Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
1. Mở bài:

- Hình ảnh người lính....

- Bài thơ đã giúp ta cảm nhận được biểu hiện và biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội. Điều đó được thể hiện qua khổ 2 và khổ 3 của bài.

2. Thân bài

a. Khái quát chung:

- Bài thơ được sáng tác vào đầu năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947).

- Ở 7 câu thơ đầu, tác giả lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí. Tình đồng chí đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó, tương đồng về giai cấp. Tình đồng chí, đồng đội nảy sinh khi họ cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội càng bền chặt trong những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến.

- Và đến những khổ thơ sau Chính Hữu tiếp tục viết về tình cảm ấy mà cụ thể là biểu hiện và biểu tượng của tình đồng chí, đồng đội.

* LĐ 1: Trước hết, biểu hiện của tình đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lunglay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

- “Ruộng nương” là tài sản quý giá nhất của người nông dân. Khi anh lên đường ruộng nương ấy phải gửi lại cho bạn thân cày. Điều đó cho thấy gia đình anh rất neo người.

- “Gian nhà không” là hình ảnh rất bình dị gợi gian nhà trống trải không có đồ đạc gì đáng kể. Từ láy “lung lay” giúp ta hình dung được trạng thái không vững chắc. Câu thơ đã giúp ta cảm nhận được gia cảnh của anh rất nghèo khó. Mặc dù là trụ cột trong gia đình, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc các anh vẫn vững bước lên đường bảo vệ quê hương.

- Cái hay trong câu thơ tác giả sử dụng từ “mặc kệ” diễn tả thái độ lạnh lùng, dứt khoát nhưng hoàn toàn tự nguyện.

- Các anh lên đường chiến đấu bỏ lại sau lưng những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ. Các anh đã gạt bỏ nỗi niềm riêng, hi sinh lợi ích cá nhân để hướng tới mục đích cao cả của dân tộc. Thái độ lạnh lùng, dứt khoát ấy ẩn chứa lí tưởng sống cao đẹp sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do. Và đó cũng là lí tưởng chung của thế hệ thanh niên lúc bấy giờ. Giống như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng, lá rơi đầy.

- Khi ra chiến trường họ luôn nhớ vê quê hương với một tình yêu trọn vẹn:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

- “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh hoán dụ là biểu tượng của làng quê, nơi ấy có hậu phương vững chắc.

- Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa “nhớ” để diễn tả tình cảm nhớ nhung da diết của những người mẹ, người vợ, người yêu dành cho người lính. Câu thơ còn kín đáo thể hiện nỗi niềm của các anh dành cho những người ở hậu phương.

- Hai chiều thương nhớ được gửi gắm trong cùng một hình ảnh: người ở quê nhà nhớ người ra tiền tuyến, giữa chiến trường ác liệt người lính tha thiết nhớ về quê hương. Quả thật, giữa người chiến sĩ và quê hương có mỗi giao cảm vô cùng sâu sắc, đậm đà. Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa, đạn bom.

- Gia cảnh, nỗi niềm của anh được giới thiệu qua lời kể của tôi bằng giọng khách quan mà nặng trĩu tâm tình. Điều đó cho thấy tôi và anh rất hiểu nhau. Hiểu bạn như hiểu chính mình là biểu hiện đầu tiên của tình đồng chí.

* Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, chia sẻ những khó khăn thiếu thốn của cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

- Cụm từ “Anh với tôi” lặp đi lặp lại để diễn tả tình cảm gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính.

- “biết” là cùng nhau nếm trải, cùng nhau chịu đựng, chia ngọt sẻ bùi. Có nỗi đau nào của anh mà tôi chưa từng trải qua, có nỗi khổ nào của anh mà tôi chưa từng biết đến. Chính sự chia sẻ gian lao ấy khiến người lính càng hiểu và gắn bó với nhau hơn.

- Họ đã cùng nhau vượt qua căn bệnh sốt rét rừng – một căn bệnh quái ác mà bất cứ người lính nào khi nhớ lại cũng phải giật mình, kinh sợ. Hai trạng thái đối lập ngoài nóng, trong lạnh đã diễn tả hoàn cảnh sống khó khăn thiếu thốn của những người lính trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ như một lời kể nhưng lại gieo vào lòng người đọc biết bao nhiêu thương cảm.

- Trong suốt chặng đường bảo vệ Tổ quốc, các anh không chỉ thiếu thuốc men mà còn thiếu quân trang, trang phục:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

- Chính Hữu không tô hồng hay thi vị hóa mà miêu tả rất chân thực hoàn cảnh chiến đấu của những người lính bằng nghệ thuật liệt kê: áo của anh bị rách vai, quần của tôi có vài mảnh vá, chân không giày. Những hình ảnh bình dị được đưa vào thơ một cách tự nhiên giống như vẻ đẹp mộc mạc của người lính.

- Thời tiết mùa đông giá lạnh, những người lính mặc trang phục phong phanh, sơ sài, trèo đèo lội suối vượt qua rừng thiêng nước độc.

- Những câu thơ sóng đôi, đối ứng với độ dài ngắn khác nhau đã diễn tả độ gập ghềnh, gian khổ mà người lính phải đối mặt trên đường ra trận.

- Gian khổ là thế, các anh vẫn nở nụ cười ngạo nghễ “Miệng cười buốt giá”. Tác giả sử dụng hình ảnh đối lập: “miệng cười” tượng trưng cho tình thần lạc quan, “buốt giá” tượng trưng cho khó khăn gian khổ. Chính nụ cười, tinh thần lạc quan ấy đã xua đi vất vả gian lao, nâng bước chân người chiến sĩ trên đường ra trận.

* Tình đồng chí thể hiện qua sự gắn bó, truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh để những người lính cách mạng hoàn thành nhiệm vụ.

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

- Trời lạnh, nắm bàn tay mà ấm cả chân không giày thì thật sự chỉ có tình đồng chí đồng đội mới tạo ra phép lạ đó. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần.

- Chữ “thương” cất lên thật giản dị nhưng cũng đầy xúc động lòng người. “thương” là vị muối của tình người, là chất keo của sự gắn bó, là cốt lõi của tình đồng chí đồng đội. Vì thương nên người lính càng gắn bó, gẫn gũi với nhau hơn.

- Đẹp nhất trong đoạn thơ là hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay”. Cái nắm tay nhẹ nhàng, bình dị mà ấm áp, bền chặt thể hiện tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn. Họ nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh vượt qua khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến. Họ nắm tay để truyền cho nhau ý chí, niềm tin, nắm tay để thay cho lời hứa quyết tâm chiến đấu chiến thắng kẻ thù. Cái nắm tay ấy thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của những người nông dân bước ra từ luống cày, thửa ruộng. Cái nắm tay ấy khiến ta liên tưởng đến cái bắt tay trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”

* LĐ 2: Khổ thơ cuối của bài, Chính Hữu đã xây dựng biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí, đồng đội.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

- Thời gian là đêm nay, không gian là rừng hoang, thời tiết sương muối khắc nghiệt. Câu thơ cho thấy hoàn cảnh gian khổ của người lính khi đứng gác trong đêm.

- “Chờ giặc tới” gợi lên tư thế chủ động chiến đấu với kẻ thù. Giữa cảnh núi rừng đêm đông, hoang vu, tĩnh mịch, các anh sát cánh bên nhau canh giữ đất trời. Các anh đứng cạnh bên nhau kết thành một khối sức mạnh tinh thần, sẵn sàng đối mặt với bom đạn của kẻ thù. Câu thơ như một bức thành đồng bất hủ về người lính tạc cả vào không gian và thời gian.

- Trong đêm phục kích giặc, người lính đã phát hiện ra hình ảnh rất đẹp:

“Đầu súng trăng treo”.

- Trăng là hình ảnh quen thuộc trong văn học Việt Nam. Tuy nhiên “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, mới lạ chỉ có trong thơ Chính Hữu.

- Câu thơ là sự kết hợp giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn:

+ Người lính đứng gác trong đêm, súng vác trên vai, ánh trăng sáng giữa trời như đang sà xuống. Nhìn qua đầu mũi súng ta có cảm giác đầu súng trăng treo.

+ Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở đây rất thơ mộng nối liền mặt đất với bầu trời.

- Nhịp thơ 2/2 kết hợp với động từ “treo” giàu sức gợi hình, gợi cảm giúp ta cảm nhận được trạng thái lơ lửng, chênh vênh như nhịp lắc của vầng trăng trên đầu mũi súng.

- Súng là biểu tượng của chiến tranh, trăng tượng trưng cho hòa bình. Hai hình ảnh đối lập đặt trong cùng một câu thơ để khẳng định mục đích chân chính của cuộc kháng chiến: Người lính cầm chắc cây súng để bảo vệ ánh trăng hòa bình, bảo vệ cuộc sống tự do, hạnh phúc.

- Sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn, chất chiến đấu và trữ tình đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ, trong chiến tranh ác liệt họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, mơ mộng lãng mạn hướng về tương lai tươi sáng.

=> Hình ảnh “đầu súng trăng treo” đã trở thành biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội, biểu tượng của thơ ca kháng chiến. Và phải chăng, cũng chính vì lẽ đó, Chính Hữu đã lấy hình ảnh này làm nhan đề cho cả tập thơ của mình – tập “Đầu súng trăng treo” – một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.



* LĐ chốt:

- Đoạn thơ không chỉ…

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm cảm xúc, cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn, giọng thơ tâm tình, thủ thỉ. Chính Hữu sử dụng ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, hình ảnh bình dị, cảm xúc dồn nén, các biện pháp tu từ hoán dụ, nhân hóa, liệt kê, ẩn dụ…. - Với những nghệ thuật ấy, tác giả đã khắc họa chân thực, cảm động một tình cảm lớn mang tính thời đại, đó là tình đồng chí thiêng liêng của những người lính cách mạng.

3. Kết bài

- Khép lại trang thơ….

- Ta còn nhớ đến vẻ đẹp và sức mạnh tình đồng chí, đồng đội của những người nông dân mặc áo lính.

- Ta còn cảm phục trước tài năng của nhà thơ Chính Hữu, càng thêm trân trọng, yêu mến những người lính bộ đội cụ Hồ và hơn cả là càng thêm tự hào về lịch sử oai hùng của dân tộc.

- Đoạn thơ còn đem đến cho ta những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tinh thần vượt khó, bài học về lòng yêu nước, về tình yêu quê hương.

- Là thế hệ trẻ, chúng ta cần….
Thêm
102
0
0
1. MB:

- Hình ảnh người lính là mảnh đất màu mỡ gợi cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ, nhà văn. Có nhiều tác phẩm thành công khi viết về mảng đề tài này, trong đó có “Đồng chí” của Chính Hữu.

- Bài thơ viết về vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp. Đặc biệt 7 câu thơ đầu đã giúp ta cảm nhận được cơ sở hình thành tình đồng chí.

(Chính Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ Chính Hữu giản dị, chân thật mà thấm đượm tình người,

những trang thơ của ông đã mở ra trong tâm hồn người đọc những cảm xúc khó quên về vẻ đẹp của những người lính nơi chiến trận. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Chính Hữu là "Đồng chí", bài thơ viết về tình đồng đội, đồng chí cao đẹp. Đặc biệt, trong 7 câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã tập trung làm sáng tỏ cơ sở hình thành nên tình cảm cao đẹp, thiêng liêng ấy)

2. TB:

* Khái quát chung:

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ….

- Mạch cảm xúc của bài thơ: Mở đầu bài thơ là cơ sở hình thành tình đồng chí. Sau đó tác giả phân tích những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí. Khép lại bài thơ là biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí đồng đội.

- Đây là bảy câu thơ đầu của bài thơ. Tác giả lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí. Tình đồng chí đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó, tương đồng về giai cấp. Tình đồng chí, đồng đội nảy sinh khi họ cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội càng bền chặt trong những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến.

* Cơ sở thứ nhất: Tình đồng chí, đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó.

- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

+ Thủ pháp sóng đôi, đối ứng được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm mới mẻ.

+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người “anh” và “tôi”.

+ Hình ảnh “quê hương anh”, “làng tôi” hiện lên với bao nỗi vất vả, gian lao.

+ Tác giả mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong những làn nước.

+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất.

=> “Quê hương anh” - “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ miền ngược nhưng đều khó làm ăn canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Như vậy những người lính đều xuất thân từ giai cấp nông dân, chung cảnh ngộ nghèo khó. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.

* Cơ sở thứ 2: Tình đồng chí được hình thành khi những người lính có chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập trái tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ chiến đấu vì độc lập tự do.

- Hình ảnh “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang nghĩa tả thực miêu tả những người lính kề vai sát cánh nơi chiến hào. Đồng thời câu thơ còn mang ý nghĩa tượng trưng diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ.

+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng cho ta thấy những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.

+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

- Điệp từ “súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.

- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh” - “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.

=> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

* Cơ sở thứ 3: Tình đồng chí được này nở, bền chặt trong những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiên.

- Bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

+“Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.

+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành “tri kỉ”.

+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.

- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ trên.

+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lựa chọn từ “đôi”. “đôi” cũng có nghĩa là hai, nhưng “đôi” thể hiện sự gắn bó khăng khít không thể tách rời.

+ Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu chính mình. Và tình tri kỉ ấy phát triển lên mức cao hơn là tình đồng chí.

- Câu thơ “Đồng chí!” được tách riêng ở một dòng thơ rất đặc biệt, chỉ gồm một từ, hai tiếng và dấu chấm than.

- Câu thơ như một sự phát hiện, một lời khẳng định, nhấn mạnh tình đồng chí là một tình cảm mới mẻ nhưng hết sức thiêng liêng cao đẹp, là sự kết tinh của tình bạn, tình người giữa những người lính nông dân trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.

- Đồng chí là tình cảm của những người cùng chung chí hướng, chung lí tưởng, cùng đứng trong hàng ngũ cách mạng. Nó còn trở thành tiếng gọi thiêng liêng không thể diễn đạt hết bằng lời. Tình đồng chí trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc để người lính vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù

- Câu thơ “Đồng chí” như một bản lề khép lại cơ sở hình thành và mở ra những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.

* LĐ chốt:

- Đoạn trích không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.

- Thành công của tác giả là sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm, cảm xúc, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, hình ảnh thơ giàu sức gợi hình, biểu cảm. Cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn, giọng thơ sâu lắng, xúc động như một lời tâm tình tha thiết.

- Ngoài ra tác giả còn sử dụng thành ngữ, biện pháp tu từ hoán dụ, điệp ngữ, đối xứng…

- Qua những nghệ thuật ấy, Chính Hữu đã giúp người đọc đi sâu khám phá, lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.

3. KB:

- Khép lại trang thơ về người nông dân mặc áo lính mà dư ba của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.

- Ta còn nhớ mãi về người nông dân mộc mạc, chân chất đã tạm biệt luống cày thửa ruộng để cầm súng bảo vệ quê hương.

- Ta còn nhớ mãi những nét chung của họ: chung cảnh ngộ, giai cấp, chung lí tưởng, nhiệm vụ, chung hoàn cảnh sống khiến những người nông dân gắn bó với nhau trở thành tình đồng chí.

- Tình đồng chí đã tồn tại và thật đẹp trong những trang thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng và xuyên suốt thời kì lịch sử dân tộc nói chung.

- Là học sinh….
Thêm
68
0
0
1. Tác giả:

+ Chính Hữu - Trần Đình Đắc (1926 - 2007), quê Hà Tĩnh.

+ Là nhà thơ trưởng thành từ K/C chống Pháp và sáng tác cả hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ.

- Phong cách: giản dị, mộc mạc nhưng rất hàm súc

- Đề tài: Chủ yếu viết về hình ảnh người lính.

2. Tác phẩm:

a. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ

- Sáng tác năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng chí, đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947.

- Xuất xứ: trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”

b. Bố cục:

- 7 câu đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.

- 10 câu tiếp: biểu hiện của tình đồng chí.

- 3 câu cuối: biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí.

c. Nội dung: - Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. Đồng thời bài thơ còn khắc họa hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ chân thực mà cao đẹp thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

d. Nghệ thuật:

e. Ý nghĩa nhan đề

- “Đồng chí” là nhan đề ngắn gọn, giàu ý nghĩa.

- “Đồng” là cùng, “chí” là chí hướng. Đồng chí là tình cảm của những người cùng chung chí hướng, chung lí tưởng, cùng đứng trong hàng ngũ chính trị.

- Đây là tình cảm của những người lính mới xuất hiện sau năm 1945. “đồng chí” thành xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội.

Ý nghĩa nhan đề:

- Nhan đề giống như một tiếng gọi thiêng liêng, tha thiết giữa những người lính không thể diễn đạt hết bằng lời. Đó là chỗ dựa tinh thần vững chắc để người lính vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

- Nhan đề góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm: Ca ngợi vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp.
Thêm
106
0
0
- Đồng chí là tên gọi của một tình cảm mới, đặc biệt, xuất hiện từ đầu thời kỳ kháng
chiến chống Pháp và phổ biến trong những năm cách mạng và kháng chiến.
- Tình đồng chí là cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính
cách mạng.
- Tên bài thơ gợi chủ đề tác phẩm: ca ngợi tình đồng chí của những người lính trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Thêm
88
0
0
hãy tưởng tượng em được gặp gỡ và trò truyện với anh bộ đọi cụ hồ trong bài thơ đồng chí của tác giả chính hữu. viết bài văn kể lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện
Thêm
421
0
1

Vanhoctre

Văn Học Trẻ
Thành viên BQT
19/8/19
804
680
362,999
Việt Nam
vanhoctre.com
Xu
1,338,895
Khi ai đó làm giúp bạn thì nó cũng đã thành bài làm trên mạng rồi mà?

Và hãy lưu ý, VHT chỉ hướng dẫn, sửa bài giúp chứ ko làm bài hộ.

Hãy tham khảo dàn ý và bài làm đã có.
 
Hãy tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Thêm
1K
3
2

Phong Cầm

Thạc sĩ lang thang ^^
17/5/21
890
911
363,000
33
Nam Định
forum.vanhoctre.com
Xu
7,469,529

Bài văn mẫu tham khảo: Nhập vai để kể lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện với người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu​

Hôm ấy ở trên lớp, tôi được học bài thơ "Đồng chí” của Chính Hữu Bài...
 
Các bạn học sinh sau khi tìm hiểu về bài thơ “Đồng chí” trong Ngữ Văn 9, tập 1 đã có rất nhiều câu hỏi gửi đến vanhoctre. Vì thế, bài viết này sẽ tổng hợp tất tần tật các câu hỏi cùng với câu trả lời để các bạn có thể hiểu và yêu thích bài thơ “Đồng chí” nhé!

TỔNG HỢP TẤT TẦN TẬT CÁC CÂU HỎI
VỀ BÀI THƠ “ĐỒNG CHÍ” – CHÍNH HỮU

Câu 1. Tác giả bài thơ "Đồng chí" là ai?

Câu 2. Bài thơ “Đồng chí” được viết theo thể thơ nào?

Câu 3. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Đồng chí”?

Câu 4. Nội dung và nghệ thuật chính trong bài thơ “Đồng chí”

Câu 5 Tại sao tác giả đặt tên cho bài thơ về tình đồng đội của những người lính là “Đồng chí”?

Câu 6. Hai câu thơ: Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá sử dụng biện pháp tu từ gì? Tác dụng của biện pháp tu từ đó?

Câu 7. Nêu một thành ngữ có trong bài thơ “Đồng chí” trên. Giải thích nghĩa của thành ngữ đó.

Câu 8. Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”, nêu tác dụng của biện pháp đó.

Câu 9. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Câu 10. Cấu trúc trong đoạn thơ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.../Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" có gì đặc biệt. Nêu hiệu quả của chúng trong việc thể hiện tình đồng chí giữa những người lính?

Câu 11. Trong câu thơ “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, vì sao Chính Hữu lại dùng từ “chờ” mà không dùng từ “đợi”?

Câu 12. Viết một đoạn văn (khoảng 12 câu, theo cách quy nạp) nói rõ vẻ đẹp của hình tượng thơ ở ba câu thơ cuối bài “Đồng chí”.
Thêm
1K
2
6

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
TỔNG HỢP TẤT TẦN TẬT CÁC CÂU HỎI
VỀ BÀI THƠ “ĐỒNG CHÍ” – CHÍNH HỮU

ĐÁP ÁN

Câu 10.

- Cấu trúc trong đoạn thơ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.../Thương nhau tay nắm lấy...
 
Bài thơ “Đồng chí” sáng tác vào năm 1948. Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954, nó đã làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu. Đặc biệt bộ đội rất thích bài thơ “Đồng chí”, bài thơ được chép vào sổ tay, ngâm ngợi ở nhiều đêm văn nghệ của đơn vị… Sau đó được đồng chí Minh Quốc phổ thành bài hát trong 1 đêm trăng, ca sĩ Quốc Hương hát nhiều lần bài hát này khắp các quân khu.

Chính Hữu nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đồng chí.png


Chính Hữu nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Đồng chí”

“Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và hành quân từ Bắc Cạn lên Thái Nguyên. Chúng tôi phục kích từng chặn đánh, truy kích binh đoàn Beaufre. Khi đó tôi là chính trị viên đại đội. Chiến dịch vô cùng gian khổ. Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phải có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại điều trị. Đơn vị cử một đồng chí ở lại chăm sóc tôi. Trong khi ốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ “Đồng chí”… Đó là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình.

Bài thơ "Đồng chí" được làm sau bài thơ "Ngày về". Tôi thấy lúc này làm thơ cao xa quá là vô trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình. Trong bài thơ "Đồng chí", tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. "Đồng chí" ở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã chết lâu rồi. Bài "Đồng chí" là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình. Bài thơ viết có đối tượng. Tôi hiểu và quý mến người đồng đội của tôi nên tiếng nói thơ ca giản dị và chân thật. Tuy nhiên "Đồng chí" không phải là bài thơ nôm na. Trước Cách mạng, tôi có làm một ít thơ. Trong thơ, tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa. Tôi mong có được sự hàm súc, cô đọng của lời thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình.

Tôi là lính của Trung đoàn Thủ đô. Tôi vào bộ đội ngày 19 - 12 - 1946. Bước vào cuộc kháng chiến, tuổi trẻ nhiều lúc bốc men say. Bài "Ngày về" phản ánh một mặt khía cạnh của tâm trạng tôi và bài "Đồng chí" cũng phản ánh một mặt của tình cảm tôi. Bài thơ được làm nhanh. Tôi làm để tặng bạn. Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh "nước mặn đồng chua” hoặc đất cằn cỗi sỏi đá. Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của tôi. Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật... bạn và tôi đều cùng trải qua. Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn bó trong tình đồng đội. Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm, ít có những chuyện đùng đoàng, chiến đấu. Tôi làm bài "Đồng chí" cũng là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào và nó cũng nằm trong tư duy thơ ca quen thuộc của tôi.

Bài thơ có những hình ảnh cô đúc như "đầu súng trăng treo". Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh "đầu súng" là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và "vầng trăng" tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viết, còn hình tượng thơ có thể gợi cho người đọc nghĩ thế là tùy ở các bạn. Vấn đề đối vối tôi đơn giản hơn. Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh "đầu súng trăng treo". Lúc đầu tôi viết là "đầu súng mảnh trăng treo" sau đó bớt đi một chữ. "Đầu súng trăng treo", ngoài hình ảnh bốn chữ này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật. Rừng mùa đông ở Việt Bắc rất lạnh, nhất là vào những đêm có sương muối. Sương muối làm buốt tê da như những mũi kim châm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng đến mất cảm giác. Tất cả những gian khổ của đời lính trong giai đoạn này thật khó kể hết nhưng chúng tôi vẫn vượt lên được nhờ ở sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động, bồi hồi.

“Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Trong suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội. Không có đồng đội, tôi không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đọi, tặng người bạn nông dân của mình (…) Tôi ko phải nông dân và quê hương tôi không phải trong cảnh nước mặn đồng chua hoặc đất cày sỏi đá. Cái tôi trong bài tơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là củtooii (…) Chúng tôi là 1 gắn bó trong tình đồng đội”.

(Trích "Nhà văn nói về tác phẩm", NXB Văn học, Hà Nội, 1994)​
Thêm
Chính Hữu nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Đồng chí”
1K
0
0
Những năm tháng chiến đấu cùng nhau đã kết tinh thành tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó. Vì vậy, bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu mang đến cho người đọc những trải nghiệm tuyệt vời về những năm tháng chiến đấu vừa anh dũng lại đậm chất lãng mạn của bộ đội ta.

dn (10).png


Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích tác phẩm “Đồng chí”

BÀI LÀM MẪU

Tình đồng đội gắn bó keo sơn trong bài thơ “Đồng chí” đã khái quát nên tinh thần chiến đấu hy sinh của ông cha ta. Qua đó, tài năng cũng sử diễn tả tinh tế của Chính Hữu đã giúp cho người đọc cảm nhận được sự gian khó của những người ra đi để bảo vệ và giữ vững nền độc lập thiêng liêng của tổ quốc.

Chính Hữu nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, các tác phẩm của ông tập trung miêu tả về người lính và chiến tranh. Số lượng tác phẩm của ông để lại không nhiều, nhưng chỉ với bài thơ Đồng chí cũng đã đủ để khẳng định vai trò, vị trí của ông trong nền văn học dân tộc.

Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948, khi tác giả cùng những đồng đội của mình tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của Pháp. Trong tác phẩm hình ảnh người lính hiện lên vừa chân thực, vừa hết sức anh dũng.

Bảy câu thơ đầu, tác giả nêu lên cơ sở của tình đồng chí. Trước hết họ có chung nhau hoàn cảnh xuất thân: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Anh và tôi có cùng cảnh ngộ xuất thân, chúng ta đều đến từ những miền quê nghèo khó. Vì đất nước bị xâm lược, tôi và anh từ những người xa lạ cùng kề vai sát cánh bên nhau chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Chính Hữu cũng thật tinh tế, ông không dùng chữ “hai” mà dùng chữ “đôi”, chữ hai gợi nên khoảng cách, sự xa lạ giữa hai con người, nhưng chữ đôi lại không như vậy. Đôi gợi lên sự gắn kết, hòa hợp với nhau, qua đó khẳng định sự gắn bó, bền chặt giữa những người đồng đội. Không chỉ chung về hoàn cảnh xuất thân, họ còn cùng chung nhiệm vụ, mục đích và lí tưởng chiến đấu :

"Súng bên súng đầu sát bên đầu"

Súng là tượng trưng cho quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc, còn đầu tượng trưng cho mục đích, lí tưởng chiến đấu. Như vậy, những người lính dù có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, nhưng ở họ đều ngời sáng tinh thần yêu nước. Họ chiến đấu để bảo vệ quê hương, chiến đấu để bảo vệ làng xóm thân thương của mình.

Để làm sâu sắc hơn tình cảm gắn bó của họ, tác giả còn nhìn thấy ở những người lính ấy một điểm chung khác: Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Trải qua gian khổ, khó khăn trong những năm tháng chiến đấu gian lao họ đã trở thành tri kỉ. Hai tiếng tri kỉ thật thiêng liêng và đáng trân trọng. Tri kỉ là những người hiểu bạn như hiểu chính mình. Họ là những người như vậy, không chỉ hiểu mà còn cảm thông cho những nỗi niềm của nhau. Để rồi câu thơ “Đồng chí” chốt lại toàn bộ ý thơ khổ đầu. Câu thơ tách riêng thể hiện cảm xúc dồn nén, chân thành và cho thấy sự thiêng liêng, sâu nặng của tình đồng chí. Đoạn thơ không chỉ là sự lí giải về cơ sở hình thành tình đồng chí mà còn cho thấy quá trình biến đổi từ những người nông dân xa lạ, họ trở thành những người đồng đội sống chết vẫn bên nhau.

Câu thơ “Đồng chí” có thể coi là bản lề khép mở giữa hai khổ thơ, khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp của thứ tình cảm thiêng liêng ấy. Họ ra đi từ những miền quê khác nhau, nhưng họ đều hiểu về những tâm tư tình cảm của nhau, bởi đó cũng chính là tâm sự của họ: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Vì sự độc lập của dân tộc, họ - những người lính gửi gắm lại ruộng nương, vườn tược cho người thân, từ mặc kệ thể hiện thái độ kiên quyết, dứt khoát. Nhưng sự mạnh mẽ đó không hề tỏ ra vô tâm, quyết liệt nhưng không hề lạnh lùng. Từng giây phút ở nơi chiến trường họ vẫn mong ngóng hướng về quê nhà, nhớ về “giếng nước, gốc đa”. Họ tự nén lại yêu thương, nén lại nỗi nhớ nhung khắc khoải để cống hiện trọn vẹn đời mình cho cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.

Trong chiến trường ác liệt, gian lao họ còn đồng cảm cộng khổ, cùng nhau vượt qua mọi khắc nghiệt của hoàn cảnh. Đó là những cơn sốt rét rừng đã cướp đi sinh mạng của biết bao người lính, đã từng được Quang Dũng tái hiện lại trong bài thơ Tây Tiến:“Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Trong những năm chiến tranh, sốt rét rừng là nỗi ám ánh với tất cả binh lính, nhưng “anh với tôi” vẫn bên nhau để cùng vượt qua cái “sốt run người”. Họ còn cùng nhau vượt qua những thiếu thốn, khó khăn : áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày. Cuộc sống của họ thiếu thốn đủ đường, nhưng nhờ tình cảm đồng đội họ đã vượt qua tất cả những gian khổ đó để bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh “tay nắm bàn tay” thật đẹp đẽ, chất chứa biết bao yêu thương, trìu mến, họ luôn bên nhau sẵn lòng chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn. Tình cảm nồng đậm, ấm áp chân thành đó đã sưởi ấm tâm hồn họ, nâng bước họ trên con đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

Ba câu thơ cuối hoàn chỉnh bức tranh đẹp đẽ về tình cảm đồng chí, đồng đội :

"Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo".

Bức tranh được tác giả xây dựng trên một không gian vô cùng khắc nghiệt: đêm đã về khuya, sương ngày một xuống dày, cảnh vật trở nên hoang vu, lạnh lẽo. Trong khung cảnh ấy, họ đứng cạnh nhau chờ giặc tới, tư thế của họ thật hiên ngang, chủ động, sẵn sàng nghênh chiến bất cứ lúc nào với kẻ thù. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đây trước hết là hình ảnh thực về những đêm canh gác ở rừng, trăng xuống thấp như treo trên đầu mũi súng. Nhưng ngoài ra, trăng là biểu tượng cho hòa bình, súng là biểu tượng cho chiến đấu. Khi kết hợp hai hình ảnh ấy với nhau ta có một biểu tượng thật đẹp đẽ: những người lính cầm súng chiến đấu để bảo vệ hòa bình, độc lập cho dân tộc. Bài thơ kết lại bằng hình ảnh đẹp, hoàn chỉnh bức tranh người chiến sĩ trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.

Tác phẩm được viết bằng thể thơ tự do, với kết cấu mạch lạc, có bản lề khép mở giữa hai phần thơ. Ngôn ngữ thơ giản dị, chân thành mà sâu sắc. Giọng điệu tha thiết, xúc động lòng người đọc. Những hình ảnh giản dị, hàm súc và giàu sức gợi.

Tóm lại, Chính Hữu thật sự đã khắc họa thành công những vẻ đẹp của con người thời chiến. Đó là vẻ đẹp của sự hy sinh, đoàn kết và gắn bó của những người cùng chung lý tưởng chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích tác phẩm “Đồng chí” mới nhất
1K
2
0
Trong những bài thơ viết về hoàn cảnh thời chiến thì bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu luôn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí của người đọc. Bài thơ không chỉ dừng lại ở việc tái hiện hoàn cảnh khắc nghiệt cùng cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về điều kiện vật chất lẫn tinh thần mà còn cho ta thấy được tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (59).png


Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy bài thơ đã diễn tả sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến

BÀI LÀM MẪU

Trong những bài thơ viết về hoàn cảnh thời chiến thì bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu luôn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí của người đọc. Bài thơ không chỉ dừng lại ở việc tái hiện hoàn cảnh khắc nghiệt cùng cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về điều kiện vật chất lẫn tinh thần mà còn cho ta thấy được tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.

Chính Hữu viết bài thơ : “Đồng chí” vào đầu năm 1948, khi đó ông là chính trị viên đại đội, đã từng theo đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc, và cũng là người đã từng sống trong tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.

Trong 7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Từ giã quê hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ những người chiến đấu cho một lí tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ là những tâm sự chân tình về con người và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen thuộc:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua.

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là những nông dân ở nơi “nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn “đất cày lên sỏi đá”. Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những người con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.

Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh – làng tôi” đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.

Cùng chung lí tưởng chiến đấu: Trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn “xa lạ”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo, người lao động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Hình ảnh : “Anh – tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí.

Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành tri kỉ của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta. Vất vả nguy nan đã gắn kết những người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm giao gắn bó.

Từ trong tâm khảm họ, bỗng bật thốt lên hai từ “đồng chí”. Từ “đồng chí” được đặt thành cả một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí’ với dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khác nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Không còn anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn là người nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng đồng với một lý tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.

Nhưng Chính Hữu đã không dừng lại ở việc biểu hiện những xúc cảm về quá trình hình thành tình đồng chí. Trong mười câu thơ tiếp theo nhà thơ sẽ nói với chúng ta về những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí

Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày


Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ: “Ruộng nương” đã tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Lên đường đi chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những tính toán riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được cái kiên quyết dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hương. Chính thái độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu rằng những người lính càng cố gắng kiềm chế tình cảm bao nhiêu thì tình cảm ấy càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu. Nếu không đã chẳng thể cảm nhận được tính nhớ nhung của hậu phương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hoá này càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê nhà, nó giúp người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc đa kia nhớ người ra lính hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi nhớ quê hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn?

Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá”

Là người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá: “áo rách vai, quần tôi vài mảnh vá, chân không giày…” Tất cả những khó khăn gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô vẽ. Ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội Cụ Hồ mới được thành lập, thiếu thốn đủ đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi là “vệ túm”. Đọc những câu thơ này, ta vừa không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu nhưng gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua vừa trào dâng một niềm kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những người lính vệ quốc.

Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc. Nền bức tranh là đêm – “rừng hoang sương muối”gợi ra một cảnh tượng âm u, hoang vắng và lạnh lẽo. Không chỉ cái giá, cái rét cứ theo đuổi mà còn bao nguy hiểm đang rình rập người chiến sĩ.

Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế, cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau vững chãi, truyền cho nhau hơi ấm thì tình đồng chí đã trở thành ngọn lửa sưởi ấm họ để họ có sức mạnh vượt qua cái cái gian khổ, ác liệt, giá rét ấy… Tầm vóc của những người lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.

Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc.Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhạy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng.

Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu luôn để lại những dấu ấn đặc biệt trong tâm trí người đọc. Bởi lẽ, nhà thơ Chính Hữu không chỉ phát họa nên hình ảnh những người lính kiên trung, dũng cảm mà cảm thể hiện được những vẻ đẹp lãng mạn của anh bộ đội cụ Hồ.


Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY
Thêm
Tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến qua bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu
  • Like
Reactions: Ngu Van
914
1
1

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top