Newsfeed

forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...
Nếu như khổ thơ đầu là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ tráng lệ thì khổ thơ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong ánh bình minh với khoang thuyền đầy ắp cá.

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời


- Khổ thơ cuối của bài có nhiều hình ảnh tương đồng với khổ thơ đầu tiên. Hai khổ thơ được xây dựng bằng các hình ảnh câu hát, cánh buồm, gió khơi, đoàn thuyền, mặt trời tạo ra kết cấu vòng tròn đầu cuối tương ứng.

- Câu hát là hình ảnh nổi bật, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Đoàn thuyền ra đi trong tiếng hát, làm việc trong tiếng hát, và trở về cũng trong tiếng hát cất vang.

- Nếu như ở khổ thơ thứ nhất “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” thì ở khổ thơ này “Câu hát căng buồm với gió khơi” thanh trắc làm cho câu thơ trở nên chắc khỏe thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của người dân lao động.

- Câu hát lúc ra khơi là câu hát thể hiện niềm vui, phấn chấn khi được làm chủ công việc. làm chủ biển trời. Câu hát lúc trở về là ca khúc khải hoàn, thể hiện niềm vui chiến thắng trước những khoang thuyền đầy ắp cá.

+ Không chỉ có hình ảnh câu hát được lặp lại ở khổ cuối, ta còn thấy hình ảnh mặt trời. Nếu khổ đầu là mặt trời của hoàng hôn thì đây là mặt trời của bình minh. Bình minh báo hiệu một ngày mới, báo hiệu một sự sống sinh sôi nảy nở, là sự khởi đầu của những niềm vui, niềm hạnh phúc.

+ Đặc biệt ở khổ thơ cuối có một hình ảnh rất hay và lãng mạn: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với hình ảnh mặt trời. Huy cận đã lấy sự vật bé nhỏ, bình dị để ngầm so sánh với hình ảnh vĩ đại của nhiên “Mặt trời”. Biện pháp nói quá, nhân hóa đã làm nổi bật tư thế con người lao động và không khí náo nức của cuộc sống mới. Những ngư dân trở về trong một tư thế sánh ngang với vũ trụ, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đã chiến thắng. Chiến thắng của ngư dân làng chài phải chăng chính là chiến thắng của người dân miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Khi mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền trở về bến:

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi


- Hình ảnh “mặt trời đội biển” mang dấu ấn sử thi, phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca. Nó làm nổi bật tư thế làm chủ vũ trụ của những con người lao động.

- Kết thúc bài thơ là một cảnh tượng kì vĩ chói lọi: Mặt trời từ từ nhô lên khỏi sóng nước xanh lam chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ. Con thuyền trở về tràn ngập niềm vui và thành quả lao động. Mắt cá phản chiếu ánh sáng mặt trời tạo thành muôn ngàn mặt trời nhỏ li ti. Đó là khung cảnh rực rỡ và tráng lệ.

- Hình ảnh "mắt cá huy hoàng" vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những ngư dân vùng mỏ Quảng Ninh. Đồng thơ câu thơ còn dự cảm về cuộc sống mới, về tương lai tốt đẹp đang mở ra trước mắt.

KHÁI QUÁT

- Nghệ thuật:

+
Thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ cảm xúc, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, hình ảnh thơ lãng mạn được xây dựng bằng bút pháp khoa trương, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và độc đáo.

+ Cách gieo vần linh hoạt, giọng điệu sôi nổi, phơi phới khiến bài thư như một khúc tráng ca khỏe khoắn, say sưa.

+ Sự kết hợp giữa cảm hứng hiện thực về lao động sản xuất và cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên vũ trụ, cùng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, liệt kê....

- Nội dung: Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, sự giàu có của biển khơi; ca ngợi khí thế lao động của con người mới, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Thêm
411
0
0
Viết trả lời...
Khổ thơ sáu miêu tả vẻ đẹp của ngư dân khi kéo lưới.

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chum cá nặng”


- “Sao mờ” là lúc trời gần sáng, mặt trời đang lên. Đó là dấu hiệu báo một ngày mới bắt đầu. Con người đang giành giật với thời gian, chạy đua với thời gian để làm việc và cống hiến. Thời gian trôi càng nhanh, con người lao động càng hăng say.

- Từ “kịp” diễn tả không khí lao động khẩn trương, gấp gáp để hoàn thành chuyến ra khơi.

Họ đang khẩn trương để kéo lưới kịp trời sáng. Một cuộc chạy đua âm thầm đang diễn ra giữa con người và thiên nhiên. Con người thì nhỏ bé, thiên nhiên thì lớn lao vậy mà con người dám chạy đua cùng thiên nhiên.

- Hai câu thơ đã tạo nên bức tượng đài sừng sững của người lao động giữa vùng biển rộng. Hai chữ "xoăn tay" giàu chất tạo hình khiến cho người đọc hình dung tư thế của những người lao động với cơ bắp cuồn cuộn, họ đang choãi chân, ghì tay để kéo lên những mẻ lưới đầy cá. Đó là tư thế chắc khỏe, cường tráng, tư thế của những người đã khẳng định được vị thế của mình trên biển khơi, vị thế của người làm chủ, người chiến thắng. Câu thơ đã ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi, giàu sức sống của ngư dân miền biển.

+ "chùm cá nặng" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho thành quả lao động mà người ngư dân thu được sau một đêm vất vả.

- Với phép liên tưởng và tưởng tượng bay bổng nhà thơ đã khắc họa hình ảnh ngư dân trên biển đêm với tư thế làm chủ bình tĩnh, tự tin, họ lao động bằng cả niềm vui, sự lạc quan.

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”


- “Vẩy bạc, đuôi vàng” vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa ẩn dụ. Tác giả miêu tả vẻ đẹp của các loài cá bằng những màu sắc rực rỡ, lấp lánh giữa ánh bình minh. Hai từ “bạc và vàng” còn gợi lên sự quý giá của những loài cá giống như lời ông cha từng ca ngợi: “Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”

- Tác giả sử dụng liên tiếp ba động từ “xếp, lên, đón” để diễn tả sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa con người và sự vận hành của thiên nhiên, vũ trụ.

+ “Lưới xếp buồm lên” là hai hình ảnh đối lập. “Lưới xếp” là kết thúc của ngày lao động. “Buồm lên” là đón chào một ngày mới. Cánh buồm giờ đây không phải vô tri vô giác mà trở nên sống động có hồn. Và ẩn chứa đằng sau cánh buồm ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt đang trỗi dậy. Cánh buồm đang vươn lên để đón nắng hồng. Nắng hồng là nắng bình minh của một ngày mới, một ngày trong trẻo, tươi sáng. Nắng hồng còn là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc tượng trưng cho cuộc đời mới mà cách mạng đem lại. Câu thơ thể hiện dự cảm của tác giả về tương lai tươi sáng sẽ đến với dân tộc.
Thêm
335
0
0
Viết trả lời...
Ở khổ thơ 5 tiếng hát hòa với gió để gọi cá vào lưới và thể hiện lòng biết ơn của những ngư dân đối với biển cả.

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
- Câu hát là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ. Ngư dân cất cao tiếng hát khi ra khơi. Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm vui, tinh thần lạc quan yêu đời.

- Bài ca gọi cá vào là bài ca hi vọng thể hiện mong muốn của ngư dân có chuyến ra khơi gặt hái nhiều thành công với những khoang thuyền đầy ắp cá.

- Câu thơ thứ 2 có sự kết hợp chặt chẽ giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn, cảm hứng thiên nhiên vũ trụ và lao động sản xuất. Trăng in bóng xuống mặt nước, những con sóng vỗ vào mạn thuyền khiến ta có cảm giác trăng đang õ nhịp để xua cá vào lưới. Như vậy trăng không chỉ làm nhiệm vụ của một quan sát viên mà đã hòa vào làm việc cùng con người. Thiên nhiên vũ trụ luôn gắn bó, gần gũi với con người trong quá trình lao động.

Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".

- Nghệ thuật so sánh biển – lòng mẹ, tác giả lấy cái cụ thể, hữu hình để so sánh với cái vô hình, trừu tượng để nhấn mạnh vai trò của biển đối với con người.

- Từ xưa đến nay, biển đã nuôi sống biết bao thế hệ ngư dân. Biển cung cấp cho con người nguồn hải sản dồi dào: tôm cua, cá…. Biển cho ta khối lượng muối khổng lồ, nguồn đầu mỏ, khí đốt….để làm ăn sinh sống và phát triển kinh tế.

+ Không những thế biển còn bao dung, hiền hòa chở che cho những ngư dân ra đi đánh cá trở về trong bình yên. Câu thơ giống như lời cảm tạ, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của ngư dân với biển mẹ.

- Vậy mà hiện nay, một số người không có ý thức bảo vệ môi trường biển: đánh bắt cá bằng bom, mìn, xả rác bừa bãi….Chúng ta cần lên án và phê phán.
Thêm
380
0
0
Viết trả lời...
Khổ thơ thứ tư đã miêu tả bức tranh biển đem giàu có, nên thơ.

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long


- Đọc khổ thơ, ta thấy bức tranh biển đêm hiện ra đẹp đẽ, kì ảo, sống động. Huy Cận đã sử dụng phép liệt kê gợi ra các hình ảnh loài cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song… bơi lội tung tăng ngang dọc, tầng nổi tầng sâu, vun vút lấp lánh muôn màu sắc. Câu thơ giúp ta cảm nhận được biển Đông có rất nhiều loài cá quý có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao.

- Trong các loài cá ấy, đẹp nhất là cá song. Để miêu tả đặc điểm của loài cá này, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ đưa từ láy “lấp lánh” lên trước “đuốc đen hồng” gợi lên màu sắc lung lung, rực rỡ của cá trong đêm trăng.

- Nghệ thuật ẩn dụ đuốc đen hồng giúp ta thấy được đây là loài cá có nhiều vạch dọc ở thân, có thêm chấm đen và chấm hồng. Khi trăng chiếu xuống, những đốm đen và hồng tỏa ánh sáng khiến ta liên tưởng đến những ngọn đuốc sáng rực trong đêm.

- Ngôn ngữ sáng tạo, giàu chất tạo hình “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Hình ảnh con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh. Ánh trăng in xuống mặt nước, cá song quẫy đuôi như quẫy cả ánh trăng khiến ánh trăng tan ra, bắn tung vàng chóe. Đặc biệt hơn, Huy Cận gọi cá bằng “em”, một tiếng gọi xiết bao ân tình trìu mến.

- Vẻ đẹp của các loài cá hòa quyện cùng với vẻ đẹp của trăng trên biển tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và giàu chất lãng mạn. Và đằng sau vẻ đẹp ấy, ta nhận ra tình yêu tha thiết của nhà thơ với biển cả quê hương.

- Và khổ thơ được kết thúc bằng một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo:

“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

- Dưới cảm nhận của nhà thơ, biển như một sinh vật đại dương vì thế có hành động “thở” giống như con người. Nhịp thở của biển đêm hay chính là tiếng rì rào của sóng nước.

- “Sao lùa nước” là hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn: những ngôi sao in hình xuống mặt nước. Những con sóng dập dềnh làm cho những đốm sao di chuyển tạo nên cuộc đuổi bắt, vui đùa giữa sao và nước. Hình ảnh biển đêm vì thế mà trở nên giàu đẹp, sống động đến vô cùng.

- Khổ thơ thứ 4 tác giả đã miêu tả cảnh biển đêm vừa giàu vừa đẹp tràn đầy sức sống. Bức tranh biển đêm được cảm nhận bằng tinh thần lạc quan, yêu nghề, yêu biển của ngư dân làng chài.
Thêm
351
0
0
Viết trả lời...
Ở khổ thơ thứ ba hình ảnh đoàn thuyền được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la, rộng lớn:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng


- Hai câu thơ đã mở ra không gian mênh mông, rộng lớn có chiều cao của bầu trời, có chiều dài, rộng của biển cả.

- Giữa không gian ấy, con thuyền không hề nhỏ bé mà trở nên kì vĩ, lớn lao, con người trong tư thế chinh phục biển cả.

- Từ những hình ảnh tả thực thuyền, gió, buồm, trăng, mây, biển tác giả đã tạo ra những hình ảnh thi vị, lãng mạn.

+ Con thuyền có gió là người cầm lái, có trăng là cánh buồm lướt giữa mây trời và bồng bềnh sóng nước.

+ Cách nói khoa trương, phóng đại và biện pháp nhân hóa “thuyền ta lái gió“ gợi tả gió khơi lồng lộng, gió đẩy thuyền lướt sóng ra khơi

+ Buồm trăng là hình ảnh ẩn dụ nên thơ giúp ta cảm nhận được con thuyền đi qua khoảng sáng của vầng trăng. Cánh buồm cong cong hình trăng khuyết được nhuộm vàng bởi ánh trăng nên tác giả tưởng tượng đó chính là buồm trăng.

- Động từ lướt đã nhấn mạnh tốc độ phi thường, khí thế băng băng, dũng mãnh của con thuyền. Con thuyền khi lên cao, lúc lại xuống thấp theo từng con sóng bạc đầu nên ta có cảm giác con thuyền ấy vừa bay trên mây, vừa lướt trên biển. Con thuyền như mang cả sinh lực của đất trời, được thiên nhiên giúp sức để đánh cá trên biển.

- Với bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng phong phú, hai câu đã làm nổi bật vẻ đẹp của con thuyền cũng như sức mạnh của con người trên nền vũ trụ bao la và sự kì vĩ. Thiên nhiên và con người gắn bó hòa hợp trong quá trình lao động.

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”


- Công việc đánh bắt cá không chỉ cần sức lực mà còn cần trí tuệ và kinh nhiệm.

+ Bằng kinh nghiệm, họ ra đậu dặm xa để dò bụng biển nghĩa là tìm kiếm những nơi nhiều cá để dễ đánh bắt.

+ Bằng trí tuệ, họ dàn đan thế trận để đánh bắt cá. Với ngư dân công việc đánh bắt cá được ví như một trận chiến đấu trên mặt trận lao động sản xuất. Những ngư dân là chiến sĩ, còn vũ khí của họ là lưới để vây giăng.

- Huy Cận đã sử dụng một loạt các động từ mạnh ra, đậu, dò, dàn đan, vây, giăng để gợi tả không khí lao động hăng say, nhiệt tình, khẩn trương và sôi nổi của những con người yêu nghề, yêu biển. Họ đang tích cực lao động sản xuất để làm giàu cho Tổ quốc, xây dựng hậu phương vững chắc để chi viện cho chiến trường miền Nam.

- Hai câu thơ đã làm nổi bật tư thế chủ động của con người đang chinh phục thiên nhiên và biển cả.
Thêm
337
0
0
Viết trả lời...
Họ hát bài ca để ca ngợi biển giàu đẹp và thể hiện mong ước của người lao động:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!


- Ngư dân ra khơi mang theo mong ước “biển Đông lặng“. Họ mong mưa thuận gió hòa, trời yên, biển lặng để công việc đánh bắt cá được diễn ra an toàn, thuận lợi.

- Từ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài.

- Họ hát bài ca để ca ngợi biển giàu tài nguyên thiên nhiên. Nghệ thuật liệt kê cho thấy biển Đông có nhiều loài cá quý mà tiêu biểu là cá bạc, cá thu. Đó là những loài cá có giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao.

+ Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh ví cá thu biển Đông như đoàn thoi để gợi tả đặc điểm của cá thu. Đó là loại cá sống ở tầng mặt nước, thân dẹt hình thoi. Câu thơ nhấn mạnh số lượng cá thu nhiều vô kể bơi thành từng đàn.

- Hai chữ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm.

- Nghệ thuật nhân hóa khiến những loài cá hiện lên sinh động, chúng đang cùng nhau "dệt" lên một tấm thảm với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông.

- Huy Cận có sự liên tưởng thật độc đáo: Mặt biển như một tấm thảm khổng lồ. Những con cá thu bơi theo từng đàn giống như những con thoi – nghệ nhân đang dệt biển. Như vậy, biển Đông không chỉ giàu mà còn đẹp, sinh động bởi màu sắc lấp lánh và hành động của các loài cá.

- Ngư dân cất cao tiếng hát để gọi cá vào lưới. Từ “ơi” cất lên trìu mến, thiết tha. Nhà thơ gọi cá mà như đang gọi bạn. Giữa con người và thiên nhiên dường như không hề có khoảng cách. Ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản. Câu thơ đã thể hiện khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của người dân nơi đây.
Thêm
347
0
0
Viết trả lời...
* Mở đầu bài thơ, Huy Cận khắc họa bức tranh hoàng hôn trên mặt biển:



“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa


+ Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật so sánh độc đáo mới lạ “mặt trời” so sánh với “hòn lửa”. Mặt trời cuối ngày đang từ từ lặn xuống biển như một quả cầu lửa đỏ rực. Phép so sánh gợi ra một khung cảnh rực rỡ, huy hoàng, tráng lệ – một cảnh tượng thật kì vĩ.

+ Sóng và đêm là hình ảnh của thiên nhiên, vũ trụ cũng biết đóng cửa, cài then giống như con người. Nghệ thuật nhân hóa: cài then, sập cửa nhấn mạnh thiên nhiên sinh động, tràn đầy sức sống.

+ Với sự liên tưởng phong phú nhà thơ giúp ta hình dung được vũ trụ vào đêm giống như một ngôi nhà khổng lồ. Những con sóng lăn tăn trên mặt biểu giống như những chiếc then cài đóng sập cánh cửa màn đêm.

+ Biển đêm vốn bí ẩn, đáng sợ, thậm chí là cuồng nộ nhưng giờ đây cũng trở nên gần gũi, ấm áp, thân thương. Vũ trụ và thiên nhiên bao la lúc này chẳng khác nào một ngôi nhà rộng lớn còn những người ngư dân chính là các thành viên của gia đình. Thiên nhiên và con người vô cùng gần gũi, gắn bó và hoà hợp.

- Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ Huy Cận đã miêu tả không gian mênh mông, rộng lớn nhưng không hề cô đơn, rợn ngợp. Cảnh vũ trụ vào đêm vừa hùng vĩ tráng lệ lại rất gần gũi, ấm áp với con người.

* Khi vũ trụ bắt đầu nghỉ ngơi cũng là lúc đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Những ngư dân hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn, lạc quan và yêu nghề.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi


- Trên mặt biển mênh mông ấy không phải là một con thuyền cô đơn, lẻ loi mà là cả đoàn thuyền.

- Từ lại diễn tả công việc diễn ra thường xuyên, lặp đi lặp lại. Đây không phải là chuyến ra khơi đầu tiên mà là một trong rất nhiều chuyến ra khơi.

- Hay nhất trong câu thơ là hình ảnh câu hát. Đó có thể là tiếng hát có thật, ngư dân cất cao tiếng hát làm âm vang mặt biển, xao động cả bầu trời, xua đi vất vả gian lao. Câu hát của người lao động như có sức mạnh cùng với gió làm căng buồm đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi.

- Như vậy, câu hát đã làm toát lên sức mạnh về thể chất cũng như tinh thần của ngư dân miền biển luôn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống lao động.
Thêm
369
0
0
Viết trả lời...
1. Tác giả

- Là nhà thơ tiêu biểu của văn học hiện đại VN

- Trước cách mạng tháng Tám thơ ông giàu triết lí, thấm đẫm nỗi sầu nhân thế; sau cách mạng thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống

2. Bài thơ

- Hoàn cảnh sáng tác: 1958, là kết quả của chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh

- Xuất xứ: in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”

- Bố cục:

+ 2 khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống

+ 4 khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng

+ Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về khi bình minh lên

- Chủ đề: Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, sự giàu có của biển khơi; ca ngợi khí thế lao động của con người mới, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Thêm
341
0
0
Viết trả lời...
“Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ xuất sắc của nhà thơ Huy Cận viết về tình yêu quê hương nồng nhiệt. Với hình ảnh vô cùng tươi đẹp của sự hòa hợp giữa đời sống lao động chày lưới và thiên nhiên sóng nước biển cả lãng mạng, hùng vĩ đã tạo thành điểm xuyến vừa thân thương lại vừa quá đỗi tự hào.

xkk (40).png


Đề: Em hãy 1 đoạn văn để phân tích các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá

BÀI LÀM MẪU

“Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Với khổ thơ đầu, tác giả đã mở ra một hình ảnh đẹp về đoàn thuyền ra khơi trong bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ hùng tráng: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Khi sắc tối đang từ từ chiếm trọn không gian bao la, mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ, sáng rực dần lặn xuống mặt biển. Màn đêm buông xuống như tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa tạo nên nét huyền diệu, mĩ lệ của thiên nhiên vừa tạo ra sự nhanh chóng, gấp gáp kết thúc một ngày dài. Nhưng đó không phải ngày tàn, u ám như trong bức tranh của tác phẩm Hai đứa trẻ mà là một ngày mới mở ra cho những người con của biển cả: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Đoàn thuyền – tạo ra ấn tượng về sự tấp nập, nhộn nhịp, tinh thần lao động hăng say của những ngư dân. Chữ “lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động ổn định của người dân chài ngày qua ngày, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự lao động của con người.Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn và cũng chất chứa bao hi vọng về những khoang thuyền đầy ắp cá. Tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe khoắn, tươi vui, căng tràn sức sống và tinh thần say mê lao động. Đoạn thơ là bức tranh khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hình ảnh đoàn thuyền ra khơi với khí thế hào hứng say mê, tràn đầy sức sống, với tâm hồn lãng mạn của người làm chủ đất nước thật đáng trân trọng tự hào.

Các bạn có thể tham khảo thêm các bài viết: TẠI ĐÂY
Thêm
  • Like
Reactions: Phong Cầm
1K
1
0
Viết trả lời...
Vẻ đẹp của quê hương làng biển với những hình ảnh rộn ràng của khung cảnh lao động thường nhật đã được nhà thơ Huy Cận khắc họa chân thật qua bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá". Bài thơ mang âm hưởng vui tươi với lòng tự hào về vẻ đẹp của con người hòa hợp với khung cảnh thiên nhiên rực rỡ.


xkk (6).png

Ôn tập kiến thức cơ bản tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” - Huy Cận

Câu 1. Trình bày hiểu biết của em về tác giả Huy Cận?

Trả lời


- Năm sinh: 1919;

- Năm mất: 2005;

- Quê quán: làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh;

- Thuở nhỏ ông học ở quê rồi vào Huế học hết trung học;

- Năm 1939 ra Hà Nội học ở Trường Cao đẳng Canh nông;

- Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong mặt trận Việt Minh sau đó được bầu vào uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc;

- Sau cách mạng tháng 8, giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng;

- Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ;

- Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII;

- Huy Cận là nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ Mới với hồn thơ ảo não;

- Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996);

- Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới;

- Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng;

- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí;

- Những tác phẩm chính:

+ Trước cách mạng tháng 8: Lửa thiêng, Kinh cầu tự, Vũ trụ ca;

+ Sau cách mạng tháng 8: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Chiến trường gần đến chiến trường xa...


Câu 2. Trình bày hoàn cảnh sáng tác của “Đoàn thuyền đánh cá”

Trả lời


Giữa năm 1958, Huy Cận có một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế ấy, hồn thơ Huy Cận thực sự nảy nở dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước. Bài thơ được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.

Câu 3. Ý nghĩa nhan đề “Đoàn thuyền đánh cá”

Trả lời


Trước hết, nhan đề “Đoàn thuyền đánh cá” cho biết hình tượng trung tâm của bài thơ là những đoàn thuyền đánh cá. “Đoàn thuyền” không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn - một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi. Nhưng đó không phải là những đoàn thuyền bình thường, mà gắn với công việc lao động cụ thể: đánh cá - một công việc vất vả, nặng nhọc. Qua hình ảnh này, Huy Cận muốn ca ngợi thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Câu 4. Viết một đoạn văn trình bày của cảm nhận của bản thân về tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”

Đoạn văn mẫu


Đến thơ trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện. Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Khi ấy màn đêm dần buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ đang hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng thấy hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Màn đêm yên yên tĩnh, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
945
0
0
Viết trả lời...