Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Vào những năm hai mươi của thế kỉ XX, tên tuổi của Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sang trên thi đàn. Điệu tâm hồn mới mẻ, cái tôi lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn ông đã chinh phục thế hệ độc giả mới. Cùng Triều Anh tham khảo bài soạn văn Hầu trời, sách giao khoa Ngữ văn 11 để hiểu hơn về thơ Tản Đà.
C7BCFB86-77B3-4B2F-8232-60677FDA5EC8.jpeg
Ảnh: sưu tầm

I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Tản Đà (1889-1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê nằm bên cạnh núi Tản Viên, sông Đà thuộc tỉnh Hà Tây.
- Ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học mới bắt đầu, nên có người gọi ông là “con người của hai thế kỉ”.
- Điệu tâm hồn mạnh mẻ, “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái trong thơ văn ông đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỉ XX.
- Ông được xem là một gạch nối giữa hai thời đại của văn học trung đại và văn học Việt Nam hiện đại.
- Tác phẩm tiêu biểu: Khối tình con I, II; Giấc mộng con I, II; Thơ Tản Đà; Giấc mộng lớn…
2. Xuất xứ
Bài thơ được in trong tập “Còn chơi”, xuất bản lần đầu năm 1921.
3. Bố cục
- Đoạn 1 (Câu 1- 20): Lí do, hoàn cảnh được lên đọc thơ hầu Trời.
- Đoạn 2 (Câu 21 – 68):Kể về buổi đọc thơ cho Trời và chư tiên.
- Đoạn 3 (Câu 68 -98): Tâm sự của nhà thơ với Trời về hoàn cảnh khốn khó của mình.
- Đoạn 4 (Còn lại): Phút tiễn biệt Trời, về lại thực tại.
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. Cách vào đề của bài thơ (khổ thơ đầu)

- "Đêm qua chẳng biết có hay không" -> Chuyện kể về một giấc mơ -> Có vẻ như mộng mơ, bịa đặt.
- "Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
… Thật được lên tiên - sướng lạ lùng"
-> Khẳng định câu chuyện là thật hoàn toàn.
=>Khổ mở đầu gây được mối nghi vấn, gợi được trí tò mò của người đọc, làm câu chuyện hấp dẫn, độc đáo.
2. Cuộc đọc thơ đầy đắc ý cho Trời và các chư tiên nghe (các khổ thơ tiếp theo)
-Khẳng định tài năng văn chương thiên phú của mình.
- Không thấy ai đáng là kẻ tri âm với mình ngoài Trời và các chư tiên.
- Tự nhận mình là một trích tiên bị đày xuống hạ giới để thực hành thiên lương.
3. Lời trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn
- Văn chương là một nghề kiếm sống mới, có kẻ bán người mua, có thị trường tiêu thụ…
“Bẩm Trời cảnh con thực nghèo khó
… Văn chương hạ giới rẻ như bèo”

- Người nghệ sĩ kiếm sống bằng nghề văn rất chật vật, nghèo khó vì văn chương hạ giới rẻ như bèo
- Những yêu cầu rất cao về nghề văn.
+ Nghệ sĩ phải chuyên tâm với nghề, phải có vốn sống phong phú.
+ Sự đa dạng về loại, thể là một đòi hỏi của hoạt động sáng tác.
4. Nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do.
- Giọng điệu khá thoải mái, tự nhiên.
- Ngôn ngữ giản dị, sống động.
III. Ý NGHĨA VĂN BẢN
Qua bài Hầu trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân - một “cái tôi” ngông, phóng khoáng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của cuộc đời mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.
VI. LUYỆN TẬP
1. Bài tập 1/ trang 17 sgk

Bài Hầu trời có ý tưởng gì hoặc câu thơ nào làm cho anh chị thích thú nhất? Hãy viết một đoạn văn trình bày cảm xúc của mình.
Gợi ý:

- Các câu thơ hay trong bài gây ấn tượng:
“Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

- Đoạn thơ thể hiện ước nguyện, khát vọng của tác giả Tản Đà: khát vọng được thấu hiểu, cảm thông.
2. Bài tập 2/trang 17 sgk
Anh/ chị hiểu như thế nào là “ngông”? Cái “ngông” trong văn bản thường bộc lộ một thái độ sống như thế nào? Cái “ngông” của thi sĩ Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm nào và có thể giải thích ra sao?
Gợi ý:

- Cái “ngông” và cái “ngông” trong văn bản văn học:
+ “Ngông” để chỉ sự khác thường.
+ “Ngông” trong văn chương để chỉ một kiểu ứng xử xã hội, nghệ thuật khác thói quen thường có ở nhà văn.
+ Cái “ngông” bắt nguồn từ việc tác giả văn học ý thức được cái tôi, tài năng, nhân cách của bản thân: Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà...
- Cái “ngông” của Tản Đà trong bài thơ Hầu trời:
+ Tự cho mình văn hay tới mức Trời phải tán thưởng.
+ Tìm thấy sự đồng điệu, thấu hiểu từ Trời và Chư tiên.
+ Xem mình là một “trích tiên” bị đày vì tội ngông.


Thêm
Soạn văn Hầu trời - Tản Đà - đầy đủ, chi tiết
  • Like
Reactions: Vanhoctre
720
1
0
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, Tản Đà là thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ ca Việt Nam hiện đại, “người vắt mình qua hai thế kỉ”. Ông cũng là người đầu tiên đã có can đảm làm thi sĩ một cách đường hoàng. Đặc biệt là ông dám giữ một bản ngã, dám có một cái tôi, mà như đánh giá của Xuân Diệu công lao lớn nhất của Tản Đà là đã cống hiến cho văn học một cái tôi cá nhân, cá thể. Cái Tôi cá nhân trong thơ Tản Đà được thể hiện qua nhiều cung bậc khác nhau, đó là cái tôi đa sầu, đa cảm, cái tôi đa tình và cái tôi ngông. Tản Đà không phải là một trường hợp “ngông” cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…đều ngông. Nhưng có lẽ chỉ Tản Đà mới có cái kiểu ngông gánh thơ lên bán chợ trời.
Cái ngông của Tản Đà trong Hầu trời.png

(Cái ngông của Tản Đà trong Hầu trời)
“Ngông” là tỏ ra bất cần đến sự khen chê của người đời, có người nói, đó là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên sự tài hoa uyên bác. Người Trung Hoa hiểu ngông là cuồng, là loạn. Xét đến cùng, ngông thể hiện một cá tính đặc biệt. Khái niệm “ngông” trong văn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá nhân ấy cũng chỉ được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể những quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ trung đại) về vũ trụ, nhân sinh và nghệ thuật. Đối với Tản Đà, cái ngông ấy không nên hiểu đơn thuần chỉ là cái ngông của những nhà nho tài tử, của đám văn nhân, mà phải hiểu theo góc độ khác, từ nhân sinh quan. Trước hết, khi thể hiện mình ngông, nghĩa là khi con người sống thật với mình nhất, thể hiện cá tính không trộn lẫn với người khác, dù người khác ấy có sự chi phối mạnh mẽ đến bản thân mình. Xã hội phong kiến là xã hội không cho cá tính phát triển, người có tài trong xã hội phong kiến là người chỉ được múa một tay (Phan Ngọc), con người trong xã hội phong kiến phải tuân theo các phép tắc của cộng đồng, phải hòa mình vào số đông của tập thể. Sự phát triển cá tính trong xã hội phong kiến là một mầm họa. Vì thế, mọi phép tắc ứng xử trong xã hội phong kiến, suy cho cùng là để bóp chết cá tính của con người. Trong xã hội ngột ngạt như thế mà có những tính cách trỗi dậy thì rõ ràng không thể xem đó là sự ương ngạnh. Mặt khác trong những năm 20 của thế kỉ XX, trước luồng gió của chủ nghĩa cá nhân tư sản và trào lưu văn học lãng mạn trên thế giới, xã hội nảy sinh nhu cầu đòi giải phóng bản ngã, đòi tự do và đời sống tình cảm riêng tư chống lại sự kiềm hãm, đè nén của xã hội phong kiến. Cái “ngông” của Tản Đà thực chất là sự phản ứng của xã hội đương thời ở góc độ nhân sinh quan. Sự phản ứng đó là hết sức táo bạo, thể hiện bản lĩnh của một nhân cách sống.

Tản Đà được ví là nhà thơ của say, ngông mộng. Tản Đà đã thể hiện cái ngông trong cuộc sống và trong cả thơ văn. Ngay trong lời tự bạch, Tản Đà đã hiện lên với hình ảnh của một khách chơi ngông nghênh nhất:

Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có, cửa nhà thời không.

Tản Đà coi bốn phương là nhà, mang túi thơ đi khắp trong thiên hạ, mang cái ngông nghênh của mình thách thức với cả sông núi. Và ông cho rằng đó là định mệnh sắp đặt ông như vậy, dù ông dù mọi người có chấp nhận hay không. Có thể nói trong sáng tác của mình, Tản Đà đã thực sự là người kế tục của khuynh hướng văn học đã kịp thời trở thành truyền thống lịch sử. Không có cái ngông thị tài của Cao Bá Quát, không có cái ngỗ ngược của Nguyễn Công Trứ, không có một chàng Kim Trọng Rắp mong theo ấn từ quan để tìm kiếm lại người đẹp thì khó mà có cái tuyên ngôn ngạo nghễ của Tản Đà:

Thơ lưng chất nặng tay buồn rỗi/ Bán áo mà mua giấy viết ngông.

Hỏng thi, nếm trải cảnh bi kịch xưa nay không ít. Tú Xương đã viết về điều đó thật thấm thía. Nhưng Tản Đà thì lại khác, hỏng khoa thi Đinh Dậu, khoa Nhâm Tí, ông đã đe dọa và hùng hổ đến tức cười:

Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông
.

Ai đó đã từng nói: thi sĩ cũng là tửu đồ, tìm đến rượu, cái ngông ấy như được kích thích, ngông lại càng ngông. Bao nhà thơ nói rất hay về rượu, lập luận, lí sự cho việc say sưa. Tản Đà cũng thích rượu, vì cũng như các nhà thi bá thời xưa (Lí Bạch, Lưu Linh), rượu là nguồn cảm hứng của ông. Rượu là phương tiện thần diệu mê ly để ông ngông với đời.

Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt đất đỏ gay ai cười
?

Tản Đà đã say, đã sống trọn vẹn trong cái say của mình, cái say ngạo mạn và thách thức. Tản Đà không say rượu. Rượu chẳng qua chỉ là cái cớ. Một cái cớ để giúp cho Tản Đà được ngất ngưởng vùng vẫy trong cuộc chơi:

Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say, thơ lại khơi nguồn
Nên thơ, rượu cũng thêm ngon giọng tình

Rượu thơ mình lại với mình
Khi say quên cả cái hình phù du

Trăm năm thơ túi rượu vò.

Tóm lại, trong thơ Tản Đà, ngông là một đặc điểm nổi bật thể hiện cách sống khinh bạc, làm trái ngược đời để tỏ rằng mình tỉnh trong khi kẻ khác say, để chứng minh rằng mình thanh bạch trong khi người khác ô trọc, dơ bẩn. Sau Tú Xương, có lẽ Tản Đà là một nhà thơ ngông hơn cả trên thi đàn văn giao thời hai thế kỉ XIX -XX.

Có thể nói cái ngông cũng như phong cách thơ Tản Đà được thể hiện tiêu biểu nhất qua bài thơ Hầu trời được xếp trong tập Còn chơi (1921). Xuân Diệu đánh giá Hầu Trời là một trong số những bài đứng lại được với thời gian, ngạo cùng năm tháng. Bài thơ là một đóng góp lớn lao của Tản Đà trong việc cách tân về cả nội dung và hình thức thơ, tiêu biểu nhất là sự thể hiện cái tôi ngông. Có thể nói Hầu trời không phải là một đề tài mới của riêng Tản Đà, đề tài “lên tiên” đã từng được thể hiện trong nhiều sáng tác dân gian và văn học viết thời trung đại. Nhưng Tản Đà lên tiên trong một bối cảnh, mục đích, diễn biến hoàn toàn khác so với trước đó. Tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời “mất ngủ”. Rõ ràng, cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với những phút cao hứng của nhà thơ. Chuyện bịa mười mươi mà xem chừng rất tự nhiên. Bài thơ có rất nhiều chi tiết cụ thể được xếp đặt lô-gich: nằm một mình – buồn- đun nước uống -ngâm văn, tiên xuống – nêu lí do -đưa lên trời, được đón tiếp trọng vọng, được mời mọc đọc thơ -chư tiên xúm vào khen ngợi, tán thưởng -Trời truyền hỏi danh tính -kể lể tình cảnh, bày tỏ nỗi lòng -Trời đả thông tư tưởng, lạy tạ ra về… Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà vẫn tự nhiên, hóm hỉnh. Ở đây, tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn cốt trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, dường như tác giả muốn người đọc xác nhận đây là một câu chuyện thật. Nó đưa người đọc đến với những cảnh trí thần tiên, lộng lẫy, không còn sự ràng buộc, không còn sự giới hạn. Nhà thơ bịa ra chuyện “hầu trời”, hình dung và đặt các đấng siêu nhiên ngang hàng với mình đã hàm chứa một sự khiêu khích đối với cái tôn ti, đẳng cấp đang thống trị xã hội lúc bấy giờ. Chính vì vậy, câu chuyện được lên tiên giới vừa lãng mạn nhưng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi nhân. Việc hư cấu nên cả một câu chuyện như muốn đưa thơ trữ tình thoát dần nhiệm vụ tỏ chí nghiêm trang, khắc khổ để tiện giải bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân, đồng thời là một cách để nhà thơ thể hiện độc đáo nhất cái ngông của mình.
Sau khi được hai nàng tiên dẫn lên trời, Tản Đà đã đọc thơ cho chư tiên nghe:

Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
Trời sai pha nước để nhấp giọng
Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy trời con xin đọc.

Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần ngông nghênh tự đắc:

Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn lý thuyết lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Tự khen tài mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông rất đáng yêu trong thơ Tản Đà. Rõ ràng, thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Nhà thơ đã thấy được dài, giàu, lắm lốiphẩm hạnh đặc thù của văn thời mình, bên cạnh những phẩm hạnh truyền thống như nhời văn chuốt đẹp, khí văn hùng mạnh, êm, tinh…Tình huống hầu Trời quả đã cho nhà thơ một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng của bản thân. Ông cũng rất ngông khi tìm đến trời để khẳng định tài năng, ngông khi đem văn chương lên “tiếp thị” chợ trời. Cái ngông ấy gián tiếp nói lên rằng ở hạ giới không có ai là tri âm, tri kỉ với thơ văn ông. Lời trời khen hẳn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là một lối tự khẳng định rất ngông đồng thời bộc lộ quan niệm về văn chương của Tản Đà. Có thể nói Tản Đà là nhà thơ đầu tiên đi rao bán văn chương.

Khi đọc văn chương cho trời nghe, Trời hỏi danh tính, Tản Đà đã hiên ngang thể hiện cái tôi của mình qua việc tự xưng:
Dạ, bẩm lạy Trời, con xin thưa:

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt.


Tác giả đã tâu trình rõ ràng về họ tên, xuất xứ của mình cho Trời nghe. Việc xưng danh của Tản Đà diễn ra khá tự nhiên, phù hợp hoàn toàn với mạch truyện. Việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để thể hiện cái tôi cá nhân của mình, và đó cũng chính là cái ngông của Tản Đà. Thơ văn trước kia không ít người xưng tên, Nguyễn Du đã từng ngậm ngùi: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Độc Tiểu Thanh kí), Hồ Xuân Hương trong Mời trầu cũng tự khẳng định: Này của Xuân Hương mới quệt rồi, Nguyễn Công Trứ Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng (Bài ca ngất ngưởng)…Nhưng cách xưng danh tính của Tản Đà cũng khác thể hiện rõ dấu ấn trong cung cách của ông, đó là cách xưng hô tên trước, họ sau giống phương Tây, tách tên, họ theo một kiểu cung khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tin… Vì vậy đã ngông lại càng ngông. Nhưng đó là cái ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn sau vẻ thành khẩn trước “đấng chí tôn”, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên – tên thật chứ không phải tự hay hiệu -mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là của Á Châu -của xứ sở có một nền văn minh tinh thần cao quý, đáng tự hào. Cụ thể thêm một mức nữa, ông kiêu hãnh khai mình là đứa con đích thực của sông Đà núi Tản nước Nam Việt. Khi trong thời hiện đại, hai chữ “thiên hạ” đã trở thành một khái niệm mở (điều này Tản Đà ý thức được rất rõ), đặc biệt khi đất nước đã mất chủ quyền, kiểu nói như vậy của nhà thơ rõ ràng chứa đựng cả một cái thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm “non nước” đáng quý. Cũng qua câu thơ, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà – một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.

Tản Đà xưng rõ danh tính, hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình qua việc mượn lời của “Thiên tào” tra sổ: Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội ngông. Rõ ràng việc tự nhận mình là trích tiên (ngầm so sánh mình với Lý Bạch) là một cái tôi rất mực ngông nghênh của Tản Đà. Tự nhận mình là tiên nghĩa là gián tiếp khẳng định mình cao hơn mọi người.Và ông tiên ấy vì ngông mới bị đày xuống hạ giới. Văn thơ trước đó không phải không có người ngông, nhưng tự nhận mình là ngông như Tản Đà thì thật là hiếm. Sau khi đối thoại với Trời, ngông hơn, nhà thơ còn tự nhận trách nhiệm và sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ nói chung và của bản thân mình nói riêng là lo việc thiên lương cho nhân loại dưới cõi trần tục:

Trời rằng không phải là Trời đày
Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay.


Việc thiên lương là một luận thuyết về cải cách xã hội của Tản Đà. Ông quan niệm thiên lương là nhân tố cơ bản thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, là sự thống nhất toàn vẹn của ba “chất” trong con người: lương tri (tri giác trời cho), lương tâm (tâm tính trời cho) và lương năng (tài năng trời cho). Theo ông, nếu chú ý bồi đắp, thực hành thiên lương thì có thể cải tạo được tình trạng luân thường đảo ngược, phong hóa suy đồi và sự trì trệ, lạc hậu của xã hội Việt Nam thời đó. Như vậy, Tản Đà muốn bất mãn trước cuộc đời nhưng ông vẫn luôn tha thiết vì đời, quan điểm viết văn là để phục vụ việc thiên lương cho nhân loại. Viết văn hay làm cho đời đẹp là nhiệm vụ mà trời đã trao cho nghệ sĩ.

Bài thơ Hầu trời được Tản Đà viết vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Đây là thời kì mà thơ Việt Nam đang tiến vào quỹ đạo hiện đại, hình thức thơ cũng có nhiều biến đổi: bài thơ dài, mỗi bài nhiều khổ, ngôn ngữ từ “điệu ngâm” chuyển sang “điệu nói”. Bài thơ Hầu trời của Tản Đà là một cách tân đáng kể về thể thơ. Tản Đà không dùng các thể thơ cũ như thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, lục bát, song thất lục bát …như các bài thơ trước đó mà dùng thể thơ thất ngôn trường thiên.Với ưu thế không hạn định về số câu, niêm, luật, vần, đối, ngắt nhịp hết sức tự do, thể thơ này đã giúp Tản Đà đi đến tận cùng trong việc thể hiện những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn, chuyển tải thành công câu chuyện hư cấu tưởng tưởng và kể chuyện một cách linh hoạt. Điều ấy góp phần không nhỏ trong việc thể hiện cái ngông của Tản Đà, tạo nên một sự hài hòa giữa nội dung và hình thức. Chỉ có trong một thể loại thơ tự do phóng khoáng thì cái tôi ngông ấy mới có đất thỏa sức thể hiện mình. Như vậy, ngay trong việc lựa chọn thể thơ phần nào đã thể hiện cá tính tác giả. Tản Đà được mệnh danh là “ảo thuật gia” về ngôn ngữ…thì với Hầu trời hoàn toàn ngược lại. Ngôn ngữ trong bài thơ Hầu trời là thứ ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày, ít có những ước lệ, cách điệu như trong thơ trung đại, đôi khi có phần suồng sã. Những câu thơ dường như cứ tự nhiên tuôn ra một cách hết sức thoải mái: Trời lại sai con việc nặng quá/ Biết làm có được mà dám theo. Có thể nói việc đưa ngôn ngữ đời thường dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca là sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định. Giọng điệu trong bài thơ Hầu trời khá linh hoạt: đó là giọng kể mang tính tự sự phối hợp với giọng trữ tình nhiều sắc điệu, khi hóm hỉnh hài hước, lúc thì sôi nổi phóng khoáng, khi lại ngậm ngùi, chua chát. Với giọng điệu tương đối tự do, linh hoạt, cách biểu hiện cảm xúc của tác giả trở nên phóng túng, tự do, không bị gò ép. Đây cũng chính là một cách tốt nhất để tác giả có thể thể hiện cái ngông và cá tính của mình.

Tản Đà đã một mình làm được “cơn gió lạ”. Nối dài một truyền thống sáng tạo, ông đã đưa lại cho Văn học Việt Nam thời cận đại hàng loạt những sáng tác mẫu mực. Đóng góp lớn nhất của ông là việc thể hiện con người cá nhân, khẳng định ý thức cá nhân một cách mạnh mẽ, táo bạo. Trong đó Hầu Trời là bài thơ đẹp đẽ nhất. Tuy lịch sử văn học đã vượt qua ông để tiếp tục cuộc vận hành bất tận với những tên tuổi mới, nhưng gạt Tản Đà ra khỏi sẽ thấy một khoảng trống vô cùng to lớn. Hầu trời là bài thơ không chỉ mới ở tình điệu cảm xúc, không chỉ thể hiện một ý thức cá nhân mới, một cái tôi rất gần với cái tôi thơ Mới sau này mà còn có những đổi mới đáng kể về mặt hình thức nghệ thuật. Và như ai đó đã từng nói Hầu Trời chưa phải là bài thơ hay nhất của Tản Đà nhưng là minh chứng rõ nhất cho “người của hai thế kỉ”.

V.T.Thanh Thư
(GV Văn – THPT Chuyên Lê Quý Đôn Bình Định)
Thêm
Cái ngông của Tản Đà
927
2
0

Tìm hiểu về một tác phẩm không thể không nhắc tới những nghệ thuật sử dụng trong bài thơ đó để thấy rõ tài năng của tác giả trong việc vận dụng thể thơ, biện pháp tu từ, ngôn ngữ để truyền tải cảm xúc, lí tưởng. Cùng xem bài viết Nghệ thuật trong bài Hầu trời - Tản Đà để khám phá sâu hơn về tác phẩm.​

Nghệ thuật trong bài Hầu trời.png

I. Đặc sắc nghệ thuật ở bài thơ Hầu Trời của Tản Đà

1. Hầu trời tuy vẫn dùng thể thơ thất ngôn cổ điển nhưng Tản Đà đã có ý mở rộng biên độ thành “trường thiên”. Khi in bài thơ lần đầu, nhà thơ ghi dưới tên bài là “Điệu thu thuỷ” và chú thích ở dưới: “Thu thuỷ” là nước mùa thu, mùa thu nước lũ chảy thật mạnh, gỗ, bương, củi, sậy cùng trôi, không có kĩ luật nào (Còn chơi). Đúng như lời giải thích về điệu thơ, toàn bộ bài thơ chảy trôi theo một mạch thơ vô cùng phóng túng, có cảm giác không hề bị câu thúc bởi vần điệu và niêm luật; ngôn ngữ và hình ảnh cứ thế tuôn trào một cách tự nhiên theo dòng cảm xúc. Chính nguồn cảm hứng mới mẻ của Tản Đà đã kéo theo sự biến đổi tự bên trong của thể thơ, làm điệu thơ mang một sức sống mới.

=> Thể thơ trường thiên tự do

2. Giọng kể dí dỏm, hài hước, phá vỡ sự trang nghiêm của thơ cổ điển; ngôn ngữ sống động, đem vào thơ một hơi thở cửa đời sống thông tục rất thú vị. Bài thơ hấp dẫn ngay từ những lời mở đầu: Đêm qua chẳng biết có hay không... - Thật được lên tiên - sướng lạ lùng. Sự dí dỏm nằm trong những câu thơ kiểu văn nói: Đương cơn đắc ý đọc dã thích - Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi; Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!;... trong những lời đối thoại nôm na mà hóm hỉnh: Nhờ Trời văn con còn bán được - Chửa biết con in ra mấy mươi?; Chư tiên ao ước tranh nhau dặn - “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”,... Giọng thơ ở đây biểu lộ sự vui vẻ thư thái ung dung của thi nhân. Vừa là người kể vừa là nhân vật chính trong câu chuyện, nhà thơ nhập vai rất thoải mái, nói năng trào lộng như ở nhà tạo cảm giác chôn thiên đình là nơi quen thuộc, người tiên hầu như cũng là chỗ bè bạn của nhà thơ. Đó cũng là một trong những biểu hiện của cái “ngông” Tản Đà.

=>- Ngôn ngữ tự nhiên, gần gũi nhưng có sự chọn lọc tinh tế. Cách kể chuyện hóm hỉnh, sống động

II. Biện pháp tu từ trong bài Hầu trời​

- Điệp ngữ: “Thật”,…
- So sánh:

“Khi văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”,…


- Nhân hoá:

“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”


III. Phân tích nghệ thuật của Hầu trời - Tản Đà​

Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. Hầu trời có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.

Cách Tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.”


Câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. Hỏi đấy rồi để câu thơ 2,3,4 ông đã tự trả lời cho chính những băn khoăn ấy: Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tiếp, từ “thật” được lặp lại bốn lần: thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua chính ông đã được trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.

Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin được nhưng bằng cách giải thích dí dỏm, hài hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngân nga/ Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:

“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi”


Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại. Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay” “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:

- “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”

Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:

“ Nhời văn đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.”


Hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.

Đoạn thơ đã cho người đọc phần nào thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.

Sau khi đem tài năng thể hiện cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với Trời cùng các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Cái ông có chỉ là “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của những văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó” “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”. Câu thơ đậm cảm xúc ngậm ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút. Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong con người Tản Đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.

Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi : ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.

Xem thêm các bài viết liên quan tới bài Nghệ thuật trong bài Hầu trời:
Phân tích bài thơ Hầu trời - Tản Đà

Cảm nhận cái “tôi” độc đáo trong bài thơ "Hầu trời"
Thêm
Nghệ thuật trong bài Hầu trời
464
0
0
Tản Đà được coi là "người nằm vắt mình qua hai thế kỉ", là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ và đặt nền móng cho thơ mới. Có thể nói ông là cột mốc, là nhân vật vô cùng quan trọng trong văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Hầu trời là một bài thơ tiêu biểu mang nhiều nét cá tính đặc sắc của tác giả. Cùng phân tích bài thơ Hầu trời - Tản Đà cùng dàn ý chi tiết sẽ giúp các bạn hiểu các nét đặc sắc của bài thơ rõ hơn.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà.png

Dàn ý phân tích bài Hầu trời – Tản Đà​


1. Mở bài​

- Giới thiệu tác giả:
+ Tản Đà được mệnh danh là nhà thơ “nằm vắt ngang mình giữa hai thế kỷ”.
+ Là cầu nối văn học giữa nền văn học trung đại và hiện đại, là người đặt nền móng cho Thơ mới.
- Giới thiệu tác phẩm: “Hầu trời” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ cái “tôi” của Tản Đà.

2. Thân bài:​

* Khái quát chung:​

- Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” và được xuất bản vào năm 1921.
- Bài thơ là câu chuyện “hầu trời” của một thi sĩ và có thể tóm tắt bài thơ theo trình tự thời gian:
+ Mở đầu là lúc nhân vật giải thích lý do tại sao mình được lên trời đọc thơ.
+ Khung cảnh khi đọc thơ và thái độ của trời.
+ Kết thúc là cuộc chia tay đầy lưu luyến.

* Phân tích​

- Ngay những câu đầu bài thơ Tản Đà để lại một ấn tượng vô cùng đậm nét với cách dẫn dắt độc đáo của mình:
+ Từ câu chuyện vốn là hư cấu nhưng với việc lặp lại 3 lần chữ “thật”, tác giả đã khẳng định cho độc giả về sự thật này.
+ Câu chuyện bắt đầu từ một đêm khuya vắng, nhà thơ ngồi dậy đun nước rồi ngâm nga những câu thơ “vang cả ngân hà” khiến ông Trời “mất ngủ”.
→ gợi sự tò mò cho người đọc
- Tiếp đó, nhà thơ bắt đầu kể diễn biến của buổi “hầu trời”:
+ Đầu tiên, tuân lệnh của Trời, thi sĩ đã đọc thơ của mình cho Trời và các chư tiên nghe.
+ Đối với niềm hăng say thơ ca của thi sĩ, các chư tiên vô cùng tán thưởng, biểu dương.
+ Tản Đà đã thể hiện rất rõ cái tôi của mình bằng việc mượn lời tán thưởng của Trời.
+ Sau khi nói về tài năng văn chương của mình, Tản Đà hướng ngòi bút của mình kể về cuộc sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ thời ấy cũng như sự hỗn loạn của văn chương bấy giờ.
- Cuối cùng là cuộc chia tay trong xúc động và sự tiếc nuối của nhà thơ khi nhận ra đó chỉ là một giấc mộng.

* Đánh giá chung​

- Dù chỉ là tưởng tượng nhưng lối viết tự nhiên, cách xây dựng câu chuyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật… đã đem đến sự gần gũi, mới lạ cho người đọc.
- Bài thơ đã khép lại nhưng dư âm mà nó để lại thì vẫn còn đó.

3. Kết bài​

Khẳng định lại giá trị của bài thơ: Với tác phẩm này, Tản Đà đã thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.

Phân tích bài thơ Hầu trời để thấy được nét tài hoa và cá tính hơn người của Tản Đà​

Bài mẫu 1​

Tản Đà (1889-1939), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn nhà viết kịch và đồng thời là một trong những người dịch thơ cổ hay nhất của Việt Nam ta (đặc biệt là thơ Đường). Trên văn đàn nước ta đầu thế kỷ XX, sự đô hộ của thực dân Pháp, cùng với sự bất lực của triều đình phong kiến trước thời cuộc, đã khiến lịch sử dân tộc có nhiều biến động dữ dội, không chỉ về kinh tế chính trị mà theo đó còn là cả văn hóa. Nho học đã không còn chỗ đứng, các thể loại thơ cổ, ý nhiều lời ít trở nên cũ rích, lạc hậu và không còn hợp thời. Điều đó thôi thúc sự nổi lên và nở rộ của một số ngòi bút biết cách tân và nhạy cảm trước thời cuộc, một trong số đó chính là Tản Đà. Nếu Hoài Thanh, Hoài Chân thường nhắc đến Thề non nước hay Tống biệt như là những bài thơ tiêu biểu của Tản Đà, bởi nó có mang một chút lòng yêu nước mờ mờ ẩn hiện, chủ đề chuyên chính nhất trong văn học trung đại và văn học mọi thời đại. Nhưng thực tế xem xét kỹ ta mới thấy được, để đánh giá Tản Đà là nhà thơ nổi lên như một ngôi sao sáng cuối thời trung đại, với tài năng và khả năng sáng tác dồi dào, đồng thời là “dấu gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại” - người manh nha cho một thời kỳ thơ Mới thịnh vượng gần mười năm và lưu lại giá trị cả trăm năm. Thì có lẽ không nên kể đến những bài thơ trên mà cái tên đáng được nhắc tới phải là Hầu Trời - tác phẩm chứa đựng tất cả những gì mới mẻ, khác biệt trong phong cách và hình thức thơ của Tản Đà buổi giao thời.

Hầu Trời được Xuân Diệu dành cho những lời nhận xét rất đắt rằng đây là một trong số những bài thơ đứng lại được với thời gian, ngạo với năm tháng. Tác phẩm được đưa vào sách xuất bản lần đầu trong tập Còn chơi (1921) với tổng số câu là 120, sau in lại trong Tuyển tập Tản Đà thì bị cắt mất 6 câu còn 114 câu.

Về sáng kiến “hầu trời” phải một ý tưởng mới mẻ gì trong văn học Việt Nam ta, bởi trước đó trong văn học dân gian mô típ tương quan giữa thế giới của thần tiên, quỷ quái với thế giới của con người đã từng xuất hiện rất nhiều trong các câu chuyện dân gian ví như Cóc kiện trời, hoặc trong các tác phẩm truyền kỳ của Nguyễn Dữ ví như Chuyện người con gái Nam Xương hay Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Tuy nhiên khi đến với Hầu Trời, người đọc vẫn bị thu hút bởi nhiều khía cạnh, một trong số đó chính là cách vào truyện đầy độc đáo. Khổ thơ đầu tiên của tác phẩm đã mở ra một không gian hư ảo đầy sương khói mang dáng hình giấc mơ, chứa nhiều những mộng tưởng của người thi sĩ. Đem đến cho người đọc cảm giác tự nhiên khi bước từ thế giới thực tại vào trong giấc mơ của người thi sĩ, việc hầu trời của Tản Đà không còn là câu chuyện viễn tưởng hay huyễn tưởng nữa, mà nó là ý nghĩ trong mộng của người viết. “Đêm qua chẳng biết có hay không?” là một câu nghi vấn của tác giả về chuyện giấc mơ không biết là có hay không, là thực hay ảo, từ đó gợi ra cảm giác bàng hoàng, bâng khuâng của một người vừa bước ra khỏi giấc mộng đẹp. Sau khi bật ra một câu chứa nhiều nghi hoặc tác giả đã tự trả lời luôn cho cái băn khoăn của mình rằng “Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng/Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!/Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”, để khẳng định giấc mơ đêm qua là có thật bằng cách phủ định liên tiếp với những từ “chẳng”, “không”, nhấn mạnh cảm xúc mà mình được trải nghiệm bằng cách lặp lại bốn lần từ “thật”. Dẫn dắt người đọc bước vào giấc mơ đêm, qua sự hồi tưởng của thi sĩ, đủ duyên dáng, hấp dẫn và tự nhiên.

Câu chuyện hầu trời bắt đầu bằng chuyện tác giả đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe. Trước khi đọc thơ thì Tản Đà cũng sơ lược về bối cảnh của nhà nhà trời trong lúc bản thân được đưa lên thiên đình, có cảnh “Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ/Thiên môn đế khuyết như là đây” rồi “Ghế bành như tuyết vân như mây” tái hiện khung cảnh nguy nga tráng lệ, đậm chất tiên chốn bồng lai. Không chỉ vậy tác giả còn kể ra các nhân vật có trên trời ví như Trời, Cơ, Tâm, Hằng Nga, Chức Nữ, Song Thành, Tiểu Ngọc đều là những vị tiên vốn đã quen thuộc với chốn nhân gian qua các câu chuyện cổ tích, hay cả những nhân vật không có tên tuổi ví như các vị tiên nữ, tiên nga hầu trên thiên đình,... mở ra một không gian sinh động, đẹp đẽ và chân thực trong lòng độc giả. Đến cảnh đọc thơ, một phần là cung kính vâng mệnh trời phải đọc cho tử tế, hai là Tản Đà rất tự tin vào thứ văn vẻ của mình thế nên trước mặt chư tiên, thi sĩ làm ra phần cao hứng và chuẩn bị rất kỹ càng, đợi cho “Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc” lại uống thêm miếng trà Trời ban cho để “nhấp giọng” rồi say sưa đọc thơ “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lý lại văn chơi”. Bao nhiêu vốn liếng văn chương chuyến này Tản Đà phô ra hết, “đương cơn đắc ý đọc đã thích” đọc như chưa từng được đọc vậy. Cùng với việc mải miết đọc thơ bản thân thi sĩ còn bộc lộ thái độ tự khen mình rất rõ nào thì “văn dài hơi tốt ran cung mây” rồi thì “Văn đã giầu thay lại lắm lối”, bộc lộ thình tích đồ sộ trong nghiệp sáng tác của mình, vừa đa dạng về thể loại lại phong phú về nội dung. Không chỉ vậy ông còn bộc lộ thái độ tự khen, tự tin của mình thông qua việc thuật lại thái độ của chư tiên khi nghe văn ông:

“Trời nghe Trời cũng lấy làm hay
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay”.


Tất cả đều thể hiện sự tán thưởng, chăm chú thưởng thức thơ của Tản Đà, đặc biệt thơ ông lại còn được tiên khen chứ chẳng phải kẻ phàm phu tục tử thì cũng đủ hiểu những thứ văn ấy tuyệt vời như thế nào.

Bên cạnh đó Tản Đà cũng rất hào hứng kể về những thành quả trong sự nghiệp sáng tác của mình một cách rành mạch và tự tin, sung sướng, trong những câu:

“Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”


Rồi sau đó thi sĩ bắt đầu tự giới thiệu bản thân mình, xưng tên tuổi quê quán một cách dõng dạc và đầy tự hào “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/Quê ở Á châu về Địa cầu/Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Những cách xử sự ấy của Tản Đà cho thấy ông là một người có bản lĩnh, rất tự tin và đắc chí trong sự nghiệp văn chương, đặc biệt là trong cảnh lên chầu Trời lại như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng phô diễn tài năng hiếm có.

Song hành cũng với thi sĩ chính là thái độ và cảm xúc của người nhà trời khi nghe đọc thơ, mỗi một cá nhân đều có một cảm xúc, cách thể hiện riêng. Trời vốn dĩ oai nghiêm, bệ vệ làm chủ trời đất, đứng đầu chúng tiên thế mà cũng “lấy làm hay” thậm chí hứng chí “bật buồn cười”, rồi mở miệng ngọc phê “Văn thật tuyệt”. Vị chủ sao Tâm thì sung sướng, thích chí như “nở dạ”, ngôi sao Cơ thì thấy thích thú mà “lè lưỡi”, há miệng thán phục như trẻ con. Còn Hằng Nga, Chức Nữ vốn xưa nay nổi tiếng dịu dàng, e lệ, kín kẽ khi nghe thơ của Tản Đà cũng không khỏi “chau đôi mày”, mặt ngọc ra chiều ngẫm nghĩ cho thấu ý văn sâu sắc của thi nhân. Đến Song Thành, Tiểu Ngọc hai thị nữ của Tây Vương Mẫu cũng phải “lắng tai đứng” chăm chú nghe, thích ý quên cả việc hầu hạ. Bên cạnh những cảm xúc riêng ấy thì chư tiên cùng có một điểm chung ấy là “đọc xong mỗi bài đều vỗ tay”, thể hiện sự tán thưởng, hoan nghênh nhiệt liệt trước tài văn chương của Tản Đà, cùng với niềm ao ước mong mỏi có thể sở hữu những áng văn thơ cho riêng mình để nghiền ngẫm bằng lời mời mọc tha thiết “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”. Từ đó xóa nhòa đi khoảng cách và thân phận của bề trên với kẻ dưới, chỉ còn lại sự yêu mến tha thiết văn chương của độc giả với người thi sĩ tài năng, để cùng nhau trở thành tri âm tri kỷ, đối với người tác giả thì chẳng còn gì sung sướng hơn. Như vậy từ cách mà Tản Đà thuật lại việc lên trời đọc thơ, và thông qua những cung bậc cảm xúc của chư tiên khi nghe người thi sĩ bộc lộ tài năng chúng ta có thể nhận thấy một số nét phác họa bức chân dung của Tản Đà. Ông hiện lên là một con người rất tự tin, kiêu hãnh về tài năng, nhận thức rất rõ về giá trị của cá nhân. Khi ở trần thế ông cảm thấy bản thân không thể tìm được người thấu hiểu, tri âm, tri kỷ, người tôn trọng, trân quý tài năng của mình, ông đã tìm vượt hẳn lên cõi tiên để chứng minh và tìm kiếm người thấu hiểu thơ văn mình. Và ở cõi tiên ấy, Tản Đà như được lột xác, được sống đúng với bản thân mình, tự tin thể hiện tài năng của mình một cách thoải mái, tự nhiên. Mặc khác, việc tìm tri âm tri kỷ ở cõi trời như vậy cũng hé lộ sự cô đơn, lạc lõng của Tản Đà, của những thi sĩ những người cầm bút sáng tác đương thời, bởi “văn chương hạ giới rẻ như bèo” và những người cầm bút sáng tác như Tản Đà hình như bị rẻ rúng, không mấy ai để ý, xem trọng, dẫn tới việc bất đắc chí ở thế gian, và buộc phải tìm sự đắc chí ở cõi khác.

Sau câu chuyện hầu trời, thì thông qua những lời bộc bạch của Tản Đà, độc giả dễ dàng nhận ra câu chuyện đời của tác giả và của chung những người cầm bút đương thời, những cảnh đời khốn khổ mà theo cách nói của Tản Đà là “thực nghèo khó”. Cụ thể thi sĩ bộc bạch với Trời rằng “Trần gian thước đất cũng không có”, đó là một nỗi ám ảnh, một nỗi đau sâu sắc nhất của thi sĩ nên nó còn trở đi trở lại trong nhiều những bài thơ khác của ông ví dụ như câu “Quê hương thời có cửa nhà thời không” trong Thú ăn chơi chẳng hạn. Rồi nỗi đau thứ hai đó là vốn liếng chỉ mỗi “có một bụng văn”, có tư chất, tài năng, thế nhưng nó lại bị o ép bởi nhiều khía cạnh, tiền giấy mực in, tiền cửa hàng thì đắt đỏ mà khốn nỗi “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”, thế nên các nhà văn đương thời vướng phải cảnh trớ trêu “Kiếm được đồng lãi thực rất khó/Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều/Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”, đã nghèo lại càng nghèo hơn. Người nghệ sĩ lâm vào cảnh bế tắc, chỉ đành rút hết bụng văn chương của mình cốt để mưu sinh, tựa con tằm rút cạn ruột để nhả tơ cho đời vậy. Mà cái nỗi đời cơ cực ấy đã được Xuân Diệu thốt lên đầy cay đắng rằng “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ”. Từ thực cảnh đau xót của mình thi sĩ đã bộc lộ nỗi lòng ngậm ngùi trong câu “Một năm ba trăm sáu mươi đêm/Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”, tiếc mãi sao chỉ có mỗi một đêm văn chương của mình được có giá trị, được tôn sùng, bản thân mình được công nhận, được tự tin, thoát khỏi chốn trần ai đầy chật vật, bất đắc chí. Bên cạnh đó còn là nỗi nghi ngại về sứ mệnh, về trách nhiệm của người cầm bút. Mà sứ mệnh ấy được Tản Đà khéo léo thể hiện qua việc Thiên Tào tra sổ, thấy Tản Đà vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông cùng với lời truyền, mang tính chất an ủi, động viên của Trời:

“Trời rằng: “Không phải là Trời đày.
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”


Rồi bản thân Tản Đà thấy lời của Trời thế lại không khỏi nghi ngại “Trời lại sai con làm việc nặng quá/Biết làm có được mà dám theo”. Khi mà bản thân tác giả tự coi mình là một cái “Cái cây che chống bốn năm chiều”, bên ngoài chịu đựng biết bao nhiêu việc o ép như thế, biết có lo nổi việc Trời giao hay không. Từ đó nó trở thành cơ sở cho lời động viên của Trời, với sự thấu hiểu vô cùng:

“Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”


Đồng thời cũng chính là lời tự động viên chính mình của thi sĩ, cố gắng vượt qua những thử thách, giữ được tấm lòng thông trước sương tuyết của cuộc đời, để hoàn thành trách nhiệm với cuộc đời. Trở thành cơ sở để người thi sĩ có quyền “ngông” về bản thân. Và cũng từ thân phận và cuộc đời người nghệ sĩ đương thời, ta cũng có thêm một vài nét vẽ nữa về Tản Đà. Ông hiện lên trước hết là thái độ “ngông”, bộc lộ qua sự tự tin kiêu hãnh về giá trị của bản thân, khi tự nhận mình là “trích tiên”, được Trời gửi xuống hạ giới vì sứ mệnh cao cả gieo rắc “thiên lương” cho loài người. Cũng cho thấy ông là người rất có trách nhiệm với cuộc đời, cầm bút sáng tác hướng tới chức năng cốt lõi của văn học là nhân đạo hóa con người.

Qua bài thơ Hầu Trời tác giả đã mạnh dạn thể hiện cái tôi cá nhân, một cái tôi rất ngông, rất phóng túng, cái tôi tự ý thức về tài năng và giá trị đích thực của mình, đồng thời khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời. Tác phẩm có một số sáng tạo khi sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên, giọng điệu thoải mái, tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động và hóm hỉnh, khiến cho độc giả cảm thấy gần gũi, thú vị.

Phân tích bài thơ Hầu trời - bài văn mẫu số 2​

Mỗi khi giới văn học nhắc đến người “nằm vắt ngang mình giữa hai thế kỷ” người ta sẽ nghĩ ngay đến Tản Đà. Không chỉ vậy ông còn được mệnh danh là cầu nối văn học giữa nền văn học trung đại và hiện đại, là người đặt nền móng cho Thơ mới. Thơ Tản Đà là thơ của cái tôi bay bổng, lãng mạn, của cái tôi yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước. “Hầu trời” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ cái tôi của ông.

Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” và được xuất bản vào năm 1921. Bài thơ là câu chuyện “hầu trời” của một thi sĩ với lối kể chuyện tự nhiên, giọng điệu say đắm, kết hợp khéo léo giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực. “Hầu trời” tựa như một câu chuyện tự sự với cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật kể chuyện. Vì thế mà ta có thể dễ dàng tóm tắt bài thơ theo trình tự thời gian: mở đầu là lúc nhân vật giải thích lí do tại sao mình được lên trời đọc thơ đến khung cảnh khi đọc thơ và thái độ của trời, rồi kết thúc là cuộc chia tay đầy lưu luyến.

Ngay những câu đầu bài thơ Tản Đà để lại một ấn tượng vô cùng đậm nét với cách dẫn dắt độc đáo của mình:

“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”


Vốn dĩ câu chuyện này là hoang đường nhưng với cách kể của mình, tác giả đã khiến người ta phải tin đó là thật, thật một cách tự nhiên không hề gượng gạo. Rõ ràng câu thơ mở đầu là một câu hỏi, chính tác giả cũng đang không rõ thực hư trong câu chuyện này nhưng ba câu thơ tiếp với việc lặp lại ba lần chữ “thật” như một lời khẳng định với bạn đọc về sự thật này. Sau khi khẳng định sự thật về việc được lên trời, Tản Đà bắt đầu những vần thơ để lý giải lý do của nó. Câu chuyện bắt đầu từ một đêm khuya vắng, nhà thơ ngồi dậy đun nước rồi ngâm nga những câu thơ “vang cả ngân hà” khiến ông Trời “mất ngủ”. Câu chuyện có vẻ khó tin nhưng bằng cách kể hóm hỉnh, Tản Đà đã khiến người đọc càng them tò mò về những gì diễn ra sau đó.

Tiếp đó, nhà thơ bắt đầu kể diễn biến của buổi “hầu trời” một cách rất tự nhiên. Đầu tiên, tuân lệnh của Trời, thi sĩ đã đọc thơ của mình cho Trời và các chư tiên nghe:

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.


Đối với một thi sĩ, thơ ca không chỉ là sự yêu thích mà hơn cả thế nó là đam mê. Thơ ca khiến thi sĩ trở nên thăng hoa trong cảm xúc và hứng thú đến lạ thường:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”.


Đối với niềm hăng say này của thi sĩ, thái độ của người nghe cũng vô cùng chăm chú, tập trung thậm chí là tán thưởng, biểu dương: “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng”… Các chư tiên còn vô cùng phấn khích, đón nhận khi thi sĩ kể về các tập thơ của mình: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Trong thơ ca, cái tôi là một vấn đề rất hay được mọi người chú ý đến. Thơ ca phải có cái tôi thì mới làm nên vẻ ấn tượng. Và ở những câu thơ tiếp theo, Tản Đà đã thể hiện rất rõ cái tôi của mình:

“Trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”


Bằng việc mượn lời Trời tác giả đã khéo léo ca ngợi văn thơ của mình. Và người ta gọi đây là một hiện tượng chưa từng có trong văn chương. Điều này không chỉ chứng tỏ thi sĩ rất tự tin vào tài năng của mình mà còn muốn tự khẳng định tài năng, nét tài hoa ấy. Khi đặt những câu chữ của mình sánh ngang với vẻ đẹp của thiên nhiên trời đất như sao băng, mây, gió, mưa, tuyết… Tản Đà đã thể hiện rất rõ sự kiêu hãnh về cái hay cái đẹp trong văn chương của mình.

Sau khi nói về tài năng văn chương của mình, Tản Đà hướng ngòi bút của mình kể về cuộc sống của tầng lớp văn nghệ sĩ thời ấy:

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có

Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo”


Bằng những nét vẽ tả thực, đoạn thơ đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống khốn cùng của văn nghệ sĩ cũng như sự hỗn loạn của văn chương lúc bấy giờ. Trái ngược hoàn toàn với những cảm xúc hưng phấn lúc trước, đoạn thơ này mang một giọng ngậm ngùi, chua xót đến đáng thương. Vốn dĩ câu chuyện hầu trời là một câu chuyện hư cấu và dường như nhà thơ đang tự an ủi chính mình, đang hy vọng về một điều gì đó tốt đẹp hơn cho thế hệ của mình:

“Rằng: Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”


Sau lời dặn dò của Trơi, cuộc chia tay giữa thi sĩ và các chư tiên diễn ra trong xúc động:

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai”


Những gì đã diễn ra đẹp đến mức, khi thi sĩ bừng tỉnh, nhận ra đó chỉ là một giấc mộng, nhà thơ đã không khỏi tiếc nuối:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đếm lên hầu Trời”.


Những câu thơ đã khép lại bài thơ, khép lại một câu chuyện nhưng dư âm mà nó để lại thì vẫn còn đó. Dù chỉ là tưởng tượng nhưng lối viết tự nhiên, cách xây dựng câu chuyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật… đã đem đến sự gần gũi, mới lạ cho người đọc.

Người ta nói, “Hầu trời” không chỉ là một câu chuyện hóm hỉnh, vui tươi mà còn gửi gắm những triết lý về cái tôi thơ ca đến cho những nhà văn Việt Nam. Với tác phẩm này, Tản Đà đã thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.

Phân tích bài thơ Hầu trời - Bài mẫu số 3​

Nếu cái tôi của Xuân Diệu "là Một, là Riêng, là Thứ nhất" thì cái tôi của Tản Đà là cái tôi lãng mạn, ngông nghênh, phóng túng thể hiện khát khao khẳng định bản thân giữa cuộc đời. Khát khao ấy được ông thể hiện qua bài thơ "Hầu trời". Đây là bài thơ được in trong tập "Còn chơi" được xuất bản năm 1921.

Ta đã bắt gặp ước mong lên thiên đình của Tản Đà qua bài thơ "Muốn làm thằng cuội". Chốn thiên đình, nơi bồng lai tiên cảnh đã trở thành một đề tài quen thuộc của văn chương trung đại. Dường như nhà thơ Tản Đà không tìm được người tri kỉ với mình trong lĩnh vực thơ ca ở chốn hạ giới nên ông phải đi tìm tri âm ở chốn thiên đình. Thơ ông được ví là bình cũ rượu mới với những đổi mới về hình thức, thủ pháp nghệ thuật và ông được coi là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại". "Hầu trời" được viết dưới dạng những lời kể tự sự, kể lại việc nhà thơ tưởng tượng mình lên thiên đình gặp trời và các chư tiên để đọc thơ:

"Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng".


Câu chuyện nhà thơ kể xảy ra vào thời gian "đêm qua" yên tĩnh, không gian vắng lặng nhưng lại "chẳng biết có hay không", nửa thực nửa ngờ. Chuyện lên cõi tiên của Tản Đà có thể khiến nhiều người không tin tưởng vào độ chính xác của nó nhưng nhà thơ khẳng định rằng đó là sự thật, không "mơ mòng", không "hoảng hốt". Điệp từ "thật" lại thêm một lần nữa chứng minh câu chuyện mà tác giả sắp kể không phải là hư cấu. Tản Đà đã gặp được tiên và có cảm giác "sướng lạ lùng" rất khó diễn tả. Cảm giác ấy đã làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện mà nhà thơ sắp kể. Tản Đà thật khéo léo khi "vào đột ngột câu đầu, cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta" (Xuân Diệu). Quả thực, cách mở đầu câu chuyện của nhà thơ rất cuốn hút và độc đáo, tạo được sự chú ý, tò mò cho bạn đọc.

Ông đã thuật lại việc mình được Trời sai gọi rất tỉ mỉ. Tác giả đang nằm một mình lúc canh ba sau đó dậy đun nước uống rồi ngâm văn. Nhưng "chơi văn ngâm chán lại chơi trăng" thì bỗng nhiên gặp hai cô tiên xuống nói rằng:

"Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà
Làm Trời mất ngủ,Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua".


Đó cũng là nguyên nhân mà Trời sai tiên nữ xuống gọi Tản Đà lên đọc cho Trời nghe. Vậy là niềm mong ước bấy lâu nay của Tản Đà đã được toại nguyện. Ông theo hai cô tiên "lên đường mây" và trông thấy "Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ" và trông thấy cả cửa trời huyền bí. Các vị chư tiên đã ngồi yên lặng, Trời "truyền cho văn sĩ đọc văn nghe".

Thi sĩ đã có cơ hội bộc lộ hết niềm say mê của mình với văn chương:

"Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi".

và bày tỏ lòng biết ơn sự thiết đãi củaTrời như việc Trời truyền cho văn sĩ ngồi ghế bành, thưởng thức chè trời "nhấp giọng" bằng việc thể hiện hết tài năng của mình. Những áng văn vần,văn xuôi của Tản Đà khiến Trời thích thú, "cũng lấy làm hay". Điều ấy được thể hiện qua hành động "Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi", các tiên nữ trên trời như Hằng Nga, hai thị nữ Song Thành, Tiểu Ngọc của Tây Vương Mẫu, hay Chức Nữ cũng "lắng tai" nghe và vỗ tay cổ vũ tinh thần cho ông. Tản Đà không dám dối trá với Trời khi kể tên các tập thơ của mình như: "Khối tình", "Khối tình con", "Thần tiền", "Giấc mộng", "Đài gương", "Lên sáu", "Đàn bà Tàu", "Lên tám", tổng tất cả ông có mười tác phẩm lớn bao gồm cả "văn thuyết lí', "văn chơi", "văn vị đời", "văn tiểu thuyết", "văn dịch". Tài năng của ông không chỉ được thể hiện ở một loại văn mà nó được thể hiện phong phú trên nhiều thể loại khác nhau. Chỉ có trong văn chương, Tản Đà mới bộc bạch hết những khao khát, đam mê, ước muốn của bản thân. Đồng thời tác giả cũng thể hiện lòng biết ơn của mình dành cho Trời qua câu thơ:

"Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?"

Trong lúc chưa biết in ra bao nhiêu số lượng tác phẩm để bán thì Tản Đà nhận được lời mời của các vị chư tiên: "Anh gánh lên đây bán chợ Trời". Chắc hẳn văn chương của ông sẽ trở thành mặt hàng đắt giá chốn chợ Trời chứ không "rẻ như bèo" ở chốn hạ giới.

Được thưởng thức tài năng của Tản Đà, Trời và các chư tiên hết lời khen ngợi:

"Trời lại phê cho: "văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!"

Nhà thơ đã không ngần ngại mượn lời của Trời để tự dành lời khen cho thơ ca của mình. Cái Tôi của ông quả là cái tôi đầy khí phách và ngông nghênh. Tuy giọng điệu, lời thơ có chút hài hước, cao ngạo nhưng hơn ai hết ông ý thức được tài năng của mình và rất tự tin khi thể hiện bản ngã. Phép so sánh thơ của Tả Đà "đẹp như sao băng", "hùng mạnh như mây chuyển", "êm như gió thoảng", "tinh như sương", "lạnh như tuyết" đã cho thấy thơ ông đẹp từ lời lẽ đến chí khí.

Ý thức rõ về tài năng của bản thân, Tản Đà đã dõng dạc trả lời câu hỏi về tên tuổi, nơi ở của Trời:

"Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu và Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt".

Những câu giới thiệu của ông rõ ràng, minh bạch nhưng cũng hết sức táo bạo khi bị "Đày xuống hạ giới vì tội ngông". Tản Đà tự hào khi là người con của nước Nam Việt có quê ở Á châu, Địa cầu. Qua đó, ông cũng kín đáo trình bày lí do mình có bút danh là Tản Đà bởi quê hương ông là nơi có núi Tản, sông Đà. Ông đã ghép tên núi và tên sông để lấy làm bút danh. Từ đó cho thấy tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ:

"Sông Đà núi Tản đúc nên ai
Trần thế xưa nay được mấy người
Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc
Thanh cao phô trắng một nhành mai".

Nhưng Trời không "đày" Tản Đà xuống hạ giới mà Trời sai ông làm việc "thiên lương của nhân loại". Thiên lương ở mỗi con người tùy thuộc vào sự tu dưỡng của bản thân, Trời giao cho ông nhiệm vụ là bằng cách nào đó hãy làm thiên lương của con người được hưng thịnh ở chốn hạ giới. Đó cũng là trọng trách, trách nhiệm của các nhà văn, nhà thơ vì văn chương chính là "thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn" (Thạch Lam).

Biết rằng đó là nhiệm vụ của những người cầm bút nhưng Tản Đà cũng thẳng thắn trình bày những nỗi khổ riêng của mình khi kiếm sống bằng nghề này:

"Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi càng cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo".

Nhà thơ đã bày tỏ chân thành những nỗi lòng và sự khó khăn của nhân dân nói chung và của mình nói riêng ở cuộc sống hạ giới để Trời hiểu thấu. Cuộc sống của các nhàvăn, nhà thơ không hề giàu sang, phú quý mà lại rất nghèo khó, túng thiếu. Văn chương là nghề nghiệp để Tản Đà kiếm sống vậy nhưng nó lại rẻ rúng như bèo bọt, không có lời có lãi. Hơn nữa, tiền "kiếm được" thì ít mà tiền phải tiêu thì nhiều, quanh năm không đủ tiêu. Cuộc sống đã nghèo túng nay lại càng nghèo túng hơn. Đó cũng là hiện thực xã hội nước ta lúc bấy giờ. Chính vì lí do đó, Tản Đà muốn lên thiên đình để giãi bày với Trời, để tìm được tiếng nói tri âm trên thế giới thần tiên ấy. Cuộc sống của nhà thơ phải xoay vòng với nỗi lo cơm áo gạo tiền, lo ăn, lo mặc, "học ngày một kém tuổi ngày cao" nên được Trời giao phó cho "việc nặng quá" nên Tản Đà không chắc chắn mình có làm được hay không "mà dám theo".

Qua những lời tâm sự đầy chua xót của nhà thơ, Trời đã khuyên nhủ và an ủi rằng:

"Rằng: Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!"

Lời khuyên nhủ của Trời rất sâu sắc và thấm thía. Những nỗi lòng của Tản Đà Trời đều biết và "thấu hết". Những người nghệ sĩ chân chính cần biết chấp nhận, vượt qua hiện thực khắc nghiệt và đồng thời họ cũng phải thực hiện nhiệm vụ làm thiên lương con người được hưng thịnh. Đó cũng là nghĩa vụ cao cả của các nhà văn, nhà thơ ở hạ giới.

Kết thúc bài thơ cũng là lúc câu chuyện hầu Trời khép lại. Trời đã sai Khiên Ngưu đóng xe để tiễn Tản Đà về hạ giới. Trở về với hạ giới mà lòng nhà thơ chất chứa những nỗi niềm tiếc nuối. Tác giả ước rằng đêm nào mình cũng được lên hầu Trời để bày tỏ hết những nỗi niềm thầm kín.

"Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!"

Bài thơ "Hầu Trời" đã thể hiện cái tôi bay bổng, ngông nghênh của Tản Đà và ước muốn khẳng định tài năng của ông. Tác phẩm này được viết theo thể trường thiên khá tự do, giọng điệu dí dỏm, hóm hỉnh, ngôn từ giản dị. "Hầu Trời" đã thể hiện rõ những suy nghĩ của Tản Đà về văn chương trong buổi giao thời. Ông thật xứng đáng với tên gọi "người của hai thế kỉ" (Hoài Thanh)

Xem thêm các bài viết liên quan cùng chủ đề:
Cảm nhận cái “tôi” độc đáo trong bài thơ "Hầu trời"
Đọc - hiểu tác phẩm "Hầu trời" của Tản Đà
Thêm
Phân tích bài thơ Hầu trời - Tản Đà
494
0
0
“Tản Đà - con người của hai thế kỷ”. Cả cuộc đời, lối sống và sự nghiệp văn chương của ông đều mang dấu ấn 2 thời đại: trung đại - hiện đại. Thơ văn của ông có thể xem là dấu gạch nối giữa hai thời đại. Trong đó đặc sắc nhất là bài thơ “Hầu trời” thể hiện cái tôi cá nhân phóng túng, tự do tự khẳng định mình bằng cảm hứng lãng mạn nhưng không thoát li khỏi hiện thực xã hội. Cùng cảm nhận cái “tôi” độc đáo trong bài thơ "Hầu trời" nhé!


Tản Đà được xem là con người của hai thế kỉ. Là gạch nối giữa nền văn học trung đại và văn học hiện đại Việt Nam. Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà đã mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ. Và “Hầu Trời” là một trong những bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.

Cái tôi độc đáo của Tản Đà là sự kết tinh giữa 3 yếu tố: xê dịch, ngông và đa tình. Trong đó ngông là yếu tố chủ đạo tạo nên cái tôi riêng không nhầm lẫn với bất kì nhà thơ nào. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm. “Hầu Trời” là bài thơ được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ “quảng cáo” tài năng của bản thân. Tự đắc với tài năng nên càng đọc thì giọng càng tốt, văn càng hay. Sẵn tiện, giới thiệu về bản thân và tiếp tục khoe tài bằng những tác phẩm của mình sáng tác

Tài năng ngay đến Trời cũng say mê, chư tiên cũng phải yêu thích. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức tạp. Chỉ Tản Đà mới dám nói lên nỗi lòng của những người viết văn: nghề viết văn đôi khi rất phũ phàng. (văn chương rẻ như bèo. Kiếm được thì ít mà tiêu thì nhiều…). Nhận mình là “trích tiên” bị đày xuống hạ giới để thực hiện thiên lương.

Kế thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà, người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể “ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.

Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/hau-troi-tan-da.307/
Thêm
Cảm nhận cái “tôi” độc đáo trong bài thơ "Hầu trời"
539
0
0
Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. "Hầu trời" có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.


I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Tản Đà.
- Tản Đà sống giữa hai thời đoạn hết sức quan trọng của nèn thi ca Việt Nam. Đến thời ông, nên văn học cũ đang suy tàn đến cùng cực. Trong khi đó, nền văn học mới đang sinh sôi nảy nở hết sức mạnh mẽ. Bởi thế, ông là “con người của 2 thế kỉ” cả về học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương. Cái gạch nối, cái bản lề của văn học trung đại và văn học hiện đại.

– Sự nghiệp văn chương:

+ Sáng tác bằng quốc ngữ
+ Thuộc lớp nhà văn đầu tiên của Việt Nam coi viết văn, làm báo là nghề nghiệp chính.
+ Các thể loại cũ nhưng tình điệu, cảm xúc mới mẻ. Tất cả ảnh hưởng không nhỏ đến cá tính sáng tạo của thi sĩ

2. Tác phẩm: Hầu trời
– Xuất xứ: In trong tập Còn chơi, xuất bản lần đầu năm 1921, gồm thơ và văn xuôi.
– Hoàn cảnh sáng tác: đầu những năm 20 của thế kỷ XX, thời điểm mà:

+ Lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại
+ Xã hội thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau. Người trí thức có lương tri không chấp nhận nhập cuộc, nhưng không ai có dũng khí chống lại nó.

– Bài thơ cấu tứ như một câu chuyện: Thi sĩ Tản Đà lên tiên gặp trời. Tản Đà đọc thơ cho trời và các chư tiên nghe. Nghe thơ, Trời khen hay và hỏi chuyện. Tác giả đã đem các chi tiết rất thực về thơ và đời mình đặc biệt cái nghèo khó của văn chương hạ giới kể cho Trời nghe. Trời cảm động và thấu hiểu tình cảnh, nỗi lòng thi sĩ.
– Chuyện có vẻ khó tin nhưng cái hay và mới, cái lãng mạn và ngông của hồn thơ Tản Đà được kết đọng trong đó.

II. Đọc – hiểu văn bản
1. Cách mở đầu câu chuyện.
Cách vào đề bài thơ khá độc đáo:

+ Chuyện tác giả đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe khá thú vị.
+ Bài thơ có sự kết hợp hai nguồn cảm hứng: lãng mạn và hiện thực, có nhiều cái mới.

Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm giác tò mò về câu chuyện mà tác giả sắp kể. Câu thơ mở đầu mối nghi vấn khơi gợi sự hiếu kì của người đọc. Chuyện có vẻ như mơ mộng, bịa đặt nhưng dường như là thật. Tác giả dùng 3 câu khẳng định để củng cố niềm tin:

Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.


– Tình huống: Thi nhân buồn → ngắm trăng, ngâm thơ → làm trời mất ngủ.
– Giọng thơ: hóm hỉnh, chi tiết dí dỏm, trần tục hoá chuyện thiên đình.

⇒ Lối vào đề có sức hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh mẽ độc đáo, có duyên, hứa hẹn nhiều thú vị.

2. Câu chuyện hầu trời:
a. Lí do và thời điểm lên hầu trời:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn”.


– Không gian: Trăng sáng. Thời gian: canh ba (rất khuya)
– Nhà thơ không ngủ được, thức bên ngọn đèn xanh, vắt chân chữ ngũ… Tâm trạng buồn, ngồi dậy đun nước, ngâm ngợi thơ văn, ngắm trăng trên sân nhà.
– Hai cô tiên xuất hiện, cùng cười, nói: trời đang mắng vì người đọc thơ mất giấc ngủ của trời, trời sai lên đọc thơ cho trời nghe:

“Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống

Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:

– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua” .

– Theo lời kể của nhân vật trữ tình, không gian, cảnh tiên như hiện ra:

“Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây! “


+ “Đường mây” rộng mở. “Cửa son đỏ chói” tạo nên cảnh huy hoàng, rực rỡ
+ “Thiên môn đế khuyết” nơi ở của vua, vẻ sang trọng. “Ghế bành như tuyết vân như mây” quý phái, sang trọng hết mức.

b. Cảnh đọc thơ cho trời và các chư tiên nghe:
– Tâm trạng của thi sĩ say sưa đọc thơ: Thi sĩ đọc rất nhiệt tình, cao hứng, có phần tự hào tự đắc vì văn thơ của chính mình, đọc thơ say sưa:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi. “


– Thái độ của trời và các chư tiên: Trời khen nhiệt tình và đánh giá rất cao thơ văn thi sĩ:

+ “Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay. “

+ “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!”.


c. Câu chuyện về cuộc đời của thi sĩ và của các tác giả sáng tác văn chương đương thời
– Cảnh đời nghèo khó: “thước đất cũng không có”, tài sản duy nhất: có một bụng văn.Văn chương rẻ như bèo kiếm được đồng lãi thực rất khó, làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu:

“Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”.


– Lời động viên của trời:

Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thong chớ ngại chi sương tuyết!”


Thực chất đó là lời động viên của chính mình và các văn sĩ cùng thời với mình. Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ ngông: tự tin kiêu hãnh giá trị của bản thân tự nhận là trích tiên để thực hiện sứ mệnh cao cả là khôi phục lại thiên lương của nhân loại. Có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.

Bình luận:

- Tác giả thể hiện một cái “ngông” cá tính khác đời. Trong văn chương là thái độ phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, tâm hồn không chấp nhận sự bằng phẳng đơn điệu nên thường “phá cách” tự đề cao cá tính của mình.
- Thi sĩ rất cao hứng và có phần tự đắc: đương cơn đắc ý, ran cả cung mây, lại tự khen mình văn đã giàu, thay lại lắm lối. Trời đánh giá cao và không tiếc lời tán dương: Văn thật tuyệt, Văn trần được như thế chắc có ít! Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng, tinh hơn sương! Đầm như mưa sa lạnh như tuyết. .. Chư tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ.
- Giọng thơ hào sảng, lai láng tràn trề. Chuyện hư cấu, tưởng tượng được kể chân thực như chuyện có thật giúp người đọc cảm nhận được về tâm hồn thi sĩ Tản Đà. Ý thức rất rõ về tài năng, giới thiệu cụ thể: tên họ, quê hương, bản quán, đất nước, châu lục. Táo bạo, tự tin bộc lộ “cái tôi”. Tất cả thể hiện cái “ngông” một cách thoải mái, phóng túng.
- Tản Đà rất ý thức về tài năng của mình. Thi sĩ còn là người rất táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã của mình trước Ngọc Hoàng, thượng đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát không bị kiềm chế, cương toả, phóng khoáng. Giữa chốn hạ giới mà văn chương rẻ rúng, thân phận nhà văn bị khinh bỉ, Tản Đà không tìm được tri âm, đành lên tận cõi tiên cho thoả mộng.

3. Cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa trong xã hội thực dân nửa phong kiến:
Tản Đà là một thi sĩ nổi tiếng một thời. Vậy mà suốt đời phải sống trong cảnh nghèo khổ, cùng quẫn. Cuối đời, ông phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà của bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, một đống sách mát và be rượu.

“Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ”


– Tản Đà đã vẽ một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình cũng như cuộc đời các nhà văn An Nam khác:
– Khai với Ngọc Hoàng đầy đủ họ tên, quê quán, gia cảnh (nghèo khó)… đến những tác phẩm đã xuất bản. Đặc biệt, nhà thơ kể một cách chi tiết với giọng đầy chua chát về thân phận tủi hổ của người nghệ sĩ tài hoa trong xã hội thực dân phong kiến.
– Không chỉ riêng Tản Đà, nhiều nhà văn cùng thời với ông và sau ông cũng cùng chung số phận.

⇒ Bức tranh hiện thực qua chính lời kể của tác giả giúp ta hiểu thêm vì sao Tản Đà chán cõi trần thế, muốn thoát tục lên tiên, vì sao ông phải lặn lội tìm cõi tri âm nơi trời cao. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn. Song bức tranh hiện thực được đặt giữa cảm hứng lãng mạn đã tạo nên một hiệu quả nghệ thuật lớn. Nhà văn dù có bay lên chín tầng trời vẫn không thoát được cảnh đời cơ cực, thân phận tủi hổ đeo bám. Đôi cách lãng mạn khiến cho hồn thơ của thi sĩ thăng hoa. Đôi cánh hiện thực giữ cho ý thơ sâu sắc, thấm thía. Bài thơ vì thế thấm đẫm tinh thần nhân văn.

III. Tổng kết:

1. Giá trị nội dung:

Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện cái tôi cá nhân, một cái tôi ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.

2. Giá trị nghệ thuật:
– Thể thơ: Thể thất ngôn trường thiên khá tự do phóng khoáng. Tình điệu cảm xúc mới, hồn thơ lãng mạn.
– Ngôn ngữ: Gần lời ăn tiếng nói đời thường, ít có những uớc lệ, cách điệu như thơ trung đại ( ngôn ngữ này đến thơ mới được kế thừa và phát triển).
– Giọng thơ linh hoạt: khi hóm hỉnh hài hước, lúc sôi nổi phóng khoáng, khi ngậm ngùi chua chát.
– Cách biểu hiện cảm xúc phóng túng, tự do, không hề bị gò ép.

⇒ Tản Đà đã tìn được hướng đi đúng đắn để khẳng định tài năng của mình trong lúc thơ phú nhà Nho đang đi dần đến dấu chấm hết.
Thêm
Đọc - hiểu tác phẩm "Hầu trời" của Tản Đà
477
0
0
Với phong cách thơ lãng mạn, phóng khoáng, ngông nghênh, thể hiện sự ứu ái và cảm thương của tác giả. Thơ văn của ông giữa hai giai đoạn trung đại và hiện đại nên những tác phẩm của ông mang một vẻ đẹp và sự độc đáo khác nhau. Một trong những tác phẩm đặc sắc và thể hiện rõ sự phóng khoáng của Tản Đà là tác phẩm "Hầu trời". Cùng tìm hiểu cái ngông của Tản Đà qua tác phẩm "Hầu trời" nhé!


Bố cục: gồm 3 phần
Phần 1 ( khổ thơ đầu): giới thiệu về chuyện lên hầu trời
Phần 2 ( tiếp... chợ Trời) thi nhân ngâm thơ cho Trời và chư tiên trên thiên đình nghe
Phần 3 (còn lại) Cuộc trò chuyện của thi nhân với trời

Câu 1 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

* Khổ thơ đầu mở ra giấc mơ của chính tác giả, câu thơ đầu tiên nghe như tác giả đặt vấn đề có vẻ khách quan: câu chuyện tôi sắp kể “chẳng biết có hay không”
- Cách “nhập đề” lạ, một sự “hư cấu” nghệ thuật.
- Nó là cớ để nhân vật bộc lộ được cảm xúc trong “cõi mộng”
- Cách vào đề gợi được sự thích thú, tò mò, dường như rất có duyên đối với người đọc

Câu 2 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Thi nhân đọc thơ trong sự hào hứng, có phần tự đắc:

"Đương cơn tự đắc đọc đã thích
Trời nghe, trời cũng lấy làm hay
Chửa biết con in ra mấy mươi"

- Giọng của thi nhân truyền cảm, hóm hỉnh, sảng khoái, cuốn hút
Thái độ của chư tiên khi nghe Tản Đà đọc thơ:
- Trời khen nhiệt thành: văn thật tuyệt, chắc có ít, đẹp như sao băng...
- Chư tiên xúc động, tán thưởng và hâm mộ: Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

+ Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
+ Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai nghe

→ Tản Đà là người “ngông” khi lên lên Trời khẳng định tài năng thơ văn của mình.

- Nhà thơ ý thức về tài năng, thơ văn của mình, dám thể hiện cái tài đó
- Đó là phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, tâm hồn không muốn chấp nhận sự bằng phẳng, sự đơn điệu, nên thường tự đề cao, phóng đại cá tính của mình
- Giọng thơ của Tản Đà cũng thể hiện niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới rẻ như bèo, thân phận bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ
- Giọng kể của tác giả: đa dạng, hóm hỉnh có phần ngôn nghênh, tự đắc

Khác với thơ ca trung đại có tính phi ngã thì trong thơ của Tản Đà có tính phi ngã

Câu 3 (Trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Cảm hứng lãng mạn có một đoạn hiện thực, đó là đoạn:
"Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó
...
Biết làm có được mà dám theo"

- Bẩm với trời về cảnh nghèo khó, vất vả của nghề viết văn dưới hạ giới

- Ý nghĩa đoạn thơ:

+ Đoạn thơ là bức tranh hiện thực về chính cuộc đời của tác giả, nhiều nhà văn khác
+ Tiếp sau đoạn thơ là tâm trạng của tác giả, khiến người đọc xót xa, ngậm ngùi trước cuộc sống cơ cực của lớp nhà văn trong chế độ cũ

Câu 4 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ

- Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu nào
- Ngôn từ: hóm hỉnh, hài hước, có duyên và lôi cuốn
- Cách biểu hiện cảm xúc: tự do, phóng khoáng

Tác giả miêu tả Trời và Chư tiên không có chút đạo mạo, ngược lại các đấng siêu nhiên đó cũng có cách bộc lộ cảm xúc ngộ nghĩnh, bình dân ( lè lưỡi, chau mày, tranh nhau dặn...)

LUYỆN TẬP
Bài 1 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Câu thơ hay trong bài gây ấn tượng: “Con không nói Trời đã biết/ Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết/ Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”
Đây cũng chính là ước nguyện của tác giả Tản Đà, được thấu hiểu, cảm thông. Lòng khi đã thông tường, mọi chuyện sương gió không còn ngại ngùng.

Bài 2 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

- “Ngông” để chỉ sự khác thường, “ngông” trong văn chương để chỉ một kiểu ứng xử xã hội, nghệ thuật khác thói quen thường có ở nhà văn

- Điều này bắt nguồn từ việc tác giả ý thức được cái tôi, tài năng, nhân cách của bản thân.
- Các tác giả có cái “ngông” như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà...
Cái “Ngông” của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở:

+ Tự cho mình văn hay tới mức Trời phải tán thưởng
+ Tìm thấy sự đồng điệu, thu hiểu từ Trời và Chư tiên
+ Xem mình là một “trích tiên” bị đày vì tội ngông
+ Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành “thiên lương” một sứ mệnh cao cả

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/hau-troi-tan-da.307/
Thêm
Hầu trời - Tản Đà
476
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
  2. hưnga @ hưnga:
    cho em hỏi xu có những tác dụng gì ạ
Top