng không phải ai có chữ, có giấy, có bút cũng có thể trở thành nhà văn. “Nhà văn ắt nhiên phải giỏi dùng chữ”,
người viết phải dùng chữ tạo ra nghĩa. “Chữ chứa nghĩa như con thuyền chứa món đồ mà nó chuyên chở. Nó không phải là con thuyền rỗng không” . Với văn chương nghệ thuật, có cái gọi là năng khiếu trời cho, nhưng cũng có vốn sống tạo nên. Nhà văn viết tác phẩm không phải chỉ bằng chất liệu, bằng cảm hứng mà còn bằng các hiểu biết về nghề nghiệp.
"Người viết văn là người rất nặng nợ với đời. Cuộc đời của anh ta là một cuộc đời không bao giờ được phép ngừng lăn lộn trong cuộc sống thực tế, không bao giờ ngừng nghiên cứu và quan sát xã hội".- NGUYỄN MINH CHÂU
“Tôi tin người ta luôn có những câu chuyện giống nhau, cùng sở hữu một vốn từ ngữ gần như nhau, nhưng mỗi người sẽ có một cách kể của riêng mình, từ cách chạm vào đời sống, cách người ta đặt tấm gương đón nhận những hình ảnh phản chiếu của đời sống ấy, tái tạo lại với tài năng thiên bẩm, sự trắc ẩn và tinh tế”, Nguyễn Ngọc Tư viết. nhà văn không cao hơn, nổi trội hơn các nghề khác nhưng vẫn được quý mến, bởi bản tính, lối sống, thần thái của họ là cô đọng của bản sắc nhân dân trong thời đại họ đang sống. Do vậy, thời đại nào thì văn nhân cũng vừa gần gũi, thân cận lại có vẻ lạ lùng, hơi tách biệt, dễ gây chú ý. Ý Thức trách nhiệm của người cầm bút: “Tôi viết cho ai? Cho cả mọi người” (Nghĩ về thơ).
nhà thơ cần phải quan tâm đến người đọc, phải xem những nhu cầu của người đọc là mục đích sáng tạo của thơ ca: “Tả một môi son, có khi anh chỉ nói sắc sen hồ/Phải giấu tình cảm của anh đi như ém quân trong rừng vắng/Chỉ vì anh nghĩ đến người độc giả mai sau có cái thú đi tìm vàng trên trang giấy
Thêm
  • tải xuống (1).jpg
    tải xuống (1).jpg
    11.7 KB · Lượt xem: 75
1K
0
1
Viết trả lời...
Mỗi ngày một chút văn chương (3).png

Tặng Đoàn Phú Tứ

Bữa trước giêng hai dưới nắng đào,
Nhìn tôi cô muốn hỏi “vì sao?”
Khi tôi đến kiếm trên môi đẹp
Một thoáng cười yêu thoả khát khao.

- Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên,
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền,
Không thể vô tình qua trước cửa,
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên? -

Ai đem phân chất một mùi hương
Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương,
Chỉ lặng chuồi theo giòng xảm xúc
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu...

Cô hãy là nơi mấy khóm dừa
Dầm chân trong nước, đứng say sưa,
Để tôi là kẻ qua sa mạc
Tạm lánh hè gay; - thế cũng vừa.

Rồi một ngày mai tôi sẽ đi.
Vì sao, ai nỡ bỏ làm chi!
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.

Xuân Diệu
Nguồn: Tuyển tập Tự lực văn đoàn (tập III), NXB Hội nhà văn, 2004
Thêm
1K
3
1
Cuối cùng tôi cũng hiểu ra ý nghĩa của một tình yêu đích thực. Yêu là khi bạn nghĩ về hạnh phúc của người ấy nhiều hơn của chính mình, dù bạn phải đối mặt với sự đau khổ do chính sự lựa chọn của bạn mang lại. (Trích “Dear John”)
 
Viết trả lời...
ĐẠI CA LỚP 11A2

Nhằm tránh xúc phạm những người trùng tên với nhân vật, tên của nhân vật đươc ghi bằng chữ cái.

Ở thị xã G, tỉnh U có một ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia tên là Trường THPT Lê Quý Đôn – G. Ngôi trường này là nơi có nhiều học sinh giỏi, đạt thành tích cao trong các cuộc thi và đặc biệt đã từng có thí sinh dự thi Đường lên đỉnh Olympia. Đây cũng là ngôi trường mà nhân vật chính N.H.Đ theo học. Trường có 25 lớp (chín lớp 10, tám lớp 11, tám lớp 12). Khối 11 của ngôi trường này có tám lớp 11, từ 11A1 đến 11A8. Trong đó:

11A1 và 11A2 chuyên khối A00

11A3 và 11A4 chuyên khối B00

11A5 và 11A6 chuyên khối C00

11A7 và 11A8 chuyên khối D01

11A1 là lớp chọn ban Tự nhiên, 11A5 là lớp chọn ban Xã hội



N.H.T là học sinh học lớp 11A2. Anh đi học hàng ngày như các bạn, nhưng mỗi ngày đến trường của anh là một ác mộng vì các bạn nam trong lớp chỉ trêu anh chứ không trêu ai khác. Điều này khiến anh học hành sa sút. Nhưng trong số những tên bạo bạo lực anh thì một trong số đó là con của trưởng phòng GD&ĐT thị xã U.



Một hôm, T vừa vào lớp thì T.M.D (cùng học lớp 11A2) đã vật anh và nói:

** mày, mày nợ 400 nghìn của tao à?

Tao có vay mày đâu? – T nói

D đánh anh và gọi: “Anh em đâu? Nó nợ tao 400k mà không trả. Giết nó!”

Bạn bè từng trêu T xông vào trói T. Họ liên tiếp đánh T. Họ quất anh tơi tả tới độ “hỏng CPU”(1). T phản kháng nhưng không được. Lớp trưởng C can ngăn: “DỪNG LẠẠẠẠẠẠIIIIII!!!!!!!!” nhưng không có hiệu nghiệm. Khi GVCN vào (GVCN dạy tiết 1) thì đã can ngăn.

Lũ học sinh đánh T biện minh: “Em cùng bạn đang tập võ” nhưng không qua mắt được GVCN. Họ bị phạt lao động và phải xin lỗi công khai trước lớp. Biết vậy, lũ con trai trong lớp không tham gia đánh T nói: “Hết cứu”(2).

Mời về chỗ! Tôi không có học sinh nào hư như vậy – GVCN mời những tên bạo lực kia về chỗ.

Lúc về chỗ, D nói với T: “Lúc về tao đợi cổng trường. Tao sẽ gọi đồng bọn của tao chém chết mày!”

T nói: “Mày được lắm, mày sẽ bị đi tù thôi con ạ! Còn NON và XANH lắm mới chém được tao”



Tối hôm đấy, T luyện tập kỹ năng tự vệ. Sáng hôm sau, T vào lớp, nhưng những tên bạo lực kia bắt T và mắng: “Mày dám mách cô vì bọn tao đánh mày đúng không?”. Anh trả lời: “Không, lúc đấy cô chủ nhiệm vào, nhìn thấy tạo bị đánh nen can ngăn lại”. Dù biết là GVCN đi vào và can ngăn, nhưng họ vẫn tiếp tục đánh khiến T bị thương nhẹ. Sự việc này đã đến tai hiệu trưởng P.T.P và lũ học sinh bạo lực kia bị cảnh cáo trước toàn trường và bị viết bản kiểm điểm. Sau khi bị cảnh cáo trước toàn trường, lớp 11A2 bị mang tiếng xấu. Mọi người trong khối 11 đồn: “Lớp 11A2 có bạo lực học đường ghê lắm, ai học lớp này thì như bị đày ở nhà tù Côn Đảo”. GVCN & GVBM đã cảnh cáo D và lũ học sinh bạo lực kia rất nhiều lần, nhưng họ không chịu nghe mà còn cãi lại.



Sáng hôm sau, D và lũ bạn vẫn xông vào trêu ác ý và đánh T như thường ngày. Nhưng, họ đã nhận đươc một bức thư của T:

D à, mày đánh tao như thế là đủ chưa? Tao đã phải học trong sợ hãi chỉ vì thương tích đầy mình và thói cuồng bạo của mày. Tao chịu hết nổi rồi! Mày đánh tao như nô lệ, cô bắt gặp và gank(3) mày bao nhiêu lần mà mày vẫn chưa chừa à? Lớp 11A2 mang tiếng xấu về bạo lực học đường rồi đấy!

D đọc xong, nhưng cậu ta vờ như không đọc và tiếp tục cùng đồng bọn đánh T. Hậu quả khiến T gây thương tích khá nặng (nhưng D và lũ học sinh bạo lực kia chưa đến mức xử lý hình sự) . T đau quá kêu gào thảm thiết.



Lần này thì thôi rồi D ơi! Danh tiếng lớp 11A2 bị hủy hoại bởi những tên cuồng

bạo như phát xít. Lớp 11A2 bị mang một cái biệt danh rất tàn bạo: Lớp học của những mafia. Lớp này bị trừ hết điểm thi đua và bị nêu gương xấu trước toàn trường cũng như bị “nêu tên” trước cộng đồng dân cư trong thị xã G. T phải nằm viện cấp cứu. Từ ngày đó, anh rất sợ đi học vì bạo lực học đường, nhưng anh không muốn chuyển trường vì có những bạn nữ giúp đỡ anh trong việc học tập. Giáo viên thuyết phục mãi anh mới có thể quay trở lại học tập.



Nhưng, D và lũ đồng bọn xảo quyệt kia quyết không buông tha. Họ còn tàn bạo hơn nữa. Họ đánh tới độ (4) chảy lênh láng, T ngất lịm đi và ☠. Không chỉ vậy, họ còn đánh cả lớp trưởng, GVCN và 4 bạn khác nữa, mỗi người thương tích 22%.



Sự việc này đã trở nên nổi tiếng cả nước bởi sự tàn bạo của D. D trông như Hitler, quá độc ác tới độ xứng đáng bị đày xuống 18 tầng địa ngục. Công an tỉnh U đã bắt khẩn cấp D và đồng bọn về hai tội “ người” và “Cố ý gây thương tích”. Trường THPT Lê Quý Đôn tỉnh U đã phải chịu liên lụy rất xấu: Ngôi trường của những con (5). D và đồng bọn như một tên tội phạm đặc biệt nguy hiểm, bị xã hội kỳ thị.



Ngôi trường này (Lê Quý Đôn tỉnh U) giờ mang tiếng xấu vô cùng bởi những tên độc ác kia. Số lượng học sinh đăng ký thi trường ở kỳ thi tuyển sinh vào 10 tụ dốc không phanh: chỉ còn 65 thí sinh thi trường này (năm ngoái có 600 thí sinh). Phụ huynh không muốn cho con học trường này vì sợ con bị bao lực. Trường bị tước danh hiệu “ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia” và bị mang tiếng xấu suốt đời. 50% học sinh của trường khi biết tin đã chuyển sáng trường khác để bảo đảm an toàn tính mạng. Nhiều cựu học sinh của trường vô cùng bất mãn: Sao cái trường mình từng học lại có những tên côn đồ quá dã man như thế?



Công an tỉnh U đã chuyển hồ sơ vụ án sang VKSND tỉnh U. Bên VKSND đã quyết định buộc tội “ người” và “Cố ý gây thương tích” đối với D và các đồng bọn. 15 ngày sau, hồ sơ được chuyển đến TAND tỉnh U. D liên lạc với một đồng bọn của anh để tìm cách chạy án và khai gian để không phải đi tù. Nhưng, tất cả đều KHÔNG THỂ QUA MẮT ĐƯỢC cơ quan điều tra trước những chứng cứ và vật chứng rõ ràng như bằng chứng tố cáo tội ác tày trời. Với những tội ác ”trời không dung, đất không tha” “tàn bạo hơn cả Hitler” “tày trời” như thế, họ đã bị tuyên án 18 năm tù về hai tội: “ người” (Điều 123 BLHS 2015) và “Cố ý gây thương tích”, trong đó 18 năm tù về tội “ người”, 8 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (6) .



D và đồng bọn bị cùm tay và áp giải lên xe. Phía bên dưới, ngươi dân căm phẫn vì mức án quá nhẹ, đòi xử tử hình. D và đòng bọn đã bị “hứng” vài cú đấm và vài hòn đá căm phẫn vì những tội ác hết sức tàn bạo của anh. Trước cửa trại giam, D chống đối công an khiến một chiến sĩ công an ngã. Họ quyết định giam ngay và luôn. Trong tù, D nói: “Tao sẽ trả thù mày”. Cán bộ trại giam đã phải huy động rất nhiều lực lượng để khống chế anh.



3 năm sau, do không còn học sinh theo học tại trường, trường THPT Lê Quý Đôn tỉnh U đã phải giải thể. Hiệu trưởng (đã nghỉ hưu) bất mãn: “Trường bị giải thể vì không còn học sinh xin nhập học, em D trường tôi từng làm hiệu trưởng chỉ vì “thú tính” quá mà gây hại cả trường, khiến cho trường bị sụp đổ do mang tiếng bạo lực”.

Hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Bỉnh khiêm của tỉnh U nói: “Ông nói đúng đấy ông ạ. Trường tôi còn biết đến em D là bài học cho bạo lực học đường. Em trong như một con sói thích ăn thịt các bạn”



15 năm sau, D và đồng được mãn hạn tù và trở về. Cảnh vật đã đổi thay, mọi người không còn nhận ra D với vẻ độc ác, máu lạnh ngày nào. Anh cùng các bạn của anh ra thăm mộ T. Đến nơi, họ thắp nén nhang, vừa khóc vừa khấn:

Tao xin lỗi mày. Bọn tao đã phải trả giá vì những tội ác mà tao cùng các bạn tù của tao 18 năm trước. Tao như một con thú (khóc nấc), tao đã gây nên tội ác trời không dung, đất không tha. Tao cũng gián tiếp khiến trường THPT Lê Quý Đôn tỉnh U bị giải thể vì bạo lực học đường quá tàn nhẫn. Tao xin lỗi mày nhé. Mong mày hãy tha thứ cho tao vì những gì đã xảy ra với mày 18 năm trước



Nhưng nửa đêm, D thường bị mất ngủ vì mơ thấy vong hồn của D gọi: “Trả mạng cho tao! Chính mày đã giết tao! Mày phải đền mạng!”





Chú thích

(1) Ý nói đầu bị đau
(2) Hết cứu: Không cứu được nữa
(3) Gank: Phạt vì phạm lỗi
(4) Nhằm tuân thủ chính sách của các nền tảng, những từ ngữ bạo lực, kinh dị được thay bằng emoji hoặc ngăn cách giữa các chữ cái
(5) Quỷ khát máu
(6) Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có mức án cao nhất là 18 năm tù.
Điều 101: Tù có thời hạn

Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
Thêm
721
2
3
Viết trả lời...
Bạn hiểu thế nào về sự đồng cảm trong cuộc sống? Khi bày tỏ sự đồng cảm với người khác hoặc khi nhận được sự đồng cảm của ai đó, bạn có tâm trạng như thế nào?

Trả lời:

- Theo em, sự đồng cảm trong cuộc sống là cùng chung cảm xúc với điều mình được nghe, được thấy về một vấn đề nào đó.

- Khi bày tỏ hoặc nhận lại sự đồng cảm của người khác, em cảm thấy được tôn trọng, được ai đó quan tâm, sẻ chia. Điều này khiến em thấy hạnh phúc.
Thêm
577
0
3
Câu 1: Tìm trong văn bản những đoạn, những câu nói về trẻ em và tuổi thơ. Vì sao tác giả lại nhắc nhiều đến trẻ em và tuổi thơ như vậy?

Trả lời:

- Những đoạn, những câu nói:

+ Đoạn 1: Một đứa bé vào phòng tôi, giúp tôi sắp xếp đồ đạc…Tôi phục sát đất tấm lòng đồng cảm phong phú của chú bé này.

+ Đoạn 3: Họa sĩ đưa tấm lòng mình vẽ trạng thái hồn nhiên như trẻ nhỏ để miêu tả trẻ em, đồng thời cũng đặt lòng mình vào biểu cảm đau khổ của người ăn mày để khắc họa ăn mày.

+ Đoạn 5: Về mặt này chúng ta không thể không ca tụng các em bé…Bởi vậy bản chất của trẻ thơ là nghệ thuật.

+ Đoạn 6: Tuổi thơ quả là thời hoàng kim trong đời người!... chúng ta vẫn có thể thấy lại thế giới hạnh phúc, nhân ái và hòa bình ấy.

- Vì: người viết ngưỡng mộ sự đồng cảm của các trẻ nhỏ bởi sự hồn nhiên, trong sáng, ngây thơ, thuần túy.

Câu 2: Mặc dù không ít lần nói tới danh xưng họa sĩ, nhưng trên thực tế, điều tác giả muốn bàn luận không chỉ bó hẹp trong phạm vi hội họa. Những từ ngữ nào trong văn bản đã giúp bạn nhận ra điều đó?

Trả lời:

Những từ ngữ: trẻ em, tuổi thơ, đồng cảm, chân – thiện – mĩ, tấm lòng.

Câu 3: Xác định nội dung trọng tâm của từng phần đã được đánh số trong văn bản và đánh giá sự liên kết giữa các phần.

Trả lời:

Nội dung trọng tâm:

- Đoạn 1: tác giả được một chú bé giúp đỡ dọn dẹp đồ đạc.

- Đoạn 2: góc nhìn của anh họa sĩ với sự vật.

- Đoạn 3: đồng cảm – phẩm chất không thể thiếu của người nghệ sĩ.

- Đoạn 4: sự đồng cảm của nghệ sĩ tới vạn vật.

- Đoạn 5: sự đồng cảm của trẻ em về cuộc sống.

- Đoạn 6: sức mạnh của tuổi thơ.

Chi tiết xem thêm tại: Nội dung trọng tâm từng phần được đánh số trong Yêu và đồng cảm

Đánh giá: đoạn sau là sự liền mạch câu chuyện của đoạn trước. Tất cả đều hướng tới việc giúp người đọc và cả người sáng tạo nghệ thuật hiểu được giá trị của sự đồng cảm. Bài viết trở nên có logic, mạch văn trôi chảy.

Câu 4: Tác giả đã nêu lên những lí lẽ, bằng chứng khẳng định tầm quan trọng của sự đồng cảm trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật?

Trả lời:

Những lí lẽ, bằng chứng:

- Người nghệ sĩ có lòng đồng cảm bao la quảng đại như tấm lòng trời đất, trải khắp vạn vật có tình cũng như không có tình.

- Tiêu chuẩn giá trị trong thế giới của Mĩ khác hẳn trong thế giới của Chân và Thiện… chứ không quan tâm tới giá trị thực tiễn của nó.

- Chỉ chăm chăm vào kĩ thuật thì chắc chắn không thể trở thành họa sĩ thực thụ được.

- Nghệ sĩ lớn ắt là những người có nhân cách vĩ đại.

- Cảnh giới ta và vật một thể.

- Để tâm trí bản thân trở về là một đứa trẻ, đặt tình cảm vào tác phẩm nghệ thuật hay đối tượng miêu tả để đồng cảm với chúng.

- Con người ta vốn là nghệ thuật, vốn giàu lòng đồng cảm… Chỉ có kẻ thông minh mới không khuất phục, dù bên ngoài chịu đủ thứ áp bức thì bên trong vẫn giữ được lòng đồng cảm đáng quý nọ.

- Đặt tình cảm vào.

Câu 5: Tác giả đã phát hiện ra những điều tương đồng gì giữa trẻ em và người nghệ sĩ? Sự khâm phục, trân trọng trẻ em của tác giả được hình thành trên cơ sở nào?

Trả lời:

- Những điểm tương đồng:

+ Đều có lòng đồng cảm không chỉ cùng đồng loại mà trải khắp ở mọi nơi.

+ Đều có tâm hồn, cái nhìn về thế giới được lí tưởng hóa.

- Cơ sở:

+ Trẻ em luôn hồn nhiên, trong sáng, thuần túy, suy nghĩ đơn giản, cảm nhận vạn vật bằng cảm xúc thật của mình.

+ Trẻ em có sự đồng cảm lớn.

Câu 6: Theo bạn, nếu không có đoạn kể về chú bé giúp tác giả sắp xếp đồ đạc ở phần 1, sức hấp dẫn, thuyết phục của văn bản Yêu và đồng cảm sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?

Trả lời:

Ảnh hưởng:

- Sức hấp dẫn sẽ giảm đi, người đọc khó có thể hình dung được điều mà tác giả muốn nói tới ở đây là chủ đề nào.

- Mạch văn không có sự liên kết, tạo ra sự cụt lủn, gây khó khăn trong việc tiếp cận văn bản của người đọc.

Câu 7: Nhà thơ Xuân Diệu từng viết: Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non (Đôi mắt xanh non, trong tập Riêng chung, NXB Văn học, Hà Nội, 1960). Dựa vào nội dung văn bản Yêu và đồng cảm, hãy thử nêu lý do khiến nhà thơ Xuân Diệu đề nghị như vậy.

Trả lời:

Lí do:

- Dưới con mắt của trẻ thơ, chúng nhìn cuộc đời một cách hồn nhiên, cuộc sống với chúng chỉ có màu hồng, sự bình yên và hạnh phúc. Bởi trẻ em như tờ giấy trắng.

- Cuộc sống sẽ đơn giản, tươi đẹp hơn, không có sự vướng bận về thế giới với những nỗi lo toan, mệt mỏi.

KẾT NỐI ĐỌC VIẾT: SOẠN BÀI YÊU VÀ ĐỒNG CẢM
Sự đồng cảm tạo nên vẻ đẹp gắn kết của thế giới. Hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) về chủ đề này.

Gợi ý:

Dẫn dắt vào đoạn văn: Đưa ra được chủ đề: "Sự đồng cảm tạo nên vẻ đẹp gắn kết của thế giới".

Vì:

- Sự đồng cảm khiến con người và vạn vật xích lại gần nhau hơn, tạo nên một vòng tay yêu thương rộng lớn.

- Khi có sự đồng cảm, đời sống tình cảm chúng ta phong phú, một xã hội sẽ rất phát triển.

- Dẫn chứng:

+ Chứng kiến những mảnh đời bất hạnh, trẻ mồ côi, các cụ già cơ nhỡ bán vé số kiếm sống, lòng chúng ta gợn lên nỗi xót xa, sự quặn lòng đau đớn.

+ Xem bộ phim tình cảm, chúng ta khóc lóc về sự chia li, âm dương cách biết. Khi thấy màn cầu hôn, tiếng đứa con hét lên đỗ đại học, chúng ta rực lên niềm hạnh phúc.

+ Hay khi nghe kể những câu chuyện về người phụ nữ xưa, chúng ta căm phẫn về một chế độ bất bình đẳng…
 
Viết trả lời...