Mạng xã hội Văn học trẻ

*GIỚI TRẺ NGÀY NAY*
Có 1 điều tôi không thích mấy ở giới trẻ này nay, lý do như sau:
1/ngang ngược,hổ báo.
2/mùng 2/9 hay 30/4 thì chả biết đó là ngày gì trong khi nói đến lửa chùa phi phai là nói rành mạch thoăn thoắt
3/quay cóp đề thi
4/trẩu
5/bị chửi có tí thì mặt xịu xuống
6/trước nỗi đau của người khác thì họ lại lấy nó ra để làm trò hề
7/lúc nào chửi nhau cũng lôi bố mẹ của nhau ra để chửi
8/các anh hùng, nhân vật lịch sử bị lôi ra để phỉ báng, giễu cợt
9/thường xuyên bắt nạt kẻ yếu hơn mình
10/đc người khác khuyên còn vênh cái mặt ra làm vẻ mặt kinh, cười đểu
Thêm
686
0
1
hi, chủ đề này nhiều nội dung quá. Nhưng tiêu đề đặt chưa sát, với lại bạn đăng sai chuyên mục rồi.

10 khía cạnh đặt vấn đề trên thì thuộc số ít thôi. Những cá nhân đó nói riêng, và lứa tuổi được gọi "giới trẻ" đang "phá bĩnh" để tìm tòi nhân cách. Sau một thời gian va đập xã hội sẽ định hình được "mình là ai", "mình thuộc về đâu"... ^^
 
Viết trả lời...
Trong thể loại văn xuôi viết về người dân Việt Nam trước năm 1945 có rất nhiều tác phẩm để đời. Với cuộc sống cùng cực dưới ách thống trị của bọn chúa đất ở miền núi, chúng ta có "Vợ chồng A Phủ", hay chủ nghĩa anh hùng đậm chất sử thi – "Rừng Xà nu"… Nhưng sau đó, năm 1986, xã hội có sự thay đổi, nước ta xóa bỏ bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường vì thế văn học cũng có bước chuyển mình. Đề tài thế sự và đạo đức được các nhà văn xoáy sâu vào khai thác. Và "Chiếc thuyền ngoài xa" là một tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ ấy.

PHÂN TÍCH, BÌNH GIẢNG TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (NGUYỄN MINH CHÂU)

(In trong Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12 Nâng cao, Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 2010, trang 155)

4963

Phân tích, bình giảng truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm niệm: “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn” thì có thể khẳng định rằng những gì ông để lại cho đời đã đảm bảo chắc chắn ông là một tài năng và một nhân cách lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông có một vị trí quan trọng trong quá trình vận động và phát triển của nền văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới sau năm 1975 và ông rất xứng đáng với lời đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc: "Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng của văn học ta hiện nay.”

Mẫn cảm với nghề, Nguyễn Minh Châu ý thức rất sớm về xu thế tất yếu phải đổi mới văn học, mà trước nhất là đổi mới quan niệm về văn chương, về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn. Từ năm 1945 đến 1975, văn học Việt Nam có sứ mệnh phục vụ chiến đấu, nó phải trở thành một vũ khí, một “mặt trận” tư tưởng. Yêu cầu đó quy định cách văn học tiếp cận cuộc sống chủ yếu từ góc độ lịch sử-sự kiện. Những vấn đề của cộng đồng được ưu tiên và được coi như tiêu chí hàng đầu để định giá tác phẩm. Tự nguyện làm một nhà văn-chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã góp vào nền văn học kháng chiến những tác phẩm xuất sắc: Cửa sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng. Chính trong thời kì hào hùng và cam go ấy, nhà văn ghi vào nhật kí: “Hôm nay chúng ta đang chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn. Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài.” Hoá ra con người là mối bận tâm thường xuyên của ông. Nhận xét văn học viết trong chiến tranh của chúng ta thường có hạn chế lớn: “sự kiện lấn át con người”, ông cả quyết rằng sẽ đến lúc văn học “phải viết về con người”, “trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống”.

Khi đất nước hoà bình, Nguyễn Minh Châu có điều kiện để hiện thực hoá những suy tư đầy sáng suốt đó. Ông coi “văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”, còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng “mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người”. Tình yêu ấy thôi thúc ông làm một cuộc tự đổi mới âm thầm mà quyết liệt. Trong những sáng tác từ sau năm 1975, ngòi bút ông ngày càng nghiêng hẳn về đề tài thế sự, nơi ông có thể đi sâu vào những vấn đề cá nhân trong mối quan hệ đời thường đa đoan, phức tạp. Rồi từ đó ông đề xuất quan niệm mới mang nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc về con người.

Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985), đánh dấu bước chuyển vững vàng của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (viết xong tháng 8-1983) in trong tập Bến quê.

Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này về cơ bản tập trung ở cách tiếp cận đời sống và quan niệm về con người. Chọn số phận cá nhân trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến làm đối tượng khám phá, nhà văn đã kiên quyết khước từ cái nhìn lí tưởng hoá con người, để hiện thực hiện lên với tất cả cái xù xì, góc cạnh của nó. Truyện dường như không có bóng dáng bất cứ một sự kiện chính trị-xã hội nào, chỉ là cuộc sống bế tắc quẩn quanh, thường nhật của một gia đình dân chài vùng đầm phá miền Trung, cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số. Điều tác giả muốn nhấn mạnh là: tính chất phức tạp, bí ẩn của đời sống không thể nhìn bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi. Ông đã sáng tạo một tình huống thật độc đáo và hấp dẫn nhằm chuyển tải tư tưởng riêng, những phát hiện riêng về cuộc đời và về văn chương.

Vai trò của tình huống luôn được người viết truyện ngắn đề cao. Với Nguyễn Minh Châu, “Đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay và thế là coi như xong một nửa”. Tình huống chính là “thứ nước rửa ảnh” làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng của nhà văn”.

Chiếc thuyền ngoài xa được triển khai trên hai tình huống chính. Tình huống nhận thức là tình huống lớn, bao trùm toàn bộ câu chuyện: Nhân vật Phùng được cử tới vùng biển xa xôi kia để chụp ảnh bổ sung cho bộ ảnh lịch chuyên đề mười hai tháng về biển. Trưởng phòng khi giao nhiệm vụ nói với Phùng: “không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật.” Nhờ đó mà Phùng có cơ hội chứng kiến một tình huống khác hết sức bất ngờ và khó tin: một người phụ nữ làng chài thường xuyên bị chồng đánh đập dã man, vẫn cắn răng cam chịu, từ chối lời khuyên đầy thiện chí của vị thẩm phán toà án huyện, kiên quyết không rời bỏ người chồng vũ phu. Cách xử sự lạ lùng của người đàn bà gây thắc mắc cho cả Phùng (phóng viên ảnh) lẫn Đẩu (thẩm phán). Kết cục là họ “vỡ ra” được nhân thức mới, đúng hơn, một nhận thức làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của họ (kiểu tình huống này cũng xuất hiện ở nhiều truyện khác của Nguyễn Minh Châu như Bức tranh, Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…)

Do tình huống đặt ra là tình huống tự nhận thức nên cốt truyện được xây dựng trên nguyên tắc luận đề: sự kiện, sự việc chỉ là phông nền cho quá trình vận động tâm lí dẫn đến bước ngoặt tư tưởng.

Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng, người kể chuyện xưng tôi (một hoá thân của Nguyễn Minh Châu?). Phùng có phẩm chất đáng quý của một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Cảnh thiên nhiên vùng đầm phá buổi sáng, “phẳng lặng và tươi mát”; cảnh đẩy thuyền ra khơi sôi nổi, náo nhiệt và khoẻ khoắn, cảnh thuyền cá trở về lúc bình minh rực rỡ; cảnh biển đêm huyền bí, sâu thẳm…đã đem lại những rung động “tuyệt đỉnh”, khiến anh vui sướng, hạnh phúc đến mức “tưởng như chinh mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đằng sau những câu văn khá du dương, hào phóng mĩ từ trong đoạn này, ngầm ẩn một nụ cười hài hước, chế giễu nhẹ nhàng lối tư duy lãng mạn của nhiều nghệ sĩ (đó cũng có thể là nụ cười tự trào đầy thâm thuý của Nguyễn Minh Châu). Tự tin và tự mãn, Phùng đã vội thu vào ống kính “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Anh ngỡ rằng mình sáng suốt hơn người trưởng phòng, biết gắn cái đẹp thiên nhiên với hình ảnh con người, biết tìm ra sự hài hoà giữa chất thơ của trời biển với vẻ “náo nhiệt” tưng bừng của lao động. Nhưng anh đã lầm. Bước ngoặt trong nhận thức người nghệ sĩ được tác giả khắc hoạ thật sắc sảo qua sự đối lập gay gắt giữa “cái-thấy-phút-trước” với “cái-thấy-phút-sau”. Mấy cụm từ giản dị mà đầy sức nén của chân lí: “tôi chắc mẩm” (niềm tin có sẵn”, “ngay lúc ấy” (đột biến), “bất giác tôi nghe” (hoang mang trước sự thật).

Phùng đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn trên bờ biển (lần thứ hai, thậm chí anh còn nhảy vào can thiệp và bị thương) rồi lại chứng kiến cách chị ta ứng xử tại toà án của chánh án Đẩu. Trong suy nghĩ của Phùng và Đẩu, người đàn bà khốn khổ đáng thương không nên cam chịu bị hành hạ, chắc bà ta sẽ vui vẻ chấp thuận bỏ chồng để được giải thoát khỏi đòn roi. Ngờ đâu cả thiện chí lẫn luật pháp đều bất lực: người đàn bà khi mới nghe vị thẩm phán thuyết phục li dị chồng đã “chắp tay lại vái lia lịa: “-Con lạy quý toà…”. Trước cảnh này, Phùng kinh ngạc cao độ và cảm thấy bức bối: “gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá” vì “không thể nào hiểu được” thái độ cam chịu lạ lùng ấy. Ở đây diễn ra một sự va chạm gay gắt giữa những điều đã mặc định về con người với thực tế sống động của hiện thực. Phùng và Đẩu đều tin rằng mình đúng: họ đã bảo vệ bà ta bằng cả thiện chí lẫn luật pháp. Họ đinh ninh chồng bà ta là kẻ xấu xa, bỏ lão là giải pháp tốt nhất. Chỉ có điều người đàn bà lam lũ ấy giống như một bí mật mà họ chưa bao giờ biết. Sự thay đổi hoàn toàn tư thế và lối xưng hố, những câu nói chất phác mà “thấu tình đạt lí” của bà làm cả Phùng lẫn Đẩu bối rối “những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi…” Một lần nữa cách nhìn đầy định kiến và đơn giản “va” phải cái trí khôn của đời sống. Người đàn bà thất học lại có tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về những nghịch lí mà con người phải chấp nhận khi nó bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo cùng cực. Hoá ra cuộc sống vốn đầy nghịch lí mà cái nhìn chủ quan duy ý chí không bao giờ thấy hết. Pháp luật công bằng, lòng tốt vô tư đều chưa đủ hoá giải những nghịch lí ấy. Nguyễn Minh Châu thật sâu sắc khi phát hiện sự cam chịu của người đàn bà là một phẩm chất, là cái đẹp đáng giá nhất, vì nó cần thiết nhất cho những dân hàng chài cơ cực kia khi xã hội chưa có một giải pháp thật sự hiệu quả đế thay đổi số phận họ.

Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Thái độ nhẫn nhịn là kết quả của bao tình cảm vị tha, thánh thiện: “Đàn bà ở thuyến chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được!...”. Vậy là người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để đảm bảo cho sự tồn tại của cái gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước vốn đầy dẫy bất trắc. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ ở câu chuyện này phát lộ dưới hình thức bất ngờ nhất và cũng cảm động nhất. Nó cho bà ta can đảm để chịu đựng những trận đòn tàn bạo của chồng (khi bị chồng đánh bà không hề kêu khóc hay chống cự), nhưng lại khiến bà “đau đớn”, “xấu hổ”, “nhục nhã” khi biết mình vô tình làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại (bà “mếu máo” gọi tên Phác, “ôm chầm lấy nó”, “chắp tay vái lấy vái để” đứa con, bà cũng đã khóc ở toà án khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác.

Nguyễn Minh Châu đã di chuyển điểm nhìn từ Phùng sang Đẩu rồi bất ngờ “trao” cho người đàn bà và chính cái người mẹ hàng chài thô kệch, mặt rỗ xấu xí, đầy vẻ lam lũ, cam chịu ấy lại là người sắc sảo, hiểu đời hơn hẳn hai vị trí thức. Chánh án Đẩu và phóng viên nhiếp ảnh Phùng đã từng kinh qua chiến tranh, đi nhiều, thấy nhiều mà hoá ra vẫn nông cạn, hời hợt trước hiện thực khắc nghiệt của gia đình bà và những người dân chài khác. Cuộc sống được Đẩu nhìn bằng sự rành rẽ, công bằng của luật pháp, Phùng nhìn bằng con mắt nghệ sĩ. Cả hai đều có sẵn lòng tốt và thiện chí với cuộc đời. Chỉ có điều các anh quen tư duy một chiều về cuộc đời (chẳng hạn, câu hỏi “như lạc đề” của Phùng: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” hay cái thắc mắc rất ngây thơ của Đẩu: “Vậy sao không lên bờ mà ở?”) nên chỉ thấy được những gì là tất yếu, hợp lí. Người đàn bà trái lại, từ số phận mình đã buộc các anh phải đặt đời sống vào cái nhìn nhiều chiều để nhận ra vô vàn nghịch lí: bãi xe tăng bị bốc cháy (chứng tích về chiến công anh hùng trong chiến đấu) là nơi người đàn bà thường xuyên bị đánh đập, còn những đứa trẻ thì đói khát và thất học (bi kịch đói nghèo chưa cách gì chấm dứt), thiếu nữ mảnh dẻ duyên dáng “như nàng tiên cá” lại “được tách ra từ da thịt một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ”, người mẹ yêu con, cố che giấu sự thật để tránh cho con khỏi đau lòng, không ngờ lại làm nó tức giận đến mù quáng…Chính những lời giãi bày chất phác, dè dặt của người đàn bà đã dần dần “mở mắt” cho Phùng và Đẩu. Tất nhiên việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc không dễ dàng gi. Làm sao hai vị cựu chiến binh của một thời đánh giặc lừng lẫy có thể thấm thía được ngay bao nhiêu nông nỗi yêu thương, xa xót, đắng cay, hờn tủi, bao nhiêu thấu hiểu độ lượng trong giọng nói đứt quãng của bà ta: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu […]. Giá mà lão uống rượu […] thì tôi còn đỡ khổ […]”. Phùng và Đẩu đã “cùng một lúc thốt lên”: “Không thề nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Có lẽ họ chỉ thực sự “tâm phục khẩu phục” khi phát hiện cái sức mạnh nội tâm kì lạ nâng đỡ người đàn bà: “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười-vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ […]. Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no […]”.

Nguyễn Minh Châu đã thật “cao tay” khi làm cuộc hoán đổi vị thế giữa Phùng, Đẩu với người đàn bà-cuộc hoán đổi để xác lập quan niệm dân chủ về con người. Tính cách đầy mâu thuẩn của người phụ nữ hàng chài thể hiện tư tưởng nhân bản sâu sắc của nhà văn, hiện thực hoá ý định của ông khi sáng tác truyện ngắn này: “Con người sống trong xã hội, sống giữa cộng đồng đã từng tồn tại từ lâu và còn tồn tại mãi nhưng họ phải chịu biết bao đau đớn để cho người và người được bên nhau, gắn bó với nhau trong cái quần thể xã hội đầy mâu thuẫn trên chiếc thuyền nọ…Không phải lúc nào con người cũng đấu tranh với nhau mà nhiều khi phải chịu đựng lẫn nhau. Những con người lao động và lương thiện hết đời này sang đời khác đã chịu biết bao nhiêu điều đau khổ bất công để sống nuôi nấng con cái, làm cho đời sống bất diệt”. Tình yêu thương con người ở Nguyễn Minh Châu lúc nào cũng nặng trĩu những suy tư se xót nên tình cảm nhân đạo của ông thường nghiêng về phía những thân phận bé nhỏ, nhiều đau khổ và ông đặc biệt nhạy cảm với những vẻ đẹp thầm lặng mà vững bền-những vẻ đẹp mang gương mặt phụ nữ (như Liên trong Bến quê, Thai trong Cỏ lau …).

Nguyễn Minh Châu có những câu văn giản dị như lời nói thường, không một chút “làm văn” mà đầy dư ba. Câu văn sau đây là một ví dụ- đấy là câu Phùng hỏi người đàn bà: “cả đời chị có một lúc nào thật vui không?”. Vâng! Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn như thế mà nói đến niềm vui liệu có xa xỉ quá không? Nhưng mấy ai đã hiểu sự tận tuỵ hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với họ. Nghe người đàn bà hàng chài nói về niềm vui, Đẩu như “bừng ngộ”: “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.” Đến đây người kể chuyện (Phùng) đã nhập hẳn vào dòng tâm tư của Đẩu, sự giác ngộ của Đẩu cũng chính là sự giác ngộ của anh. Hành trình tự nhận thức của cả hai luôn có sự song trùng. Nhưng qua Phùng-người phóng viên nhiếp ảnh, Nguyễn Minh Châu còn thực hiện một cuộc “tự vấn” của văn chương: giữa cuộc sống cơm áo nhiều hệ luỵ, văn chương chọn cách ứng xử nào? “Chiếc thuyền ngoài xa” rất khác với nó khi đã cập bờ. Nghệ thuật tiếp cận hiện thực thế nào để không bỏ quên số phận con người? Nhan đề truyện rõ ràng là một ẩn dụ sâu sắc (nó gợi nhớ các nhan đề Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Bức tranh, Cỏ lau,…), một câu hỏi bỏ ngỏ cho những ai muốn chọn văn chương nghệ thuật để bày tỏ tình yêu con người. Câu hỏi này ám ảnh tới mức dù bức ảnh lịch năm đó của Phùng chỉ có hai màu đen trắng mà sau này mỗi lần ngắm nó Phùng cứ thấy hiện về cái màn sương màu hồng (lãng mạn) như đối lập với dáng đi chậm rãi, vững chắc của người đàn bà trên cát (hiện thực). Một lời nhắc nhở hay một niềm tin sâu xa vào sứ mệnh cao quý của người nghệ sĩ? Chắc chắn rằng với Nguyễn Minh Châu, với truyện ngắn này, nghệ sĩ không có quyền nhìn sự vật một cách giản đơn, dễ dãi mà phải đào xới vào những tầng sâu đời sống để làm lộ ra những gì có khả năng đánh thức tình yêu thương con người.

Tình huống truyện độc đáo, kết hợp với nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách - số phận đã giúp nhà văn giãi bày nỗi băn khoăn, trăn trở về tính phức tạp đa chiều của cuộc sống, về bao nhọc nhằn còn đè nặng lên số phận con người, về mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và hiện thực. Khát vọng đổi mới văn chương bằng việc đi tìm một quan niệm chân thật hơn, hợp lí hơn về con người dựa trên nền tảng triết học nhân bản quan giọng văn thấm thía chiêm nghiệm, qua cái nhìn dân chủ hoá của người trần thuật đã trở thành nhu cầu tự vấn mạnh mẽ, trung thực, đủ sức khẳng định tư cách “người mở đường” cho cộng cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Minh Châu.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
2K
1
1
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
3K
0
3
Vở chèo ‘Quan Âm Thị Kính’ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo ở Việt Nam cổ đại. Cùng với nhân vật Thị kính (đào thương), Thị mầu được xếp vào loại đào trong các vở chèo do tính chất phù phiếm, phóng khoáng. Tính cách này được thể hiện rõ nét trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’. Vở chèo đã khắc họa Thị Mầu bắt gặp say đắm và tìm cách tán tỉnh Kính Tâm trên đường đi chùa.

Nói đến xuất thân, Thị mầu là con gái của một phú ông giàu có. Nàng tự coi mình là một đứa con hiếu thảo vì luôn kính trọng cha mẹ. ‘thầy mẹ tôi tôn kính một lòng’. Khi ngày rằm đến gần, Thị Mầu “chuẩn bị tiền và gạo để mang lên chùa cúng tế”. Thay vì đi chùa vào ngày 15 như mọi người, Mầu đã đi chùa sớm hơn hai ngày.

‘Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.’

Qua lời nói của Thị mầu, người đọc có thể hiểu được những nghịch lý, mâu thuẫn. Cô nói: ‘tôi muốn cho một tháng đôi rắm/trước vào lễ Phật, ssau thăm vãi già’. Rõ ràng ý định của Mầu là vào chùa trước, và nghi thức tiếp theo là đi thăm vãi già. Tuy nhiên, Mầu chỉ tập trung vào việc gặp gỡ nhà sư. Con số 13 được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh ngày Thị mầu đi chùa cúng tiến. Các con số ‘13’, ‘14’ và ‘15’ tương ứng với hành động hàng ngày của Thị mầu là đến chùa để gặp ai đó. Vì vậy, Mầu mong rằng sẽ có nhiều cơ hội được “thăm” thầy sư vào dịp “rằm”. Như vậy, chúng ta có thể phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật thông qua lời mời và sự thừa nhận của Mầu.

Được viết bởi một tác giả dân gian với tính cách nổi loạn và phóng khoáng, Thị mầu đã cho độc giả thấy sự táo bạo của mình bằng cách chọc ghẹo các sư trẻ trong chùa. Mọi điều Mầu nói và làm đều nhằm mục đích ve vãn Kính tâm. Thị mầu nhìn thấy nhà sư trẻ và ngay lập tức yêu anh ta. Khi Kính tâm hỏi tên, Thị mầu trả lời ngay:

‘Tên em ấy à?
Là Thị Mầu con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!’

Thị Mầu luôn nhấn mạnh mình là phụ nữ chưa chồng ở độ tuổi 20. Mục đích của câu nói này là thể hiện sự khao khát tình yêu và kết đôi. Ngoài ra, Mầu còn dành nhiều lời khen cho vị sư trẻ này: “Người ở đâu mà đẹp như sao băng vậy?” và “Có ai đến chùa này/ Với chiếc cổ cao ba ngấn và lông mày ngang?” Một giọng ngạc nhiên hỏi: “Ai lại khen một chú tiểu như vậy, Mầu ơi!” Thị mầu không chút do dự trả lời: ‘Đẹp thì người ta khen chứ sao’

Mầu biết nhà mình mất bò nhưng phớt lờ, nói: ‘nhà còn ối trâu’. Mầu dường như không quan tâm đến điều gì khác mà chỉ tập trung tán tỉnh thầy sư trẻ tuổi. Theo thời gian, mức độ tán tỉnh của Thị Mầu càng tăng hơn.

‘Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua’

Đây là sự so sánh độc đáo bộc lộ khát vọng tình yêu cháy bỏng của Thị Mầu. Khi mùa xuân trôi qua, táo trong vườn chín rồi rụng. Do không được chăm sóc và để già nên táo thường có vị chua, chát. Gái rở là những bà bầu thích ăn đồ chua, lạ. Vì thế mới có câu:’gái rở thèm của chua’. Thị Mầu so sánh mình với một cô gái rở và thầy sư với một quả táo rơi trước chùa, nhấn mạnh những ham muốn vi phạm đạo lý thường tình.

Tác giả đã phê phán Thị Mầu, nên nói thêm: “Mầu, nhà có bao nhiêu chị em?/Có ai như mày không” Nhưng trước lời nói đó, Mầu vẫn nói: “Nhà có chín chị em, nhưng tao là người chín chắn’

Tuy nhiên, Mầu đã nói nhiều lời giỗ ngọt nhưng vẫn không thể khiến vị hòa thượng trẻ đáp lại. Mầu đã chọn lời bài hát trêu ghẹo.

‘”Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
[…] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!’

Những bài hát trêu chọc của Mầu mô tả khái niệm tình yêu tự do và thoải mái, vượt qua những rào cản và định kiến xã hội. Câu ‘Ấy mấy thầy tiểu ơi’ được lặp đi lặp lại, nhấn mạnh đến đối tượng mà Mầu hướng tới và cũng là câu mở đầu cho tâm sự và mong muốn của cô. Khái niệm hạnh phúc của Thị mầu rất đơn giản. Đối với Mầu, ý kiến của người thân không quan trọng bằng cảm xúc của chính mình. Mầu không quan tâm đến bất cứ điều gì, số phận sẽ đến. Trong lời hát, Thị mầu đã dùng các từ ‘Đôi ta’, ‘Quyết đợi chờ lấy nhau’ và ‘Có thiếp có chàng’ để bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính tâm. Mầu sẽ không xinh đẹp nếu không có ai sánh đôi với. ‘em xinh em đứng một mình chẳng xinh’. Đây chính là mong muốn cháy bỏng của một người phụ nữ phóng khoáng, tự do.

Thời gian trôi qua, Thị mầu đã vượt qua giới hạn của mình và trở nên thô lỗ và thiếu tôn trọng, nói:’bỏ mô phật đi’. Bên trong ngôi chùa trang nghiêm, Mầu đã phớt lờ sự trang nghiêm và thốt ra những lời lẽ “phỉ báng” Phật giáo. Lúc này, Thị mầu không hề để ý đến lễ cúng mà chỉ tập trung tán tỉnh nhà sư.

‘Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!’

Hay:

‘Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài rau dệu tám thành bờ tre’

Chú tiểu không hiểu được tình cảm của Thị Mầu nên "để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng".

Không chỉ lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Mầu hát, trò chuyện và bày tỏ tình cảm của mình với Kính tâm. Đặc biệt, Mầu đã có một hành động rất dũng cảm. Nàng nhảy ra ngoài, cầm tay thay Kính tâm dọn dẹp tòa tháp. Trong thời phong kiến, hành động của Thị mầu là không thể chấp nhận được vì ‘nam nữ thụ thụ bất thân’. Hơn nữa, Kính tâm còn là một người sùng đạo, vượt xa những chuẩn mực, quy tắc.

Bằng cách này, tính cách, đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua lời nói và hành động. Nhân vật Thị Mầu có thể miêu tả là một người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại những giá trị đạo đức phong kiến. Với nhân vật này, các nhà văn dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn trinh tiết, chuẩn mực.

Trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’, Thị mầu là hiện thân của người phụ nữ phóng khoáng, mâu thuẫn với những tư tưởng, chuẩn mực đang thịnh hành của xã hội phong kiến. Ngoài nhân vật Thị kính, Thị mầu cũng là nhân tố góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Nguồn st
 
  • Like
Reactions: Văn Học
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
3K
0
3
Tham khảo
----

Vở chèo “Quan Âm Thị Kính” được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền chèo cổ truyền Việt Nam. Trong vở chèo này, nhân vật Thị Mầu nổi bật như một biểu tượng của sự lẳng lơ và phóng khoáng, đánh dấu sự khác biệt so với nhân vật Thị Kính, người có phẩm hạnh truyền thống và đạo đức nghiêm túc. Tính cách của Thị Mầu được thể hiện rõ qua đoạn trích “Thị Mầu lên chùa”.

Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông giàu có. Mặc dù có lẽ cô có tất cả những điều trên đời, nhưng sự khát khao của cô không dừng lại ở việc thể hiện lòng hiếu thảo đối với bố mẹ. Thị Mầu chuẩn bị tham gia lễ cúng tiến ở chùa vào ngày rằm, tuy nhiên, cô quyết định đến chùa sớm hơn hai ngày so với người khác. Lí do của cô là muốn thường xuyên gặp gỡ một người đặc biệt – Kính Tâm.

Trong lời nói của Thị Mầu, chúng ta có thể nhận thấy sự nghịch lý và mâu thuẫn trong tư duy của cô. Cô mong muốn một tháng có hai rằm để có nhiều cơ hội “thăm” Kính Tâm. Sự lặp lại của con số “mười ba”, “mười bốn”, “mười lăm” tương ứng với từng ngày lên chùa để thấy Kính Tâm thể hiện sự phóng khoáng và bản lĩnh của cô.

Thị Mầu cũng tỏ ra rất táo bạo trong việc ve vãn Kính Tâm, sử dụng lời nói và cử chỉ để tạo dấu ấn trong tâm hồn của chú tiểu. Cô liên tục nhấn mạnh về tình trạng độc thân của mình và không ngần ngại tỏ ra thích thú trước vẻ đẹp của Kính Tâm. Thậm chí, cô còn đánh giá cao nhan sắc của Kính Tâm và tự tin tỏ ra thán phục trước sự đẹp trai của chú tiểu. Thị Mầu không ngần ngại tỏ ra mê mệt và táo bạo, tạo nên một sự đối lập hoàn toàn so với những đặc điểm và đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến.

Thị Mầu, trong đoạn trích này, thể hiện sự quyết tâm và khát khao yêu đương bằng cách không quan tâm đến sự mất mát tài sản của gia đình, cho rằng “nhà tao còn ối trâu”. Điều này cho thấy rằng Mầu không để ý đến bất kỳ thứ gì ngoại trừ việc tán tỉnh sư thầy. Cô ngày càng trở nên táo bạo hơn trong việc tán tỉnh Kính Tâm.

Một trong những phép so sánh độc đáo trong đoạn trích này là “Thầy như táo rụng sân đình, em như gái rở, đi rình của chua”. Thành ngữ “gái rở thèm của chua” thường ám chỉ người phụ nữ mang thai thích ăn đồ chua và lạ. Thị Mầu dùng điều này để tạo ra sự khác biệt giữa mình và những người phụ nữ truyền thống, đồng thời thể hiện khao khát của cô về một tình yêu đặc biệt, bất chấp các quy tắc xã hội.

Tác giả dân gian đã sử dụng các lời phê phán từ những người xung quanh Thị Mầu, như “Mầu ơi, nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?” để tạo ra một sự đối lập với quan điểm và hành động của Thị Mầu. Tuy nhiên, Thị Mầu tự tin và không để ý đến những lời nói này, quả quyết rằng “Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!”

Mặc dù sử dụng nhiều lời ngọt ngào, nhưng Thị Mầu vẫn không thể khiến cho Kính Tâm đáp lại tình cảm của cô. Cô quyết định sử dụng lời hát để tán tỉnh chú tiểu, như “Ấy mấy thầy tiểu ơi! Song đứng trước cửa chùa, tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn […]” để tạo ra một không gian tình yêu thoải mái và tự do.

Thị Mầu trở nên ngày càng sỗ sàng, dùng ngôn ngữ không thích hợp trong môi trường trang nghiêm của chùa. Cô không quan tâm đến việc cúng tiến mà tập trung vào việc tán tỉnh Kính Tâm. Những bài hát tán tỉnh của cô đều tập trung vào việc thu hút sự chú ý của chú tiểu. Thị Mầu tỏ ra khao khát yêu đương mãnh liệt và đôi khi không kiểm soát được cảm xúc của mình, “Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!”.

Không chỉ bằng lời nói mà Thị Mầu còn thể hiện tính cách và đặc điểm riêng của mình thông qua hành động. Trong đoạn trích, chúng ta thấy rằng Thị Mầu không ngừng hát và nói để thể hiện tình cảm của mình đối với Kính Tâm. Tuy nhiên, điều đặc biệt và táo bạo hơn cả là hành động của Thị Mầu khi cô xông ra và nắm tay Kính Tâm, sau đó nhận việc quét chùa thay thế Tiểu Kính.

Hành động này của Thị Mầu không thể chấp nhận trong xã hội phong kiến nơi mà quy định “nam nữ thụ thụ bất thân”. Đặc biệt, Kính Tâm là người tu theo đạo Phật, điều này khiến hành động của Thị Mầu trở nên vi phạm chuẩn mực và khuôn phép.

Như vậy, tính cách và đặc điểm riêng của nhân vật Thị Mầu được thể hiện rõ qua cách cô ứng xử, bày tỏ tình cảm, và đặc biệt là thông qua hành động của mình. Thị Mầu là một biểu tượng của sự nổi loạn và phóng khoáng, đối diện với quan niệm đạo đức và chuẩn mực phong kiến. Tác giả dân gian sử dụng nhân vật này để phê phán và lên án những phụ nữ không tuân thủ các giới hạn và chuẩn mực về tiết hạnh và đạo đức trong xã hội. Thông qua Thị Mầu, đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” góp phần xây dựng nên một bức tranh phong cách và đầy màu sắc về những nhân vật trong vở chèo.

Nguồn: st
 
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
3K
0
3
Bài làm văn tham khảo
-----

Vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa” thực sự là một tác phẩm nghệ thuật nổi bật trong văn hóa dân gian Việt Nam. Đoạn trích này không chỉ thể hiện sự hài hước và biểu cảm xuất sắc mà còn mang trong mình nhiều ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống và giới tính.

Thị Mầu là một nhân vật đầy sức sống và cá tính. Cô dám đối mặt với những giới hạn và quy định xã hội của thời kỳ phong kiến để thể hiện bản thân mình. Hành động của Thị Mầu trong chùa thể hiện sự táo bạo và dám đối diện với trái tim mình, dù đó là một hành động mạo hiểm trong xã hội kín đáo và kỳ thị tình yêu.

Thị Mầu cũng là biểu tượng cho nỗi khát khao tình yêu và tự do trong cuộc sống của phụ nữ. Cô đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải đối diện với những giới hạn và quy định ngăn cản họ tìm kiếm hạnh phúc cá nhân và tình yêu chân thành. Thị Mầu hiện thực hóa sự khao khát yêu đương và tự do khỏi những bức tường của chuẩn mực đạo đức xã hội.

Tuy những hành động của Thị Mầu trong chùa có thể là điều không nên làm, nhưng chúng thể hiện sự mạo hiểm và quyết tâm trong việc theo đuổi tình yêu và tự do. Nhân vật Thị Mầu thể hiện một cách tinh tế sự đấu tranh của phụ nữ để thoát khỏi những quy định cản trở họ trong cuộc sống và tình yêu của riêng mình.

Nhân vật Thị Mầu trong vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa” thực sự là một tâm hồn đáng thương và đáng trách, mang trong mình nhiều yếu tố xót xa và đầy thông cảm. Thị Mầu là một con gái có xuất thân trong gia đình phú ông, một tầng lớp xã hội gia đình có tài sản và địa vị. Tuy nhiên, cuộc sống và số phận của cô lại đầy khó khăn và bế tắc, tương tự như nhiều người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến.

Trong đoạn trích, chúng ta thấy một Thị Mầu vô cùng cá tính và dũng cảm. Thị Mầu không sợ đối mặt với những quy định và giới hạn mà xã hội phong kiến đặt ra cho phụ nữ. Cô không ngần ngại trái với chuẩn mực và quy tắc đạo đức truyền thống để thể hiện bản thân và tìm kiếm hạnh phúc.

Thị Mầu là một biểu tượng của sự tự do và khát khao yêu đương của phụ nữ. Cô mở đầu cho một cuộc đấu tranh của phụ nữ để thoát khỏi những giới hạn và ràng buộc của xã hội phong kiến. Cô không bao giờ quan tâm đến tiếng nói trái chiều của người khác và luôn theo đuổi mục tiêu riêng của mình, đó là tình yêu và hạnh phúc.

Tuy nhiên, số phận và tình yêu của Thị Mầu lại bắt đầu vướng phải một rắc rối lớn khi người cô thương lại là một người đã xuất gia. Sự xuất hiện của Thị Mầu đã mang đến một phiên bản mới lạ cho cuộc sống và quan niệm về phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cô không chấp nhận tiếng nói của xã hội, và dám bước ra khỏi những giới hạn mà họ áp đặt. Điều này khiến cho Thị Mầu trở thành biểu tượng của sự độc lập và sáng tạo của phụ nữ, đồng thời thể hiện sự đấu tranh của họ trong việc tìm kiếm hạnh phúc và tự do trong tình yêu và cuộc sống.

Nguồn st
 
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
3K
0
3
Vở chèo ‘Quan Âm Thị Kính’ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo ở Việt Nam cổ đại. Cùng với nhân vật Thị kính (đào thương), Thị mầu được xếp vào loại đào trong các vở chèo do tính chất phù phiếm, phóng khoáng. Tính cách này được thể hiện rõ nét trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’. Vở chèo đã khắc họa Thị Mầu bắt gặp say đắm và tìm cách tán tỉnh Kính Tâm trên đường đi chùa.

Nói đến xuất thân, Thị mầu là con gái của một phú ông giàu có. Nàng tự coi mình là một đứa con hiếu thảo vì luôn kính trọng cha mẹ. ‘thầy mẹ tôi tôn kính một lòng’. Khi ngày rằm đến gần, Thị Mầu “chuẩn bị tiền và gạo để mang lên chùa cúng tế”. Thay vì đi chùa vào ngày 15 như mọi người, Mầu đã đi chùa sớm hơn hai ngày.

‘Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.’

Qua lời nói của Thị mầu, người đọc có thể hiểu được những nghịch lý, mâu thuẫn. Cô nói: ‘tôi muốn cho một tháng đôi rắm/trước vào lễ Phật, ssau thăm vãi già’. Rõ ràng ý định của Mầu là vào chùa trước, và nghi thức tiếp theo là đi thăm vãi già. Tuy nhiên, Mầu chỉ tập trung vào việc gặp gỡ nhà sư. Con số 13 được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh ngày Thị mầu đi chùa cúng tiến. Các con số ‘13’, ‘14’ và ‘15’ tương ứng với hành động hàng ngày của Thị mầu là đến chùa để gặp ai đó. Vì vậy, Mầu mong rằng sẽ có nhiều cơ hội được “thăm” thầy sư vào dịp “rằm”. Như vậy, chúng ta có thể phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật thông qua lời mời và sự thừa nhận của Mầu.

Được viết bởi một tác giả dân gian với tính cách nổi loạn và phóng khoáng, Thị mầu đã cho độc giả thấy sự táo bạo của mình bằng cách chọc ghẹo các sư trẻ trong chùa. Mọi điều Mầu nói và làm đều nhằm mục đích ve vãn Kính tâm. Thị mầu nhìn thấy nhà sư trẻ và ngay lập tức yêu anh ta. Khi Kính tâm hỏi tên, Thị mầu trả lời ngay:

‘Tên em ấy à?
Là Thị Mầu con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!’

Thị Mầu luôn nhấn mạnh mình là phụ nữ chưa chồng ở độ tuổi 20. Mục đích của câu nói này là thể hiện sự khao khát tình yêu và kết đôi. Ngoài ra, Mầu còn dành nhiều lời khen cho vị sư trẻ này: “Người ở đâu mà đẹp như sao băng vậy?” và “Có ai đến chùa này/ Với chiếc cổ cao ba ngấn và lông mày ngang?” Một giọng ngạc nhiên hỏi: “Ai lại khen một chú tiểu như vậy, Mầu ơi!” Thị mầu không chút do dự trả lời: ‘Đẹp thì người ta khen chứ sao’

Mầu biết nhà mình mất bò nhưng phớt lờ, nói: ‘nhà còn ối trâu’. Mầu dường như không quan tâm đến điều gì khác mà chỉ tập trung tán tỉnh thầy sư trẻ tuổi. Theo thời gian, mức độ tán tỉnh của Thị Mầu càng tăng hơn.

‘Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua’

Đây là sự so sánh độc đáo bộc lộ khát vọng tình yêu cháy bỏng của Thị Mầu. Khi mùa xuân trôi qua, táo trong vườn chín rồi rụng. Do không được chăm sóc và để già nên táo thường có vị chua, chát. Gái rở là những bà bầu thích ăn đồ chua, lạ. Vì thế mới có câu:’gái rở thèm của chua’. Thị Mầu so sánh mình với một cô gái rở và thầy sư với một quả táo rơi trước chùa, nhấn mạnh những ham muốn vi phạm đạo lý thường tình.

Tác giả đã phê phán Thị Mầu, nên nói thêm: “Mầu, nhà có bao nhiêu chị em?/Có ai như mày không” Nhưng trước lời nói đó, Mầu vẫn nói: “Nhà có chín chị em, nhưng tao là người chín chắn’

Tuy nhiên, Mầu đã nói nhiều lời giỗ ngọt nhưng vẫn không thể khiến vị hòa thượng trẻ đáp lại. Mầu đã chọn lời bài hát trêu ghẹo.

‘”Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
[…] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!’

Những bài hát trêu chọc của Mầu mô tả khái niệm tình yêu tự do và thoải mái, vượt qua những rào cản và định kiến xã hội. Câu ‘Ấy mấy thầy tiểu ơi’ được lặp đi lặp lại, nhấn mạnh đến đối tượng mà Mầu hướng tới và cũng là câu mở đầu cho tâm sự và mong muốn của cô. Khái niệm hạnh phúc của Thị mầu rất đơn giản. Đối với Mầu, ý kiến của người thân không quan trọng bằng cảm xúc của chính mình. Mầu không quan tâm đến bất cứ điều gì, số phận sẽ đến. Trong lời hát, Thị mầu đã dùng các từ ‘Đôi ta’, ‘Quyết đợi chờ lấy nhau’ và ‘Có thiếp có chàng’ để bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính tâm. Mầu sẽ không xinh đẹp nếu không có ai sánh đôi với. ‘em xinh em đứng một mình chẳng xinh’. Đây chính là mong muốn cháy bỏng của một người phụ nữ phóng khoáng, tự do.

Thời gian trôi qua, Thị mầu đã vượt qua giới hạn của mình và trở nên thô lỗ và thiếu tôn trọng, nói:’bỏ mô phật đi’. Bên trong ngôi chùa trang nghiêm, Mầu đã phớt lờ sự trang nghiêm và thốt ra những lời lẽ “phỉ báng” Phật giáo. Lúc này, Thị mầu không hề để ý đến lễ cúng mà chỉ tập trung tán tỉnh nhà sư.

‘Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!’

Hay:

‘Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài rau dệu tám thành bờ tre’

Chú tiểu không hiểu được tình cảm của Thị Mầu nên "để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng".

Không chỉ lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Mầu hát, trò chuyện và bày tỏ tình cảm của mình với Kính tâm. Đặc biệt, Mầu đã có một hành động rất dũng cảm. Nàng nhảy ra ngoài, cầm tay thay Kính tâm dọn dẹp tòa tháp. Trong thời phong kiến, hành động của Thị mầu là không thể chấp nhận được vì ‘nam nữ thụ thụ bất thân’. Hơn nữa, Kính tâm còn là một người sùng đạo, vượt xa những chuẩn mực, quy tắc.

Bằng cách này, tính cách, đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua lời nói và hành động. Nhân vật Thị Mầu có thể miêu tả là một người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại những giá trị đạo đức phong kiến. Với nhân vật này, các nhà văn dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn trinh tiết, chuẩn mực.

Trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’, Thị mầu là hiện thân của người phụ nữ phóng khoáng, mâu thuẫn với những tư tưởng, chuẩn mực đang thịnh hành của xã hội phong kiến. Ngoài nhân vật Thị kính, Thị mầu cũng là nhân tố góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Nguồn st
 
  • Like
Reactions: Văn Học
Viết trả lời...
Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
15K
5
9
Hai đề tương ứng nhau

 
Viết trả lời...
Sống là kết nối. Nhưng sống cũng cần có những khoảng lặng để ngắt kết nối”

Anh / chị hãy nghị luận về câu nói trên

Bài làm

Chúng ta – chúng ta chỉ là một vật thể nhỏ bé giữa vũ trụ rộng lớn cần một sợi dây kết nối và níu giữ với những vật thể khác. Nhưng đồng thời chúng ta cũng là cây xương rồng lẻ loi, cô đơn mạnh mẽ vươn mình giữa sa mạc nóng rát. Sống – một hành trình khó mà đạt được đến cái trọn vẹn. bởi là không trọn vẹn nên suốt một chặng đường ấy người ta cứ day dứt mãi một nỗi niềm “ sống có lẽ là kết nối. Nhưng sống cũng cần có những khoảng lặng để ngắt kết nối”

Một đứa trẻ cần hòa nhập với môi trường năng nổ, giao tiếp cùng biết bao người bạn chúng có thể gặp trên đường đời. Và một đứa trẻ đồng thời phải tự lập, phải biết lắng đọng trong chính mình. Nói chính xác hơn điều ấy có lẽ là đúng với tất cả chúng ta, không đơn thuần thành phần nào trong xã hội. Ta giao tiếp, đồng cảm, sẻ chia, tạo những luồng sóng và thu nhập luồng sóng từ trái tim của thế nhân. Ấy chính là kết nối, kết nối giữa thế giới muôn vàn điều đẹp đẽ. Tìm kiếm niềm vui trong điều đẹp đẽ ấy là chưa đủ, ta còn có khoảng lặng, còn những phút giây cần lắng đọng thật sâu, một mình, cắt đứt luồng sống và tự bản thân đối diện. Hai trạng thái tưởng chừng đối cực nhau như âm với dương nhưng chúng sẽ bổ trợ cho nhau hình thành nên đời sống đáng sống, đáng hạnh phúc dành cho con người. Một cuộc đời là quá ngắn để ta sống mãi trong nỗi phụ thuộc, đánh mất dần lý tưởng, cái khoảng trống đáng ra giành để tĩnh tâm, để nhận thức lại bản thân. Sẽ đẹp biết bao nhiêu khi con người biết thu nhập luồng sóng thời đại đúng chỗ và dừng lại đúng lúc khi không cần thiết

Người ta sẽ thường đặt vô vàn những câu hỏi cho thượng đế, cho cuộc sống này. Dù biết rằng thượng đế sẽ không trả lời chúng ta, cuộc sống sẽ không hồi đáp chúng ta nhưng vẫn cứ mải miết trăn trở. Sự sống rốt cuộc là gì ? Tại sao sống mà cần nhắc tới hai chữ “kết nối” . Vì bởi lẽ con người sinh ra đã ở trong trạng thái không thể nào là một kẻ đơn độc. Đơn độc đồng nghĩa với chết, với sự không tồn tại trong thế giới này. Ta cần sự trợ giúp của đồng loại, trái tim ta cần hiểu và được hiểu nhân thế, lý tưởng ta cần kết nối với bộ não khác, linh hồn ta cần nghe tiếng đồng vọng từ một thực thể sống nào đó. Tất cả mọi thứ thuộc về con người sẽ ít nhiều phụ thuộc vào người. Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Và kết nối là trách nhiệm, là điều thiết yếu buộc phải tồn tại. Kết nối để ta bớt cô độc, kết nối để ta có bến đỗ để dựa vào mỗi lúc lòng mình đã thấm mệt, thấm đau , kết nối để ta biết học cách sẻ chia, đồng cảm, giao tiếp, yêu thương. Kết nối để không bị bỏ lại phía sau. Khi đứng giữa cuộc sống này, khi con người ở nơi cùng cực tuyệt vọng nhất của đáy vực sâu, bàn tay mang tên kết nối ấy sẽ kéo chúng ta lên thoát ra khỏi vòng vây bóng tối. Sống là việc không thể định nghĩa, nhưng chúng ta có quyền quyết định cho sự sống của mình sẽ diễn ra ra sao, sẽ vận hành theo cách nào. Bởi thế kết nối là cách tốt nhất để ta hiện thực hóa điều ấy. Bạn biết không ? Cái cảm giác bản thân được kéo thứ sợi dây kết nối giữa hai tâm hồn, hai thân thể, hai ý nghĩ là điều vô cùng tuyệt vời. Hạnh phúc có. Vui vẻ có. Biết ơn có. Trân trọng có. Có sự thật rằng con người rất dễ bị cô đơn và sợ hãi trong chính nỗi cô đơn ấy, đặc biệt là khi ở một mình. Tại sao thượng đế lại sinh ra hàng tỷ tỷ người khác nhau mà không phải chỉ riêng ai ? Tại sao trên đời luôn có hàng trăm câu hỏi về cách đối nhân xử thế sao cho hợp tình hợp lý ? Tại sao tạo hóa luôn khát khao con người lắng nghe kẻ khác. Vì họ cần nhau để tồn tại. Vì sóng gió của đại dương không chỉ cần người lái thuyền mà còn kẻ căng buồm. Sau khi tự mình thoát ra khỏi căn bệnh trầm cảm, hòa nhập với cộng đồng, cô gái năm đó tôi gặp đã hạnh phúc ra sao, phát triển bản thân mình hơn và gặp được những người em gọi là tri kỉ. Một cụ già vô gia cư cầm trên tay hộp sữa và suất cơm mà người tình nguyện viên đi phát, trò chuyện cùng họ khiến sợi dây kết nối trong cụ như hiện rõ, cụ càng khát khao kết nối và kết nối nhiều hơn thế

Từ bỏ cơ hội hòa nhập vào cộng đồng, nói cách khác là giao tiếp và kết nối chắc chắn sẽ bào mòn dần sự sống, trái tim nhỏ bé mà đầy nhạy cảm của chúng ta. Nó làm ta mất dần cảm giác muốn được giải thoát cảm xúc, không để cho nó dần dần ứ đọng rồi trở thành hố sâu nuốt chửng linh hồn. ta sẽ chẳng nhận được bất kì sự giúp đỡ, sự đồng cảm nào ở đấy cả. Ta mãi chỉ là một viên sò cô đơn giữa sa mạc. Mà giữa sa mạc làm gì loài sò nào ở đấy chờ lắng nghe tâm sự từ bạn. Bạn tự biến mình thành kẻ thiếu giao tiếp, kẻ thiếu kỹ năng, cô đơn , thậm chí là dễ xuất hiện các bệnh về tâm lí, trầm cảm. Ngay giây phút ấy, con người thấy mình lạc lõng vô cùng, thấy mình chỉ như sự thừa thãi của xã hội này. Thật đáng tiếc biết bao nhiêu

Nhưng khoan đã ! Từng ấy lời văn không phải để ca tụng quá mức sự kết nối, tôn vinh nó lên đỉnh điểm. Chúng ta hãy còn nhớ tất cả đều cần đạt đến mức vừa đủ, thiếu sẽ tiếc mà quá thì sẽ hại. Khi đã kết nối đủ sâu, hãy quay về với khoảng lặng trong một vài khoảnh khắc. Đâu đó, linh hồn ta vẫn vẫy gọi được lắng vào cái căn nguyên sâu thẳm nhất tựa ban đầu. Lặng để nhìn nhận lại chính mình suốt hành trình đã qua. Lặng để soi tỏ hơn về mọi mối quan hệ xã hội đang có, liệu nó có thực sự hoàn toàn là tích cực, và đâu là mối quan hệ tiêu cực cần lưu tâm. Lặng để lí trí học cách tư duy độc lập, không phụ thuộc, tự chủ, bản lĩnh, mạnh mẽ. Lặng để chứng minh cho thế giới hiểu chúng ta sống không phải bao giờ cũng cần ồn ào nhộn nhịp với tất cả vạn sự kết nối, chúng ta còn chúng ta, cần một nơi yên tĩnh để trở lại chốn tĩnh tại thanh bình.kết nối quá nhiều đôi khi làm ta mất đi giá trị của riêng mình, thiếu mất sự quan tâm rằng bản thân đang nghĩ gì, đang muốn gì. Khoảng lặng ấy sinh ra chẳng phải để tách biệt bạn với thế giới hay đưa bạn vào một không gian thu hẹp chẳng bao giờ kéo khóa mở ra. Nó tồn tại cùng con người, và con người sẽ cần đến nó để mà biết vả chăng sinh mệnh này sinh ra là điều kỳ diệu nhất, vả chăng chính mình có đang làm tốt nhiệm vụ mà bản thân luôn đề ra trong khuôn khổ. Một đất nước có đủ sống, rừng núi sẽ khác với nơi thiếu mất đại dương. Không thể nào xông xáo trong việc kết nối mà bỏ lỡ vài khoảnh khắc đáng lẽ ra bản thân đã dành để chữa lành vết xước của thời gian. Thế đấy, sự kết nối đạt đến độ hoàn hảo khi và chỉ khi duy trì cường độ ổn định, nên giảm và nên tăng lúc nào cho hợp lí để hội chứng sợ hãi xã hội sẽ chẳng bao giờ hiện hữu trong chúng ta

Hãy thử tưởng tượng một ngày, bạn đánh mất sự kết nối hay là quên đi những khoảng lặng, bạn sẽ còn gì ? chẳng còn gì cả ngoài tâm hồn xơ xác, ngoài trái tim khô cằn. Đáng tiếc cho sinh mệnh như thế ấy. Chúng ta được sinh ra, tồn tại không phải lụi tàn theo cách dễ dàng đến vậy. Kết nối để cuộc đời này rực rỡ hoa, để bất kì phút giây nào bạn cũng có thể tìm thấy cho mình bến đỗ phù hợp mà sẻ chia, thấu hiểu, cảm thông. Đời sẽ đẹp khi hoa nở có nắng. Người sẽ vui khi luôn có ai đó chờ mình. Phải không nào. Nhưng chớ đừng quên mất sức mạnh của khoảng lặng, khoảng trống đấy nhé. Nó cần thiết để kéo dài sự sống của bạn và níu giữ tâm hồn bạn ở lại với cõi đời, không mệt mỏi. Chặng đường ta đi sẽ hãy còn dài, còn lắm chông gai. Bàn tay con người lạnh buốt sẽ cần lắm ai đó nắm lấy sưởi ấm vào ngày đông giá rét. Dẫu không biết phía trước là điều gì còn chờ đợi, hãy đừng thôi tạo ra nguồn sóng để người khác thu nhập và chính bản thân sẽ đi thu nhập lại nguồn sóng từ họ nhé

Con người chỉ là những kẻ lữ khách rong ruổi từ miền đất này đến miền đất khác. Chuyến tàu nào rồi cũng sẽ có hồi kết, sẽ phải dừng lại. Và những gì ta nhận lại, ta gặp gỡ trên chuyến tàu ấy, dù ở lại, dù bước qua đời ta đều sẽ tô điểm thêm cho bức tranh sơn dầu này. Và rồi khi đã đi đến chặng cuối, còn mình để ngẫm nghĩ, để lặng lẽ về một thời đã qua
Thêm
  • playlist.jpg
    playlist.jpg
    95.5 KB · Lượt xem: 570
13K
8
4
Viết trả lời...
Có người nói rằng: "Hãy vươn đến bầu trời, dù không thể hái được vì sao sáng nhất nhưng ít ra, bạn cũng có thể đứng giữa muôn vàn tinh tú để thắp sáng ước mơ ". Thật vậy, mỗi chúng ta ai ai cũng có những ước mơ, hoài bão riêng của mình vào luôn mong muốn nó thành hiện thực.
Cùng www. vanhoctre.com nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người nhé!



5091

Nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người
a.Nêu vấn đề cần nghị luận:
Sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người.

b.Giải thích
- Ước mơ chính là những kế hoạch, những dự định, hoài bão mà con người mong muốn bản thân mình đạt được. Đó có thể là ước mơ gần, cũng có thể là ước mơ xa hơn nhưng tất cả đều hướng con người tới những hành động để đạt được chúng

c. Bàn luận:
- Sức mạnh của ước mơ chính là động lực thúc đẩy con người hành động, vượt qua khó khăn thử thách, vượt qua những giới hạn của bản thân để từng bước, từng bước hoàn thành ước mơ đó.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người tìm ra lối đi đúng đắn. Bởi nếu cuộc sống con người thiếu đi những ước mơ, hoài bão khi đó cuộc sống của con người sẽ chìm vào màn đêm u tối, không có phương hướng, không có lối đi. Bản thân con người thiếu đi ước mơ cũng sẽ như những con thuyền đi đêm
mà thiếu ngọn hải đăng dẫn đường. Mất phương hướng, chênh vênh, chao đảo trước sóng gió cuộc đời. Ta có thể ví ước mơ như ngọn hải đăng chiếu sáng, chỉ đường cho mỗi người.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người hoàn thiện bản thân mình hơn, giúp ích cho xã hội.
- Ca ngợi những con người có ước mơ chân chính, biết kiên trì theo đuổi, biến ước mơ thành hiện thực. Ngược lại, nên phê phán những người có ước mơ viển vông, có tham vọng mù quáng để rồi tự nhấn chìm bản thân trong những ảo mộng đó mãi không thể thoát ra.

d. Bài học nhận thức và hành động
-
Ước mơ là điều đáng có và đáng trân trọng.
- Tuy nhiên, mỗi người cần xác định cho mình những ước mơ đúng đắn để không ngừng theo đuổi nó.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
12K
1
7
Tham khảo nghị luận về ước mơ
--

Mỗi người đều có những ước mơ và mong muốn riêng, những điều mà họ yêu thích, có năng khiếu và muốn thực hiện. Từ việc trở thành bác sĩ, nhà báo, diễn viên đến đơn giản chỉ muốn đi đây đi đó, ước mơ của mỗi người đều đặc biệt và đa dạng. Ước mơ không đánh thuế và xuất phát từ tâm hồn của con người.

Có ước mơ giúp con người có động lực và sự phấn đấu để hiện thực hóa những điều mình mong muốn. Nó giúp con người có cuộc sống tích cực và lành mạnh hơn, làm tâm hồn con người trong sáng hơn. Nếu không có ước mơ, cuộc sống sẽ trở nên nhạt nhẽo, vô vị và nhàm chán. Người ta có thể cảm thấy chán nản, mất động lực và dẫn đến những hành vi dại dột.

Tuy nhiên, nếu con người có ước mơ, họ sẽ có lối sống tích cực hơn, bám vào ước mơ để tiếp tục tiến bước trên hành trình của mình. Điều này giúp cho cuộc sống của con người trở nên tích cực hơn, suy nghĩ và hành động của họ cũng trở nên tích cực hơn những người không có ước mơ.

Vì vậy, ước mơ là điểm đặc biệt trong cuộc đời của mỗi người, giúp cho con người có động lực và mục tiêu để phấn đấu trong cuộc sống. Nó là nguồn động lực và hy vọng cho con người để tiếp tục tiến bước trên con đường của mình.

Trong một lớp học, khi cô giáo yêu cầu học sinh viết ước mơ của mình, hầu hết các em đều thẳng thắn bày tỏ ước mơ của mình. Tuy nhiên, khi yêu cầu viết cách để hiện thực hóa ước mơ đó, rất nhiều học sinh lại không biết phải làm gì hoặc để trống ô này. Điều này cho thấy rằng, mặc dù có ước mơ nhưng nó vẫn chỉ là mơ hồ và chưa được thực sự tin tưởng hoặc nhiệt tình đối với nó.

Ước mơ trong thời kỳ học sinh là những ước mơ tuyệt vời và đáng trân trọng nhất, chúng chưa bị ảnh hưởng bởi áp lực tiền bạc hay sự thực tế của cuộc sống. Thực hiện ước mơ của mình hoàn toàn có thể xảy ra nếu chúng ta chuẩn bị và cố gắng. Nếu có ước mơ sớm, chúng ta có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc thực hiện nó và biến nó thành hiện thực.

Hiện nay, có nhiều bạn trẻ cảm thấy bối rối và ngập ngừng khi được hỏi về ước mơ của mình. Một phần lý do là do sự nuông chiều quá mức trong cuộc sống, khiến cho các bạn trẻ không cần phải lo nghĩ, không phải đối mặt với khó khăn và thử thách để tìm ra ước mơ cho mình. Tuy nhiên, việc có ước mơ thực sự là một điều tuyệt vời và đáng quý trong cuộc đời của mỗi người.

Đừng sợ mơ ước, hãy đặt mục tiêu và lộ trình cụ thể để biến ước mơ của mình thành hiện thực. Nếu bạn không biết mình sẽ ở đâu và làm gì trong 5 năm tới, hãy bắt đầu tìm hiểu về bản thân, quan tâm đến sở thích và khả năng của mình, và đặt ra các mục tiêu cụ thể để thực hiện ước mơ của mình.

Hãy nhớ rằng, chỉ có khi bạn đối mặt với những thử thách và khó khăn, bạn mới có thể phát triển và tiến bước trên con đường đến với ước mơ của mình. Vì vậy, hãy cố gắng hết mình để biến ước mơ của mình thành hiện thực và tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống của mình.

Nguồn st
 
Viết trả lời...
Có người nói rằng: "Hãy vươn đến bầu trời, dù không thể hái được vì sao sáng nhất nhưng ít ra, bạn cũng có thể đứng giữa muôn vàn tinh tú để thắp sáng ước mơ ". Thật vậy, mỗi chúng ta ai ai cũng có những ước mơ, hoài bão riêng của mình vào luôn mong muốn nó thành hiện thực.
Cùng www. vanhoctre.com nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người nhé!



5091

Nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người
a.Nêu vấn đề cần nghị luận:
Sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người.

b.Giải thích
- Ước mơ chính là những kế hoạch, những dự định, hoài bão mà con người mong muốn bản thân mình đạt được. Đó có thể là ước mơ gần, cũng có thể là ước mơ xa hơn nhưng tất cả đều hướng con người tới những hành động để đạt được chúng

c. Bàn luận:
- Sức mạnh của ước mơ chính là động lực thúc đẩy con người hành động, vượt qua khó khăn thử thách, vượt qua những giới hạn của bản thân để từng bước, từng bước hoàn thành ước mơ đó.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người tìm ra lối đi đúng đắn. Bởi nếu cuộc sống con người thiếu đi những ước mơ, hoài bão khi đó cuộc sống của con người sẽ chìm vào màn đêm u tối, không có phương hướng, không có lối đi. Bản thân con người thiếu đi ước mơ cũng sẽ như những con thuyền đi đêm
mà thiếu ngọn hải đăng dẫn đường. Mất phương hướng, chênh vênh, chao đảo trước sóng gió cuộc đời. Ta có thể ví ước mơ như ngọn hải đăng chiếu sáng, chỉ đường cho mỗi người.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người hoàn thiện bản thân mình hơn, giúp ích cho xã hội.
- Ca ngợi những con người có ước mơ chân chính, biết kiên trì theo đuổi, biến ước mơ thành hiện thực. Ngược lại, nên phê phán những người có ước mơ viển vông, có tham vọng mù quáng để rồi tự nhấn chìm bản thân trong những ảo mộng đó mãi không thể thoát ra.

d. Bài học nhận thức và hành động
-
Ước mơ là điều đáng có và đáng trân trọng.
- Tuy nhiên, mỗi người cần xác định cho mình những ước mơ đúng đắn để không ngừng theo đuổi nó.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
12K
1
7
Bài làm tham khảo nghị luận về ước mơ
----

Mỗi người đều có những ước mơ, có thể là những mong muốn đơn giản trong cuộc sống hàng ngày hoặc là những kế hoạch lớn hơn cho tương lai của chính bản thân. Tuy nhiên, chúng ta thường quên đi những điều quan trọng nhất - những ước mơ của chúng ta. Nếu ta nhìn bầu trời như biểu tượng cho những ước mơ và tầm nhìn rộng lớn về bản thân, thì những lo toan hàng ngày lại khiến ta chìm đắm trong cuộc sống bận rộn, đối mặt với các thử thách trước mắt và bị mất khả năng nhìn xa hơn, để nhận ra độ lớn của những ước mơ của chúng ta. Chính vì vậy, không được quên đi những ước mơ quan trọng trong cuộc đời của mình. Có thể những ước mơ đó là chìa khóa để đạt được thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.

Ước mơ và hoài bão là nền tảng quan trọng, tạo đà cho mỗi cá nhân, tổ chức và dân tộc trên con đường tiến tới thành công. Nhưng ước mơ chỉ có ý nghĩa nếu được đóng góp bởi những chuẩn bị cần thiết để thực hiện nó. Trên hành trình chinh phục giấc mơ, sự chuẩn bị có nhiều thành phần, tuy nhiên, tri thức là một yếu tố quan trọng không thể thiếu. Và để tích lũy và phát triển tri thức, học tập và nghiên cứu khoa học là hai quá trình không thể tách rời nhau. Học tập giúp tích lũy kiến thức, trong khi nghiên cứu khoa học giúp tìm ra những giải pháp mới và thực tiễn cho các vấn đề. Những quá trình này đang trở nên càng quan trọng hơn đối với thanh niên hiện nay, giúp họ nâng cao năng lực và sẵn sàng đối mặt với thách thức của tương lai.

Tuổi trẻ là thời điểm quan trọng để theo đuổi ước mơ, đó là món quà vô giá của tạo hóa mà không phải ai cũng biết trân trọng. Nếu được trang bị đầy đủ kiến thức và năng lực cần thiết, tuổi trẻ sẽ trở thành những người có tầm nhìn xa, năng động và sáng tạo, và từ đó đạt được những thành công vượt bậc trong sự nghiệp và cuộc sống. Vì vậy, chúng ta cần cống hiến cho việc học tập và phát triển bản thân trong thời gian trẻ, để từ đó đem lại lợi ích cho chính bản thân và xã hội.

Có một câu nói rằng, nếu bị dúi xuống bùn lầy tăm tối trong cuộc sống, thì tốt nhất là chọn lúc mười tám đến hai mươi tuổi. Lúc đó, bạn có đủ sức khoẻ và sự dẻo dai để vượt qua khó khăn, cùng với sự hưng phấn và thất vọng, niềm tin và sự ngoan cố mù quáng. Tuy nhiên, cũng có nguy cơ trượt xa xuống vực sâu của tăm tối, kiệt quệ và u uất.

Tuổi trẻ đã là một tài sản, mang trong mình ánh sáng và hạnh phúc. Khi bị dẫn xuống bùn, cơ hội để tỏa sáng và thăng hoa vẫn còn lớn hơn so với khi bạn già đi. Vì vậy, hãy sống và phấn đấu vì ước mơ của chính mình. Thành công bắt đầu từ suy nghĩ "dám ước mơ". Hãy dám ước mơ và vượt qua hạn hẹp của hoàn cảnh sống để thực hiện khát vọng của mình. Ước mơ giống như tên lửa chuẩn bị cất cánh, nhưng cần được châm ngòi bằng niềm tin, ý chí và nỗ lực vượt khó.

Cuộc đời chứa đầy những ước mơ và hy vọng, nhưng không phải tất cả đều trở thành hiện thực. Tuy nhiên, chúng ta có thể nuôi dưỡng và phát triển những ước mơ bên trong chúng ta bằng cách tìm kiếm sự đam mê và hoài bão, và đặt ra câu hỏi liệu chúng ta sẵn sàng để hy sinh và làm mọi thứ để đạt được chúng.

Để biến ước mơ thành hiện thực, chúng ta cần phải có kế hoạch và dự định cụ thể, cùng với kiến thức và nền tảng giáo dục vững chắc. Quan trọng nhất là cần kiên trì, nhẫn nại và nỗ lực hết mình để vượt qua những thất bại và học hỏi từ chúng.

Tuy nhiên, việc biến ước mơ thành hiện thực là một quá trình đầy thử thách và đòi hỏi sự kiên trì và nỗ lực không ngừng. Nhưng nếu chúng ta có ý chí và sự kiên trì, và đi theo những bước đi khoa học, thì chắc chắn sẽ có thể biến ước mơ thành hiện thực.

Tôi là một người giàu có nhưng có những ước mơ lớn lao. Giống như nhiều người khác, tôi ước mơ mình có thể sống có ích, giàu tri thức, giỏi nghề và đạt thành công trong cuộc sống. Từ khi còn học trung học, tôi đã bắt đầu lập kế hoạch cho bản thân: tốt nghiệp đại học và cố gắng trong quá trình học để đạt được kết quả tốt nhất. Tôi cũng lên kế hoạch làm thêm để lấy kinh nghiệm và tìm hiểu về thực tế của ngành nghề mình quan tâm. Kế hoạch của tôi bắt đầu từ những khởi đầu chập chững và đến nay, tôi đã hoàn thành được một phần lớn của nó. Tôi đã tốt nghiệp đại học và đạt được kết quả tốt trong quá trình học tập. Tuy nhiên, tôi đã không thực hiện được một số kế hoạch nhỏ, chẳng hạn như không làm thêm trong những năm cuối để lấy kinh nghiệm. Thay vào đó, tôi đã dành thời gian nhiều hơn cho việc học tập để trang bị cho mình những kiến thức và kỹ năng cần thiết để bước vào cuộc sống thực tế. Hiện tại, tôi làm việc tại một cơ quan nhà nước, nơi mà mọi thứ đều mới lạ với tôi so với những gì tôi đã học được ở trường. Tôi nhận thấy rằng những lý thuyết và bài học mà tôi đã học chỉ là một phần nhỏ trong thực tế to lớn này. Vì vậy, tôi phải nỗ lực hơn để tìm kiếm và học hỏi từ người đi trước để có thể thích nghi với ngôi trường mới này. Đây là một quá trình đầy ý chí và nỗ lực vì thực tế luôn khác với những gì chúng ta đã học được.

Một tương lai mới đang chờ đợi, và để đạt được ước mơ, tôi phải đặt ra kế hoạch mới. Tôi cần có sự kiên trì, nhẫn nại và nỗ lực hết mình để thích nghi với công việc mới và ngôi trường rộng lớn mà tôi mới bắt đầu. Tôi sẽ học hỏi và vận dụng kiến thức của mình vào những môn học thực tế để trở thành một thành viên chính thức trong cơ quan của mình.

Tuy nhiên, không dễ để biến ước mơ thành hiện thực. Sự thành công chỉ đến với những người có niềm tin, ý chí và nỗ lực vượt khó, và sự kiên trì, nhẫn nại. Thất bại cũng là một bài học quý giá giúp tôi luyện tập ý chí và vững vàng hơn.

Tôi sẽ tiếp tục ước mơ và cố gắng thực hiện chúng, bởi chỉ có ước mơ mới mang lại niềm vui và sự đột phá cho con người và tuổi trẻ. Với nhiệt huyết, quyết tâm và nỗ lực không ngừng, tôi tin rằng tôi sẽ trở thành một cán bộ giỏi, một cán bộ tốt và thành đạt trong cuộc sống.

Mỗi chúng ta đều có một cuộc đời đầy những câu chuyện đáng kể. Vì vậy, tại sao chúng ta không chia sẻ những câu chuyện đó với nhau để học hỏi kinh nghiệm và truyền cảm hứng cho những bạn trẻ. Bằng cách này, chúng ta có thể giúp tạo ra một tương lai sáng hơn và đầy hy vọng.

Vì lý do này, tôi tham gia cuộc thi này để chia sẻ về những ước mơ của mình và hy vọng rằng các bạn sẽ cùng chia sẻ những ước mơ của mình, để chúng ta có thể cùng nhau tạo ra một ngày mai tươi sáng và lớn lao hơn. Hãy tin tưởng vào bản thân và những gì mình đang làm. Nếu chúng ta kiên trì theo đuổi ước mơ của mình, chúng ta có thể biến chúng thành hiện thực.

Nguồn st
 
Viết trả lời...
Có người nói rằng: "Hãy vươn đến bầu trời, dù không thể hái được vì sao sáng nhất nhưng ít ra, bạn cũng có thể đứng giữa muôn vàn tinh tú để thắp sáng ước mơ ". Thật vậy, mỗi chúng ta ai ai cũng có những ước mơ, hoài bão riêng của mình vào luôn mong muốn nó thành hiện thực.
Cùng www. vanhoctre.com nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người nhé!



5091

Nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người
a.Nêu vấn đề cần nghị luận:
Sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người.

b.Giải thích
- Ước mơ chính là những kế hoạch, những dự định, hoài bão mà con người mong muốn bản thân mình đạt được. Đó có thể là ước mơ gần, cũng có thể là ước mơ xa hơn nhưng tất cả đều hướng con người tới những hành động để đạt được chúng

c. Bàn luận:
- Sức mạnh của ước mơ chính là động lực thúc đẩy con người hành động, vượt qua khó khăn thử thách, vượt qua những giới hạn của bản thân để từng bước, từng bước hoàn thành ước mơ đó.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người tìm ra lối đi đúng đắn. Bởi nếu cuộc sống con người thiếu đi những ước mơ, hoài bão khi đó cuộc sống của con người sẽ chìm vào màn đêm u tối, không có phương hướng, không có lối đi. Bản thân con người thiếu đi ước mơ cũng sẽ như những con thuyền đi đêm
mà thiếu ngọn hải đăng dẫn đường. Mất phương hướng, chênh vênh, chao đảo trước sóng gió cuộc đời. Ta có thể ví ước mơ như ngọn hải đăng chiếu sáng, chỉ đường cho mỗi người.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người hoàn thiện bản thân mình hơn, giúp ích cho xã hội.
- Ca ngợi những con người có ước mơ chân chính, biết kiên trì theo đuổi, biến ước mơ thành hiện thực. Ngược lại, nên phê phán những người có ước mơ viển vông, có tham vọng mù quáng để rồi tự nhấn chìm bản thân trong những ảo mộng đó mãi không thể thoát ra.

d. Bài học nhận thức và hành động
-
Ước mơ là điều đáng có và đáng trân trọng.
- Tuy nhiên, mỗi người cần xác định cho mình những ước mơ đúng đắn để không ngừng theo đuổi nó.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
12K
1
7
Chia sẻ cùng mọi người những kiến thức liên quan về ước mơ. Hiểu những khái niệm này thì hành văn sẽ súc tích hơn.

Ước mơ là gì?

Ước mơ là một phần quan trọng của cuộc sống của con người, nó giúp ta tạo động lực và khích lệ để đạt được những mục tiêu trong cuộc sống. Ước mơ có thể là những điều mơ hồ như một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc hay thành công trong công việc. Hoặc có thể là những mục tiêu cụ thể và rõ ràng hơn như học tốt, có công việc ổn định, sở hữu một căn nhà hay một chiếc xe hơi. Đôi khi, ước mơ của một người có thể thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Một người có thể mong muốn một công việc tốt nhưng sau đó lại muốn thử sức trong một lĩnh vực khác.

Nói chung, ước mơ của mỗi người đều là một phần quan trọng của cá nhân hóa và khác nhau với những người khác. Ước mơ có thể trở thành nguồn động lực để ta vượt qua những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Khi ta tin tưởng vào ước mơ của mình, ta có thể cảm thấy tự tin hơn và đạt được nhiều thành tựu hơn. Tuy nhiên, để đạt được ước mơ thì ta cần phải có kế hoạch và nỗ lực để đạt được mục tiêu. Trong một số trường hợp, ước mơ của chúng ta cũng có thể được định hướng bởi xã hội và môi trường xung quanh. Ví dụ như, một người trẻ có thể được khuyến khích bởi gia đình và xã hội để theo đuổi giấc mơ trở thành một bác sĩ hoặc một kỹ sư. Hoặc một người có thể muốn đạt được một vị trí cao trong công việc để có thể được công nhận và tôn trọng hơn trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng không phải mọi ước mơ đều có thể trở thành hiện thực. Để đạt được mục tiêu, chúng ta cần phải xác định những mục tiêu khả thi và có kế hoạch hành động để đạt được mục tiêu đó. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải chấp nhận thất bại.

Khi chúng ta gặp phải thất bại, thì cũng đừng nản lòng, vì thất bại là một phần của cuộc sống và chúng ta cần học cách đối mặt và vượt qua nó. Thực tế, các thất bại cũng có thể giúp chúng ta học hỏi và trưởng thành hơn, từ đó cải thiện kỹ năng và phương pháp để đạt được mục tiêu. Chính vì thế, chúng ta cần có động lực và tinh thần quyết tâm để tiếp tục đối mặt với những thử thách và khó khăn trong cuộc sống.

Ngoài ra, ước mơ cũng cần phải được cân nhắc và định hướng đúng đắn để không làm tổn hại đến bản thân hoặc những người xung quanh. Điều quan trọng là phải xác định ước mơ của mình dựa trên giá trị và đạo đức của bản thân, và không theo đuổi bằng mọi giá. Chúng ta cần thấu hiểu bản thân để định hướng ước mơ theo hướng tích cực và đáng tin cậy.

2. Vai trò và biểu hiện của ước mơ

Ước mơ là những khát vọng, mục tiêu và mong muốn trong cuộc sống của chúng ta. Vai trò của ước mơ rất quan trọng trong cuộc sống của con người vì nó có thể truyền động lực và cảm hứng cho chúng ta để tiến tới và đạt được những thành công trong cuộc sống. Các ước mơ của chúng ta có thể giúp chúng ta tạo ra một tương lai tươi sáng hơn, đem lại niềm tin và hy vọng trong cuộc sống. Nó có thể là động lực để chúng ta phấn đấu và cố gắng hết sức để đạt được những điều mà chúng ta muốn.

Ngoài ra, ước mơ cũng có thể giúp chúng ta tìm ra sứ mệnh của mình trong cuộc đời, định hướng và tạo ra một kế hoạch để đạt được mục tiêu của mình. Ước mơ cũng giúp chúng ta đối mặt với những thử thách và khó khăn trong cuộc sống một cách tích cực và kiên nhẫn hơn. Tóm lại, ước mơ đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người, giúp chúng ta có một mục tiêu rõ ràng và động lực để phấn đấu, cố gắng và đạt được thành công trong cuộc sống.

Ước mơ là những tưởng tượng, hy vọng và khát khao của con người về một điều gì đó mà họ mong muốn trong tương lai. Biểu hiện của ước mơ có thể thể hiện thông qua nhiều cách khác nhau, bao gồm:

- Khi người ta mơ về điều gì đó, họ có thể tự mình tưởng tượng và suy nghĩ về điều đó. Họ có thể dành thời gian để suy nghĩ về cách thức để đạt được ước mơ của mình và tìm ra những cách thức để làm điều đó trở thành sự thật.
- Một người có ước mơ thường sẽ có hành động tích cực để đạt được mục tiêu của mình. Họ sẽ dành thời gian và nỗ lực để học tập, luyện tập, làm việc, xây dựng mối quan hệ và tìm kiếm các cơ hội để đạt được ước mơ của mình.

- Khi mơ về một ước mơ, người ta thường có những cảm xúc tích cực như hạnh phúc, phấn khích, đam mê, cảm giác tự hào, tinh thần lạc quan và hy vọng. Những cảm xúc này giúp họ cảm thấy động lực để tiếp tục làm việc hướng đến mục tiêu của mình.

- Người có ước mơ thường có thái độ tích cực và quyết tâm. Họ tin tưởng vào khả năng của mình để đạt được mục tiêu và luôn giữ tinh thần kiên trì, chịu đựng và sẵn sàng đối mặt với thử thách và khó khăn.

- Giấc mơ cũng là một trong những biểu hiện của ước mơ. Khi ngủ, tâm trí của con người thường sẽ hiện ra các hình ảnh, tưởng tượng về điều gì đó mà họ mong muốn. Những giấc mơ này có thể là nguồn cảm hứng để họ tiếp tục làm việc hướng đến ước mơ của mình.

Tóm lại, biểu hiện của ước mơ có thể thể hiện thông qua tư tưởng, hành động, cảm xúc, thái độ và giấc mơ. Đó là những điều mà người ta cảm nhận được khi họ đang tìm kiếm, xác định và đạt được mục tiêu của mình. Ước mơ có thể là một thứ động lực rất mạnh mẽ để giúp con người vượt qua những khó khăn và trở ngại trong cuộc sống. Nó giúp cho con người có một mục tiêu để hướng đến và luôn giữ được tinh thần kiên trì, sẵn sàng đối mặt với những thử thách. Khi đạt được ước mơ của mình, người ta cảm thấy hạnh phúc và tự hào vì đã vượt qua được những khó khăn và đạt được mục tiêu của mình.

Tuy nhiên, ước mơ cũng có thể gây ra những sự thất vọng nếu không đạt được mục tiêu của mình hoặc không biết cách xác định mục tiêu của mình. Điều quan trọng là cần phải có kế hoạch và nỗ lực để đạt được ước mơ của mình. Nếu không có kế hoạch và nỗ lực, ước mơ chỉ là một giấc mơ và sẽ không bao giờ trở thành sự thật. Trong cuộc sống, có rất nhiều người đã và đang theo đuổi ước mơ của mình và đã đạt được thành công. Những người này luôn giữ tinh thần lạc quan, kiên trì và không bao giờ từ bỏ mục tiêu của mình. Họ hiểu rằng để đạt được ước mơ của mình, họ cần phải có sự nỗ lực và kiên nhẫn.

3. Làm gì cách nào thực hiện ước mơ

Trước khi bắt đầu, hãy xác định rõ mục tiêu mà bạn muốn đạt được. Đó có thể là một công việc mơ ước, một kế hoạch kinh doanh, một sở thích hoặc bất cứ điều gì mà bạn muốn đạt được trong cuộc sống của mình. Hãy đưa ra một mục tiêu rõ ràng và cụ thể để bạn biết mình đang hướng tới điều gì.

- Lập kế hoạch: Kế hoạch là bước tiếp theo quan trọng để thực hiện ước mơ của bạn. Hãy lập một kế hoạch chi tiết về cách bạn sẽ đạt được mục tiêu của mình. Hãy bắt đầu bằng cách đặt ra một số mục tiêu nhỏ để bạn có thể đạt được trong một thời gian ngắn hơn. Sau đó, hãy đặt ra các mục tiêu lớn hơn và chia chúng thành các bước nhỏ để bạn có thể hoàn thành từng bước một. Lên kế hoạch bao gồm việc đưa ra các hành động cụ thể, cụ thể thời gian để hoàn thành mỗi bước và xác định nguồn lực cần thiết để hoàn thành.

- Tập trung và quyết tâm: Sau khi lập kế hoạch, bạn cần tập trung vào mục tiêu của mình và quyết tâm để đạt được nó. Để tập trung, hãy tránh các yếu tố phân tán, như đồ vật, thiết bị điện tử hay những tác nhân khác có thể làm giảm tập trung của bạn. Để giữ mọi thứ trên đường đi, hãy cập nhật tiến độ thường xuyên và theo dõi tiến bộ của mình để bạn có thể điều chỉnh kế hoạch nếu cần thiết. Tự động hóa một số công việc, nếu có thể, sẽ giúp bạn tiết kiệm thời gian và tập trung vào các nhiệm vụ quan trọng hơn.

- Học hỏi và thích nghi: Trên con đường đến thành công, bạn có thể gặp phải các trở ngại và thất bại. Đừng sợ thất bại, hãy học hỏi từ những sai lầm của mình.

4. Nuôi dưỡng ước mơ

Nuôi dưỡng ước mơ là quá trình giữ cho niềm tin và đam mê của mình về mục tiêu, mục đích trong cuộc sống luôn được sống động và phát triển. Đây là một phần quan trọng trong việc đạt được thành công và đạt được những điều mình muốn trong cuộc sống. Để nuôi dưỡng ước mơ, bạn có thể thực hiện các bước sau đây:

- Đầu tiên, hãy xác định rõ ràng và cụ thể những gì bạn muốn đạt được. Hãy nhớ rằng một mục tiêu cần phải cụ thể, đo lường được, thực tế và có thể đạt được.

- Hãy tìm hiểu lý do tại sao bạn muốn đạt được mục tiêu đó. Hãy tìm thấy lợi ích của nó đối với bạn và người khác.

- Hãy lập kế hoạch và đặt ra các bước cụ thể để đạt được mục tiêu của mình. Hãy đảm bảo rằng các bước này là thực tế và có thể đạt được.

- Hãy bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình. Hãy làm việc chăm chỉ và kiên trì để đạt được mục tiêu của mình.

- Hãy luôn giữ cho niềm tin và đam mê của mình về mục tiêu. Hãy tin tưởng vào khả năng của mình và hãy tiếp tục làm việc chăm chỉ để đạt được mục tiêu.

- Hãy đánh giá tiến trình của mình và điều chỉnh kế hoạch nếu cần thiết. Hãy nhớ rằng việc đạt được mục tiêu không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng hãy kiên trì và tiếp tục cố gắng.

Bạn thấy kiến thức này thế nào? Hãy để lại bàn luận nhé!
---
Nguồn st
 
Viết trả lời...
Có người nói rằng: "Hãy vươn đến bầu trời, dù không thể hái được vì sao sáng nhất nhưng ít ra, bạn cũng có thể đứng giữa muôn vàn tinh tú để thắp sáng ước mơ ". Thật vậy, mỗi chúng ta ai ai cũng có những ước mơ, hoài bão riêng của mình vào luôn mong muốn nó thành hiện thực.
Cùng www. vanhoctre.com nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người nhé!



5091

Nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người
a.Nêu vấn đề cần nghị luận:
Sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người.

b.Giải thích
- Ước mơ chính là những kế hoạch, những dự định, hoài bão mà con người mong muốn bản thân mình đạt được. Đó có thể là ước mơ gần, cũng có thể là ước mơ xa hơn nhưng tất cả đều hướng con người tới những hành động để đạt được chúng

c. Bàn luận:
- Sức mạnh của ước mơ chính là động lực thúc đẩy con người hành động, vượt qua khó khăn thử thách, vượt qua những giới hạn của bản thân để từng bước, từng bước hoàn thành ước mơ đó.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người tìm ra lối đi đúng đắn. Bởi nếu cuộc sống con người thiếu đi những ước mơ, hoài bão khi đó cuộc sống của con người sẽ chìm vào màn đêm u tối, không có phương hướng, không có lối đi. Bản thân con người thiếu đi ước mơ cũng sẽ như những con thuyền đi đêm
mà thiếu ngọn hải đăng dẫn đường. Mất phương hướng, chênh vênh, chao đảo trước sóng gió cuộc đời. Ta có thể ví ước mơ như ngọn hải đăng chiếu sáng, chỉ đường cho mỗi người.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người hoàn thiện bản thân mình hơn, giúp ích cho xã hội.
- Ca ngợi những con người có ước mơ chân chính, biết kiên trì theo đuổi, biến ước mơ thành hiện thực. Ngược lại, nên phê phán những người có ước mơ viển vông, có tham vọng mù quáng để rồi tự nhấn chìm bản thân trong những ảo mộng đó mãi không thể thoát ra.

d. Bài học nhận thức và hành động
-
Ước mơ là điều đáng có và đáng trân trọng.
- Tuy nhiên, mỗi người cần xác định cho mình những ước mơ đúng đắn để không ngừng theo đuổi nó.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
12K
1
7
Dẫn chứng nghị luận xã hội về ước mơ
----

Helen Keller là một trong những tượng đài nổi tiếng của thế giới về sự mạnh mẽ của ước mơ và kiên nhẫn. Cô đã phải đối mặt với một số khó khăn và hạn chế đặc biệt nghiêm trọng từ khi còn rất nhỏ. Cô mất thị giác và thính giác do một căn bệnh gây ra, khiến cô trở thành người khiếm thị và câm.

Cuộc đời của Helen thay đổi vào năm 1887 khi cô được giới thiệu đến giáo viên Anne Sullivan, người sau này trở thành người hướng dẫn và người bạn đồng hành đặc biệt của cô. Bắt đầu từ những buổi học đầu tiên, Anne đã dạy cho Helen cách liên kết ngôn ngữ với các đối tượng và khái niệm thông qua việc sử dụng ngón tay để viết ra các ký tự Braille trên lòng bàn tay của Helen.

Helen đã thể hiện sự thông minh và học hỏi nhanh chóng. Nhờ vào kiên nhẫn của cả hai, Helen đã học được cách đọc và viết, và thậm chí cả cách nói chuyện bằng cách sử dụng ngôn ngữ ký hiệu. Cuộc hành trình của cô trở thành một minh chứng về sự quyết tâm và nghị lực của con người.

Sau khi hoàn thành bậc đại học, Helen Keller đã trở thành một tác giả và diễn giả nổi tiếng. Cô đã viết nhiều sách và bài luận, chia sẻ câu chuyện cuộc đời của mình và những tri thức cô học được trong cuộc hành trình vượt qua khó khăn. Helen trở thành biểu tượng của sự vượt qua khó khăn và cống hiến cho xã hội. Cô đã làm việc không mệt mỏi để đẩy lùi giới hạn cho những người khiếm thị và câm, thúc đẩy quyền lợi và cơ hội của họ.

Tóm lại, Helen Keller là một ví dụ rõ ràng về sự mạnh mẽ của ước mơ và kiên nhẫn trong việc vượt qua mọi khó khăn. Cuộc đời của cô đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới và đã giúp cải thiện cuộc sống của những người khiếm thị và câm trên toàn cầu.

st
 
Viết trả lời...
Có người nói rằng: "Hãy vươn đến bầu trời, dù không thể hái được vì sao sáng nhất nhưng ít ra, bạn cũng có thể đứng giữa muôn vàn tinh tú để thắp sáng ước mơ ". Thật vậy, mỗi chúng ta ai ai cũng có những ước mơ, hoài bão riêng của mình vào luôn mong muốn nó thành hiện thực.
Cùng www. vanhoctre.com nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người nhé!



5091

Nghị luận về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người
a.Nêu vấn đề cần nghị luận:
Sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người.

b.Giải thích
- Ước mơ chính là những kế hoạch, những dự định, hoài bão mà con người mong muốn bản thân mình đạt được. Đó có thể là ước mơ gần, cũng có thể là ước mơ xa hơn nhưng tất cả đều hướng con người tới những hành động để đạt được chúng

c. Bàn luận:
- Sức mạnh của ước mơ chính là động lực thúc đẩy con người hành động, vượt qua khó khăn thử thách, vượt qua những giới hạn của bản thân để từng bước, từng bước hoàn thành ước mơ đó.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người tìm ra lối đi đúng đắn. Bởi nếu cuộc sống con người thiếu đi những ước mơ, hoài bão khi đó cuộc sống của con người sẽ chìm vào màn đêm u tối, không có phương hướng, không có lối đi. Bản thân con người thiếu đi ước mơ cũng sẽ như những con thuyền đi đêm
mà thiếu ngọn hải đăng dẫn đường. Mất phương hướng, chênh vênh, chao đảo trước sóng gió cuộc đời. Ta có thể ví ước mơ như ngọn hải đăng chiếu sáng, chỉ đường cho mỗi người.
- Sức mạnh của ước mơ chính là giúp con người hoàn thiện bản thân mình hơn, giúp ích cho xã hội.
- Ca ngợi những con người có ước mơ chân chính, biết kiên trì theo đuổi, biến ước mơ thành hiện thực. Ngược lại, nên phê phán những người có ước mơ viển vông, có tham vọng mù quáng để rồi tự nhấn chìm bản thân trong những ảo mộng đó mãi không thể thoát ra.

d. Bài học nhận thức và hành động
-
Ước mơ là điều đáng có và đáng trân trọng.
- Tuy nhiên, mỗi người cần xác định cho mình những ước mơ đúng đắn để không ngừng theo đuổi nó.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
12K
1
7
Viết trả lời...
Nỗi đau đớn mà chiến tranh đem lại cho nhân loại là sự thật không thể phủ nhận, nhưng đã bao giờ bạn tự hỏi thế giới sẽ còn lại gì sau những cuộc chiến tranh đầy "mưa bom", chỉ còn những đứa trẻ vô tội cơ nhỡ không biết đi đâu về đâu? Ta thường biết đến chiến tranh với khái niệm là sự xung đột vũ trang có tổ chức giữa các đơn vị chính trị đối kháng và gây ra hậu quả đáng kể về người, về của và là nỗi đau không thể nguôi ngoai. Như vậy, chiến tranh là nỗi đau của nhân loại, là một thảm họa mà không ai mong muốn nó xảy ra, ta chợt nhớ đến hai cuộc thế chiến diễn ra liên miên, hai quả bom nguyên tử đã thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật trở thành một nỗi ám ảnh cho toàn bộ nhân dân đất nước xứ phù tang.

Đất nước Việt Nam chúng ta cũng như vậy, trải qua nghìn năm Bắc thuộc và hai cuộc kháng chiến trường kì, nỗi đau chiến tranh còn sót lại đó chính là tàn dư của chất độc dioxin, bao nhiêu chiến sĩ nằm lại với tấm bia “liệt sĩ chưa biết tên”. Đây chỉ là một trong những ví dụ về tình trạng chiến tranh xảy ra trên thế giới, cho đến hiện tại nó vẫn chưa kết thúc, xung đột ở Trung Đông, nhà nước Hồi giáo tự xưng, tất cả đều đang khiến hòa bình bị lung lay. Vậy nguyên dân do đâu dẫn đến chiến tranh và xung đột? Nó có thể là từ xung đột lợi ích về lãnh thổ và kinh tế hoặc do tôn giáo, dân tộc, các nước muốn mở rộng lãnh thổ dẫn đến chiến tranh. Sự xung đột ấy đã gây ra những hậu quả vô cùng nặng nề về cả vật chất và tinh thần, một cuộc chiến tranh xảy ra có thể khiến hàng triệu người thương vong, rất nhiều làng mạc bị phá hủy, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bởi khói lửa của bom đạn, của các chất hóa học do con người chế tạo nhằm phục vụ cuộc chiến, các công trình kiến trúc được coi là văn minh nhân loại, những cánh rừng bất tận không còn màu xanh mà chỉ thấy khói lửa… Không chỉ có vậy, nỗi đau dành cho người ở lại chính là nỗi đau day dứt nhất, sẽ có những cuộc chia li không gặp lại sau những cuộc chiến tranh “đầy mưa bom” và có những đứa trẻ sẽ phải gánh chịu hậu quả mà chiến tranh gây ra…

Mới đây cả thế giới không khỏi chấn động khi theo dõi cuộc xung đột giữa Israel và Hamas, Hamas là nhóm vũ trang Hồi giáo người Palestine đã nổ súng tấn công Israel, sự kiện này đang khiến Trung Đông đứng trước nguy cơ bùng nổ bạo lực. Việc tấn công của Hamas nhằm vào Israel xuất phát từ việc xung đột về yếu tố tôn giáo và mong muốn kiểm soát lãnh thổ. Xung đột vũ trang đã khiến người dân sống trong lo sợ, bao nhiêu người phải li tán và chia xa, chiến sự này đã phá vỡ nguyên tắc hòa bình của thế giới. Vậy phải làm sao để đẩy lùi chiến tranh và giữ một thế giới hòa bình cho nhân loại, trước hết mỗi cá nhân hãy nâng cao ý thức của mình về nền hòa bình của thế giới, hãy yêu hòa bình và đấu tranh cho hòa bình. Mỗi quốc gia, tổ chức hãy cố gắng tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thương lượng. Là một người được sống trong thế giới hòa bình tôi luôn cố gắng lan tỏa những điều tốt đẹp đến với cuộc sống xung quanh và luôn cố gắng nỗ lực học tập để xứng đáng với những gì mình đang có. Với tình yêu hòa bình, tôi mong muốn thế giới sẽ không còn mưa bom bão đạn, không còn tiếng khóc của trẻ thơ, hãy cùng nhau cầu nguyện chiến tranh ngừng lại

Nguồn st
Thêm
704
1
0
Viết trả lời...
Đề bài:

"Mùa xuân đất trời đẹp. Dế Mèn thơ thẩn ở cửa hang, hai con chim Én thấy tội nghiệp bèn rủ Dế Mèn dao chơi trên trời. Mèn hốt hoảng. Nhưng sáng kiến của Chim Én rất giản dị : hai Chim Én ngậm hai đầu của một cọng cỏ khô . Mèn ngậm vào giữa . Thế là cả ba cùng bay lên. Mây nồng nàn, đất trời gợi cảm, cỏ hoa vui tươi. Dế Mèn say sưa. Sau một hồi lâu miên man, Mèn ta chợt nghĩ bụng: Ơ hay, việc gì ta phải gánh hai con én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quẳng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không ? Nghĩ là làm. Nó bèn há mồm ra. Và nó rơi vèo xuống đất như một chiếc lá lìa cành".

Từ câu chuyện trên nêu suy nghĩ của em bằng 1 bài văn NLXH


Bài làm

Chúng ta được tạo nên từ đôi bàn tay của Đấng Tối Cao. Nhưng mỗi người được Ngài nặn ra sẽ có vẻ ngoài tròn méo khác nhau nhưng không ai có thể là một hình tròn hoàn hảo. Mỗi người chúng ta không phải chỉ được tạo ra từ những gam màu tươi sáng mà có từ những góc tối u khuất mà con người cần khắc phục. Được xem như là một trong bảy mối tội đầu của con người, "bóng tối" mà con người cần chế ngự được nhất là sự ngạo mạn. Không còn là chủ đề mới trong văn học, từng có rất nhiều cây bút kiến tạo nên những câu chuyện khuyên con người nên tránh xa "mối tội" này. Nổi bật trong đó là "Câu chuyện về Chim Én và Dế Mèn" gần gũi với thiếu nhi những bài học của nó lại có sự tác động đến mọi lựa tuổi của độc giả mang một thông điệp chỉ dẫn đến những kết quả tai hại đối với một kẻ kiêu ngạo, ảo tưởng khả năng của bản thân là "bề trên" đối với người khác.

Câu chuyện bắt đầu khi "Mùa xuân đất trời đẹp, Dế Mèn thơ thẩn ở cửa hang, hai con Chim Én thấy tội nghiệp bèn rủ Dế Mèn dạo chơi trên trời. Mèn hốt hoảng. Nhưng sáng kiến của Chim Én đưa ra rất giản dị: hai Chim Én ngậm hai đầu của một cọng cỏ khô, Mèn ngậm vào giữa. Thế là cả ba cùng bay lên. Mây nồng nàn, trời đất gợi cảm, cỏ hoa vui tươi. Dế Mèn say sưa. Sau một hồi lâu miên man, Mèn ta chợt nghĩ bụng" ơ hay việc gì ta gánh hai con Én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quẳng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không ?" Nghĩ là làm, Mèn há mồm ra. Và nó rơi vèo xuống đất như một chiếc lá lìa cành." Trong văn chương nghệ thuật, người nghệ sĩ luôn xây dựng cho mình một thế giới hình tượng đặc sắc để phản ánh bản chất của sự kiện, sự việc diễn ra trong cuộc sống con người. Đó có thể là đạo lí tư tưởng tốt đẹp hay phê phán một thói hư tật xấu. Qua câu chuyện giữa dế mèn và hai con chim én, tác giả Đoàn Công Lê Huy nhắm đến phê phán những con người ngạo mạn, tầm nhìn hạn hẹp. Chỉ mới chạm tới một vì sao mà cứ ngỡ mình đã nhìn thấy là cả dải ngân hà rộng lớn. Dùng lẽ đó mà suy nghĩ thiển cận, ngạo mạn với chính những người từng nâng đỡ cho mình bước lên. Qua hình ảnh Dế Mèn, chúng ta thấy rõ được điều đó. Chỉ là một con dế nhỏ bé nhưng được lòng tốt của hai chim én mà có cơ hội được bay lên những khoảng không cao rộng của bầu trời. Khi nó đã thấy mình ở một vị trí cao hơn người khác khiến nó suy nghĩ "ơ hay việc gì ta gánh hai con Én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quẳng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không ?" và ngay lập tức thực hiện. Nó quên mất rằng mình có thể bay cao là nhờ người khác. Bản thân con Dế Mèn không có khả năng chao liệng trên bầu trời như những con chim Én. Chính lòng tốt của chim Én đã làm nó ảo tưởng năng lực rằng mình cũng có thể bay và coi hai con chim từng nâng đỡ mình bay cao là một gánh nặng trên vai. Con Dế bé nhỏ tội nghiệp không biết mình đã sa vào cái lưới của sự ngạo mạn ngu ngốc mà kiêu căng khinh đời, khinh "bề trên". Và cái giá cho suy nghĩ hạn hẹp và ngu ngốc của con Dế Mèn đó là ngã từ trên "đỉnh cao" mà mình từng sở hữu. Chắc hẳn một lần trong đời chúng ta từng nghe thấy "Nghịch lí Icarus" Trong thần thoại Hy Lạp cũng từng xuất hiện với sự kiêu ngạo mà phải trả giá đắt cho mộng tưởng vượt qua khả năng của bản thân. Daedalus đang trang bị đôi cánh cho con trai Icarus. Hài lòng với sáng chế của mình, Daedalus trang bị cho con trai Icarus một đôi cánh tương tự. Trước khi cất cánh bay khỏi mê cung Labyrinth, ông dặn con rằng phải vô cùng thận trọng với đôi cánh này. Cả hai không được bay quá thấp vì hơi nước ở biển sẽ khiến những chiếc lông bị ướt, nhưng họ cũng không được bay quá cao, vì ánh mặt trời nóng bỏng sẽ làm sáp ong bị chảy. Nhưng Icarus không nghe lời mà muốn đuổi theo vị thần mặt trời Helios. Sức nóng mặt trời đã làm đôi cánh của Icarus tan chảy. Chàng đã phải trả giá cho mộng tưởng vô thực của bản thân. Chỉ dựa vào phát minh là đôi cánh của cha Icarus đã nghĩ mình có thể vượt qua cảnh giới của những vị thần. Con Dế kiêu ngạo kia cũng đã rơi vào bi kịch của Icarus. Sự ngạo mạn, giấc mộng vượt quá khả năng khiến cả hai phải trả giá đắt.

Con Dế không chỉ mang hình ảnh của một kẻ kiêu ngạo mộng tưởng mà phảng phất hình ảnh của những người vô ơn. Hai con chim Én đã đưa Dế Mèn đến nơi mà có lẽ cả đời con dế không thể để chạm đến. Nhưng thay vì nghĩ biết ơn đơn 2 con chim én thì dễ lại nghĩ rằng chúng chính là gánh nợ. Đó là hình ảnh những con người không hiếm gặp trong xã hội với căn bệnh "vô ơn bạc nghĩa". Họ không biết cách trân trọng những gì được người khác cho, những lần được nâng đỡ mà coi đó là điều hiển nhiên mà quên đi "ơn nghĩa" những ngày khó khăn. Tôi chợt nhớ đến câu nói của nhà văn Tagore "Biết ơn ngọn lửa cho bạn ánh sáng nhưng cũng đừng quen người trong đêm thay bạn cầm đèn". Những bình yên ở hiện tại, những thành tựu mà chúng ta sở hữu phía sau luôn có một người nâng đỡ cho những bước chân ta bước. Có lẽ đó cũng là điều mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hình ảnh con Dế Mèn mang bản chất của những kẻ kiêu ngạo vô ơn và khinh đời.

Câu chuyện về Chim Én và Dế Mèn như rắc vào tâm hồn con người những "hạt bụi thần" để một lần chúng ta dùng tấm gương lý trí tự nhận thức bản thân. Có phải mình cũng đã từng giống như con Dế ấy, cũng ngạo mạn và vô ơn với người khác? Không có gì giá trị bằng sự tự nhận thức. "Cây bút" Đoàn Công Lê không chỉ dừng lại ở việc phê phán một thói đời mà chạm vào ngóc ngách sâu kín nhất trong trái tim độc giả: sự ngạo mạn và vô ơn. Đó cũng là cách tác giả khuyên răn con người "đừng nghĩ mình" cao"hơn người khác âu cũng chỉ là hạt cát nhỏ trong sa mạc mênh mông, giọt nước chìm trong đại dương vô tận, vì tinh tú với ánh sáng le lói trong thiên hà rộng lớn". Con người cần học được cách làm chủ con quỷ kiêu ngạo ẩn hiện trong trái tim bởi "Khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ tự kiêu một chút cũng là thừa" và tự bồi tụ cho "dòng chảy tâm hồn" những hạt phù sa tinh túy nhất là lối sống "ân tình, nặng nghĩa" đối với những người từng che chở cho mình qua cơn giông tố cuộc đời.
1666343107539.png
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
8K
1
2
Mùa Xuân đất trời đẹp. Dế Mèn thơ thẩn ở cửa hang, hai con Chim Én thấy tôi nghiệp bèn rủ Dế Mèn dạo chơi trên trời.

Mèn hốt hoảng. Nhưng sáng kiến của Chim Én rất giản dị: Hai Chim Én ngậm hai đầu của một cọng cỏ khô. Mèn ngậm vào giữa. Thế là cả ba cùng bay lên. Mây nồng nàn, đất trời gợi cảm, cỏ hoa vui tươi.

Dế Mèn say sưa. Sau một hồi lâu miên man Mèn ta chợt nghĩ bụng: “Ơ hay, việc gì ta phải gánh hai con én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quăng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không?”. Nghĩ là làm. Nó bèn há mồm ra và nó rơi vèo xuống đất như một chiếc lá lìa cành.

(Theo Đoàn Công Huy trong mục “Trò chuyện đầu tuần” của Báo Hoa học trò)
--------------

Bài làm tham khảo:

Sống trong cuộc sống, mỗi con người đều có một số phận riêng, một cách cảm, cách nghĩ riêng. Và trong văn học cũng có biết bao câu chuyện kì thú, hấp dẫn, được kể bằng văn xuôi hoặc văn vần tái hiện những hình tượng đó và nêu lên những triết lí nhân sinh, bài học sâu sắc trong cuộc sống.

Câu chuyện “Chim Én và Dế Mèn”, trong mục “Trò chuyện đầu tuần”, trích từ Báo Hoa học trò của nhà văn Đoàn Công Huy cũng mang đến cho độc giả một cảm nhận vô cùng sâu sắc, hấp dẫn như thế. Đặc biệt qua nhân vật Dế Mèn ta càng thấm thía hơn nhiều bài học trong cuộc sống.

Câu chuyện ngắn gọn, hấp dẫn kể về một cuộc dạo chơi trên bầu trời của Chim Én và Dế Mèn. Khi mùa Xuân tươi đẹp đã đến, Dế Mèn buồn chán, thơ thẩn ở cửa hang. Hai chú Chim Én thấy vậy liền nảy ra sáng kiến: Hai Chim Én ngậm hai đầu của một cọng cỏ khô, Mèn ngậm vào giữa rồi bay lên trời.

Cả ba vô cùng vui vẻ, tận hưởng khoảnh khắc hạnh phúc của mình. Mây nồng nàn, đất trời gợi cảm, cỏ hoa vui tươi. Một hồi sau, nó tưởng răng mình phải gánh trên vai hai con Chim Én này, thế là nó há mồm ra và rơi vèo xuống đất như một chiếc lá lìa cành.

Câu chuyện mang dáng dấp như một câu chuyện ngụ ngôn đã nói về cách sống của các loài vật trong thiên nhiên với những đặc tính của nó. Hai con Chim Én đã tốt bụng tặng Dế Mèn một món quà thật tuyệt vời là một chuyến thưởng ngoạn khung cảnh mùa Xuân tươi đẹp, ấm áp.

Nhà văn Tô Hoài khẳng định “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Và hình ảnh của nhân vật ấy sống mãi trong lòng bạn đọc là nhờ tài năng của tác giả đã tạo ra những đặc điểm riêng biệt, ấn tượng để nhân vật ấy có nét độc đáo, nét khác biệt so với các nhân vật khác.

Chim Én là con vật biết bay, thế nên chúng thấy tội nghiệp cho Dế Mèn không được tận hưởng không gian bao la của mùa Xuân đất trời. Tình yêu thương bạn bè đã khiến chúng nghĩ ra sáng kiến để cả ba cùng bay thưởng thức cảnh trời đất gợi cảm.

Tiếc thay Dế Mèn lại không biết trân trọng món quà ấy. Sự hạn hẹp trong cách nhìn, ích kỉ trong cách nghĩ “Ơ hay, việc gì ta phải gánh hai con én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quăng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không?” đã đẩy Mèn tới hành động “há mồm ra”.

Từ người chịu ơn, Mèn đã ảo tưởng mình là người ban ơn. Từ việc mình là gánh nặng cho người khác Mèn ta tưởng người khác chính là gánh nặng của mình. Lòng ích kỷ, tính toán và ngộ nhận, ảo tưởng khiến Dế Mèn phải trả giá rất đắt “nó rơi xuống đất như một chiếc lá lìa cành”.

Với cách quan sát, lí giải sâu sắc của tác giả, những con vật nhỏ bé này cũng có tâm trạng giống con người, làm tô đậm thêm bài học nhân sinh con người. Không chỉ là sự ngộ nhận, ảo tưởng, nhân vật Dế Mèn trong câu chuyện còn được khắc họa là kẻ có tính cách, hành động nhỏ nhen, chỉ nghĩ cho bản thân mà không màng đến lợi ích của người khác.

Rõ ràng những kẻ như vậy ắt sẽ gặp những kết cục thê thảm, không đạt được ước mơ hay điều mà bản thân mong muốn. Có thể do sống trong một cái hang nhỏ hẹp, tầm nhìn hạn hẹp, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài nên nó đã cho mình cái lối sống cũng thực dụng.

Qua câu chuyện, tác giả đã khắc họa nhân vật Dế Mèn đại diện cho kiểu người vô ơn, thiếu trân trọng những người đã giúp mình, ảo tưởng, cho rằng bản thân gánh mọi trách nhiệm trên vai...

Đó còn là những người suy nghĩ bồng bột, ngu ngốc mà cứ tưởng bản thân rất giỏi, quên đi những người đã giúp đỡ mình để đạt được thành công, mục đích, quên đi những công lao cao cả của họ.

Cũng từ đó câu chuyện cảnh tỉnh mọi người nói chung đặc biệt là thế hệ trẻ nói riêng đừng quá ảo tưởng về bản thân mình và không nên sống ích kỷ, toan tính. Cần xác định mình là ai và giúp đỡ người khác một cách không vụ lợi chắc chắn bạn sẽ nhận được nhiều hơn những thứ bạn đã cho đi.

Có thể nói câu chuyện ngắn gọn, hấp dẫn với cách kể chuyện tự nhiên, lối nói ẩn dụ nhưng lại mang ý nghĩa thật sâu sắc. Mỗi người đều có thể học được câu chuyện về giá trị cuộc sống. Nếu biết trân trọng những gì mình đang có thì sẽ cảm nhận được giá trị đích thực của cuộc sống.

Nếu không biết trân trọng những gì mình đang có sẽ rất khó có được hạnh phúc thậm chí còn gặp bất hạnh. Hạnh phúc còn tùy thuộc vào cách ứng xử và thái độ sống của mỗi người. Đó cũng có thể là câu chuyện về niềm tin: Lòng tốt là đáng quý, nhưng niềm tin còn đáng quý hơn.

Phải chăng chỉ khi con người tin tưởng lẫn nhau thì cuộc sống mới thoải mái và nhẹ nhàng hơn, và đó có thể là bài học về cách nhìn, cách cảm nhận: Với cách nhìn thiếu cẩn thận, hời hợt ta sẽ không phát hiện đúng bản chất của cuộc sống, dẫn đến những quyết định sai lầm mà ta sẽ nhớ suốt đời.

Đó là bài học về lòng khoan dung, có thể cho và nhận. Cho và nhận đều luôn chuyển hóa: Tưởng rằng cho đi nhưng lại được nhận lại và ngược lại. Đó có thể là bài học về sự hợp tác và chia sẻ, nếu biết hợp tác và chia sẻ thì mọi người đều có lợi…

Vậy mà trong cuộc sống, một số người lại có cách sống toan tính, ích kỷ như Dế Mèn. Câu chuyện đó đã làm ta thay đổi trong cách sống để con người sống tốt đẹp hơn.

Phải biết giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, lan tỏa tình yêu thương, quan tâm, chia sẻ để không ai bị bỏ lại phía sau trong bối cảnh xã hội đang đi lên như hiện nay nhất là những người trẻ tuổi, bạn nhé!

st
 
Viết trả lời...
Đề bài:

"Mùa xuân đất trời đẹp. Dế Mèn thơ thẩn ở cửa hang, hai con chim Én thấy tội nghiệp bèn rủ Dế Mèn dao chơi trên trời. Mèn hốt hoảng. Nhưng sáng kiến của Chim Én rất giản dị : hai Chim Én ngậm hai đầu của một cọng cỏ khô . Mèn ngậm vào giữa . Thế là cả ba cùng bay lên. Mây nồng nàn, đất trời gợi cảm, cỏ hoa vui tươi. Dế Mèn say sưa. Sau một hồi lâu miên man, Mèn ta chợt nghĩ bụng: Ơ hay, việc gì ta phải gánh hai con én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quẳng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không ? Nghĩ là làm. Nó bèn há mồm ra. Và nó rơi vèo xuống đất như một chiếc lá lìa cành".

Từ câu chuyện trên nêu suy nghĩ của em bằng 1 bài văn NLXH


Bài làm

Chúng ta được tạo nên từ đôi bàn tay của Đấng Tối Cao. Nhưng mỗi người được Ngài nặn ra sẽ có vẻ ngoài tròn méo khác nhau nhưng không ai có thể là một hình tròn hoàn hảo. Mỗi người chúng ta không phải chỉ được tạo ra từ những gam màu tươi sáng mà có từ những góc tối u khuất mà con người cần khắc phục. Được xem như là một trong bảy mối tội đầu của con người, "bóng tối" mà con người cần chế ngự được nhất là sự ngạo mạn. Không còn là chủ đề mới trong văn học, từng có rất nhiều cây bút kiến tạo nên những câu chuyện khuyên con người nên tránh xa "mối tội" này. Nổi bật trong đó là "Câu chuyện về Chim Én và Dế Mèn" gần gũi với thiếu nhi những bài học của nó lại có sự tác động đến mọi lựa tuổi của độc giả mang một thông điệp chỉ dẫn đến những kết quả tai hại đối với một kẻ kiêu ngạo, ảo tưởng khả năng của bản thân là "bề trên" đối với người khác.

Câu chuyện bắt đầu khi "Mùa xuân đất trời đẹp, Dế Mèn thơ thẩn ở cửa hang, hai con Chim Én thấy tội nghiệp bèn rủ Dế Mèn dạo chơi trên trời. Mèn hốt hoảng. Nhưng sáng kiến của Chim Én đưa ra rất giản dị: hai Chim Én ngậm hai đầu của một cọng cỏ khô, Mèn ngậm vào giữa. Thế là cả ba cùng bay lên. Mây nồng nàn, trời đất gợi cảm, cỏ hoa vui tươi. Dế Mèn say sưa. Sau một hồi lâu miên man, Mèn ta chợt nghĩ bụng" ơ hay việc gì ta gánh hai con Én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quẳng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không ?" Nghĩ là làm, Mèn há mồm ra. Và nó rơi vèo xuống đất như một chiếc lá lìa cành." Trong văn chương nghệ thuật, người nghệ sĩ luôn xây dựng cho mình một thế giới hình tượng đặc sắc để phản ánh bản chất của sự kiện, sự việc diễn ra trong cuộc sống con người. Đó có thể là đạo lí tư tưởng tốt đẹp hay phê phán một thói hư tật xấu. Qua câu chuyện giữa dế mèn và hai con chim én, tác giả Đoàn Công Lê Huy nhắm đến phê phán những con người ngạo mạn, tầm nhìn hạn hẹp. Chỉ mới chạm tới một vì sao mà cứ ngỡ mình đã nhìn thấy là cả dải ngân hà rộng lớn. Dùng lẽ đó mà suy nghĩ thiển cận, ngạo mạn với chính những người từng nâng đỡ cho mình bước lên. Qua hình ảnh Dế Mèn, chúng ta thấy rõ được điều đó. Chỉ là một con dế nhỏ bé nhưng được lòng tốt của hai chim én mà có cơ hội được bay lên những khoảng không cao rộng của bầu trời. Khi nó đã thấy mình ở một vị trí cao hơn người khác khiến nó suy nghĩ "ơ hay việc gì ta gánh hai con Én này trên vai cho mệt nhỉ. Sao ta không quẳng gánh nợ này đi để dạo chơi một mình có sướng hơn không ?" và ngay lập tức thực hiện. Nó quên mất rằng mình có thể bay cao là nhờ người khác. Bản thân con Dế Mèn không có khả năng chao liệng trên bầu trời như những con chim Én. Chính lòng tốt của chim Én đã làm nó ảo tưởng năng lực rằng mình cũng có thể bay và coi hai con chim từng nâng đỡ mình bay cao là một gánh nặng trên vai. Con Dế bé nhỏ tội nghiệp không biết mình đã sa vào cái lưới của sự ngạo mạn ngu ngốc mà kiêu căng khinh đời, khinh "bề trên". Và cái giá cho suy nghĩ hạn hẹp và ngu ngốc của con Dế Mèn đó là ngã từ trên "đỉnh cao" mà mình từng sở hữu. Chắc hẳn một lần trong đời chúng ta từng nghe thấy "Nghịch lí Icarus" Trong thần thoại Hy Lạp cũng từng xuất hiện với sự kiêu ngạo mà phải trả giá đắt cho mộng tưởng vượt qua khả năng của bản thân. Daedalus đang trang bị đôi cánh cho con trai Icarus. Hài lòng với sáng chế của mình, Daedalus trang bị cho con trai Icarus một đôi cánh tương tự. Trước khi cất cánh bay khỏi mê cung Labyrinth, ông dặn con rằng phải vô cùng thận trọng với đôi cánh này. Cả hai không được bay quá thấp vì hơi nước ở biển sẽ khiến những chiếc lông bị ướt, nhưng họ cũng không được bay quá cao, vì ánh mặt trời nóng bỏng sẽ làm sáp ong bị chảy. Nhưng Icarus không nghe lời mà muốn đuổi theo vị thần mặt trời Helios. Sức nóng mặt trời đã làm đôi cánh của Icarus tan chảy. Chàng đã phải trả giá cho mộng tưởng vô thực của bản thân. Chỉ dựa vào phát minh là đôi cánh của cha Icarus đã nghĩ mình có thể vượt qua cảnh giới của những vị thần. Con Dế kiêu ngạo kia cũng đã rơi vào bi kịch của Icarus. Sự ngạo mạn, giấc mộng vượt quá khả năng khiến cả hai phải trả giá đắt.

Con Dế không chỉ mang hình ảnh của một kẻ kiêu ngạo mộng tưởng mà phảng phất hình ảnh của những người vô ơn. Hai con chim Én đã đưa Dế Mèn đến nơi mà có lẽ cả đời con dế không thể để chạm đến. Nhưng thay vì nghĩ biết ơn đơn 2 con chim én thì dễ lại nghĩ rằng chúng chính là gánh nợ. Đó là hình ảnh những con người không hiếm gặp trong xã hội với căn bệnh "vô ơn bạc nghĩa". Họ không biết cách trân trọng những gì được người khác cho, những lần được nâng đỡ mà coi đó là điều hiển nhiên mà quên đi "ơn nghĩa" những ngày khó khăn. Tôi chợt nhớ đến câu nói của nhà văn Tagore "Biết ơn ngọn lửa cho bạn ánh sáng nhưng cũng đừng quen người trong đêm thay bạn cầm đèn". Những bình yên ở hiện tại, những thành tựu mà chúng ta sở hữu phía sau luôn có một người nâng đỡ cho những bước chân ta bước. Có lẽ đó cũng là điều mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hình ảnh con Dế Mèn mang bản chất của những kẻ kiêu ngạo vô ơn và khinh đời.

Câu chuyện về Chim Én và Dế Mèn như rắc vào tâm hồn con người những "hạt bụi thần" để một lần chúng ta dùng tấm gương lý trí tự nhận thức bản thân. Có phải mình cũng đã từng giống như con Dế ấy, cũng ngạo mạn và vô ơn với người khác? Không có gì giá trị bằng sự tự nhận thức. "Cây bút" Đoàn Công Lê không chỉ dừng lại ở việc phê phán một thói đời mà chạm vào ngóc ngách sâu kín nhất trong trái tim độc giả: sự ngạo mạn và vô ơn. Đó cũng là cách tác giả khuyên răn con người "đừng nghĩ mình" cao"hơn người khác âu cũng chỉ là hạt cát nhỏ trong sa mạc mênh mông, giọt nước chìm trong đại dương vô tận, vì tinh tú với ánh sáng le lói trong thiên hà rộng lớn". Con người cần học được cách làm chủ con quỷ kiêu ngạo ẩn hiện trong trái tim bởi "Khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ tự kiêu một chút cũng là thừa" và tự bồi tụ cho "dòng chảy tâm hồn" những hạt phù sa tinh túy nhất là lối sống "ân tình, nặng nghĩa" đối với những người từng che chở cho mình qua cơn giông tố cuộc đời.
1666343107539.png
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
8K
1
2
Câu chuyện Chim sẻ và dế mèn tuy có dung lượng ngắn nhưng lại vô cùng ý nghĩa, bởi nó vượt qua giới hạn của một câu chuyện, mang đến cho người đọc, người nghe những bài học nhân sinh, bài học về đối nhân xử thế vô cùng sâu sắc. Đó là câu chuyện về hợp tác, về tình bạn, bàn về việc cho và nhận, bởi sự gắn kết trong tình bạn phải xuất phát từ tấm lòng chân thành từ cả hai phía, nếu chỉ biết nhận mà không biết cho đi thì tình bạn khó bền vững. Mặt khác nếu chỉ biết ích kỉ, vụ lợi cho bản thân mà quên đi tình nghĩa thì kết quả mà người đó nhận được sẽ là mất đi những người bạn, trở thành những con người đơn độc, đáng thương.

Ở trong câu chuyện này đề cập đến quan hệ giữa ba nhân vật, hai chú chim sẻ và một chú dế mèn. Ngay trong phần đầu của câu chuyện, ta cảm nhận được sự cô đơn của chú dế mèn trong tiết trời vào xuân đẹp đẽ, bởi thời tiết có đẹp đến đâu thì chú ta cũng chỉ có một mình, không có ai để sẻ chia, chỉ có thể ngồi trước cửa nhà mà ngắm nghía mọi thứ một cách vô vị. Khác với dế mèn, hai chú chim én cùng nhau chao liệng trên bầu trời, chúng cùng nhau chia sẻ niềm vui, cùng nhau đùa rỡn đầy vui vẻ. Hai chú chim én còn vô cùng tốt bụng, thấy thương dế mèn chỉ có một mình đơn độc nên đã hạ cánh xuống mặt đất để bắt chuyện và gợi ý để dế mèn có thể cùng mình đi chơi.

st
 
Viết trả lời...
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở phương diện thơ ca, Quang Dũng mang trong mình hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, in trong tập “Mây đầu ô”, được viết vào một buổi chiều mưa lại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời đơn vị cũ chưa lâu. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng lại đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài với bạn đọc nhiều thế hệ.

5026



Phân tích về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau và từ đó nhận xét về phong cách thơ của Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu, anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.


(Trích “Tây Tiến” - Quang Dũng)


Bài làm

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy”. Thật vậy, cái “nhụy sống” ấy đã nảy nở trong thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng để rồi dâng hiến cho cuộc đời một bài ca thật đẹp về người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng, thể hiện rõ nhất phong cách thơ độc đáo của tác giả này:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc



Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở phương diện thơ ca, Quang Dũng mang trong mình hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, in trong tập “Mây đầu ô”, được viết vào một buổi chiều mưa lại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời đơn vị cũ chưa lâu. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng lại đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài với bạn đọc nhiều thế hệ.

Chiến tranh đã qua đi, tấm áo hòa bình ấp ôm mảnh đất hình chữ S đã được nhiều thập kỉ, đã hàn gắn được phần nào bao vết thương đớn đau, bao mất mát hi sinh của một thời lửa đạn. Nhưng ngày hôm nay, trong nền hòa bình này, ta đọc lại “Tây Tiến” để một lần nữa nhớ về thế hệ các anh, những người lính trẻ trung và dũng cảm, trong mạch nguồn nỗi nhớ khi xưa của nhà thơ Quang Dũng. Bức tượng đài bằng thơ về các anh vẫn luôn sừng sững, sống mãi những vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Nhà thơ dùng từ “đoàn binh” để khẳng định một lực lượng đông đảo, “đoàn binh” Tây Tiến là đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân hành quân của người lính, đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người lính đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Ấy là sự ngụy trang đề phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là sự tàn phá của bệnh tật, của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn sốt rét rừng, những lần thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách ý chí người lính trẻ như thế:

“Cuộc đời gió bụi pha xương máu

Đói rét bao lần xé thịt da

Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!”

(“Lên Cấm Sơn” - Thôi Hữu)

Nhưng ở đây, giọng thơ “Tây Tiến” lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, viết về gian khổ, khó khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm: “dữ oai hùm”. Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô những hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, vui tươi hóa của Quang Dũng về những người đồng đội của mình. “Dữ oai hùm” là hình ảnh khẳng định tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí quyết tâm của những người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo rất độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng, cách viết đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá” với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, sức mạnh “dữ oai hùm”, Quang Dũng đã đem đến những nét phác họa đầu tiên về người lính Tây Tiến rất hào hùng, dũng cảm và lạc quan.

Khắc họa về đồng đội mình, Quang Dũng tiếp tục đem đến những hình ảnh chân thực, không chỉ về đời sống mà còn về tâm hồn hào hoa, lãng mạn của các anh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt “trừng” của người lính Tây Tiến vẫn luôn hướng về bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ

Bay đừng hòng khuất phục đời ta

Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy

Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”

(“Bài ca chim Chơrao” - Thu Bồn).

Quả thực ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời tuyên chiến trước quân thù, rất oai phong, hào hùng. Và gửi theo ánh mắt của quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc mộng chinh phu, giấc mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi đời còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận, sẵn sàng gánh trên vai “món nợ” núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và khâm phục nhiều tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh khi cảnh giác trước quân địch, khi cũng ấp ôm nỗi nhớ niềm thương về thị thành quê hương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về Hà Nội với “dáng kiều thơm”, với hình ảnh những thiếu nữ Hà thành duyên dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta chỉ có thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ với xuất thân chủ yếu là thanh niên trí thức thủ đô, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy, tầm thường mà là động lực để họ vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ. Không những vậy “dáng kiều thơm” ấy còn một lần nữa đem đến màu sắc hiện thực cho câu thơ, Quang Dũng đã đem những gì thật chất, đúng nhất về người lính Tây Tiến lên những trang thơ của mình. Ta cảm nhận và trân trọng vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất đỗi hào hoa, lãng mạn ấy.

Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta vào nơi biên cương hẻo lánh rải rác những ngôi mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng câu chữ cho thấy sự khốc liệt và hơn hết là những đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy máu và mộ phần để tiếp ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà không hề nao núng. Chính vì thế, Quang Dũng sử dụng một loạt những từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận chiến lừng danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý tưởng của một thời đại mới “chẳng tiếc đời xanh” – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt giữa những sự vật: “chiến trường” - là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề, “đời xanh” - là tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay đồng đội mình, những anh hùng Tây Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ, thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Bên cạnh sự hào hùng là bi tráng. Với Quang Dũng, chết không bao giờ là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh “áo bào thay chiếu”, ông đã bi tráng hóa cái chết của con người, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính, “anh về đất” biến cái chết trở thành một sự nghỉ ngơi sau những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi nhưng không hề lụy. Cái chết của các anh, sự hi sinh của các anh luôn là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội, đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ, âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng trọng:

“Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh

Trọn đời làm chiến sĩ vô danh”

(Thu Bồn)

Trở lại với những vần thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng không trốn tránh hiện thực mà đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên. Và “Sông Mã” được nâng tầm như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến hết tất cả tội ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm cuối cùng ấy là khúc tráng ca, là khúc nhạc thiêng tiễn đưa anh linh của những người chiến sĩ về với cha ông, về với đất mẹ. Vẻ đẹp bi tráng về những người lính Tây Tiến từ đó mà cứ vang vọng mãi trong tâm khản bạn đọc.

Một khổ thơ có thể được coi là đặc sắc nhất của thi phẩm “Tây Tiến” đã thể hiện rõ vẻ đẹp phong cách thơ Quang Dũng. Đó là hồn thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa. Thơ Quang Dũng hồn hậu, chân thực ở chỗ nhà thơ không né tránh những hiện thực tàn khốc, đau thương của chiến tranh. Ngòi bút ấy cũng rất đỗi lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, đặc biệt khi viết về hình ảnh những người lính Tây Tiến với sự trẻ trung, tinh thần bất khuất, sung sức và bền lòng trước tiếng gọi của Tổ quốc. Với giọng thơ trang trọng, cảm xúc dạt dào, đôi lúc lắng đọng, khắc khoải, bút pháp tả thực kết hợp với những hình ảnh bay bổng, lãng mạn, nhà thơ Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Bức tượng đài ấy sẽ còn sống mãi trong văn chương nghệ thuật, trong tấm lòng người yêu thơ và trong trái tim của lớp lớp thế hệ thanh niên sau này.

Với tài năng văn học của mình, Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa, thương cảm. Những vần thơ sáng ngời vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng của người lính cũng đã góp phần khẳng định chất riêng trong phong cách thơ của tác giả. Quang Dũng đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Từ đó giúp ta thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính trong thời chiến, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình ngày hôm nay, để ta trân trọng hơn những cống hiến không màng danh lợi, những hi sinh không kể đáp đền. Đọc lại “Tây Tiến” ấy, trong những ngày hòa bình này, ta thực sự thấm thía và cảm phục:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông”.

(Giang Nam)
Thêm
19K
3
3

Phong cách thơ Quang Dũng đó là hồn thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa.

Thơ Quang Dũng hồn hậu, chân thực ở chỗ nhà thơ không né tránh những hiện thực tàn khốc, đau thương của chiến tranh. Ngòi bút ấy cũng rất đỗi lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, đặc biệt khi viết về hình ảnh những người lính Tây Tiến với sự trẻ trung, tinh thần bất khuất, sung sức và bền lòng trước tiếng gọi của Tổ quốc. Giọng thơ trang trọng, cảm xúc dạt dào, đôi lúc lắng đọng, khắc khoải, bút pháp tả thực kết hợp với những hình ảnh bay bổng, lãng mạn.
 
Viết trả lời...
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở phương diện thơ ca, Quang Dũng mang trong mình hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, in trong tập “Mây đầu ô”, được viết vào một buổi chiều mưa lại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời đơn vị cũ chưa lâu. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng lại đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài với bạn đọc nhiều thế hệ.

5026



Phân tích về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau và từ đó nhận xét về phong cách thơ của Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu, anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.


(Trích “Tây Tiến” - Quang Dũng)


Bài làm

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy”. Thật vậy, cái “nhụy sống” ấy đã nảy nở trong thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng để rồi dâng hiến cho cuộc đời một bài ca thật đẹp về người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng, thể hiện rõ nhất phong cách thơ độc đáo của tác giả này:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc



Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở phương diện thơ ca, Quang Dũng mang trong mình hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, in trong tập “Mây đầu ô”, được viết vào một buổi chiều mưa lại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời đơn vị cũ chưa lâu. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng lại đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài với bạn đọc nhiều thế hệ.

Chiến tranh đã qua đi, tấm áo hòa bình ấp ôm mảnh đất hình chữ S đã được nhiều thập kỉ, đã hàn gắn được phần nào bao vết thương đớn đau, bao mất mát hi sinh của một thời lửa đạn. Nhưng ngày hôm nay, trong nền hòa bình này, ta đọc lại “Tây Tiến” để một lần nữa nhớ về thế hệ các anh, những người lính trẻ trung và dũng cảm, trong mạch nguồn nỗi nhớ khi xưa của nhà thơ Quang Dũng. Bức tượng đài bằng thơ về các anh vẫn luôn sừng sững, sống mãi những vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Nhà thơ dùng từ “đoàn binh” để khẳng định một lực lượng đông đảo, “đoàn binh” Tây Tiến là đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân hành quân của người lính, đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người lính đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Ấy là sự ngụy trang đề phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là sự tàn phá của bệnh tật, của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn sốt rét rừng, những lần thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách ý chí người lính trẻ như thế:

“Cuộc đời gió bụi pha xương máu

Đói rét bao lần xé thịt da

Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!”

(“Lên Cấm Sơn” - Thôi Hữu)

Nhưng ở đây, giọng thơ “Tây Tiến” lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, viết về gian khổ, khó khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm: “dữ oai hùm”. Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô những hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, vui tươi hóa của Quang Dũng về những người đồng đội của mình. “Dữ oai hùm” là hình ảnh khẳng định tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí quyết tâm của những người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo rất độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng, cách viết đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá” với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, sức mạnh “dữ oai hùm”, Quang Dũng đã đem đến những nét phác họa đầu tiên về người lính Tây Tiến rất hào hùng, dũng cảm và lạc quan.

Khắc họa về đồng đội mình, Quang Dũng tiếp tục đem đến những hình ảnh chân thực, không chỉ về đời sống mà còn về tâm hồn hào hoa, lãng mạn của các anh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt “trừng” của người lính Tây Tiến vẫn luôn hướng về bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ

Bay đừng hòng khuất phục đời ta

Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy

Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”

(“Bài ca chim Chơrao” - Thu Bồn).

Quả thực ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời tuyên chiến trước quân thù, rất oai phong, hào hùng. Và gửi theo ánh mắt của quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc mộng chinh phu, giấc mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi đời còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận, sẵn sàng gánh trên vai “món nợ” núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và khâm phục nhiều tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh khi cảnh giác trước quân địch, khi cũng ấp ôm nỗi nhớ niềm thương về thị thành quê hương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về Hà Nội với “dáng kiều thơm”, với hình ảnh những thiếu nữ Hà thành duyên dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta chỉ có thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ với xuất thân chủ yếu là thanh niên trí thức thủ đô, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy, tầm thường mà là động lực để họ vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ. Không những vậy “dáng kiều thơm” ấy còn một lần nữa đem đến màu sắc hiện thực cho câu thơ, Quang Dũng đã đem những gì thật chất, đúng nhất về người lính Tây Tiến lên những trang thơ của mình. Ta cảm nhận và trân trọng vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất đỗi hào hoa, lãng mạn ấy.

Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta vào nơi biên cương hẻo lánh rải rác những ngôi mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng câu chữ cho thấy sự khốc liệt và hơn hết là những đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy máu và mộ phần để tiếp ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà không hề nao núng. Chính vì thế, Quang Dũng sử dụng một loạt những từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận chiến lừng danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý tưởng của một thời đại mới “chẳng tiếc đời xanh” – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt giữa những sự vật: “chiến trường” - là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề, “đời xanh” - là tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay đồng đội mình, những anh hùng Tây Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ, thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Bên cạnh sự hào hùng là bi tráng. Với Quang Dũng, chết không bao giờ là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh “áo bào thay chiếu”, ông đã bi tráng hóa cái chết của con người, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính, “anh về đất” biến cái chết trở thành một sự nghỉ ngơi sau những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi nhưng không hề lụy. Cái chết của các anh, sự hi sinh của các anh luôn là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội, đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ, âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng trọng:

“Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh

Trọn đời làm chiến sĩ vô danh”

(Thu Bồn)

Trở lại với những vần thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng không trốn tránh hiện thực mà đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên. Và “Sông Mã” được nâng tầm như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến hết tất cả tội ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm cuối cùng ấy là khúc tráng ca, là khúc nhạc thiêng tiễn đưa anh linh của những người chiến sĩ về với cha ông, về với đất mẹ. Vẻ đẹp bi tráng về những người lính Tây Tiến từ đó mà cứ vang vọng mãi trong tâm khản bạn đọc.

Một khổ thơ có thể được coi là đặc sắc nhất của thi phẩm “Tây Tiến” đã thể hiện rõ vẻ đẹp phong cách thơ Quang Dũng. Đó là hồn thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa. Thơ Quang Dũng hồn hậu, chân thực ở chỗ nhà thơ không né tránh những hiện thực tàn khốc, đau thương của chiến tranh. Ngòi bút ấy cũng rất đỗi lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, đặc biệt khi viết về hình ảnh những người lính Tây Tiến với sự trẻ trung, tinh thần bất khuất, sung sức và bền lòng trước tiếng gọi của Tổ quốc. Với giọng thơ trang trọng, cảm xúc dạt dào, đôi lúc lắng đọng, khắc khoải, bút pháp tả thực kết hợp với những hình ảnh bay bổng, lãng mạn, nhà thơ Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Bức tượng đài ấy sẽ còn sống mãi trong văn chương nghệ thuật, trong tấm lòng người yêu thơ và trong trái tim của lớp lớp thế hệ thanh niên sau này.

Với tài năng văn học của mình, Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa, thương cảm. Những vần thơ sáng ngời vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng của người lính cũng đã góp phần khẳng định chất riêng trong phong cách thơ của tác giả. Quang Dũng đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Từ đó giúp ta thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính trong thời chiến, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình ngày hôm nay, để ta trân trọng hơn những cống hiến không màng danh lợi, những hi sinh không kể đáp đền. Đọc lại “Tây Tiến” ấy, trong những ngày hòa bình này, ta thực sự thấm thía và cảm phục:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông”.

(Giang Nam)
Thêm
19K
3
3
Viết trả lời...
Đề bài: Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" (Nguyễn Minh Châu).


Bài làm:

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả tác phẩm và nêu bật được tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm là gì.

II. Thân bài

1. Giới thiệu chung

- Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân.

- Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê” (1985) đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) của văn học nước ta từ sau năm 1975.

- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “Bến quê“, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. Trong thiên truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình hưống truyện vô cùng đặc sắc.

2. Phân tích tình huống truyện trong "Chiếc thuyền ngoài xa"

a) Định nghĩa tình huống truyện:

Là hoàn cảnh được tác giả tạo dựng bằng một sự kiện đặc biệt để từ đó thể hiện được chủ đề, tư tưởng của tác giả.

b) Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở toà án huyện

– Ở ngoài bãi biển

+ Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng: Bức tranh thiên nhiên toàn bích của chiếc thuyền lưới vó đang tiến gần bờ trong buổi sớm mai “trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu... tôi tưởng chính mình vừa khám phá cái chân lí của sự hoàn thiện...”. Trong đôi mắt người nghệ sĩ khát khao cái đẹp thì đó là “cảnh đắt trời cho” chứa đựng chân lí sự hoàn thiện, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.

+ Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí, phi nghệ thuật: Cảnh tượng xấu xí: người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, người đàn ông cục mịch, hung bạo. Thiếu tính người: người chồng đánh đập vợ thô bạo, đứa con bảo vệ mẹ, đánh lại cha => Người nghệ sĩ cay đắng nhận ra: đằng sau cái đẹp cảnh “đắt” trời cho là khung cảnh xấu xí, chứa đựng sự thật tàn nhẫn - nạn bạo hành gia đình.

– Trong toà án huyện

+ Người đàn bà dù bị đánh đập, bị nguyền rủa mỗi ngày bởi người chồng vũ phu nhưng khi tòa khuyên bà bỏ chồng thì bà lại van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Với bà “người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” là rất khó khăn. Dù người đó có vũ phu thì cũng cần đến những lúc sóng gió ngoài biển khơi.

Niềm vui của bà là được ngắm con cái ăn no, ngủ say và chờ đợi những đôi lúc “vợ chồng con cái hòa thuận vui vẻ”, người đàn bà trên thuyền sống vì con.

+ Câu chuyện người đàn bà khiến Phùng và Đẩu một lần nữa nhận thức sâu hơn về cuộc đời:

++ Cuộc sống mưu sinh có thể làm người hiền lành trở nên thô bạo

++ Đằng sau vẻ xấu xí kia thì người đàn bà lại nhân hậu, vị tha, hiểu đời

++ Vị chánh án nhận ra cuộc sống hôn nhân không dễ dàng giải quyết được bằng cách dứt khoát như anh nghĩ.

++ Nhà nhiếp ảnh nhận ra nghệ thuật thì đẹp đấy nhưng cuộc đời sinh ra nghệ thuật vẫn nhiều khiếm khuyết. Hình thức bên ngoài của người đàn bà không nói lên được lòng vị tha, nhân hậu và nỗi đau bên trong. Người cán bộ đôi khi lại chưa thể thấu hiểu vì còn thiếu trải nghiệm.

3. Ý nghĩa tình huống truyện:

– Tư tưởng và chủ đề của tác phẩm được thể hiện qua tình huống truyện: Đó là những phát hiện sâu sắc của người nghệ sĩ về cuộc đời, con người, sự gắn kết giữa nghệ thuật và đời sống.

+ Cuộc đời vốn là bức tranh nhiều màu sắc, nhiều nghịch lý mà khi nhìn vẻ bề ngoài khó lòng mà đánh giá. Từ cái nhìn của chánh án Đẩu, tác giả cho ta cái nhìn đa chiều, toàn diện.

+ Đôi khi thiện chí không là chưa đủ để giúp đỡ ai đó, cần phải gắn liền với thực tế để trải nghiệm, thấu hiểu họ.

+ Mỗi chúng ta cần nhìn lại bản thân để hoàn thiện nhân cách.

+ Nghệ thuật không thể tách rời cuộc đời, nó phải có cội rễ từ đời sống và phản ánh đời sống chân thật nhất.

– Tình huống truyện còn mang ý nghĩa nền tảng để nhà văn xây dựng thành công nhân vật:

+ Người đàn bà hàng chài với nỗi khổ cả thể xác lẫn tâm hồn thế nhưng vẫn ngời lên đức tính tốt đẹp của người phụ nữ.

+ Người chồng là kết quả của cuộc sống túng thiếu, bế tắc

+ Phùng – người nghệ sĩ tha thiết với cuộc đời, Đẩu - chánh án có lòng tốt nhưng cả hai còn thiếu kinh nghiệm sống.

– Tình huống truyện còn lôi cuốn người đọc bởi nhiều sự vỡ ra, bất ngờ.

– Tình huống truyện chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn:

+ Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng

+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.


III. Kết bài

- Tình huống truyện là một thành công lớn của truyện ngắn nói chung và của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” nói riêng.

- Với tình huống truyện độc đáo sẽ tạo ra tài năng của tác giả.

Nguồn : Sưu tầm
Thêm
2K
0
3
Tham khảo phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài đặc sắc:

Nguyễn Minh Châu là một trong số nhà văn tiên phong của thời kỳ đổi mới sau năm 1975. “Chiếc thuyền ngoài xa” không chỉ thay đổi về quan niệm nhân sinh mà còn thay đổi cả về quan niệm nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật và văn học của ông được thể hiện rõ nhất qua tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu của ông trong giai đoạn sáng tác thứ hai cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự.

Tình huống truyện đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Đây cũng cơ sở để Nguyễn Minh Châu xây dựng một câu chuyện vô cùng độc đáo cũng như thu hút sự chú ý của người đọc. Tình huống truyện trong truyện ngắn tạo nên các sự kiện đặc biệt tác động đến đời sống nhân vật và ở đó quan niệm nhân sinh của nhà văn cũng hiện lên rõ nét. Tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa là một hoàn cảnh đầy éo le. Từ tình huống nhận thức của nhân vật Phùng cho đến những giây phút giác ngộ sau này. Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa nằm ở hai phát hiện của nhân vật Phùng.

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh được trưởng phòng phân công nhiệm vụ đến một vùng biển miền Trung xa xôi để chụp ảnh chuẩn bị cho bộ lịch năm mới. Sau gần một tuần lễ tìm kiếm, phục kích để tìm được bức ảnh ưng ý thì Phùng đã nhìn thấy cảnh con thuyền đánh cá ngoài xa thấp thoáng trong sương sớm. Đây cũng chính là lúc Phùng phát hiện vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa, anh đánh giá đây là cảnh đắt trời cho, rất quý và hiếm gặp. Người đọc có thể thấy được nhân vật Phùng đang đứng trước một bức tranh thiên nhiên tuyệt bích là một vẻ đẹp không thể gặp lại lần thứ hai. Điểm thêm vẻ đẹp trong bức tranh ấy là vài bóng người lớn, trẻ con ngồi trên chiếc mui khum khum. Chiếc thuyền đánh cá đang chuyển động và cập bến xuất hiện đứng yên ngay trước mắt anh nhiếp ảnh Phùng. Đối diện với vẻ đẹp tuyệt bích ấy anh cảm thấy bối rối, “trái tim như có gì bóp thắt”. Người đọc có thể nhận ra cái đẹp hướng về con người đến những giá trị đạo đức, những điều thanh cao trong sạch, có thể thanh lọc tâm hồn con người. Phùng ý thức được cái đẹp có vai trò quan trọng của với đời sống con người, anh đã cố gắng thu giữ hết lấy mọi khoảnh khắc ấy, nên anh bấm lia lịa máy ảnh hết một phần tư cuốn phim.

Tình huống truyện chiếc thuyền ngoài xa còn thể hiện ở sự éo le người đàn bà làng chài. Khi chiếc thuyền cập bến, Phùng lại phát hiện ra bao điều bất ngờ từ một gia đình ngư dân trái ngược lại hoàn toàn với phát hiện thứ nhất của anh. Trong chiếc thuyền hình ảnh một người đàn ông to lớn với những đường nét thô kệch và một người đàn bà rỗ mặt, mệt mỏi. Không chỉ sự xuất hiện của những con người với vẻ ngoài xấu xí mà còn xuất hiện cảnh bạo lực gia đình dã man, đảo lộn luân thường đạo lý. Người đàn ông dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà một cách dã man. Lão ta vừa đánh vừa chửi rủa thậm tệ, và sau đó là hình ảnh thằng con tên Phác đã lao đến đánh trả bố để bảo vệ người mẹ của mình. Phùng bất ngờ chính sự cam chịu của người đàn ấy khi bị đánh không lời oán trách, không chống trả hay chạy trốn. Trước cảnh tượng đấy, nhân vật Phùng trải qua biết bao cảm xúc khác nhau.

Nếu như khi đứng trước cảnh chiếc thuyền đánh cá ngoài xa trong sương sớm Phùng cảm thấy xúc động và vui sướng trước cái đẹp, thì giờ đây anh chỉ có thể kinh ngạc bởi sự thật quá nghiệt ngã, trớ trêu khi anh chứng kiến chiếc thuyền ngoài xa ấy ở cự ly gần mình. Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc thấy được vẻ đẹp hoàn hảo tuyệt bích khi con thuyền ở ngoài xa ra nếu chiếc thuyền ở ngoài xa. Nhưng khi lại gần thì đối lập với vẻ đẹp ấy là sự hiện thân của nghèo đói, bạo hành, là cảnh bạo lực gia đình, chồng đánh vợ, con đánh cha. Chứng kiến cảnh tượng ấy, Phùng đã vứt chiếc máy ảnh để chạy lại cứu người đàn bà. Hành động này của Phùng đã nói lên điều quan trọng nhất đối với Phùng chính là cứu người đàn bà kia chứ không phải là những bức ảnh kia. Hai hình ảnh đối lập nhau khi chiếc thuyền lúc ở ngoài xa và lúc lại gần. Cảnh tượng đẹp và xấu, cái thiện và cái ác, hòa lẫn với tâm hồn trong sáng cùng những đớn đau, dằn vặt đã tạo nên một khung cảnh.

Tác giả muốn đặt Phùng trong tình huống éo le ấy, để muốn đặt ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật phải vì cuộc sống. Qua hai tình huống truyện của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, ta thấy nhà văn có cái nhìn đa diện nhiều chiều, xa và gần, từ bên ngoài đến bên trong. Qua đó mới có thể thấy và đánh giá đúng được bản chất của hiện tượng đó. Bên cạnh hai cảnh đối lập khi con thuyền ở ngoài xa và gần thì Phùng còn có ấn tượng về người đàn bà hàng chài. Ấn tượng ban đầu là vẻ ngoài xấu xí, thô kệch, nghèo khổ, đáng thương và cam chịu khi bị chồng đánh đập mắng chửi thậm tệ mà không có chút phản kháng nào lại.

Theo lời mời của Đẩu thì người đàn bà hàng chài đã đến tòa án huyện để bàn công việc gia đình, giúp bà bỏ người chồng bạo lực. Người đàn bà có vẻ sợ sệt, lưng túng, đôi mắt lúc thì ngước lên nhìn Đẩu, lúc thì nhìn xuống đất. Khi nghe chánh án Đẩu nói về việc ly hôn chồng thì chị lại cương quyết không chịu bỏ chồng, chắp tay lạy vái và van xin. Sau khi nghe người đàn bà kể về câu chuyện của cuộc đời mình thì cuối Phùng đã hiểu vì sao chị không chịu bỏ chồng. Vì tình thương con mà người đàn bà không muốn ly hôn, chấp nhận bị đánh đập, chửi bới để nuôi con khôn lớn. Người đàn bà cần có phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đàn con. Chị cũng cho biết thêm về người chồng đằng sau vẻ cục tính, hung bạo là một người hiền lành, chấp nhận lần lỗi tuổi trẻ của người đàn bà. Người đàn bà cũng nhận mọi tội lỗi về mình, và cũng nói về những lần hiếm hoi hạnh phúc chả gia đình. Trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận, đến đây mặt chị bừng sáng lên nụ cười, niềm vui của gia đình chính là động lực của chị để vượt qua khó khăn. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng nhận ra bên ngoài cái ngoại hình xấu xí, thô kệch ấy người phụ nữ thấu hiểu bao dung, trải đời, hiểu và yêu thương chồng con và có lòng vị tha.

Tác giả đã xây dựng một tình huống truyện vô cùng cuốn hút và độc đáo. Đằng sau bức tranh tuyệt đẹp ấy là những nghịch cảnh ngang trái trong gia đình người đàn bà hàng chài. Nhân vật Phùng trong tác phẩm cũng chính là sự hóa thân của tác giả gửi gắm vào đó với một góc nhìn khách quan, tinh tế. Thông qua tình huống truyện chiếc thuyền ngoài xa, tác giả đã thể hiện nhiều thông điệp có ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống cũng như trong nghệ thuật. Khi nhìn nhận đánh giá về một sự vật hiện tượng chúng ta không thể nhìn sơ lược mà cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để nhìn nhận vấn đề. Qua đó giúp người đọc có thể cảm nhận được ý nghĩa nhân văn của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng như trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Nguồn: st
 
Viết trả lời...
Đề bài: Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" (Nguyễn Minh Châu).


Bài làm:

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả tác phẩm và nêu bật được tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm là gì.

II. Thân bài

1. Giới thiệu chung

- Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân.

- Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê” (1985) đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) của văn học nước ta từ sau năm 1975.

- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “Bến quê“, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. Trong thiên truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình hưống truyện vô cùng đặc sắc.

2. Phân tích tình huống truyện trong "Chiếc thuyền ngoài xa"

a) Định nghĩa tình huống truyện:

Là hoàn cảnh được tác giả tạo dựng bằng một sự kiện đặc biệt để từ đó thể hiện được chủ đề, tư tưởng của tác giả.

b) Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở toà án huyện

– Ở ngoài bãi biển

+ Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng: Bức tranh thiên nhiên toàn bích của chiếc thuyền lưới vó đang tiến gần bờ trong buổi sớm mai “trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu... tôi tưởng chính mình vừa khám phá cái chân lí của sự hoàn thiện...”. Trong đôi mắt người nghệ sĩ khát khao cái đẹp thì đó là “cảnh đắt trời cho” chứa đựng chân lí sự hoàn thiện, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.

+ Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí, phi nghệ thuật: Cảnh tượng xấu xí: người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, người đàn ông cục mịch, hung bạo. Thiếu tính người: người chồng đánh đập vợ thô bạo, đứa con bảo vệ mẹ, đánh lại cha => Người nghệ sĩ cay đắng nhận ra: đằng sau cái đẹp cảnh “đắt” trời cho là khung cảnh xấu xí, chứa đựng sự thật tàn nhẫn - nạn bạo hành gia đình.

– Trong toà án huyện

+ Người đàn bà dù bị đánh đập, bị nguyền rủa mỗi ngày bởi người chồng vũ phu nhưng khi tòa khuyên bà bỏ chồng thì bà lại van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Với bà “người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” là rất khó khăn. Dù người đó có vũ phu thì cũng cần đến những lúc sóng gió ngoài biển khơi.

Niềm vui của bà là được ngắm con cái ăn no, ngủ say và chờ đợi những đôi lúc “vợ chồng con cái hòa thuận vui vẻ”, người đàn bà trên thuyền sống vì con.

+ Câu chuyện người đàn bà khiến Phùng và Đẩu một lần nữa nhận thức sâu hơn về cuộc đời:

++ Cuộc sống mưu sinh có thể làm người hiền lành trở nên thô bạo

++ Đằng sau vẻ xấu xí kia thì người đàn bà lại nhân hậu, vị tha, hiểu đời

++ Vị chánh án nhận ra cuộc sống hôn nhân không dễ dàng giải quyết được bằng cách dứt khoát như anh nghĩ.

++ Nhà nhiếp ảnh nhận ra nghệ thuật thì đẹp đấy nhưng cuộc đời sinh ra nghệ thuật vẫn nhiều khiếm khuyết. Hình thức bên ngoài của người đàn bà không nói lên được lòng vị tha, nhân hậu và nỗi đau bên trong. Người cán bộ đôi khi lại chưa thể thấu hiểu vì còn thiếu trải nghiệm.

3. Ý nghĩa tình huống truyện:

– Tư tưởng và chủ đề của tác phẩm được thể hiện qua tình huống truyện: Đó là những phát hiện sâu sắc của người nghệ sĩ về cuộc đời, con người, sự gắn kết giữa nghệ thuật và đời sống.

+ Cuộc đời vốn là bức tranh nhiều màu sắc, nhiều nghịch lý mà khi nhìn vẻ bề ngoài khó lòng mà đánh giá. Từ cái nhìn của chánh án Đẩu, tác giả cho ta cái nhìn đa chiều, toàn diện.

+ Đôi khi thiện chí không là chưa đủ để giúp đỡ ai đó, cần phải gắn liền với thực tế để trải nghiệm, thấu hiểu họ.

+ Mỗi chúng ta cần nhìn lại bản thân để hoàn thiện nhân cách.

+ Nghệ thuật không thể tách rời cuộc đời, nó phải có cội rễ từ đời sống và phản ánh đời sống chân thật nhất.

– Tình huống truyện còn mang ý nghĩa nền tảng để nhà văn xây dựng thành công nhân vật:

+ Người đàn bà hàng chài với nỗi khổ cả thể xác lẫn tâm hồn thế nhưng vẫn ngời lên đức tính tốt đẹp của người phụ nữ.

+ Người chồng là kết quả của cuộc sống túng thiếu, bế tắc

+ Phùng – người nghệ sĩ tha thiết với cuộc đời, Đẩu - chánh án có lòng tốt nhưng cả hai còn thiếu kinh nghiệm sống.

– Tình huống truyện còn lôi cuốn người đọc bởi nhiều sự vỡ ra, bất ngờ.

– Tình huống truyện chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn:

+ Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng

+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.


III. Kết bài

- Tình huống truyện là một thành công lớn của truyện ngắn nói chung và của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” nói riêng.

- Với tình huống truyện độc đáo sẽ tạo ra tài năng của tác giả.

Nguồn : Sưu tầm
Thêm
2K
0
3
Tham khảo phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa

Nghệ thuật và cuộc đời luôn có một mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Bởi vậy, nhà văn Nam Cao đã nói về quan điểm nghệ thuật của mình như sau: "Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn tránh sự thật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của đời". Với cùng một quan điểm "nghệ thuật vị nhân sinh" nên nhà văn Nguyễn Minh Châu khi đặt bút cũng thể hiện rõ những quan điểm, lập trường của bản thân qua những tác phẩm gắn liền với cuộc sống thực tế. Tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" cũng vậy, nó thể hiện rất rõ mối quan hệ của nghệ thuật với cuộc sống cũng như những giá trị nhân văn tốt đẹp thông qua một tình huống truyện đặc sắc, gần gũi nhưng cũng vô cùng ấn tượng.

Tình huống truyện chính là bối cảnh của câu truyện, trong đó sẽ có những sự kiện mang tính chất đặc biệt xảy ra, là thời khắc mà sự sống hiện lên một cách mạnh mẽ nhất. Chính những tình huống truyện ấy như một chiếc chìa khoá, là cái cốt lõi để từ đó tác giả thể hiện ra những tư tưởng, suy nghĩ của mình về cuộc sống, về nhân sinh. Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên một tình huống truyện đầy hấp dẫn mang tính nhận thức, được thể hiện thông qua hai bức tranh: bức tranh nơi bãi biển buổi sớm và bức tranh ở toà án huyện. Hai bức tranh ấy đều chứa đựng trong đó những điều đầy bất ngờ, những tình tiết thú vị khiến cho vị nhiếp ảnh Phùng cũng như độc giả sẽ có được những góc nhìn khác về cuộc sống này.

Tình huống đầu tiên của câu chuyện xảy ra ở ngoài biển, nơi mà nhiếp ảnh gia Phùng dự định sẽ đến chụp những bức ảnh thật đẹp về khung cảnh biển lúc sớm mai để in lên bộ lịch nghệ thuật. Vị nhiếp ảnh gia ấy đến đây với một tâm thế của người làm nghệ thuật, luôn hướng về cái đẹp và tìm kiếm cái đẹp. Và chính bởi sự khát khao cái đẹp một cách nồng nàn, cháy bỏng ấy mà một nhà nghệ thuật chân chính như anh vẫn chưa thấy được bức ảnh nào đáng giá trong số những bức ảnh anh chụp được những ngày ở đây. Và rồi bất ngờ anh cũng đã bắt được một khoảnh khắc đắt giá mà có lẽ cả đời cầm máy ảnh của anh chưa bao giờ thấy được. Bức ảnh mà anh chụp như "một bức tranh mực tàu của danh hoạ thời cổ", anh cảm thấy như bản thân mình đã "khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn".

Thế nhưng đối lập với cảnh đẹp đắt giá ấy, một hiện thực tàn khốc đã xuất hiện khi mà trên con thuyền ấy có hai người bước xuống - họ đại diện cho những mảnh đời bất hạnh đầy khốn khó của một gia đình làng chài ẩn trong bức tranh thơ mộng nơi biển cả trong con mắt của Phùng. Trong cái khung cảnh lãng mạn của bức hoạ ấy, tiếng thét của người đàn ông như đã phá tan, xé toạc tất cả những vẻ đẹp toàn mỹ của bức tranh: "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ". Và rồi bóng người ngày càng hiện rõ hơn - một người đàn bà thô kệch đến mức xấu xí, mặt đầy những vết rỗ và hiện lên một vẻ mệt mỏi chẳng thể che giấu được. Đi sau là người đàn ông với cái đầu tổ quạ, chân đi chữ bát và ánh mắt của hắn chất đầy sự độc dữ đang nhìn chằm chằm vào người đàn bà ấy. Cuộc bạo hành gia đình lại tiếp tục diễn ra ngay trước mắt của Phùng - một người nghệ sĩ yêu cái đẹp. Tên đàn ông rút ra chiếc thắt lưng và quật liên tiếp vào người vợ mà nếu như không biết đó là một cặp vợ chồng thì người ta sẽ tưởng họ là kẻ thù của nhau. Vậy nhưng người đàn bà vẫn nhẫn nhục, không phản kháng cũng chẳng trốn chạy. Tất cả những sự việc ấy được Phùng chứng kiến toàn bộ, nhưng nó quá nhanh khiến anh chẳng thể phản ứng lại, anh cũng không thể hiểu nổi những điều kinh khủng đang hiện ra ngay trước mặt mình. Anh chỉ kịp vứt chiếc máy ảnh rồi chạy tới can ngăn, để rồi lại chứng kiến thêm cái cảnh đứa con trai để bảo vệ mẹ mà đã đánh lại bố mình. Khi những con người ấy rời đi, khung cảnh lại trở về với bãi cát mênh mông, hoang vắng và cái cảnh đắt giá trời cho cũng đã biến mất như chưa từng xuất hiện. Có thể thấy nhà văn Nguyễn Minh Châu đã rất tài tình khi xây dựng tình huống truyện này. Nhà văn đã để mọi thứ được mở ra bằng một bức họa tuyệt đẹp về thiên nhiên vùng biển, nhưng ngay sau đó tất cả đã bị phá tan bởi cảnh bạo lực gia đình của những con người bước ra từ chiếc thuyền ấy. Tưởng chừng như người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp trong sáng, một vẻ đẹp có đầy đủ các yếu tố chân - thiện - mỹ nhưng để rồi cuối cùng lại để lộ ra những điều xấu xa, đáng sợ.

Tiếp sau đó, nhà văn lại xây dựng một tình huống truyện thứ hai ở toà án huyện. Trước những điều mà mình chứng kiến cũng như suy nghĩ, về gia đình đó, Phùng và chánh án toà án huyện - Đẩu đã muốn giúp cho người đàn bà ấy ly hôn. Tưởng chừng như đó là một sự giải thoát khỏi những trận đòn roi, khỏi những sự tra tấn về tinh thân cho người đàn bà ấy, thế nhưng chị lại từ chối việc ly hôn này: "Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó..." Sự phản ứng của người đàn bà ấy đã gây ra bất ngờ và sự khó hiểu cho Phùng và Đẩu, nó khiến cho không gian của căn phòng ấy trở nên thật ngột ngạt. Thế nhưng, có lẽ Phùng đã dần hiểu ra được nỗi lòng của người đàn bà ấy qua những lời lý giải của chị ta. Chị cam chịu, nhẫn nhục như vậy bởi lẽ rằng chị vẫn còn những đứa con trên thuyền, và nếu như không có chồng thì một mình chị chẳng thể nào có thể gồng gánh để nuôi từng ấy đứa con. Trong cái khổ cực, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần ấy, chị vẫn tìm ra được niềm vui cho mình khi mà thấy những đứa con có bữa ăn no, và chỉ cần từng đó thôi là chị đã có thể vượt qua hết những khó khăn, để chị cam chịu sống cùng gã chồng vũ phu ấy. Giờ đây, Phùng và Đẩu mới lý giải được cái phản ứng tưởng chừng như vô lý của người đàn bà, thế nhưng khi đặt bản thân mình vào hoàn cảnh của chị thì phản ứng ấy lại chẳng vô lý chút nào. Không những vậy, người đàn bà ấy cũng giải thích rằng sự vũ phu đó không phải do bản chất của người chồng mà cũng bởi vì chồng chị quá khổ.

Chỉ bằng hai tình huống truyện nơi bãi biển và toà án huyện, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khiến người đọc có những góc nhìn toàn diện về cuộc đời và con người. Chúng ta không thể nhìn sự việc ở một góc độ, chỉ nhìn từ cái nhìn chủ quan của bản thân mình mà cần phải thay đổi nhìn nhận đa chiều. Cũng không thể chỉ vì một vẻ đẹp tĩnh lặng mà bỏ qua sự tồn tại của con người trong đó, và càng không thể vì nghệ thuật mà trốn tránh đi sự thật của cuộc sống, trốn tránh những sự thật tàn nhẫn đang ẩn sau đó. Qua tình huống truyện của tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn cũng cho người đọc có được những cảm nhận sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời cũng như giúp người đọc có những chiêm nghiệm sâu sắc về những nghịch lý rất có lý của thực tế cuộc sống.


Nguồn: st
 
Viết trả lời...