Newsfeed

forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...
ĐỀ ÔN THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN (Có đáp án chi tiết)
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đ̣ ̆ ̉ :
HƯƠNG VỊ QUÊ NHÀ
Con bây giờ thèm những bữa canh chua
Mà mẹ nấu trong ngày hè nắng cháy
Vị quê ơi, sao mà ngon đến vậy?
Đi suốt đời vẫn ngọt mãi trong tim...

Cá chạch đồng cha bắt được, mẹ rim
Con học về đã thơm từ đầu ngõ
Đêm quê hương, theo cha con xách giỏ
Cánh đồng xa, xiêu vẹo ánh trăng gầy...

Đêm giêng hai, thầm lặng cánh vạc bay
Trong cơn mưa kéo qua ngày giáp hạt
Chẳng thể quên những năm nhà đói khát
Để bây giờ vẫn khắc khoải... trong mơ...

Thương ao làng, những năm tháng tuổi thơ
Theo chân anh, hôi con tôm, con cá
Kho tương gừng sao mà ngon đến lạ?
Xa quê rồi, đọng mãi vị nồng cay....

Canh cua đồng, mẹ nấu với rau đay
Thêm cà muối, vị quê thành nỗi nhớ
Quê hương ơi! Bao tâm tình tuổi nhỏ
Gọi con về ... thương nhớ một miền quê...
(Vũ Tuấn- “Khúc ru quê”-NXB hội nhà văn Việt Nam, năm 2022)
* ́ ́:
- Nhà thơ, nhà giáo Vũ Tuấn sinh năm 1977 quê ở xã Đỗ Xuyên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, những bài thơ của anh chủ yếu viết về tình yêu quê hương, đất nước, về những kỉ niệm tuổi thơ, về mẹ…. với giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, ngọt ngào.
- Bài thơ “Hương vị quê nhà” tác giả viết về hương vị của quê hương trong nỗi nhớ da diết.
̛̣ ̣̂ ́ ̂ ̂̀:
̂ 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào?
̂ 2. Chỉ ra và gọi tên một thành phần biệt lập trong khổ thơ cuối cùng?
̂ 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê trong hai câu thơ sau:
“Canh cua đồng, mẹ nấu với rau đay
Thêm cà muối, vị quê thành nỗi nhớ”
̂ 4. Nêu ý nghĩa của sự kết hợp từ đặc biệt trong nhan đề bài thơ ?
̂ 5. Đọc bài thơ, em thấy mình cần phải làm gì để thể hiện trách nhiệm của bản thân với quê hương? (Trình bày từ 5-7 dòng).
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
̂ 1 (2,0 điểm). Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hai khổ thơ đầu trong bài thơ “Hương vị quê nhà” trong phần đọc hiểu:
"Con bây giờ thèm những bữa canh chua
Mà mẹ nấu trong ngày hè nắng cháy
Vị quê ơi, sao mà ngon đến vậy?
Đi suốt đời vẫn ngọt mãi trong tim...

Cá chạch đồng cha bắt được, mẹ rim
Con học về đã thơm từ đầu ngõ
Đêm quê hương, theo cha con xách giỏ
Cánh đồng xa, xiêu vẹo ánh trăng gầy..."
̂ 2 (4,0 điểm): Viết bài văn nghị luận khoảng 600 chữ nêu suy nghĩ của em về vấn đề tự học của học sinh hiện nay và đề xuất những giải pháp để phát huy ý thức tự học của học sinh.
Đ́ ́ ̂́
I. PHẦN ĐỌC HIỂU
̂ 1: Thể thơ tám chữ
̂ 2:
- Thành phần biệt lập: “ơi”
- Thành phần gọi đáp
̂ 3:
- BPTT: Liệt kê “canh cua đồng", "rau đay”, “cà muối”
- Tác dụng:
+ Tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt
+ Gợi tả sự phong phú của những món ăn dân dã đậm đà hương vị quê hương
+ Tác giả bày tỏ tình yêu và nỗi nhớ quê da diết, sự trân trọng, niềm tự hào về hương vị quê hương.
̂ 4:
- Trong nhan đề có sự kết hợp từ ngữ đặc biệt. Từ hương vị thường được kết hợp với các từ ngữ chỉ sự vật cụ thể (có hương vị) như hương vị nước giải khát, hương vị bánh kẹo,... Trong câu thơ, nhà thơ dùng hương vị kết hợp với quê nhà, một cụm từ chỉ sự vật trừu tượng.
- Tác dụng của sự kết hợp từ ngữ đặc biệt đó là vừa khẳng định những món ăn dân dã ( canh chua, trạch đồng, tôm, cá kho tương gừng,…) là mùi vị của đặc sản quê nhà, vừa mang nghĩa trừu tượng một sắc thái, đặc trưng của quê hương.
̂ 5: Một số hành động, việc làm thể hiện trách nhiệm của bản thân đối với quê hương:
+ Luôn yêu mến, trân trọng, tự hào về quê hương.
+ Học tập, rèn luyện bản thân để sau này góp một phần nhỏ bé xây dựng quê hương.
+ Giới thiệu, quảng bá về con người, những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, những cảnh quan tiêu biểu của quê hương đến bạn bè trong và ngoài nước.
+ Bảo vệ, tôn tạo cảnh quan quê hương làm cho quê hương ngày một xanh sạch đẹp.
II. PHẦN VIẾT
̂ 1: ̂́ đ̣ ̆ (̉ 200 ̛̃) ̂ ́ ̂̉ ̛ đ̂̀ ̀ ̛ “̛̛ ̣ ̂ ̀” ̂̀ đ̣ ̂̉
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn phân tích một đoạn thơ:
- Mở đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ và nội dung chủ đề; thân đoạn phân tích đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ để làm rõ được nội dung chủ đề; kết đoạn khái quát, tổng hợp lại.
- Đoạn văn đảm bảo dung lượng
b. Xác định đúng yêu cầu phân tích: nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả
c. Phân tích, làm rõ được:
- Nội dung chủ đề: nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả
+ Nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ gắn với những món ăn đậm đà hương vị quê hương: canh chua mẹ nấu trong những ngày hè nắng cháy, cá chạch đồng mẹ rim…
+ Nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ gắn với hình ảnh của mẹ, cha.
- Đặc sắc nghệ thuật: Liệt kê, câu hỏi tu từ, nhân hóa,…
* Yêu cầu: HS phải biết khai thác các tín hiệu nghệ thuật để làm nổi bật được nội dung chủ đề.
d. Chính tả, ngữ pháp:
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về đoạn thơ, có cách diễn đạt sáng tạo, mới mẻ.
̂ 2: ̂́ ̀ ̆ ̣ ̣̂ ̉ 600 ̛̃ ̂ ̃ ̉ ̂̀ ̂́ đ̂̀ ̛̣ ̣ ̉ ̣ ̣̂ ̀ đ̂̀ ̂́ ̛̃ ̉ ́ đ̂̉ ́ ́ ̛́ ̛̣ ̣ ̉ ̣ .
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài.
Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận xã hội
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Vấn đề tự học của học sinh hiện nay.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết
- Xác định được các ý chính của bài viết.
- Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận:
1. Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề: Tinh thần tự học đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập và phát triển của mỗi học sinh. Trong bối cảnh xã hội không ngừng phát triển, tri thức ngày càng mở rộng, việc tự học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức hiệu quả hơn mà còn là nền tảng vững chắc để đạt được thành công trong tương lai.
- Nêu vấn đề NL: Vậy tự học có ý nghĩa như thế nào đối với học sinh? Và làm thế nào để xây dựng thói quen tự học hiệu quả?
2/Thân bài:
a. Bản chất và biểu hiện của tự học
- Tự học là gì? Tự học là quá trình tự bản thân chủ động tìm hiểu, khám phá và tiếp thu kiến thức mà không phụ thuộc hoàn toàn vào sự hướng dẫn của giáo viên hay người khác.
- Biểu hiện của tự học: Tinh thần tự học được thể hiện qua sự chủ động tìm tòi tài liệu, đặt câu hỏi và tự giải quyết vấn đề, kiên trì rèn luyện kỹ năng và không ngừng học hỏi từ thực tiễn cuộc sống.
b. Sự tác động tích cực của tự học đối với học sinh
- Trước hết, tự học giúp học sinh hoàn thiện bản thân. Khi tự học, các em rèn luyện được tính tự giác, kỷ luật và khả năng quản lý thời gian, từ đó phát triển tư duy độc lập và sáng tạo.
- Bên cạnh đó, tự học giúp học sinh tìm thấy hứng thú trong việc học tập, biến quá trình học trở thành niềm vui thay vì là gánh nặng.
- Khi tự học, các em được tự do lựa chọn phương pháp phù hợp, từ đó nâng cao hiệu quả tiếp thu và nhớ bài lâu hơn. Hơn nữa, tự học góp phần cải thiện kết quả học tập, bởi khi chủ động học hỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và ứng dụng linh hoạt hơn.
- Không chỉ dừng lại ở phạm vi học đường, tinh thần tự học còn là yếu tố quan trọng giúp các em đạt được thành công trong tương lai, bởi xã hội luôn đòi hỏi con người phải không ngừng cập nhật kiến thức và kỹ năng mới.
- Ngoài ra, mỗi cá nhân có ý thức tự học sẽ góp phần thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội, bởi tri thức là nền tảng của mọi thành công.
D/chứng: Học sinh có thể lấy ví dụ về những cá nhân nổi bật, những tấm gương của tinh thần tự học và thành công để minh họa cho bài viết của mình. Các ví dụ như Edison, Steve Jobs, hoặc các nhà khoa học, nghệ sĩ nổi tiếng là những người đã luôn tự học và vượt qua khó khăn để đạt được thành tựu lớn.
c. Ý kiến trái chiều và phản bác
- Ý kiến trái chiều: Một số người cho rằng nếu không có sự giúp đỡ và hướng dẫn cụ thể của giáo viên thì người học sẽ khó tìm ra được hướng đi đúng, dễ dẫn tới sai sót hoặc hiểu không đúng, đủ vấn đề.
- Phản bác: Có rất nhiều những kênh thông tin hỗ trợ HS trong vấn đề tự học (Sách, Internet,…). Hơn nữa, không phải lúc nào GV cũng có thể bên cạnh để hướng dẫn và giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập.
d. Đề xuất các giải pháp khả thi để phát huy ý thức tự học của học sinh
- Để khắc phục tình trạng này, mỗi học sinh cần nhận thức rõ ràng rằng tự học mang lại rất nhiều lợi ích, không chỉ giúp tích lũy kiến thức mà còn hình thành các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống. Trước hết, học sinh cần hiểu rằng tự học là nền tảng để phát triển bản thân và đạt được thành công lâu dài. Khi nhận thức được điều này, các em sẽ có động lực để chủ động học tập.
- Tiếp theo, học sinh cần xác định mục tiêu học tập cụ thể, rõ ràng. Việc đề ra những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn sẽ giúp các em định hướng rõ ràng cho quá trình học tập và không bị chán nản.
- Và khi đã có mục tiêu thì các bạn học sinh cần xây dựng kế hoạch học tập chi tiết theo từng giai đoạn, phân bổ thời gian hợp lý giữa học tập và giải trí, từ đó nâng cao hiệu quả học tập.
- Đặc biệt, trong thời đại công nghệ phát triển, học sinh nên tận dụng internet và các nền tảng mạng xã hội như YouTube, Google, các khóa học trực tuyến để mở rộng kiến thức và học hỏi thêm kỹ năng mới.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề: Tinh thần tự học là yếu tố vô cùng quan trọng đối với mỗi học sinh, đặc biệt trong thời đại hiện nay. Tự học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức hiệu quả mà còn là hành trang vững chắc để bước vào tương lai.
- Liên hệ bản thân: Chúng ta cần nhận thức rõ vai trò của tự học, chủ động rèn luyện và không ngừng nỗ lực để phát triển bản thân.
d. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
--------------------------
Thêm
339
0
0
Viết trả lời...
Bài thơ " Thuốc Đắng" của Mai Văn Phấn là bài thơ nói về tình phụ tử thiêng liêng của người cha dành cho con. Thứ tình cảm mà không một ai có thể thay thế được.
Tác phẩm thơ "Thuốc đắng" được sáng tác năm 1990, đã nhận được Giải thưởng Văn học mang tên danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm (của UBND TP Hải Phòng). Với lời tâm sự của người cha đối với đứa con bị ốm, bài thơ ca ngợi tình cảm mà người cha dành cho con, qua đó gửi gắm thông điệp: cuộc đời này nhiều chông gai và bão tố, người cha muốn con mình phải nhìn ra và chấp nhận nếm trải nó để lớn lên và trưởng thành.

8D1918DF-9E0A-45D5-AC23-2CC14DEFD45C.jpeg


ĐỌC HIỂU BÀI THƠ "Thuốc Đắng":

Câu 1: Phương thức biểu đạt của bài thơ :
Biểu cảm
Câu 2 Thể thơ: Tự do
Câu 3: Người cha đang tâm sự với ai?
- Người cha đang tâm sự với đứa con của mình.
Câu 4 Chủ thể trữ tình: Người cha
Câu 5: Nội dung của bài thơ:
- Những dòng tâm sự của người cha gửi tới con về cuộc đời, cuộc sống cũng như tình yêu thương bảo bộc của người cha với con
Câu 6: Ý nghĩa của câu thơ " Đứa con sốt cao "?
-"Đứa con sốt cao". Sức nóng của cơn sốt được so sánh qua một liên tưởng xuất thần, ngỡ giàn lửa đang thiêu con nên cha cũng thấy mình có thể thành tro mất.

-Qua miêu tả cơn sốt của con, ta thấy tấm lòng thương con của người cha đến đớn đau, quặn thắt. Đành nuốt nước mắt vào lòng, thuốc đắng cho con khỏi bệnh là phương cách duy nhất lúc này.
Câu 7: Qua bài thơ, người cha muốn nói với con điều gì?

-Khi con lớn lên, bằng tuổi cha, con sẽ thấy cuộc đời không như mơ, và cuộc đời không chỉ có những gian nan nhỏ bé như chén thuốc đắng kia, mà còn là bão tố, là bao nỗi đau khổ lớn lao mà con người bắt buộc phải chịu đựng.
-Người cha nhắc nhủ với con của mình rằng phải trưởng thành mạnh mẽ để vượt qua những giông tố của cuộc đời.

Câu 8: Biện pháp tu từ trong bài thơ “Thuốc đắng”
1.Khổ thơ 1:
Ẩn dụ: “Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa”:

-So sánh cơn sốt của con như ngọn lửa đang thiêu đốt, thể hiện sự nguy hiểm và đau đớn tột cùng mà con đang phải chịu đựng.
“Cha cũng có thể thành tro nữa”:

-So sánh bản thân người cha với tro tàn, thể hiện sự bất lực và hy sinh vô bờ bến của người cha trước bệnh tình của con.
“Thuốc đắng không chờ được rồi”:

- Ẩn dụ cho sự cấp bách, không thể trì hoãn việc cho con uống thuốc.
- Nhân hóa cho chén thuốc, như thể nó cũng có ý thức và sự cảm thông với nỗi đau của con.
2.Khổ thơ 2:
“Và những cánh hoa mỏng mảnh
Đưa hương phải nhờ rễ cay”

- So sánh những cánh hoa mỏng manh với con, so sánh rễ cay với thuốc đắng.
- Qua phép ẩn dụ này, tác giả khẳng định rằng con cũng như những bông hoa, cần có sự hy sinh và gian khổ để có thể trưởng thành và tỏa hương thơm.
- Điệp ngữ: “Con ơi!”: Lặp lại hai lần, thể hiện sự quan tâm, yêu thương và trìu mến của người cha dành cho con.
3.Khổ thơ 3:
Mùa xuân tràn vào chén đắng"

- So sánh: vị đắng của thuốc với mùa xuân
==> Sự tương phản giữa vị đắng của thuốc và sự tươi đẹp của mùa xuân. ==> Qua đó, tác giả khẳng định rằng đằng sau vị đắng của thuốc là hy vọng về sự khỏe mạnh và hạnh phúc của con.

"Tuổi cha nước mắt lặng lặng"
- Nhân hóa cho tuổi cha, như thể nó cũng có cảm xúc và biết khóc --> thể hiện sự hy sinh thầm lặng và nỗi đau đớn tột cùng của người cha trước bệnh tình của con.
Sự thật khóc oà vu vơ

- So sánh sự thật với tiếng khóc, thể hiện sự phũ phàng và nghiệt ngã của số phận.
4.Khổ thơ 4:
Đáy chén chắc còn bão tố

- So sánh những khó khăn thử thách trong cuộc sống với bão tố.
==> Thể hiện niềm tin vào tương lai của con, rằng con sẽ có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Nội dung của các biện pháp tu từ:
-Ẩn dụ:
Giúp cho hình ảnh thơ trở nên sinh động, gợi cảm, tăng sức biểu cảm cho ngôn ngữ, thể hiện tình yêu thương, sự hy sinh thầm lặng và nỗi đau đớn tột cùng của người cha trước bệnh tình của con.
-Nhân hóa:
Giúp cho hình ảnh thơ trở nên gần gũi, dễ hiểu, thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ của người cha với con.
-Điệp ngữ:
Giúp cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, tạo ấn tượng cho người đọc, thể hiện sự quan tâm, yêu thương và trìu mến của người cha dành cho con.
Câu9: Dòng thơ thể hiện tâm trạng của người cha:
“Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa”
“Cha cũng có thể thành tro nữa”
“Giữa tay con” “Cha đổ”
“Ngậm ngùi thả lòng chén vơi”
“Mùa xuân tràn vào chén đắng”
Câu 10 Thông điệp bài học rút ra qua bài thơ là gì?

- Bài thơ "Thuốc đắng" để lại bài học ý nghĩa Về tình cảm phụ tử thiêng liêng, mang giá trị nhân văn sâu sắc về cuộc sống. Hiểu cuộc sống vốn là như thế: có tốt - xấu, có ngọt ngào - đắng cay, có may mắn - rủi ro, để từ đó không kỳ vọng ảo tưởng, mà nhìn nhận và đón nhận cuộc sống như nó vốn có. Giống như người cha trong bài thơ mong con có bản lĩnh để bình thản đối mặt, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách; đồng thời, có tình yêu cuộc sống, để thấy mọi khía cạnh của vẻ đẹp mà cuộc sống mang lại. Điều ấy khiến tất cả chúng ta đều nhận thức rằng, cái đắng cay đôi khi cũng nằm trong hạnh phúc
Câu 11. Anh/chị hiểu như thế nào về 2 câu:
“Và những cánh hoa mỏng mảnh
Đưa hương phải nhờ rễ cay.”

Câu thơ “Và những cánh hoa mỏng mảnh / Đưa hương phải nhờ rễ cay” tượng trưng cho sự khó khăn trong cuộc sống, muốn hạnh phúc phải trải qua khổ đau. Hạt sương nhỏ bé phải trải qua đêm lạnh để tỏa hương, và hoa cần nhờ đến rễ cây để tồn tại. Điều này nhấn mạnh sự kiên nhẫn, hy sinh và tình thương của người cha đối với con.Rõ ràng hơn thế nữa,hoa thơm hương phải nhờ “rễ cay” hút bao nhiêu mỡ màu từ lòng đất đai sâu thẳm. Từ “rễ cay” là một sáng tạo thần hứng của tác giả, phải qua cay đắng, truân chuyên thì rễ mới đưa được hương thơm cho hoa thắm trên cành. “Rễ cay” nuôi hoa cho cây khi phải lặn sâu vào bùn đất để kiếm tìm chất dinh dưỡng, cha mẹ khó nhọc nuôi con khôn lớn trưởng thành phải trải qua biết mấy gian khổ, đoạn trường. Người cha trong bài thơ ngộ ra biết bao sự thật đắng lòng.
Câu 12. Từ nội dung của bài thơ anh chị có suy nghĩ gì về vai trò của thử thách trong cuộc sống?
-Từ nội dung của bài thơ "Thuốc đắng" của Mai Văn Phấn, ta có thể suy nghĩ về vai trò của thử thách trong cuộc sống. Thử thách là những khó khăn, gian khổ mà con người phải đối mặt và vượt qua để trưởng thành. Trên con đường chăm sóc con ốm, người cha đã phải đối mặt với sự vất vả, khó khăn và đắng cay. Tuy nhiên, qua những thử thách đó, tình yêu thương của người cha dành cho con đã được thể hiện một cách thiêng liêng. Thử thách giúp con người rèn luyện sức mạnh, kiên nhẫn và sự hy sinh. Thử thách là những khó khăn, trở ngại mà chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống. Thử thách giúp chúng ta phát triển và trưởng thành, vượt qua những giới hạn và phát huy tiềm năng của bản thân. Thử thách cũng có thể mang lại những thành tựu và niềm hạnh phúc khi chúng ta vượt qua chúng.
Tóm lại, vai trò của thử thách trong cuộc sống là tạo ra những cơ hội để phát triển, học hỏi và vượt qua giới hạn của bản thân, từ đó mang lại sự trưởng thành và thành công trong cuộc sống.
Vì vậy, thử thách có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển con người.
Câu 13. Bài thơ gợi lên cho anh chị những suy nghĩ gì về tình phụ tử?
Bài thơ thể hiện tình phụ tử thật cao cả và sâu sắc: cách người cha yêu thương con, dạy con đối diện với những thử thách của cuộc sống. Ở đây, dường như không có bài học đạo đức nào, chỉ có những sự thật trần trụi và đắng chát cha muốn con nhìn ra, để có thể chấp nhận và đối diện với nó khi con lớn lên. Bên cạnh đó còn là những âu lo cha nghĩ cho con. Người cha ấy mang trong mình niềm hi vọng và mơ ước: con sẽ có một cuộc sống hạnh phúc ý nghĩa.
Câu 14. Cấu tứ của bài thơ"thuốc đắng"
- Xoay quanh chủ đề tình phụ thử thiêng liêng . Qua bài thơ, tác giả đã thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của người cha dành cho con, đồng thời cũng thể hiện niềm tin vào tương lai của con .
Câu 15: Chỉ ra yếu tố tượng trưng trong bài thơ trên?

-Giọt sương âm thầm vắt qua đêm lạnh cũng lắm vất vả, nhọc nhằn
- Hoa thơm hương phải nhờ “rễ cay” hút bao nhiêu mỡ màu từ lòng đất đai sâu thẳm. Từ “rễ cay” là một sáng tạo thần hứng của tác giả, phải qua cay đắng, truân chuyên thì rễ mới đưa được hương thơm cho hoa thắm trên cành.
-"Rễ cay”: nuôi hoa cho cây khi phải lặn sâu vào bùn đất để kiếm tìm chất dinh dưỡng, cha mẹ khó nhọc nuôi con khôn lớn trưởng thành phải trải qua biết mấy gian khổ, đoạn trường
Câu 16:Ý nghĩa nhan đề của bài thơ Thuốc Đắng ?
Thuốc đắng trên cái nền của ngôn ngữ, hình ảnh nhiều ẩn dụ, tượng trưng là tấm lòng thương con thiết tha, cháy bỏng; là tình phụ tử thiêng liêng mà nhà thơ Mai Văn Phấn muốn gửi gắm đến mỗi người.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
2K
1
0
Viết trả lời...
Mọi người có thể góp một vài ý về bài phân tích cảm nghĩ người đọc về câu chuyện "Ai mua cha không" được không ạ? Tại nó không có văn mẫu với gv chưa hương dẫn nên em không biết phải phân tích như thế nào
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
4K
1
3
Đích đến cuối cùng của câu chuyện cổ dân gian mong muốn con ngưởi trở nên hoàn thiện về cả nhân cách lẫn tâm hồn. Đến với câu chuyện “Ai mua cha không?” – văn học dân gian Phú Yên cũng hướng tới các bài học nhân sinh, rèn luyện phẩm chất cho mỗi người. Lòng hiếu thảo là một trong những đức tính cần có của mỗi người và cũng là nội dung lớn của truyện.

Nhân vật chính trong “Ai mua cha không?” là nhân vật người cha:

- Ngoại hình: Ông cụ đã 80 tuổi, đầu tóc bạc phơ, lưng còng, mắt kém, tay chống gậy tre.

- Hành động: Giữa trưa hè oi bức, một ông già yếu sức đã đi khắp nơi để rao bán mình. Lời rao bán cũng thật đặc biệt: “Ai mua cha không?”. Lời rao bán của ông, ai nghe cũng phải bật cười. Người ta phải bán những thứ cần dùng, có ích cho người mua, ai lại đi bán “Cha” bao giờ. Nếu mà bán người thì phải bán những người mạnh khỏe, biết cày cấy, lên rừng đốn cây… nhưng đây là một ông già yếu đuối chẳng làm được gì cả.

- Ý nghĩa của hành động:

+ Người cha đang đi tìm người con hiếu thảo để dành cho họ ấy phần thưởng xứng đáng.

- Cuộc hành trình đi tìm “người con hiếu thảo”:

+ Hình ảnh người con ruột: Những đứa con ruột đã quên mất bổn phận của một người con, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau và sau khi nhận được gia tài của riêng mình bọn chúng đã bỏ mặc người cha già.

->Chính điều đó đã thôi thúc người cha đi tìm “người con hiếu thảo”.

- Hình ảnh tên nhà giàu: Hắn cũng có cùng suy nghĩ với những đứa con ruột của người cha. Vô ơn, tham lam, ích kỉ, không biết ơn công sinh thành của cha mẹ lại còn hắt hủi cha mẹ khi họ về già.

- Đôi vợ chồng trẻ nghèo: Người cha cũng vẫn không từ bỏ, vẫn quyết đi tìm ra những người con có tấm lòng hiếu thảo, thật may mắn người cha đã tìm ra được người con của mình. Đó chính là đôi vợ chồng trẻ nghèo, tuy nghèo về vật chất nhưng tinh thần tràn đầy tình yêu thương. Họ sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ và yêu thương người cha già bằng chính “trái tim”. Họ phụng dưỡng cha già một cách vui vẻ và cha chính là điểm tựa để cho đôi vợ chồng ấy tựa vào, ngôi nhà trở lên ấm cúng và hạnh phúc hơn. Họ đã có cha, họ không phải là những người con mồ côi nữa, Người cha đã tìm ra những đứa con ngoan. Phần thưởng xứng đáng dành cho những người con ngoan không chỉ là tình thương của người cha mà còn có cả một gia tài lớn của người cha. Ông đã để lại toàn bộ số tài sản của mình dành cho những người con xứng đáng.

Như vậy, câu chuyện được chia thành hai tuyến nhân vật: người con bất hiếu (đại diện là những người con ruột và tên nhà giàu); người con hiếu thảo (đại diện đôi vợ chồng trẻ). Cuộc hành trình đi thử lòng thiên hạ của người cha là một cuộc hành trình đầy gian nao, người cha đã không thể tìm những người con ngoan ngay trong chính gia đình của mình, tiếp tục trên cuộc hành trình đó ông đã bắt gặp rất nhiều hình ảnh giống như những đứa con ruột của mình. Ông không hề trách mắng, giận dữ hay bỏ cuộc. Người cha tiếp tục cuộc hành trình, cuối cùng ông đã tìm được người con xứng đáng.

Qua câu chuyện “Ai mua cha không?” nhắc nhở chúng ta hiếu thảo là một đức tính cao đẹp của con người, thể hiện lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ. Những người con hiếu thảo luôn được xã hội đề cao, kính trọng và nhận được phần thưởng xứng đáng.
 
Sửa lần cuối:
  • Like
Reactions: Vanhoctre
Viết trả lời...
Trong cuộc sống, chúng ta luôn luôn đặt ra cho mình những câu hỏi và tự trả lời. Vậy giá trị của bản thân con người là ở đâu? Theo Tinh Chi Lương, giá trị của chúng ta chính là ở bản thân chúng ta.
Cùng văn học trẻ nghị luận: Giá trị của chúng ta chính là ở bản thân chúng ta


5386


Giá trị của chúng ta chính là ở bản thân chúng ta

Cuộc sống của chúng ta là một hành trình dài tìm kiếm và khẳng định giá trị của bản thân. Liệu bạn đã hiểu đúng giá trị của bản thân mình, liệu giá trị bản thân là ở vẻ ngoài hào nhoáng. Nhưng “Cái giá trị của một người không đo bằng địa vị, bằng cấp mà đo bằng sự ích lợi của người đó đối với đồng bào, xã hội ngoài công việc mà người đó làm để mưu sinh”.

Giá trị bản thân con người là ở những nội lực sẵn có trong mỗi cá nhân, là trí tuệ, sắc đẹp, nhân cách,… Giá trị của một con người còn là những việc làm cụ thể mà con người đó dùng dể phục vụ cộng đồng, xã hội. Giá trị của con người không phải chỉ toát lên ở sắc đẹp, những khối tài sản khổng lồ người đó sở hữu mà quan trọng nhất vẫn là toát lên ở nhân cách cao đẹp, lối sống vị tha, sẵn sàng hi sinh, phục vụ cho cộng đồng, dân tộc.

Trong cuộc sống, ngoài sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng, mỗi chúng ta cần phải ý thức được giá trị của bản thân mình. Khi bạn ý thức được giá trị của bản thân tức là khi bạn đã biết được điểm mạnh, điểm yếu của chính mình. Và lúc ấy bạn sẽ biết làm thế nào để phát huy tối đa những tiềm lực vốn có của mình và sửa chữa những khuyết điểm còn tồn tại. Đồng thời khi đã biết những điểm mạnh của bản thân cũng giúp chúng ta tự tin trong hành động, luôn luôn cố gắng để đạt tới cái đích mà mình đã lựa chọn. Ngược lại, nếu đến chính giá trị của bản thân mình bạn cũng không hiểu thì thật khó để lựa chọn được con đường đúng đắn, thiếu tự tin với chính quyết định của mình. Và từ đó cũng dễ dàng gặp thất bại.

Giá trị của mỗi con người không nằm ở khối tài sản khổng lồ mà anh ta có được. Nếu một người có khối tài sản lớn, mỗi năm kiếm hàng triệu đô, nhưng lại chỉ biết nghĩ cho mình, không biết nhường cơm, sẻ áo cho những người có số phận bất hạnh, lúc đó giá trị của bạn vẫn chưa được khẳng định. Ngược lại, một người có tài sản ít hơn, nhưng có trái tim nhân hậu, luôn giúp đỡ những người quanh mình, để cuộc sống của mọi người được tốt đẹp hơn. Chỉ khi ấy con người mới khẳng định được giá trị của mình. Như vậy, giá trị của con người không phải số tiền anh tích lũy được mà là cách ứng xử nhân văn của anh ta với số tiền mà anh ta làm ra.

Giá trị của một con người cũng không nằm ở nhan sắc mà họ sở hữu. Trước hết, ta cũng cần khẳng định rằng, nhan sắc cũng là một giá trị riêng của con người, nhưng nó không phải là yếu tố chính, yếu tố quyết định làm nên giá trị đích thực của một con người. Vì nhan sắc cũng sẽ tàn phai theo năm tháng, chỉ có những việc bạn phục vụ cộng đồng là còn mãi với thời gian. Bởi vậy mà ông cha ta đã có câu:

“Trăm năm bia đá cũng mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn con trơ trơ”

là cũng vì lẽ đó. Nếu bạn làm được những việc tốt, phục vụ cộng đồng xã hội chắc chắn tiếng thơm sẽ lưu danh muôn thuở.

Albert Einstein, cha đẻ của ngành vật lí hiện đại, với thuyết tương đối của mình đã tạo ra một cuộc cách mạng lớn trong ngành vật lí hiện đại, là kim chỉ nam của lĩnh vực khám phá vũ trụ. Thomas Alva Edison với hơn một nghìn phát minh, trở thành nhà khoa học vĩ đại nhất của lịch sử loài người,… Và rất nhiều nhà khoa học khác, có những đóng góp to lớn, vĩ đại cho sự phát triển của xã hội hiện đại. Còn ở đất nước ta không thể không nhắc đến chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người đã đem lại ánh sáng của tự do, hạnh phúc cho dân tộc, giải phóng dân tộc ta khỏi khiếp lầm than, nô lệ. Những con người vĩ đại này, hàng ngàn, thậm chí hàng vạn năm sẽ mãi được mọi người nhớ đến và biết ơn những gì họ đã đóng góp cho nhân loại. Như vậy, ta có thể thấy rằng, giá trị đích thực của một con người là nằm ở những gì anh ta đã cống hiến, phục vụ cho cộng đồng, xã hội.

Mỗi cá nhân là một thực thể riêng biệt, độc đáo, mỗi người có giá trị riêng. Có những người ngay từ khi sinh ra đã có những ưu điểm nổi trội, nhưng lại có những người cần rèn luyện, phấn đấu để tạo ra giá trị đích thực của mình. Dù là giá trị sẵn có hay cố gắng xây dựng thì mỗi chúng ta hàng ngày hàng giờ vẫn phải không ngừng nỗ lực, cố gắng, rèn rũa bản thân để khẳng định được giá trị của chính mình.

Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, cách để các bạn tạo ra giá trị bản thân không gì khác chính là học tập, tu dưỡng đạo đức. Hãy là con ngoan, trò giỏi, nhiệt tình giúp đỡ bạn bè cùng tiến bộ, hăng hái tham gia các hoạt động phong trào để trau dồi kĩ năng cho chính mình. Rèn luyện bản thân ở thời điểm hiện tại chính là cách để bạn khẳng định giá trị của mình ở tương lai.

Hành trình để khẳng định giá trị của chính mình không hề là hành trình đơn giản. Mà nó là một hành trình đầy khó khăn, gian khổ, hành trình của khẳng định tri thức và rèn luyện nhân cách. Không có quả ngọt nào được hưởng thụ mà không phải trải qua đắng cay, thất bại, và hành trình đi đến giá trị của mình cũng vậy. Bản thân mỗi người cần nỗ lực, cố gắng hết mình để tìm thấy giá trị đích thực của bản thân.
Thêm
975
0
0
Viết trả lời...
5380


Mọi người cho em xin nhận xét với ạ!!!


Nguyễn Minh Châu từng nói: Nhà văn là người nâng Nguyễn đã giấc mơ cho kẻ cùng đường tuyệt lộ, bênh vực cho những con người không có đi để bệnh vực Cùng nói về sứ mệnh của nhà văn trong việc nâng đỡ con người William Faulker cũng phát biểu tương tự: “Tiếng nói của nhà văn không cần chỉ là bia kỉ niệm ghi dấu con người, tiếng nói đó có thể là một trong những vật chống đỡ, những cột trụ giúp cho con người chịu đựng và chiến thắng nữa.”

Tác phẩm văn học không phải chỉ là sự sao chép y nguyên đời sống hiện thực vào trong trang văn mà còn phải chứa đựng tư tưởng, tình cảm của tác giả. Tiếng nói của nhà văn chính là những tư tưởng, quan niệm ấy, những tâm tư, trăn trở của người nghệ sĩ thông qua tác phẩm để gửi gắm tới độc giả. Bia kỷ niệm ghi dấu con người là sự phản ánh con người. và cuộc sống xung quanh con người một cách khách quan đạt đến độ phổ quát và sắc nét. Nhưng tiếng nói của nhà văn đâu chỉ làm nhiệm vụ duy nhất giống như một tấm bia lưu giữ quá khứ mà nó còn là những cột trụ, những vật chống đã mang sức mạnh lớn lao. Sức mạnh ấy sẽ giúp con người đối diện, vượt qua và chiến thắng nghịch cảnh hãy thậm chí là chiến thắng chính bản thân mình. Bằng cách nói sử dụng những hình ảnh biểu tượng William Faulker đã đúc rút ra một quan niệm sâu sắc về sứ mệnh của nhà văn trong việc sáng tạo sản phẩm tinh thần mà sản phẩm ấy không chỉ để phản ánh cuộc sống hay lưu giữ quá khứ mà phải tạo ra sức mạnh, nâng đỡ con người trong hiện tại, kiến tạo những giá trị vững bền trong tương lai. Đó cũng là một trong những vấn đề lí luận văn học về đặc trưng, vai trò của văn chương trong việc khơi dậy sức mạnh, cứu giúp con người.

Nhận định của William Faulker quả thực đúng đắn khi cho rằng tiếng nói của nhà văn không cần chỉ là bia kỷ niệm. Thật vậy nếu những sáng tác văn học chỉ đơn thuần là tấm bia làm nhiệm vụ ghi dấu, phản ánh thì quả thực văn học không thể làm bật lên ưu thế của mình, không thể cạnh tranh vì có biết bao bộ môn khác cũng làm được điều tương tự. Nếu chỉ là phản ánh đời sống chắc chắn điện ảnh sẽ tái hiện cuốn hút hơn, báo chí sẽ đưa tin lan truyền rộng rãi hơn hay lịch sử sẽ ghi chép chi tiết, kỹ càng hơn về các sự kiện, con số hơn là những gì văn học phản ánh. Thêm nữa nếu văn chương cứ mãi là tấm bia kỷ niệm thì suy cho cùng nó cũng chỉ là kỉ niệm, là sống lại quá khứ, có thể không cần thiết cho tương lai và hiện tại. Hoặc nếu có chăng nữa thì lại mờ nhạt và yếu ớt.

Hãy nhìn lại nền văn học trong quá khứ, qua ca dao, qua truyện Kiều đúng vậy qua những trang văn ấy ra đúc rút được nhiều suy ngẫm, bài học cho hiện tại. Ta cảm thương cho thân phận người phụ nữ như tấm lụa đào, như cột đình chung.Chúng ta xót xa cho nàng Kiều của Nguyễn Du thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Sầu thay người chinh phụ ngày đêm ngóng chồng nơi chiến tuyến. Oán thay người cung nữ cô đơn không được vua đoái hoài. Nhưng có điều, ta hẳn vẫn có chút xa lạ và không hiểu hết được tâm trạng, xúc cảm của những người phụ nữ ấy vì hoàn cảnh của họ không giống với hoàn cảnh của ta và những con người ấy đã cách xa ta hàng thế kỷ. Ta hẳn sẽ thấy đồng cảm hơn, quen thuộc hơn với thân phận người phụ nữ với những sai lầm, đổ vỡ tình yêu trong “Hậu thiên đường” của Nguyễn Thị Thu Huệ hay người phụ nữ chịu áp lực nặng nề của danh tiếng gia đình, xã hội, lịch sử qua những truyện “Bóng đè", "Lưng rồng" của Đỗ Hoàng Diệu. Bởi cùng viết về những vấn đề xoay quanh phụ nữ nhưng các tác phẩm đương đại ấy đã gọi ra bi kịch gần nhất với chúng ta hãy thậm chí của chính chúng ta ngày nay. Độc giả sẽ thấy một phần bản thân mình qua trang viết, thấy gần gũi đồng cảm và đương nhiên tiếng nói của những nhà văn cùng thời bao giờ cũng mạnh mẽ hơn rất nhiều.

Văn chương không cần chỉ là tấm bia hoài niệm quá khứ mà cần trở thành cột trụ vững chắc và trường tồn. Bởi lẽ cuộc sống không phải lúc nào cũng toàn màu hồng mà đầy biến cố, trắc trở. Thời điểm ấy chính là khi con người cần văn chương đồng hành để có sức mạnh vượt qua nghịch cảnh. Có thể cảnh ngộ của ta không giống cảnh ngộ của những nhân với văn vật học nhưng qua mỗi câu chuyện, ít nhiều ta đều có được những bài học, những chiêm nghiệm quý báu cho bản thân. Ta có thể không say xỉn, lưu mảnh như Chí Phèo. Không xấu xí, bị hắt hủi như Thị Nở. Cuộc sống của ta không nghèo khổ, tẻ nhạt như chị em Liên. Nhưng khi dõi theo những cảnh đời, số phận ấy ta sẽ học được ở tên lưu manh khao khát sống lương thiện, học được ở người đàn bà xấu xí lòng thương người và sự chân thành, học được ở chị em Liên và những người nghèo khổ nơi phố huyện sự lạc quan, biết hướng về ánh sáng giữa cuộc sống tăm tối, nghèo nàn. Đó chính là chức năng văn học, nó là một cột trụ không những vững chắc mà tỏa sáng hướng con người tới những phẩm chất tốt đẹp, trao niềm tin, hy vọng, động lực, sức mạnh, ý chí để con người tự vượt qua nghịch cảnh và vượt qua chính mình.

Sở dĩ văn học làm được như vậy bởi văn chương đã hiểu được và chia sẻ những bi kịch của con người văn học đã cất lên tiếng nói thấu cảm, đồng điệu, thương xót, ngợi ca, căm phẫn qua việc xây dựng những hình tượng điển hình những hoàn cảnh điển hình, những nhân vật bi kịch, những cảnh đời éo le. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, văn chương đã nêu ra biết bao số phận con người đáng buồn và đáng thương như thế. Nguyễn Du cho ta biết cái gọi là mệnh bạc của phận má hồng qua nàng Kiều, Tiểu Thanh, người thiếu nữ đánh đàn đất Long thành. Victo Hugo kể cho ta về Giăng-van-giăng, chị Phăng Tin, cụ Mapơp, chú bé Ga-vơ-rốt – những con người khốn khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Nguyên Hồng dành tình thương cho những đứa trẻ như chú bé Hồng, cho những người phụ nữ như Tám Bính và cả những tên lưu manh như Năm Sài Gòn, những con người khốn cùng ở dưới đáy xã hội. Hay như Mạc Ngôn thì luôn trăn trở về những thay đổi của chế độ, sự thối nát của chính quyền gây bao bi kịch cho con người trong “Báu vải của đời”, “Cây tỏi nổi giận”. Và tất nhiên văn học không bao giờ phản ánh những bi kịch ấy khách quan, dửng dưng mà luôn đi cùng thái độ, tình cảm của tác giả. Bởi lẽ thường một tác phẩm văn học chân chính phải là tiếng nói cảm thông, nuôi dưỡng tâm hồn, gieo vào con người niềm tin, tạo cho con người bản lĩnh, sức mạnh, giúp họ chịu đựng nghịch cảnh, chiến thắng chính mình.

Thực vậy, một tác phẩm văn học nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng phải vừa là một tấm bia kỷ niệm vừa làm vai trò của một cột trụ chống đỡ. “Bến không chồng” của Dương Hướng có thể được xem là một tác phẩm hội tụ đủ tiêu chí như vậy. Điều kể đến trước tiên là tác phẩm đã phản ánh đầy đủ và sâu sắc hiện thực nước ta trong một thời kỳ tương đối nhiều thay đổi. Nơi mà ở những ngôi làng chỉ có đàn bà, vắng bóng đàn ông. Nơi mà những người phụ nữ thủ tiết ngày đêm mòn mỏi chờ chồng chinh chiến trở về trong vô vọng, Đó là một hiện thực phổ quát, không chỉ diễn ra ở một thôn, một vùng mà ở khắp đất nước Việt Nam “khắp bốn phía, hòn vọng phu đứng nhan nhản đợi chồng”. Dương Hướng cũng không đơn thuần nêu ra một thực trạng đáng buồn, một hệ lụy của chiến tranh mà cài cắm trong đó nhiều vấn đề khác về tâm linh về tập quán và ý thức tộc họ. Một thời con người ta sống nhưng luôn bị ràng buộc bởi những định kiến và quy phạm lạc hậu. Mâu thuẫn giữa hai dòng họ Nguyễn - Vũ cùng lời thề độc nhà họ Nguyễn đã gây bao bi kịch cho con cháu khiến Hạnh phải thốt lên rằng " Lời nguyền của cả họ nhà anh vẫn còn đó, nó ngấm sâu vào máu thịt, ngàn đời không bao giờ rửa sạch." Lời nguyền ấy đã khiến bố Nghĩa chết trong đau khổ, cô đơn, khiến tình yêu của chú vạn và bà Nhân bị cản trở và khiến cả Nghĩa và Hạnh - hai người trẻ dù đã vượt qua lời nguyền để đến với nhau nhưng vì không có con mà lời nguyền ấy một lần nữa bùng lên khiến hạnh phúc của họ tan vỡ. Đó chính là hiện thực, là dấu tích được khắc lên tấm bia kỷ niệm, đánh dấu lại một thời kỳ khi đất nước đang thay da đổi thịt, bước vào giai đoạn mới với nhiều vấn đề mới nảy sinh.

Nhưng yếu tố tiên quyết làm lên sự thành công của Bến không chồng không chỉ bởi cái hiện thực rộng lớn, phổ quát nó phản ánh mà còn do tác phẩm đã thấu hiểu được, đào sâu được vào bi kịch và số phận của từng cá nhân. Bi kịch của mỗi nhân vật đều được tác giả chỉ ra và soi chiếu một cách toàn diện cả về phía những người phụ nữ không chồng lẫn những người lính trở về từ chiến tranh. Câu chuyện đáng buồn phải kể đến đầu tiên là chuyện của Nghĩa và Hạnh. Đôi vợ chồng đã vượt qua mối thù gia tộc để yêu nhau nhưng chiến tranh lại ngăn cách họ lần nữa và thậm chí còn phá hủy hạnh phúc của hai người. Nghĩa trở về từ chiến trường mang theo di chứng của chiến tranh khiến anh không thể có con. Hạnh phúc của hai người rạn nứt và rạn nứt thêm lần nữa khi Nghĩa lấy Thuỷ làm vợ bé để sinh con cho mình. Nhưng Thủy cũng không thể có con, chiến tranh đã khiến cả ba cùng đau khổ và khiến Nghĩa trượt dài trong mặc cảm tội lỗi với cả hai người đàn bà. Về phần Hạnh, cô cũng có bi kịch của riêng mình. Dương Hướng quả thực tài năng và tinh tế khi bằng ngòi bút của mình đã thể hiện được tầng sâu nỗi cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng khi đương độ tuổi xuân căng tràn nhựa sống. Hạnh đã ngâm mình dưới bến không chồng để mặc cho thân xác cuồng loạn trong nỗi thèm khát nhục dục: “Cơ thể lâu ngày khô héo bỗng rạo rực, ngập tràn hưng phấn. Hạnh vùng vẫy quẫy đạp trong ham muốn làm tình với nước.” Xa chồng cô đơn là thế nhưng khi Nghĩa trở về từ chiến tranh, những tưởng được hạnh phúc, Hạnh vẫn phải chịu sự cô đơn thậm chí tủi nhục gấp ngàn lần. Trường hợp của Hạnh và Nghĩa không phải duy nhất. Có nhiều cặp đôi khác cũng rơi vào cảnh ngộ tương tự do di chứng chiến tranh để lại. Ví như Thành anh cũng phải chịu bi kịch mất người yêu, sống suốt phần đời còn lại với dấu vết của “bom cháy toàn thân, mặt sần sùi, rộp lên đỏ lừ” một hình hài xấu xí và đáng sợ đến nỗi người con gái anh yêu phải thốt lên rằng "anh hoàn toàn xa lạ tới mức đáng sợ, gương mặt anh ấy ám ảnh em cả trong giấc mơ.

“Bến không chồng” đã đào sâu vào bi kịch mất mát thể xác của con người do chiến tranh, kéo theo đó là những tan nát, đổ vỡ hạnh phúc không thể hàn gắn. Bên cạnh đó tác phẩm cũng khai thác được những góc khuất oái oăm của người lính khi đã là một cựu chiến sĩ đồng thời khám phá con người ở khía cạnh bản năng, đời thường qua mới quan hệ giữa Bà Nhân- Nguyễn Vạn và Nguyễn Vạn - Hạnh. Ông Vạn là cựu chiến sĩ Điện Biên về làng, ông luôn cố giữ hình ảnh một người lính liêm khiết, mực thước trước mặt mọi người. Chính điều này biến ông trở thành nạn nhân cũng là thủ phạm gây ra bi kịch cho đời mình. Sống mãi với các bóng quá khứ, giữ gìn hình tượng “‘thánh nhân” Nguyễn Vạn đã chối bỏ con người thật của mình, chối bỏ tình yêu với bà Nhân - vợ một người đồng đội đã hi sinh, Một mặt vì mang danh chiến sĩ với tất cả những đẹp đẽ, chuẩn mực mà người đời gán cho mặtkhác vì định kiến, vì đàm tiếu của xã hội. Nhưng ông Vạn đã sai lầm, ông không phải thánh nhân càng không phải con người hoàn hảo không tì vết. Trở về với cuộc sống đời thường, người lính cũng có những nhu cầu đời thường và khao khát hạnh phúc cá nhân. Nguyễn Vạn cũng có phần bản năng, những ham muốn nhục dục tầm thường. Đỉnh điểm khi bản năng chiến thắng lý trí, ông đã hành động trong vô thức để gây ra bi kịch với Hạnh, việc mà ông ân hận suốt đời: “Da thịt đàn bà, nần nẫn trong vòng tay và hơi thở đầy dục vọng phả vào mặt Vạn. Sự ham muốn lần này còn mãnh liệt hơn lần chạm vào ngực mụ Hơn. Vạn buông thả cho thân xác tự do gây tội lỗi, tự do rên xiết trên thân thể rừng rực của người đàn bà. Cuối cùng khi Hạnh dẫn đứa con của mình và Nguyễn Vạn về, ông đã đau khổ, tội lỗi và hổ thẹn mà treo cổ tự vẫn.

Không chỉ Nguyễn Vạn phải gò mình sống giữa định kiến, giáo điều mà bà Nhân cũng chịu cảnh tương tự. Chồng là chiến sĩ đã hi sinh, bà phải thủ tiến, giữ hình tượng một quả phụ đoan chính, luôn từ chối thừa nhận tình cảm với ông Vạn. Bà đã không đủ bản lĩnh vượt qua định kiến để rồi rơi vào bi kịch, đau khổ khi chứng kiến con gái mình có con với người mình thương. Về phần Hạnh , cô can đảm hơn mẹ, dám liều mình vì hạnh phúc bản thân. Cô đạp lên mối thù giữa hai dòng họ để tiến tới tình yêu với Nghĩa. Cộ ly hôn khi chịu đủ đau thương, dèm pha vì bị nghi không thể sinh con cho chồng. Cuối cùng Hạnh bỏ mặc lời đàm tiếu của mọi người, dẫn đứa con gái nhỏ về gặp ông Vạn để nhận cha với mưu cầu một cuộc sống mới, một hạnh phúc mới, một gia đình. mới với đủ thành viên có bố, có mẹ, có con. Hạnh can đảm là thế, bản lĩnh là thế nhưng vẫn không chống lại được bi kịch nghiệt ngã của số phận khi Nguyễn Vạn tự tử. Cô đã mất cha vì chiến tranh, giờ con cô lại tiếp tục mất cha vì định kiến cay độc và Hạnh vẫn phải một mình nuôi con nhỏ dưới cặp mắt phán xét của người đời.

“Bến không chồng” đã soi rọi, len lỏi vào những nỗi đau, những bi kịch mất mát, bi kịch tình yêu mà nguyên cớ xuất phát từ di chấn chiến tranh và lối suy nghĩ hẹp hòi, bảo thủ đã tước đi quyền được hạnh phúc của con người. Tác phẩm là tiếng khóc than của những đàn bà mất chồng, là không khí u buồn, mòn mỏi nơi vắng bóng đàn ông, là tiếng cười chua chát khi đến một thằng ngốc còn được các thiếu nữ vây đón, tung hô chỉ vì những trái tim khao khát yêu đương ấy lại sinh ra ở nơi “bến không chồng”. Quả thực không khó hiểu khi cuốn tiểu thuyết này lại được đón nhận đến vậy. Bởi lẽ nó không chỉ làm tròn nhiệm vụ của một tấm bia ghi lại thời kì chiến tranh đau thương, mất mát, phản ánh hiện thực trần trụi khi lưỡi hái chiến tranh phạt ngang đất nước để lại biết bao góa phụ bao hòn vọng phu. Và hơn hết nó nói thay nỗi lòng của biết bao phụ nữ, cất tiếng khóc bi ai, cùng cảm thông, cùng sẻ chia nỗi đau với bao thân phận con người, là cột trụ nâng đỡ tâm hồn, con tim yếu đuối.

Thực vậy, tiếng nói nhà văn không cần chỉ là tấm bia mà còn là vật chống đỡ giúp con người chịu đựng và chiến thắng. Muốn như vậy tác phẩm văn học phải không ngừng tỉa tót mình trau chuốt ngôn từ, nội dung để làm tốt chức năng văn học. Nhà văn cũng cần đủ tài năng, tâm huyết để chạm đến được những vấn đề muôn thuở, đánh thức và kết nối sợi dây đồng cảm trị âm của con người. Về phía độc giả, họ cần là những người có tư duy tiếp nhận đúng đắn, đánh giá đúng những giá trị, rút ra những tình cảm nhân văn, tối đẹp từ tác phẩm để có những sức mạnh, bản lĩnh vượt qua khó khăn.

Sự sống còn của tác phẩm phụ thuộc vào quyết định của độc giả nhưng trước đó nó còn phụ thuộc vào tiếng nói của nhà văn có đủ sức vang xa và truyền tải ý nghĩa tốt đẹp đến mọi người hay không. Một tiếng nói đồng cảm, an ủi chân thành đẹp đẽ hơn ngàn lần những mỹ từ hời hợt, sáo rỗng.
Thêm
5K
2
0
Viết trả lời...
Cái nết đánh chết cái đẹp, câu nói này khi nhắc tới, 90% chúng ta đều sẽ nghĩ tới nghĩa của nó để ca ngợi việc rèn giũa tính nết, đề cao vẻ đẹp tâm hồn hơn vẻ ngoài. Trong trường hợp này, câu tục ngữ có nghĩa tương tự với câu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

Phân tích kĩ lưỡng câu tục ngữ, ta thấy có 2 vế cái nết – cái đẹp được đưa ra làm bàn cân so sánh. Nếu so sánh thông thường thì giữa 2 đối tượng này sẽ cần từ ngữ so sánh, từ chỉ phương diện so sánh, nhưng ở đây lại hoàn toàn không có, mà chỉ có động từ “đánh chết”. A đánh chết B. Đánh, động từ này cũng chia ra làm nhiều cấp độ, trong đó đánh chết là cấp độ cao nhất, thể hiện sự thắng thế hoàn toàn của vế A (tức cái nết). Ngày trước, các cụ nhà ta (cha ông thế hệ trước) coi trọng cái nết một cách tuyệt đối, thể hiện quan điểm bằng một câu tục ngữ có ý khẳng định rõ ràng. Cái nết, cái đẹp, chứng tỏ cuộc chiến giữa hai đối tượng này đã có từ xa xưa.

4798

Ngày nay, khi mà cái đẹp có lợi thế lớn trong tất cả các ngành nghề, công việc. Hướng tới cái đẹp, đặc biệt là cái đẹp hình thể, cái đẹp bên ngoài, thì cụm từ khẳng định tuyệt đối “đánh chết” còn dùng hợp không? Tôi sẽ không kết bằng câu: ngày nay khi sắc đẹp bên ngoài ngày càng được coi trọng thì câu thành ngữ càng đúng, càng nên được vận dụng. Nói như thế thì quả thực có chút sách vở và không thực tiễn. Và, thử hỏi, câu tục ngữ này được vận dụng thực tế như thế nào, mấy ai còn dùng được nó. Bởi vì có hai đối tượng nhạy cảm nhắc tới ở đây : cái nết – cái đẹp, tại sao lại nói nhạy cảm? Bởi vì, trước một cá nhân nào đó gặp sự không may do hình thức bên ngoài đem lại, có thể nói là không đẹp, xấu, thì người ta mới nói câu tục ngữ này nhằm an ủi. Thử hỏi, ai mà thích nghe câu an ủi này, hóa ra là mình xấu nên người ta mới khen mình đẹp tâm hồn. Chứ thử mà muốn khen vẻ đẹp tâm hồn thì đã dùng : “Ôi chao, người đâu mà đẹp người đẹp nết”. Được nghe câu này mới mát lòng mát dạ. Xã hội ngày nay, khi mà vẻ ngoài được chú trọng: dễ kiếm việc hơn, làm lương cao hơn, ưu tiên nhận việc hơn… thậm chí còn có các dịch vụ làm đẹp, phẫu thuật thẩm mĩ, dạy cách make up rộng rãi, phổ biến. Chả thế mà người ta truyền tai nhau: Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết làm đẹp. Vậy thì, câu tục ngữ này không lẽ chỉ còn dùng trên sách vở, xuất hiện ở câu chữ, trong các bài văn mẫu để khen tâm hồn người phụ nữ mà không còn dùng trong hội thoại hàng ngày ư?

Lật ngược vấn đề, chúng ta không dùng nó để khen tâm hồn được nữa thì có thể dùng để “chê” tâm hồn, chê cái nết của ai đó được không? Giả dụ có một anh chàng L nọ rất đẹp trai, nhưng luôn có những hành động “thấp EQ”, sau đó anh ta trở thành ca sĩ, có rất nhiều antifan do việc nói năng vạ miệng, hành xử kém tinh tế với đồng nghiệp, giả dối... Có một bình luận đã hỏi tôi rằng: Anh L này cũng đẹp trai, xinh xắn, múa cũng đẹp nữa sao lắm anti vậy? Trong trường hợp này, tôi đã nói: vì cái nết đánh chết cái đẹp. Cái nết của anh L tệ tới mức mà vẻ đẹp bên ngoài có lộng lẫy cũng không kéo được sự yêu thích của người khác với anh ta. Tôi nghĩ, thời hiện nay, thành ngữ “cái nết đánh chết cái đẹp” này, dùng để khen thì người được khen không vui, thiết nghĩ dùng nó để chê thì hẳn là hợp lí hơn.

Kết bài, sau một hồi bàn về cách dùng thành ngữ, tôi thấy vẫn nên nói năng “sách vở”, “văn mẫu” để nói về chuyện cái nết. Đúng vậy, khi mà tất cả chúng ta đều sùng bái, theo đuổi vẻ đẹp bên ngoài, và một lúc nào đó, ai ai cũng đều đạt tới độ đẹp đồng đều, thì cái nết sẽ trở thành thước đo để đánh giá hơn kém một người. Anh X, anh Y đều đẹp, vậy anh nào tốt tính hơn thì sẽ đáng mến hơn. Nghe đúng nhưng mà buồn. Lẽ ra cái nết phải trở thành một thứ đồng đều, sau đó vẻ ngoài mới thành tiêu chí phụ thì thật đáng buồn thay mọi thứ đã đảo ngược lại. Cái nết hay tâm hồn con người mới là thứ căn cốt giữ cho xã hội phát triển theo hướng tốt đẹp. Bộ mặt là côn cụ, là cái kiếm cơm còn tâm hồn mới giúp chúng ta hòa hợp chung sống cùng phát triển bền vững, đi xa trong tương lai. Câu tục ngữ các cụ dạy không hề sai, nhưng ứng dụng như thế nào thì còn tùy trường hợp mà hiểu nghĩa. Tiếng Việt chúng ta phong phú mà giàu đẹp, tưởng khen mà chê, tưởng chê mà khen, vẫn cứ cần một "tâm hồn đẹp" để "lựa lời mà nói" đúng không các bạn.

Các bạn nghĩ sao về vấn đề “cái đẹp – cái nết” ở thời đại đang sống? Hãy cùng bình luận nhé.

- Phong Cầm -​
Thêm
2K
0
0
Viết trả lời...
Một số mở bài cho thi phẩm : Sóng - Xuân Quỳnh

1. “Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chẳng được yêu”

Tình yêu luôn là những cung bậc cảm xúc rất khó định hình, khó diễn tả. Tình yêu cho người ta cảm nhận rõ nhất những hỉ, nộ, ái, ố ở đời. Yêu là vui vẻ, đắm say, yêu là cả buồn đau, tủi hờn. Tiếng lòng tình yêu đã được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh khắc họa rõ nét qua bài thơ Sóng.

2."Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng cũng yêu anh cả khi chết đi rồi”

Đó là lời thơ Xuân Quỳnh viết về niềm hạnh phúc đắm say của một người phụ nữ khi được yêu và hết lòng với người mình yêu trong “Tự hát”. Trong vốn thơ Xuân Quỳnh, ta bắt gặp rất nhiều bài thơ viết về những trăn trở, suy tư thổn thức của nữ sĩ về tình yêu. Bên cạnh những dòng thơ dạt dào xúc cảm trong “Tự hát”, “Sóng” cũng được xem là một bài thơ ấn tượng nhà thơ dùng hình tượng sóng để gửi gắm quan niệm về tình yêu. Hai khổ đầu bài thơ đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc và nghĩ suy.

3. Không biết từ bao giờ những con sóng ào ạt từ sông, từ biển đã tròn lăn chạm vào trái tim của người nghệ sĩ. Nếu Nguyễn Khuyến thổi vào gợn sóng biếc hơi thở của một mùa thu trong veo, Huy Cận vẽ sóng Tràng Giang bằng những dòng thơ hiu hắt của một kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc thì nữ sĩ Xuân Quỳnh đã khoác lên những con sóng bạc đầu tấm áo tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu bằng một hồn thơ đắm say, cháy bỏng. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, vẻ đẹp dịu dàng, chung thủy trong tình yêu của người con gái được Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ “Sóng” ngời sáng như một hòn ngọc báu của văn chương.

4. Đã có bao nhiêu người đã yêu, bao nhiêu người đang yêu và bao thơ tình yêu trên thế gian này! Vậy mà mỗi ngày lại mới. Tình yêu không có tuổi, thơ tình yêu lại càng không có tuổi bao giờ. Trên thế gian có biết bao nhà thơ tình yêu nổi tiếng: Rimbaud, Verlaine rồi Puskin, Byron… mỗi người một vẻ, một sắc thái. Xuân Quỳnh cũng góp một cung bậc riêng trong số đó. Với bài Sóng đã thể hiện được nhiều cung bậc tình yêu. Bài thơ của Xuân Quỳnh cất lên tình yêu nồng nàn của tuổi trẻ và khát vọng của con người đến với tình yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không còn dừng lại ở quá độ tình yêu tuổi đầu giản đơn, hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc gắn với cuộc sống chung.

C1BFF742-AF35-491A-87AE-10B9F54D4C0A.jpeg

Nguồn: sưu tầm​
Thêm
2K
2
1
Đọc tiêu đề tưởng là một lí luận về vai trò và những cách mở bài tràn đầy sức mạnh chứ? Hi vọng bạn chia sẻ kĩ hơn.

Mở bài tốt, một khởi đầu thành công cho một hành trình sáng tác - làm văn ^^
 
Viết trả lời...