Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
a. MB:

Hình ảnh người phụ nữ là đề tài quen thuộc, gợi cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ, nhà văn. Có rất nhiều tác phẩm thành công khi viết về mảng đề tài này, trong đó có “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Truyện giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp và số phận bất hạnh của nhân vật Vũ Thị Thiết hay còn gọi là Vũ Nương.

b. TB:

* Khái quát chung về tác phẩm:

- Giới thiệu xuất xứ (hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn trích)

- Tóm tắt ngắn gọn cốt truyện.

- Giới thiệu chi tiết các luận điểm cần phân tích

+ “Chuyện người con gái Nam Xương” được trích trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, có nguồn gốc từ truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.

+ Truyện kể về nhân vật Vũ Thị Thiết xinh đẹp nết na lấy chồng là Trương Sinh nhà giàu nhưng có tính đa nghi. Trương Sinh đi lính, nàng ở nhà sinh con, chăm sóc và lo tang cho mẹ chồng chu đáo.

+ Trương Sinh trở về nghe lời con trẻ đã nghi oan cho vợ thất tiết, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Nàng thanh minh không được, hàng xóm bênh vực, Trương Sinh cũng không nghe. Uất nhục, nàng đã trẫm mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.

+ Dưới ngòi bút giàu lòng nhân ái của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được khắc họa với những nét đẹp đáng tự hào: yêu chồng, thương con, hiếu thảo…Nhưng cuộc đời của nàng lại là những trang đầy nước mắt.

* Luận điểm 1: Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết.

- Ngay từ đầu truyện Vũ Nương được giới thiệu “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”.

- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Vì cảm mến dung hạnh ấy mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.

* Luận cứ 1: Với tư cách là người vợ, nàng luôn yêu chồng, thủy chung, khao khát có một gia đình hạnh phúc.

* Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: nàng hiểu chồng có tính “đa nghi”, “phòng ngừa quá mức” nên Vũ Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không lúc nào vợ chồng thất hòa.

=> Nàng là người phụ nữ hiến thục, khôn khéo để vun vén cho gia đình hạnh phúc.

* Khi Trương Sinh đi lính Vũ Nương tiễn biệt chồng bằng những lời lẽ nặng nghĩa ân tình “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Câu nói ấy ta thấy ước mong của nàng thật bình dị, chẳng mong gì vinh hoa phú quý, nàng chỉ cần chồng bình yên trở về đoàn tụ gia đình.

- Nàng cảm thông, lo lắng cho những vất vả, hiểm nguy mà chồng phải đối mặt nơi chiến trường “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”

- Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ nhung da diết “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”.

=> Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

* Khi xa chồng:

- Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”

- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với bóng. Nàng dỗ con chỉ cái bóng của mình trên vách mà bảo đó là cha Đản.

- Trương Sinh đi lính nàng ở nhà một lòng chờ trông ngóng đợi:“Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.

* Ngay cả khi bị nghi oan thất tiết: nàng đã hết lời thanh minh, giãi bày “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Những lời thanh minh nàng hi vọng cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

=> Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh.

* Khi ở dưới thủy cung: Vũ Nương vẫn ngày đêm nghĩ đến chồng, gia đình.

* Luận cứ 2: Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng.

- Thương nhớ chồng bao nhiêu nàng dồn hết tâm sức chăm sóc mẹ chàng.

- Mẹ Trương Sinh vì nhớ con mà sinh đau ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”

- Rồi khi mẹ nằm xuống nàng lo liệu chu toàn giống như cha mẹ đẻ của mình.

- Lời trăng trối của mẹ Trương Sinh trước lúc lầm chung “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ” đã ghi nhận công đức của nàng. Cách đối xử của Vũ Nương với mẹ chồng không đơn thuần là trách nhiệm mà còn là tình cảm của một người con hiếu thảo, giàu tình yêu thương.

* Luận cứ 3: Là người mẹ, nàng hết lòng yêu thương con.

- Trương Sinh đi lính vừa đầy tuần nàng sinh một bé trai đặt tên là Đản. Nàng vừa là cha, vừa là mẹ chăm sóc, dạy dỗ con thơ.

- Thương con không có cha bên cạnh, mỗi tối nàng trỏ cái bóng của mình trên tường mà bảo đó là cha Đản. Chi tiết đó thật cảm động biết bao! Cái bóng ấy để khỏa lấp nỗi vợ nhớ chồng, con nhớ cha, để bé Đản luôn có cảm giác cha luôn bên cạnh. Và ngờ đâu chính cái bóng ấy đã đẩy nàng đến nỗi oan khuất sau này.

* Luận cứ 4: Vũ Nương là người phụ nữ đảm đang, trọng danh dự.

- Những ngày Trương Sinh đi lính, một tay nàng lo liệu mọi công việc trong gia đình: Đối nội, đối ngoại, sinh con, nuôi con, chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng…Lĩnh vực nào nàng cũng chu toàn.

- Khi bị Trương Sinh nghi oan là thất tiết, nàng đã hết lời thanh minh để giữ gìn danh dự. Khi bị chống mắng nhiếc, đánh đuổi đi nàng vô cùng đau khổ. Nàng tắm gội chay sạch ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời thề với thần sông “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ và chịu khắp mọi người phỉ nhổ”

- Thế rồi nàng trẫm mình tự vẫn. Nàng thà chết chứ không chịu sống ô nhục, sống trong sự cười chê, khinh bỉ của người đời. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh, phẩm giá còn cao hơn sự sống.

- Sau này khi gặp Phan Lang có cơ hội nàng liền gửi chiếc hoa vàng nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan với mong muốn phục hồi danh dự, trả lại tiếng thơm nơi trần thế.

* Luận cứ 5: Không những thế Vũ Nương còn là người phụ nữ trọng tình, trọng nghĩa, sống vị tha, nhân hậu.

- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ.

- Trương Sinh là người đẩy nàng đến cái chết nhưng nàng không một lời oán giận. Khi nghe Phan Lang kể về tình cảnh sầu thảm của Trương Sinh nàng đã ứa hai hàng nước mắt.

- Cuối tác phẩm khi đàn giải oan được lập, nàng đã trở về nói vọng vào lời từ biệt. Điều đó khiến Trương Sinh nguôi ngoai nỗi ân hận và nuối tiếc.

- Dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi. Chi tiết ấy làm nổi bật nàng là người trọng tình, trọng nghĩa.

=> Nguyễn Dữ đã đặt Vũ Nương vào nhiều hoàn cảnh khác nhau để khắc họa tính cách. Ở nàng hội tụ đủ các yếu tố công, dung, ngôn, hạnh, là tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.



* Luận điểm 2: Xinh đẹp, giỏi giang là thế lẽ ra Vũ Nương phải được sung sướng, hạnh phúc. Nhưng sống trong xã hội phong kiến, cuộc đời nàng lại là những bi kịch đắng cay.

- Bi kịch của nàng bắt nguồn từ cuộc hôn nhân mang màu sắc mua bán. Vũ Nương vốn “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Trương Sinh là sản phẩm của chế độ trọng nam khinh nữ. Vì tính đa nghi, hay ghen của mà Vũ Nương phải luôn chịu đựng sự xét nét “phòng ngừa quá sức”.

- Khi TS đi lính nàng phải sống trong cảnh cô đơn phòng không gối chiếc. Những ngày nàng sống hạnh phúc thật ngắn ngủi “Sum họp chưa thỏa tình chăn gối đã chia phôi vì động việc lửa binh”.

- Đau khổ hơn nàng phải chịu nỗi oan thất tiết. Trương Sinh trở về nghe lời nói ngây thơ của con trẻ “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?... Trước đây có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” đã nghi oan cho vợ thất tiết. Trương Sinh về nhà la um lên cho hả giận, mẵng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Nàng bị chà đạp về thể xác, bôi nhọ về danh dự, đày đọa về tinh thần. Bị dồn vào bước đường cùng nàng phải tìm đến cái chết trong đau đớn, tủi nhục.

+ Suy cho cùng cái chết của nàng là do chế độ phong kiến thối nát với chiến tranh phi nghĩa xảy ra liên miên, với chế độ nam quyền độc đoán mà hiện thân là Trương Sinh.

- Bi kịch của Vũ Nương còn thể hiện ở cuối tác phẩm. Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa theo sau là 50 chiếc xe cờ tán võng lọng…nói lời từ biệt rồi biến mất đi. Nàng muốn trở về mà không thể trở về, khát khao hạnh phúc mà chẳng có được hạnh phúc. Đó chính là bi kịch đau đớn nhất của Vũ Nương và cũng là bi kịch đau đớn nhất của một kiếp người.

* Luận điểm chốt:

- “Chuyện người con gái Nam Xương” không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của Nguyễn Dữ là xây dựng tình huống truyện độc đáo đặc biệt là chi tiết cái bóng; nghệ thuật thắt nút, mở nút đầy bất ngờ với người đọc, sử dụng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để khắc họa tính cách nhân vật.

- Cách kể chuyện hấp dẫn đan xen kể, tả thực với các chi tiết kì ảo hoang đường.

- Kể chuyện theo ngôi thứ 3 là câu chuyện khách quan, tăng độ tin cậy, kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm.

- Qua những nghệ thuật ấy, Nguyễn Dữ đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận của nhân vật Vũ Nương. Hình ảnh nàng Vũ Thị Thiết khiến ta liên tưởng đến nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du hồng nhan nhưng bạc phận. Vẻ đẹp, số phận của nàng chính là vẻ đẹp và số phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

C. KB:

- Khép lại trang sách mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ đến Vũ Nương – người phụ nữ thùy mị, nết na, yêu chồng, thương con, đảm đang, tháo vát…

- Ta còn xót xa trước những đau khổ mà nàng phải gánh chịu.

- Nguyễn Dữ hết lời ca ngợi vẻ đẹp của nàng đồng thời lớn tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát đã cướp đi cuộc sống tốt đẹp của con người. Phăng chăng đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm
Thêm
98
0
0
1. Tác giả:

– Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

– Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời.

- Là nhà văn tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam.

2. Tác phẩm: a. “Truyền kì mạn lục”:

– Là ghi chép tản mạn về những câu chuyện kì lạ được lưu truyền trong nhân gian.

– Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” (áng văn lạ ngàn đời ).

– Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.

b. Văn bản:

– “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 của tp “Truyền kì mạn lục”, có nguồn gốc từ truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.

* Thể loại: Truyện truyền kỳ:

(Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành từ thời Đường,

- Truyện truyền kì thường mô phỏng những cốt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó, được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc bệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo…)

* Bố cục: 3 phần:

– Phần 1: Từ đầu đến…lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương.

– Phần 2: Tiếp đến …nhưng việc trót đã qua rồi!” : Nỗi oan của Vũ Nương.

– Phần 3: Còn lại : Vũ Nương được giải oan.

* Ngôi kể: Truyện được kể theo ngôi thứ 3

- Tác dụng:

+ Làm cho câu chuyện khách quan, tăng độ tin cậy

+ Người kể dễ dàng đan xen những suy nghĩ, bình luận làm câu chuyện thêm sinh động.

* Phương thức biểu đạt: Tự sự có sự kết hợp yếu tố miêu tả, biểu cảm.

* Tóm tắt:

- Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh con nhà giàu nhưng có tính đa nghi.

- Hạnh phúc chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng đau ốm, lo ma chu toàn khi bà qua đời. Để dỗ dành con, Vũ Nương thường chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha của đứa bé.

- Chiến tranh kết thúc Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ, nghi vợ thất tiết nên đánh đuổi đi. Vũ Nương thanh minh không được, hàng xóm bênh vực Trương Sinh cũng không nghe. Uất nhục, nàng gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được đức Linh Phi và các tiên nữ cứu giúp.

- Sau đó Trương Sinh mới biết vợ bị oan.

- Trong làng có Phan Lang làm đầu mục ở bến Hoàng Giang. Phan Lang nằm mộng thả con rùa mai xanh. Sau này, Phan Lang chạy giặc đắm thuyền chết đuối và được Linh Phi trả ân.

- Vũ Nương gặp Phan Lang, nàng gửi chiếc hoa vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào lời từ biệt rồi biến mất.

* Giá trị nội dung:

+ Giá trị hiện thực:

- Phản ánh số phận bất hạnh của con người đặc biệt là người phụ nữ.

- Phản ánh chế độ phong kiến thối nát: các cuộc chiến tranh phi nghĩa xảy ra liên miên làm tan nát biết bao gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ mà hiện thân là nhân vật Trương Sinh.

+ Giá trị nhân đạo:

- Ca ngợi vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ.

- Thương cảm với những đau khổ, bất hạnh của nhân vật.

- Tố cáo xhpk thối nát đã đẩy con người vào bước đường cùng.

- Thể hiện khát vọng về cuộc sống tốt đẹp, về lẽ công bằng trong cuộc đời.

* Giá trị nghệ thuật:

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, kịch tính.

- Nghệ thuật thắt nút, mở nút đầy bất ngờ với người đọc.

- Kể chuyện hấp dẫn đan xen kể, tả thực với những yếu tố kì ảo hoang đường.

- Miêu tả lời nói, hành động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để khắc họa tính cách nhân vật.

- Ngôn ngữ trau chuốt, điêu luyện.
Thêm
68
0
0

KIẾN THỨC CƠ BẢN "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG"​

Đọc – Hiểu văn bản :​

1. Truyện có thể chia làm 3 đoạn :​

+ Đoạn 1 : từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
+ Đoạn 2 : “Qua năm sau … nhưng việc trót đã qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
+ Đoạn 3 : phần còn lại, Vũ Nương được cứu và sống ở thủy cung của Linh Phi. Nỗi oan được giải nhưng nàng quyết không trở lại trần gian.

Xem thêm:
Sơ đồ tư duy và kể lại chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em
Tóm tắt chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
Phân tích tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương” mới nhất
Tìm hiểu văn bản Chuyện người con gái Nam Xương
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ)
Vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Dữ)
Bức thông điệp của Nguyễn Dữ về cuộc đời qua Người con gái Nam Xương
Một số đề Đọc – hiểu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ

Hướng dẫn Giới thiệu chung bài chuyện người con gái Nam Xương

2. Nhân vật Vũ Nương :​

“Chuyện người con gái Nam Xương” là chuyện về nàng Vũ Nương – vợ chàng Trương Sinh : “Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nếu truyện cổ tích thường chỉ thiên về cốt truyện và hành động của nhân vật, thì ở đây, dưới ngòi bút sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều. Tác giả đã đặt nàng Vũ Nương vào nhiều tình huống khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật.

2.1. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường : chồng có tính đa nghi, nhưng nàng đã là một người vợ tốt, biết giữ đạo làm vợ, lúc nào cũng “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.

2.2. Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót rượu tiễn chồng và nói những lời mà ai nghe cũng “đều ứa hai hàng lệ”. Nàng không mong vinh hiển mà chỉ mong cho chồng được bình an trở về : “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên. Tình thương chồng còn thể hiện qua sự cảm thông những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng : “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có…”, qua nỗi khắc khoải nhớ nhung : “mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín ngàn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.

2.3. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả đã miêu tả thật xúc động nỗi buồn thương nhớ chồng khắc khoải triền miên theo thời gian : “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân vui tươi – “bướm lượn đầy vườn”, mùa đông ảm đạm – “mây che kín núi”, còn lòng người thì chỉ dằng dặc một nỗi buồn thương.

Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xôi, một mình nàng vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động. Mẹ già đau ốm, “nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Lời trối trăng của bà mẹ chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình nhà chồng : “Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không phải vì trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực sự trong lòng.

Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

2.4. Khi bị chồng nghi oan :​

+ Nàng một mực phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng nói về thân phận mình : “Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng của mình : “Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan : “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Trong những lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

+ Vũ Nương hết lời phân trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin, vẫn “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Ngay đến cái quyền được tự bảo vệ mình, nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu tóm tất cả những đau khổ của một đời phụ nữ. Hạnh phúc gia đình – “cái thú vui nghi gia nghi thất”, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình yêu cũng không còn : “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn”. Ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa : “nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”.

+ Mọi cố gắng của Vũ Nương đều trở thành vô ích. Không thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đã tan vỡ, nàng đau khổ tuyệt vọng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong trắng, mượn nước sông để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng :

– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
”.

Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng, của một “kẻ bạc mệnh” đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Truyện cổ tích miêu tả việc tự tử của nàng như một hành động bột phát trong cơn tuyệt vọng : “Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước”. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, hành động ấy có nỗi đau khổ tuyệt vọng nhưng cũng có sự tham gia của lí trí. Có thể thấy rõ điều đó qua chi tiết nàng “tắm gội chay sạch” trước khi quyên sinh, và lời nguyền của nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ Nương thể hiện nỗi đau khổ của nàng đã lên đến tột cùng.

Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát, phụng dưỡng mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Câu chuyện về Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phụ quyền phong kiến đầy bất công.

3. Nhân vật Trương Sinh :​

3.1. Trương Sinh là “con nhà hào phú, nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là tình yêu, mà chỉ là “mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mống bi kịch của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo : Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, lấy Trương Sinh là “được nương tựa nhà giàu”. Vũ Nương sẽ là nạn nhân của một chế độ đầy bất công.

3.2. Trong đời sống vợ chồng, Trương là người chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”.

3.3. Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về và đối diện với nỗi mất mát : mẹ già thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua đời.

Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con, “đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói “Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra thành hai phần, phần sau thông tin càng “ghê gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai người cha, người cha – Trương Sinh biết nói còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít” ? Sau đó lại thêm những thông tin : “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu : “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người ta không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi gian phu dâm phụ, huống chi là Trương Sinh : “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. (Cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo.)

Tuy nhiên, điều đáng trách là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động một cách quá nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la um lên cho hả giận”. Chàng không còn bĩnh tĩnh để phân tích, phán đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì”. Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột : kể lại câu chuyện của đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan khi nhất quyết “giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng, đã trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo : “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Hàng động ấy đã bức tử Vũ Nương, đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn “giận là nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.

Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán, chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.

4. Những yếu tố kì ảo :​

Truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường, Trương Sinh tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã là có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương đã được giải. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới.
4.1. Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức hấp dẫn của đoạn truyện này, trước hết và chủ yếu, là ở những yếu tố hoang đường, yếu tố kì ảo : Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh ; Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương ; câu chuyện Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung ; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế ; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với “một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi sau đó “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” trong chốc lát. Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu tố hoang đường, nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực bởi tác giả đã khéo kết hợp với những yếu tố thực về địa danh , về thời điểm lịch sử, sự kiện và nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương, câu chuyện của Phan Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất.

4.2. Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo :​

+ Trước hết, những yếu tố kì ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng :

– Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày
”.

Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khao khát được phục hồi danh dự : “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
+ Điều quan trọng hơn, là những yếu tố kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân về lẽ công bằng : người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng.
Tuy nhiên, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, mà điều chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế đôï phong kiến.
So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình.

C. Tổng kết :​

“Chuyện người con gái Nam Xương” khẳng định nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và kịch.
Thêm
587
0
0
Dàn ý phân tích nhân vật Vũ Nương chi tiết để làm rõ phẩm chất và số phận bi thảm của nàng, đồng thời cũng để có thể thấy được vẻ đẹp của nhân vật.

lập dàn ý phân tích nhân vật vũ nương

1. Mở bài

- Tác giả, tác phẩm
- Vấn đề nghị luận: phân tích vẻ đẹp của nhân vật vũ nương, phân tích nhân vật vũ nương để làm rõ phẩm chất và số phận bi thảm của nàng

2. Thân bài

a) Ý chính phân tích nhân vật vũ nương chi tiết


- Hoàn cảnh sống:

+) Xã hội: phong kiến, chiến tranh xảy ra, trọng nam khinh nữ
+) Gia đình: không có bình đẳng về giai cấp, vợ chồng sống xa nhau vì chiến tranh, tính cách hai vợ chồng trái ngược nhau

- Người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp:

+) Thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp
+) Chung thủy với chồng, thấu hiểu nỗi khổ và nguy hiểm mà chồng phải đối mặt ở nơi chiến tuyến => quyết chờ chồng
+) Thương con, bù đắp thiếu thốn tình cảm của cha cho con bằng cách chỉ vào cái bóng mình ở trên tường
+) Trọng nhân phẩm, tình nghĩa

- Số phận bất hạnh, hẩm hiu

+) Chồng đi lính, trở thành trụ cột của gia đình (chăm con nhỏ, phụ dưỡng mẹ già)
+) Khi chồng trở về, bị chồng nghi oan tấm lòng chung thủy, đánh đuổi, mắng nhiếc phũ phàng
+) Ở thủy cung nàng luôn nhớ về nhân gian nhưng không thể trở về

- Nghệ thuật

+) Tạo tình huống thử thách nhân vật
+) Khắc họa nhân vật qua ngoại hình, hành động, đối thoại, tư tưởng,...
+) Yếu tố kì ảo: thủy cung, hiện lên trên sông

b) Giá trị nhân đạo

- Niềm thương cảm với số phận của người phụ nữ đầy oan nghiệt ở xã hội phong kiến bấy giờ
- Khẳng định phẩm chất của người phụ nữ: hiếu thảo, thủy chung, nhân hậu,...
- Lên án, tố cáo: chiến tranh phi nghĩa, trọng nam khinh nữ, gia trưởng, bình đẳng giới,...

3. Kết bài:

- Tác giả, tác phẩm
- Vấn đề nghị luận (cảm nghĩ bản thân)
Thêm
Dàn ý phân tích nhân vật Vũ Nương
733
0
0
“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện được rút ra từ trong tập "Truyền kì mạn lục" của Nguyễn Dữ. Câu chuyện kể về cuộc đời bi thảm của người con gái nhan sắc, đức hạnh, nhưng lại bị những định kiến hà khắc của xã hội chà đạp.

Kể lại chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em

Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện cảm động kể về một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu một nỗi oan ức lớn đến mức phải gieo mình tự vẫn nơi bến sông chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Câu chuyện mà người ta vẫn thường kể nhau nghe ấy mang tên “Vợ chàng Trương”, nhưng kết cục của câu chuyện dân gian này lại vô cùng bi thảm.

Vì tiếc thương cho nàng người phụ nữ nết na nhưng lại bạc mệnh, Nguyễn Dữ đã mượn cốt truyện trên để viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Những chi tiết trong truyện hầu như vẫn được giữ nguyên về cơ bản, nhưng ông đã thể hiện tinh thần nhân đạo của mình bằng cách tạo nên một cái kết đẹp hơn cho người phụ nữ cao đẹp ấy.
Thêm
389
0
2

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Sơ đồ tư duy về nhân vật Vũ Nương

sơ đồ tư duy nhân vật vũ nương.jpg


Sơ đồ tư duy tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương


2 chuyen nguoi con gai nam xuong.png



Sưu tầm
 
Đề bài phân tích tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" là đề cơ bản và thường xuất hiện. Để bài làm đạt điểm cao, đặc biệt với các bạn học ban Tự nhiên thì nắm dàn ý phân tích tác phẩm là rất quan trọng. Hãy ghi lại những nội dung chính của dàn ý chuẩn bị trước nhé.

Mở bài

- Giới thiệu sơ lược tác giả, dẫn dắt vào tác phẩm “chuyện người con gái nam xương”

Thân bài dàn ý phân tích chuyện người con gái Nam Xương


Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm “chuyện người con gái nam xương”
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ

+ Nguyễn Dữ là một trong những người thuộc tầng lớp trí thức, học rộng tài cao. Ông làm quan dưới thời nhà Mạc loạn lạc và thối nát nên cảm thấy bất mãn với thời cuộc. Sau đó, ông về Thanh Hóa sống ẩn cư với công việc viết sách và mất tại đó.
+ Truyền kì mạn lục là một trong những tác phẩm hay và ý nghĩa nhất trong Văn học Việt Nam được Nguyễn Dữ chấp bút.

- Tác phẩm “chuyện người con gái nam xương”

+ “Chuyện người con gái nam xương” là một câu chuyện liêu trai với nhiều chi tiết hư cấu. Thế nhưng chính những tình tiết hư cấu ấy đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và giải được nỗi oan khuất của nhân vật Vũ Nương.


Phân tích nhân vật Vũ Nương

- Những phẩm chất tốt đẹp và cuộc đời của nhân vật Vũ Nương
+ Vũ Nương là người con gái có tính tình nết na, thùy mị, tư dung tốt đẹp, nhân cách thanh cao.

- Vũ Nương lấy chồng là Trương Sinh, chàng ta là công tử nhà hào môn, tính cách hay đa nghi, nông cạn, học thức thấp kém. Thế nhưng Vũ Nương chưa bao giờ để vợ chồng phải bất hòa.

- Khi tiễn chồng đi lính: nàng không màng vinh hiển, công danh sự nghiệp mà chỉ hy vọng chồng bình an trở về đoàn tụ.
- Vũ Nương khi xa chồng vẫn luôn giữ gìn khuôn phép, chung thủy “Nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn nổi”.
- Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo, làm tròn bổn phận với mẹ chồng:

+ Trong suốt 3 năm khi chồng đi lính, nàng một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo.
+ Khi mẹ chồng bệnh, nàng thuốc thang, lễ bái thần phật và dùng những lời lẽ khôn khéo khuyên lơn mẹ chồng.
+ Khi mẹ chồng mất, Vũ Nương hết lời thương xót, ma chay lễ tế cẩn trọng, chu toàn.

- Vũ Nương còn là người mẹ hiền, yêu thương, chăm sóc con hết mực:

+ Nàng sợ con buồn vì thiếu vắng cha nên ban ngày làm mẹ, tối đến lại chỉ bóng mình trên tường mà nói là cha, để đứa con giảm bớt sự mong nhớ cha.

Nỗi oan và bi kịch của nhân vật Vũ Nương

- Trương Sinh đi lính về tin lời con nghĩ rằng vợ ngoại tình nên không tiếc lời mắng nhiếc, nhục mạ nàng.
- Nàng đau đớn và tuyệt vọng trước thái độc và cách đối xử tàn nhẫn của chồng.
- Vũ Nương chịu oan khuất không thể giải thích, quá uất ức nên nàng chọn cách nhảy sông Hoàng Giang tự vẫn để bày tỏ sự trong sạch.


Phân tích nhân vật Trương Sinh

- Trương Sinh là con nhà hào môn, có chức quyền nhưng ít học, tính lại hay đa nghi, ghen tuông.
- Trương Sinh đại diện cho xã hội phong kiến bất công, bất bình đẳng, với sự thế chỉ nghiêng về danh lợi và xem thường công lý, đối xử bất công và tàn nhẫn với vợ.
- Cho đến lúc hiểu ra mọi chuyện, tin vợ bị oan thì sự ăn năn hối hận của Trương Sinh cũng rất mờ nhạt.

Giá trị nội dung


- Hiện thực: phê phán xã hội phong kiến đối xử bất công và tàn nhẫn với người phụ nữ.
- Nhân đạo: cảm thông và ca ngợi vẻ đẹp vô giá của những người phụ nữ đức hạnh.

Giá trị nghệ thuật

- Cốt truyện mới lạ, sử dụng những tình tiết hư cấu để làm nổi bật vẻ đẹp và cốt cách của nhân vật.
- Xây dựng tình huống truyện éo le, bi kịch và nhiều tình tiết cao trào, hấp dẫn người đọc.

Kết bài

- Tóm tắt lại tác phẩm và ý nghĩa của tác phẩm
- Nêu lên cảm nghĩ của em về tác phẩm
Thêm
396
0
0
“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc thiên thứ 16 của Truyền kì mạn lục, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên “Vợ chàng Trương.”

Dưới đây là tổng hợp tất tần tật về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

TÓM TẮT TÁC PHẨM "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG"
SOẠN VĂN CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG


NỘI DUNG TÁC PHẨM "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

NỘI DUNG TỪNG ĐOẠN TRONG "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG"

DÀN Ý CỦA "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG"

"Chuyện người con gái Nam Xương" trích trong tác phẩm văn học nào của Nguyễn Dữ

Thái độ của tác giả thể hiện trong "Chuyện người con gái Nam Xương"
Sơ đồ tư duy và kể lại chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em

NHỮNG ĐỀ BÀI, ĐỀ THI THƯỜNG GẶP

  1. Một số đề Đọc – hiểu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ
  2. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
  3. Phân tích nhân vật Vũ Nương
  4. Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
  5. Vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Dữ)
  6. Số phận bi kịch của Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ
  7. Phân tích tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương” mới nhất
  8. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ)
  9. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
  10. Ý nghĩa chi tiết cái bóng "Chuyện người con gái Nam Xương"

Còn nữa...
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
649
1
0
“Chuyện người con gái Nam Xương” kể về cuộc đời đầy oan khuất của một người thiếu phụ tên là Vũ Nương. Nàng là một người con gái tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh trở về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang bi bô tập nói, ngây thơ kể với chàng về người cha đêm đêm vẫn thường đến nhà nó. Vốn có tính hay ghen, nay càng thêm hiểu lầm, Trương Sinh nghi là vợ hư, về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi vợ đi. Vũ Nương đã hết lời giải thích nhưng không được.

Phẫn uất, nàng chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, chàng lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện về giữa dòng sông lúc ẩn, lúc hiện rồi biến mất.

--------
Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương
Thêm
689
0
1

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Tóm tắt 2:

Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Chồng nang là Trương Sinh phải đi lính sau khi cưới ít lâu. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng đau...
 
Một trong những đề tài thường xuyên được khai thác trong các tác phẩm văn học là số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Bởi lẽ, hình ảnh của Vũ Nương được khắc họa vô cùng chân thực qua nghệ thuật kể chuyện tài tình của nhà văn Nguyễn Dữ.

xkk (17).png


Đề: Em hãy viết bài văn để thể hiện suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ

BÀI LÀM MẪU

Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông học rộng tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất lực trước thời đại suy yếu của phong kiến. Có thể nói “truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, trong đó “Chuyện người con gái Nam Xương” dựa trên tích truyện dân gian nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và lòng yêu con người tha thiết, Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương cho cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số phận bất hạnh.

Mở đầu trang truyện, tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một người con gái: “thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp”. Mặc dù con nhà nghèo lấy chồng giàu lại có tính đa nghi ít học nhưng do hiền lành nết na lại thông minh, khéo cư xử nên nàng đã san bằng được khoảng cách “môn đăng hộ đối” - một quan điểm nặng nề của lễ giáo phong kiến và giữ được không khí trong gia đình yên ấm, hạnh phúc “chưa từng xảy ra thất hòa”. Có thể nói cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu con. Trước hết, Vũ Nương là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son sắc với chồng. Sống dưới thời loạn lạc vì không có học nên tên Trương Sinh phải ghi vào sổ lính loại đầu. Trong buổi tiễn đưa chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết “chàng đi chuyến này thiếp chả dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Đọc đến đây, người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị của Vũ Nương. Đằng sau niềm khao khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài cám dỗ vật chất tầm thường “vinh hoa phú quý”. Yêu thương chồng, nàng mong mỏi ngày chàng bình yên trở về bởi hơn hết trong lòng nàng cái khát khao lớn nhất là được hưởng thú vui “nghi gia nghi thất” vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn, nàng được làm trọn và hưởng hạnh phúc làm mẹ, làm vợ, Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận, tình cảm của nàng luôn hướng về Trương Sinh. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” là hình ảnh thiên nhiên hữu tình gợi sự trôi chảy của thời gian đã khiến cho “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Vào mỗi buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là cha Đản, việc làm ấy của nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói với con mà còn là lời nói với mình lòng mình để tự an ủi mình, nàng tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc nào cũng có hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cô đơn trống trải trong lòng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng ngõ liễu tường hoa chưa hề bén góc vẫn một lòng một dạ với chồng Trương Sinh.

Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo. Trong lúc chồng đi vắng, nàng gánh vác mọi công việc, vượt cạn một mình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ mà không một lời kêu than phàn nàn. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng thương xót lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình. Lời của mẹ chồng trước lúc lâm chung “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tố con cháu đông đàn xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ” đã minh chứng cho tấm lòng yêu thương chân thành của người con có hiếu. Nàng là người mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ con, vào mỗi buổi tối nàng thường chỉ cái bóng trên vách và bảo là cha Đản không chỉ để nô đùa cùng con mà còn mong con luôn nhớ tới hình bóng của người ba, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm. Khi bị vu oan, Vũ Nương đã hết lời tha thiết, thanh minh thề non nguyện biển nhưng không được, nhân phẩm trong trắng bị xúc phạm nặng nề bởi nỗi nhơ thất tiết, nàng đã phải chọn cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của mình. Mặc dù khát khao được sống được hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để bảo vệ nhân phẩm - cái mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu, bao dung, ở dưới thủy cung được sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa người với người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về gia đình, chồng con, Câu nói của nàng với Phan Lang khiến người đọc rưng rưng nước mắt “… ngựa hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam, tôi tất phải tìm về có ngày”. Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã đẩy nàng vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn, vẫn nhân hậu vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh.

Nhưng hỡi ơi! Thương thay cho số phận oan nghiệt của Vũ Nương, một người phụ nữ cả đời hy sinh để mong muốn được hạnh phúc như Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất, không được hưởng những gì mình đã hi sinh. Nàng phải gặp tình duyên ngang trái khi nàng vẫn còn xuân. Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương, người phụ nữ nhan sắc đức hạnh lại phải lấy Trương Sinh - một kẻ vô học, hồ đồ, vũ phu. Thương tâm hơn khi người chồng đó còn có tính đa nghi đối với vợ lúc nào cũng “phòng ngừa quá sức”, lấy chồng chưa được bao lâu, nàng đã phải tiễn biệt chồng lên đường đánh giặc. Trương sinh đi lính để lại gánh nặng cho người vợ trẻ, Vũ Nương thay chồng nuôi mẹ và con. Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong căn nhà trống vắng cô đơn. Đọc đến đây, người đọc không khỏi chạnh lòng xót thương cho cho cảnh người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại. Việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về nhưng Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp chỉ vì chuyện “chiếc bóng” qua miệng đứa con thơ mới tập nói mà Trương Sinh đã “đinh ninh” là vợ hư liền mắng nhiếc, đuổi Vũ Nương đi. Trương Sinh bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rướm máu, lời biện bạch của họ hàng, làng xóm. Nàng đã bị chồng đẩy vào bi kịch bị ghép ngay vào tội không chung thủy, một trong những tội bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa nhất của người phụ nữ phong kiến thời xưa. Nhân phẩm mà nàng coi trọng nhất, quý giá nhất và ra sức giữ gìn thì nay lại bị xúc phạm nặng nề, có thể khẳng định nỗi đau mà nàng phải gánh chịu là quá lớn, nàng đã bị đẩy vào bước đường cùng vào vực thẳm của cuộc đời, nàng phải chọn cái chết trong khi nàng vẫn khao khát được hưởng hạnh phúc gia đình.

Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng là lời nói ngây ngô, vô tình của con trẻ “Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi ư? ông lại biết nói chứ không như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít… đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” đã làm thổi bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lòng Trương Sinh, không đâu khác, chính là do chồng nàng – Trương Sinh, một kẻ hồ đồ phũ vu lại ghen tuông, độc đoán, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh là vợ hư, bỏ mặc ngoài tai những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, để rồi đẩy Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau trang văn, truyện còn nói lên do lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” và sự bất bình đẳng của kẻ giàu và người nghèo. Đồng thời, còn do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây lên cảnh sinh ly, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương phải chịu nỗi oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm, oan khuất. Tất cả những nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng phải chọn cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình, cái chết của Vũ Nương chính là tấm bi kịch đau thương, cái chết oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người.

Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã vượt lên tư cách một bản lề của truyện cổ tích, “Vợ chồng Trương” bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn Dữ, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất ngờ, tạo nên kịch tính cho câu chuyện với lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành công của truyện hơn tất cả là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng thêm tính hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương - một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Đó là một phụ nữ hoàn hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống như Vũ Nương trong xã hội phong kiến xưa còn có biết bao thân phận của người phụ nữ phải sống trong cảnh đời như vậy như hình ảnh của người phụ nữ trong bài thơ “bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non"

Hay trong “truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"

Tóm lại, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng văn hay - tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Truyện vừa thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa có ý nghĩa cơ ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha - tiêu biển là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ đang phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ - những người phụ nữ hiện đại phải được sống bình đẳng, được mọi người tôn trọng như nam giới.


Các bạn có thể xem thêm các bài cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
666
0
0
Vũ Nương, người phụ nữ có số phận bị thương trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ đã mang đến nhiều cảm xúc cho độc giả. Vừa xót xa lại vừa thương cảm trước phận má hồng hẩm hiu, chịu nhiều vất vả lẫn đau thương là những gì mà nhà văn Nguyễn Dữ đã mang đến trong tác phẩm đặc biệt này.

dn (1).png


Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương”
BÀI LÀM MẪU

Vũ Nương, người phụ nữ có số phận bị thương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã mang đến nhiều cảm xúc cho độc giả. Vừa xót xa lại vừa thương cảm trước phận má hồng hẩm hiu, chịu nhiều vất vả lẫn đau thương là những gì nhà văn Nguyễn Dữ đã mang đến trong tác phẩm đặc biệt này.

Nguyễn Dữ, một học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm quan. Một năm sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già mà xin từ quan. Trong những ngày sống "cảnh điền viên vui tuế nguyệt", ông viết "Truyền kỳ mạn lục", một tác phẩm văn xuôi đầu tiên của văn học cổ Việt Nam gồm những truyện có những chi tiết li kì. Phần lớn ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam phải sống trong khuôn mẫu "tam tòng, tứ đức" của đạo đức phong kiến, mà "Chuyện người con gái Nam Xương" là một.

Truyện kể lại Vũ Thị Thiết vâng lời cha mẹ làm vợ Trương Sinh, một người kém học, đất nước gặp cảnh đao binh nên Trương Sinh phải ra trận. Một tuần sau, Vũ Nương sinh con đầu lòng. Một mình chị chăm lo mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng chết, nuôi dạy con và lo công việc đồng áng. Giặc tan, Trương Sinh về, nghe lời con mà nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm mình xuống sông. Nàng được hoàng hậu ở động Rùa giúp đỡ. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu hoàng hậu ở động Rùa. Phan Lang về kể lại cho Trương Sinh nghe. Trương Sinh hối cải lập đàn cầu xin theo lời của nàng. Nàng hiện lên gặp chồng con nhưng lại quay về sống ở động Rùa vì hai người ở hai thế giới khác biệt.

Cũng như truyện cổ, những kho truyện của Trung Hoa có ảnh hưởng nhiều đến nhà Nho đương thời (thế kỉ XVI). "Thiếu phụ Nam Xương" cũng có hai tuyến nhân vật, có những hoàn cảnh điển hình, có người giàu kẻ nghèo ở trong xã hội đang thời loạn lạc, nhiễu nhương. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào thì người tốt vẫn không hề thay đổi bản chất của mình, mà Vũ Thị Thiết là nhân vật tiêu biểu. Vũ Nương nhà nghèo nhưng "tư dung tốt đẹp", "thuỳ mị, nết na". Thời phong kiến, con gái "tại gia tòng phụ" để có "công, dung, ngôn, hạnh", Vũ Nương được như thế chứng tỏ nàng có sắc đẹp (dung) trời cho nhưng "thuỳ mị, nết na" thì ắt là do sự giáo dục của gia đình.

Nàng nghèo nhưng không mất nề nếp gia phong. Trái lại "Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng không có học". Một loạt các nhân vật tốt xuất thân từ những hoàn cảnh sống khác nhau như mẹ chồng, người láng giềng Phan Lang, hoàng hậu động Rùa Linh Phi ... đủ chứng tỏ giàu nghèo tuy có ảnh hưởng đến hình thức sống nhưng khó thay đổi được bản chất của họ.

"Nam Xương tử nữ truyện" không chỉ giới thiệu những nhân vật tốt, xấu ấy mà còn thông qua họ Nguyễn Dữ muốn đề cao sự chung thuỷ và lòng bao dung luôn được nhân vật này thể hiện trong từng lời nói đến từng sự việc. Vâng lời cha mẹ chịu lấy Trương Sinh làm chồng, nàng đã trước sau như một làm người con hiếu thảo. Không chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột. Vũ Nương còn hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng một mình đã lo toan đỡ đần mẹ chồng lúc ốm đau, rồi mẹ chồng chết lại lo chôn cất. Người phụ nữ có con mọn như nàng mà vẫn chu toàn những công việc nặng nhọc ấy thay chồng mà không tiếng kêu than thì quả thật là hiếm có. Mẹ chết, một mình ở vậy nuôi con chờ ngày chồng trở về thì bảo nàng không chung thuỷ sao cho được?! Chồng với vợ như bóng với hình, nàng đã mượn chiếc bóng của mình để an ủi con, muốn đứa con nhỏ dại luôn nghĩ rằng mình cũng là đứa trẻ có cha. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ, nàng đã bao lần hỏi rõ dù bị dằn vặt, chửi mắng, đánh đập. Nàng đã từng tâm sự với chồng: "Thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu ... Đâu có hư thân như lời chàng nói. Khi nhận thấy không thể nào xoá tan được mối nghi ngờ nhục nhã, hạ thấp phẩm giá một cách oan khuất, nàng đã quyết định tự trẫm mình, mượn dòng nước trong để rửa sạch những oan khiên. Xét cho cùng, kiên quyết bảo toàn danh dự của con người cũng là lòng chung thuỷ sắt son! Lại nữa khi gặp được Phan Lang, người hàng xóm tốt bụng ở động Rùa, Vũ Nương vẫn không quên chồng khi nàng tâm sự cùng Phan Lang và nhờ Phan Lang về nói lại với Trương Sinh yêu cầu của nàng, điều đó vừa thể hiện sự chung thuỷ, vừa tỏ ra bao dung đối với Trương Sinh.

Cả đến Phan Lang, hoàng hậu Linh Phi cũng đều là những người có lòng bao dung, chung thuỷ. Chỉ riêng có Trương Sinh là có lòng ích kỉ, hẹp hòi, tối dạ vì thuở nhỏ không lo chuyện sách đèn. Chỉ cần nghĩ đến công lao của vợ lúc chàng đang ở ngoài mặt trận, chỉ cần sống gần gũi với láng giềng, chỉ cần có lòng tin vào lòng chung thuỷ của vợ thì nghi vấn xuất phát từ lời nói của con nít "Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng..." đã được giãi bày để rồi vợ chồng lại sống trong cảnh đầm ấm, thương yêu.

Một nội dung khác thật rõ ràng trong chuyện là ân oán phân minh. Vũ Nương là người phụ nữ, có lẽ mang đặc tính ấy trong cuộc sống. Vì lẽ đó, khi nàng không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi chồng biểu lộ ấy thì nàng tự biểu lộ. Cái chết của nàng hàm chứa ý nghĩa ấy, làm cho Trương Sinh phải nhận ra ân tình nàng đã mang đến cho chàng và nỗi oan khiên mà nàng phải chịu. Trường hợp giữa hoàng hậu Linh Phi và Phan Lang cũng vậy. Hoàng hậu đã được Phan Lang cứu nên khi Phan Lang gặp nạn khi lên thuyền ra biển tránh sự truy đuổi của quân giặc thì đã được Linh Phi hết lòng cứu chữa, lại thếp tiệc đãi, tặng thêm ngọc ngà ... trước khi tiễn chân chàng trở về làng quê.

Như thế, ngay truyện ngắn thuộc văn viết, dù là chữ Hán trong buổi sơ khai cũng đang mang hoàn cảnh điển hình, con người điển hình của đời thường vào tác phẩm; cũng có đầy đủ người giàu, kẻ nghèo, hỉ - nộ - ái - ố với kết thúc có hậu ở nội dung là ở hiền gặp lành.

Truyện có rất nhiều chi tiết nhưng được liên kết bởi quan hệ nhân quả nên có kết cấu khá chặt chẽ. Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ đã khéo léo giới thiệu Vũ Thị Thiết và Trương Sinh, hai nhân vật chính có hoàn cảnh, tính cách trái ngược nhau để làm cơ sở cho việc khai thác nhân vật sau này. Tính tình, hoàn cảnh sống trái ngược nhau nhưng lại nên vợ nên chồng chỉ vì vâng lời cha mẹ. Quan hệ nhân quả thể hiện từ đầu. Từ đó, quan hệ nhân quả của hai nhân vật diễn ra một cách tự nhiên, hợp lý. Vì nước có loạn binh đao nên chàng mới ra trận. Vì chàng vào nơi gió cát nên nàng phải nặng gánh giang san nhà chồng. Vì con thơ nói đến cha nên mẹ đã mượn cái bóng của mình thay thế; cho con đỡ hổ thẹn với bạn bè. Vì nghe lời con trẻ nên Trương Sinh mới nghi ngờ vợ ... Chuỗi nguyên nhân và kết quả đầy kịch tính ấy đã dần đến đỉnh điểm là Vũ Nương quyết định trầm mình. Nếu chuyện kết thúc ở đây thì quả là bi đát, không có hậu. Có lẽ vì thế mà những chi tiết thần kỳ được thêm vào. Ấy là Phan Lang nằm mơ thấy con rùa xanh kêu cứu. Rồi Phan Lang nhớ lại và thả rùa để rồi sau đó là được rùa cứu mạng trả ân và gặp Vũ Nương ở động Rùa. Những chi tiết thần kỳ ấy ở vào thời buổi mà vua quan, thần dân đều tin vào sự hiện hữu của Trời, Thần, Quỷ, Ma... giống như trong những truyện cổ thì cũng là điều không mấy ngạc nhiên. Có những chi tiết đó, Vũ Nương mới gặp được chồng để giải mối oan khiên, nhục nhã nhất của đời làm vợ. Và dù ra đời sau ''Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn ba thế kỷ, "Nam Xương tử nữ truyện" vẫn còn những câu văn biền ngẫu cổ xưa.

Dù có những hạn chế ấy nhưng truyện Người con gái Nam Xương không những có giá trị đạo lý, lịch sử (phản ánh sự rối ren của xã hội phong kiến) mà cũng có giá trị nghệ thuật xây dựng truyện.

Cho tới nay, "Người con gái Nam Xương" vẫn còn lôi cuốn người đọc. Giữa xã hội nam nữ bình quyền thì nó là cột mốc để so sánh vai trò của người phụ nữ trong văn học xưa và nay. Giữa xã hội suy đồi về đạo đức, nhất là với nữ giới thì nội dung truyện là một bài học đạo đức truyền thống tốt.

Thế nên, phải thật sự khâm phục tài năng sáng tác của Nguyễn Dữ. Tác giả đã mang đến những trải nghiệm tuyệt vời cho người đọc bằng việc khắc họa nên hình ảnh của Vũ Nương cũng là linh hồn và cảm hứng tạo nên mạch truyện.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương” mới nhất
768
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top