Aleksandr Sergeyevich Pushkin, người thay đổi nền văn học Nga

Aleksandr Sergeyevich Pushkin, người thay đổi nền văn học Nga

Vanhoctre
VanhoctreVanhoctre đã được xác minh
  • Thành viên BQT
  • Văn Học Trẻ đến từ Việt Nam
Aleksandr Sergeyevich Pushkin (tiếng Nga: Về âm thanh nàyАлександр Сергеевич Пушкин (trợ giúp·thông tin), 1799 - 1837) là một thi sĩ, văn sĩ, kịch tác gia Nga. Được tôn vinh như Đại thi hào hoặc Mặt trời thi ca Nga, ông hầu như là biểu tượng của trào lưu lãng mạn Nga thế kỷ XIX bởi nhiều cống hiến trong sự đa dạng hóa ngôn ngữ văn chương.

dai-thi-hao-pushkin.jpg

Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moscow trong một dòng dõi quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ XII. Cha của Pushkin, ông Sergey Levov, là hậu duệ của dòng dõi gia đình Boyar cũ - tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga và Romania thời xưa. Ông vốn là một chủ đất giàu có, sở hữu nhiều đất đai và nô lệ. Tuy nhiên, ông Sergey Levov lại luôn cảm thấy xấu hổ vì điều này. Dường như người cha của Pushkin không phù hợp với công việc của một người quản lý. Ông rất ít quan tâm đến những khái niệm như gia đình, thu nhập và giá cả nông sản. Cả cuộc đời của Sergey Levova sống trong sự nhàn nhã với tài hoạt ngôn ở chốn đông người, ưa tìm hiểu ngôn ngữ Pháp và Nga, quan tâm tới văn học và có một thư viện gồm những cuốn sách Pháp ngữ có giá trị cao. Với con cái, ông Sergey Levov cũng rất ít thể hiện sự quan tâm đặc biệt nhưng tựu trung là một người cha tốt.

Phu nhân Sergey Levov đồng thời là mẹ Pushkin, bà Nadezhda Osipovna, thuộc dòng dõi Abram Petrovich Gannibal[8][9], một người nô lệ da đen, nhờ thông minh xuất chúng và có những đóng góp lớn về quân sự, hàng hải cho nước Nga đã được Pyotr đại đế nhận làm dưỡng tử. Vì thế, Pushkin có vài đặc điểm giống đằng ngoại như tóc rất xoăn, làn da ngăm và đôi môi dày. Trái với bản tính vô ưu của chồng, bà Sergey Levova là một phụ nữ diễm kiều nhưng độc đoán. Ba người con, con gái lớn Olga, rồi đến Pushkin và cuối cùng là em út Leo thì chỉ có Leo là được nuông chiều hơn cả. Chị em Pushkin thường bị mẹ dạy bằng roi vọt và bà mẹ đặc biệt lạnh lùng với cậu con thứ. Có thời điểm quá tức giận, thậm chí bà còn không nói chuyện với Pushkin tới hàng tuần, thậm chí cả tháng. Trong thời gian cai sữa cho Aleksandr, bà mẹ đã bỏ mặc cậu bé đói khát mút tay và không âu yếm như các bà mẹ khác.

Vì thuở nhỏ Pushkin rất mập mạp vụng về, mẹ đã bắt cậu phải vận động, chạy nhảy, chơi đùa với bạn bè cùng trang lứa. Trái lại, bà ngoại Maria Alekseyevna Gannibal lại là một phụ nữ rất nhân hậu. Thời thơ ấu, trong những tháng hè, Pushkin thường được về chơi với bà tại thôn Zakharov, gần Zvenigorod thuộc ngoại ô Moskva. Những tháng ngày êm đềm ở đây về sau này được phản ảnh trong những bài thơ đầu tiên của Puskin ("Thầy tu", 1813; "Bova", 1814; "Lời nhắn cho Yudin",1815; "Giấc mơ", 1816).

Thiếu niên

Sáu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia[1], tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thôn, nay là thị trấn Pushkin) gần kinh đô Sankt-Peterburg. Thời gian theo học tại đây ông đã chứng kiến cuộc chiến tranh giữa quân lực Nga hoàng với quân Pháp của Napoléon Bonaparte năm 1812. Ông có bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - "Hồi ức ở Hoàng Thôn" (Воспоминание о Царском Селе, 1815). Bài thơ này đã được nhà phê bình văn học Nga nổi tiếng thời bấy giờ là Gavrila Romanovich Derzhavin (Гаври́л Рома́нович Держа́вин) coi là một tác phẩm kiệt xuất và đã tôn vinh Pushkin, khi đó mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga.

Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như "Gửi Chaadayev" (К Чаадаеву, 1818), "Gửi N. Ya. Plyuskova" (Н. Я. Плюсковой, 1818), "Làng quê" (Деревня, 1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - "Ruslan và Lyudmila" (Руслан и Людмила) và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền.

Trung niên

Mùa xuân 1820, do những bài thơ bị quy phiến loạn, tổng đốc Sankt-Peterburg là bá tước Miloradovich. Miloradovich đã yêu cầu đày Pushkin tới Siberia. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadayev, Fyodor Nikolayevich Glinka), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thành phố Sankt-Peterburg vô thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krym, Moldova, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất sâu sắc tới văn chương Nga thế kỷ XXI, như "Người tù Kavkaz" (Кавказский пленник, 1822), "Gavriiliada" (Гавриилиада, 1821), "Anh em lũ cướp" (Братья разбойники, 1822), "Đài phun nước Bakhchisaraysky" (Бахчисарайский фонтан, 1824). Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết sử thi "Yevgeny Onegin" c(Евгений Онегин).

tieu-su-dai-thi-hao-pushkin.jpg

Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở trang viên Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Tại Mikhailovskoe ông đã sáng tác những tác phẩm lịch sử như vở kịch "Boris Godunov" (Борис Годунов, 1825), "Với biển cả" (К морю, 1826), trường ca "Những người Tsygan" (Цыганы, 1827)[10].

Năm 1825, trong lần viếng trang viên láng giềng, Pushkin đã gặp cô Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng "Gửi K". Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thúc chương năm và sáu của "Yevgeny Onegin", mà lúc đó Puskin coi là đoạn kết cho phần một của tác phẩm.

Cuối năm 1825, thông qua một số viên chức có thiện chí, Pushkin đã được tiếp cận Nga hoàng Nikolai I để đệ đơn xin ân xá và được Nga hoàng chấp thuận. Tuy nhiên sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp năm 1825 tại Sankt-Peterburg, chính quyền đã xem xét lại tất cả các ấn phẩm chống đối chính quyền của Pushkin trước đó và quyết định buộc ông bị quản thúc tại gia và có chính sách kiểm duyệt nghiêm khắc các tác phẩm của nhà thơ. Pushkin đã chuyển về Moskva sống trong thời gian này.

Năm 1831 được đánh dấu bởi một sự kiện rất quan trọng trong sự nghiệp của Pushkin, ông đã có buổi gặp gỡ với Nikolai Vasilyevich Gogol, một nhà văn Nga nổi tiếng khác. Cả hai nhanh chóng trở thành bạn thân và luôn hỗ trợ nhau trong hoạt động nghệ thuật. Puskin đã có ảnh hưởng lớn tới những nhân vật trong các tác phẩm châm biếm phê phán hiện thực của Gogol. Cùng năm đó, Pushkin kết hôn với cô Natalia Goncharova, người đã đem lại cho ông cảm hứng sáng tác lớn lao. Ông hoàn tất chương "Bức thư của Onegin" trong tác phẩm "Evegeny Onegin" và cũng là chương kết của công trình vĩ đại mà nhà thơ đã mất 8 năm để thực hiện.

Tháng 11 năm 1833, Puskin trở lại Sankt-Peterburg, và cảm thấy cần phải có những thay đổi lớn trong cuộc sống, ông không muốn bị kìm kẹp trong bốn bức tường do chế độ quản thúc.

Nhờ sự sủng ái của Nga hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thúc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiên các tác phẩm thơ ca của ông vẫn phải có sự đồng ý của Sa hoàng mới được phát hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ không được thuận lợi, Pushkin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biên sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Puskin chuyển hướng sang viết văn xuôi. Ông sáng tác truyện vừa như "Con đầm bích" (Пиковая дама), tiểu thuyết như "Dubrovski" (Дубровский, 1832-33), "Con gà trống vàng", "Người da đen của Pyotr Đại đế" (không hoàn thành)... Cùng với những người bạn, Pushkin đã thành lập tờ tạp chí Người đương thời (Современник). Nhiều tác giả nổi tiếng của Nga thời bấy giờ như Aleksandr Ivanovich Turgenev, N.V. Gogol, V.A. Zhukovski, P.A. Vyazemski đã ủng hộ bằng cách gửi những tác phẩm mới nhất của mình tới cho tạp chí này. Tuy nhiên, độc giả Nga khi đó chưa quen với những bài viết mang tính phê phán hiện thực sâu sắc đã không hưởng ứng tạp chí Người đương thời. Số lượng độc giả quá ít khiến ban biên tập lâm vào tình thế rất khó khăn, họ không có đủ tiền để trang trải cho việc in ấn và thù lao cho cộng tác viên. Hai số cuối của tạp chí có đến quá nửa là sáng tác của Pushkin, phần lớn là để vô danh. Tiểu thuyết Người con gái viên đại úy (Капитанская дочка) chính là được in trên tạp chí này.

Cuối đời

Phu nhân của Pushkin - Natalia Goncharova là một phụ nữ đẹp và sang trọng vì vậy luôn có nhiều người ái mộ, trong số đó có cả Sa hoàng Nikolai I. Trong khi Pushkin, do nguồn gốc châu Phi, lại có một bề ngoài không mấy bắt mắt. Điều này làm cho Puskin rất khó chịu và không ít lần cảm thấy bực bội. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d'Anthès, một sĩ quan kị binh trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – ngày 10 tháng 2 năm 1837 (29 tháng một trong lịch Julian). Bộ phim Pushkin. Ngày quyết đấu công chiếu năm 2006 của đạo diễn Natalya Bondarchuk đã tập trung mô tả vụ đấu súng này.


Di sản văn học của thi hào Puskin


Giới phê bình coi nhiều tác phẩm của ông là kiệt tác, chẳng hạn như bài thơ Kỵ sĩ đồng và vở kịch Vị khách bằng đá - câu chuyện về sự sa ngã của Don Juan. Vở kịch ngắn bằng thơ Mozart và Salieri là nguồn truyền cảm hứng cho tác phẩm Amadeus của Peter Shaffer cũng như cung cấp lời nhạc kịch (gần như nguyên văn) cho vở opera Mozart và Salieri của Rimsky-Korsakov. Pushkin cũng nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Cụ thể, Tập truyện về Ivan Petrovich Belkin quá cố, trong đó có truyện "Phát súng", được đón nhận nồng nhiệt. Bản thân Pushkin yêu thích tiểu thuyết thơ Eugene Onegin hơn. Tác phẩm ông dành cả đời để sáng tác này khởi xướng một truyền thống cho các tiểu thuyết vĩ đại Nga: đi theo một vài nhân vật trọng tâm nhưng đa dạng về tông và trọng điểm.

Onegin là một tác phẩm phức tạp, đến mức tuy chỉ dày khoảng 100 trang mà dịch giả Vladimir Nabokov cần đến hai tập sách lớn để có thể truyền tải đầy đủ ý nghĩa sang tiếng Anh. Bởi khó dịch đến vậy, nên thơ của Pushkin vẫn ít quen thuộc với độc giả Anh ngữ. Ngay cả vậy, Pushkin vẫn có sức ảnh hưởng sâu đậm đến các nhà văn phương Tây như Henry James. Truyện Con đầm pích của Pushkin được đưa vào Black Water (Nước đen) - một tuyển tập đồ sộ các truyện ngắn của nhiều tác giả lớn, do Alberto Manguel biên soạn.

Trứ tác Pushkin cung cấp một mảnh đất màu mỡ cho các nhà soạn nhạc Nga. Ruslan và Lyudmila của Glinka là một trong những vở opera quan trọng đầu tiên chịu nhận cảm hứng từ Pushkin, đó là một cột một trong truyền thống âm nhạc Nga. Các vở opera Eugene Onegin (1879) và Con đầm pích (La Dame de Pique, 1890) của Tchaikovsky nổi tiếng ở nước ngoài hơn cả chính tác phẩm nguyên tác của Pushkin. Vở Boris Godunov đồ sộ của Mussorgsky (hai phiên bản, 1868-9 và 1871-2) nằm trong số những vở opera nguyên bản nhất và đặc sắc nhất của Nga. Một số vở opera Nga khác dựng dựa trên các tác phẩm của Pushkin bao gồm Rusalka và Vị khách bằng đá của Dargomyzhsky; Mozart và Salieri, Câu chuyện về vua Saltan và Con gà trống vàng của Rimsky-Korsakov; Tù nhân Caucasus, Yến tiệc trong thời bệnh dịch và Con gái viên đại úy của César Cui; Mazeppa của Tchaikovsky; các vở opera một hồi Aleko (dựa trên tác phẩm Người Gypsy) và Hiệp sĩ hà tiện của Rachmaninoff; Mavra của Stravinsky; Dubrovsky của Nápravník.

Không chỉ vậy, nhiều vở ba lê, cantata cũng như vô số bài hát, ra đời dựa theo thơ của Pushkin (bao gồm cả các bài thơ tiếng Pháp của Pushkin, thể hiện trong tập bài hát "Caprice étrange" của Isabelle Aboulker). Suppé, Leoncavallo và Malipiero cũng sáng tác opera dựa trên trước tác của Pushkin. The Desire of Glory, which has been dedicated to Elizaveta Vorontsova, was set to music by David Tukhmanov (Vitold Petrovsky – The Desire of Glory on YouTube), as well as Keep Me, Mine Talisman – by Alexander Barykin (Alexander Barykin – Keep Me, Mine Talisman on YouTube) and later by Tukhmanov.

Pushkin được coi là đại diện chính chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Nga. Các nhà phê bình Nga từ lâu cho rằng tác phẩm của ông đại diện cho một con đường từ trường phái Tân cổ điển, đi qua trường phái Lãng mạn để tới trường phái Hiện thực. Một đánh giá khác cho rằng "ông có khả năng tán thành những điều trái ngược mà về nguồn gốc có vẻ như thuộc về phái Lãng mạn, nhưng cuối cùng lại phá vỡ tất cả những quan điểm cố định, tất cả những cách nhìn riêng, bao gồm cả Trường phái Lãng mạn" và rằng "ông vừa là người theo phái Lãng mạn, lại vừa không phải".

Theo Vladimir Nabokov, thi pháp Pushkin tổng hòa tất cả yếu tố tiếng Nga thời bấy giờ, kết hợp với những điều ông học từ Derzhavin, Zhukovsky, Batyushkov, Karamzin and Krylov.

Giọng thơ và siêu hình vẫn còn tồn tại ở dạng ngôn ngữ Slav Nhà thờ và thành ngữ.
Từ mượn từ tiếng Pháp rất phong phú và tự nhiên
Thành ngữ thông tục sử dụng trong cuộc sống thường ngay theo phong cách riêng của ông
Cách nói bình dân được cách điệu hóa, bằng cách tạo nên một hỗn hợp của ba phong cách nổi tiếng (thấp, trung bình và cao) thân thuộc với từ cổ kinh điển giả hiệu và bổ sung thêm một nhúm thơ nhại cho trường phái lãng mạn Nga.

Pushkin có công rất lớn trong sự phát triển của văn học Nga. Ông đã xây dựng mức độ sắc thái ngôn ngữ cao độ mà về sau trở thành đặc trưng của văn học Nga sau thời Pushkin. Ông cũng là người nâng tầm kho từ vựng tiếng Nga lên đáng kể. Bất cứ khi nào Pushkin nhận thấy lỗ hổng trong từ vựng tiếng Nga, ông liền áp dụng cách dịch sao phỏng. Kho từ vựng dồi dào cùng phong cách vô cùng nhạy cảm của Pushkin đã trở thành nền tảng của văn học Nga hiện đại. Thành tự của ông đặt một cột mốc mới cho sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa Nga. Ông chính là cha đẻ của văn học Nga thế kỷ 19, ghi dấu đỉnh cao sự nghiệp vào thế kỷ 18 và khởi xướng sự tiến triển của văn học thế kỷ 19. Ông giúp nước Nga làm quen với các thể loại văn học phương Tây cũng như với những nhà văn Tây Âu. Ông dùng cách biểu đạt tự nhiên và ảnh hưởng ngoại quốc để tạo nên nền thơ ca Nga hiện đại. Dù cuộc đời ngắn ngủi, ông vẫn kịp để lại tác phẩm mẫu cho gần như mọi thể loại tồn tại lúc bây giờ: thơ trữ tình, thơ tự sự, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, nghị luận phê bình và còn cả thư cá nhân.

Với tư cách là nhà phê bình và nhà báo, tác phẩm của ông đánh dấu sự ra đời của nền báo chí Nga, trong đó phải nhắc tới công sức sáng lập và dày công đóng góp cho một trong số những tạp chí văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất thế kỷ 19, tờ Sovremennik (Современник, Người đương thời). Pushkin truyền nguồn cảm hứng cho truyện dân gian và thể loại của nhiều tác giả khác như Leskov, Yesenin và Gorky. Cách ông sử dụng tiếng Nga hình thành nên phong cách nền tảng của nhiều tiểu thuyết gia lớn như Ivan Turgenev, Ivan Goncharov và Leo Tolstoy, cũng như của các thi sĩ trữ tình đời sau như Mikhail Lermontov. Tác phẩm của Pushkin được học trò và người kế tục sự nghiệp của ông, Nikolai Gogol, cùng nhà phê bình vĩ đại người Nga Vissarion Belinsky, chú tâm phân tích. Belinsky cũng hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc nhất, toàn diện nhất, nhưng vẫn vô cùng xác đáng về các trước tác của Pushkin.

Nguồn WIKI
-------
Vào những năm 1830, Puskin soạn cuốn tiểu thuyết về ngoại tổ phụ Abram Petrovich Gannibal, có nhan đề là Người nô lệ da đen của Pyotr đại đế. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết này đã không được hoàn thành vì ông bất ngờ tạ thế sau vụ đọ súng với Georges d'Anthes.

Lyceum hoàng gia là trường dành cho các ấm sinh quý tộc Nga từ cấp tiểu học cho tới trung học; học sinh theo học Lyceum thường có độ tuổi từ 8 tới 17.

Yevgeny Onegin là trứ tác dài nhất và nổi tiếng nhất của Puskin. Ông đã dày công viết trong gần tám năm (1823-1830). Sau Pyotr Tchaikovsky đã chuyển thể vở opera cùng tên.
 
Từ khóa Từ khóa
nga nha tho pushkin puskin tôi yêu em văn học
1K
0
4
Trả lời
Я вас любил

Я вас любил: любовь еще, быть может,
В душе моей угасла не совсем;
Но пусть она вас больше не тревожит;
Я не хочу печалить вас ничем.

Я вас любил безмолвно, безнадежно,
То робостью, то ревностью томим;
Я вас любил так искренно, так нежно,
Как дай вам бог любимой быть другим.

Tôi yêu em

Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;
Nhưng không để em bận lòng thêm chút nữa,
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài.

Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.


Bản dịch của Thúy Toàn
 
Что в имени тебе моем?

Что в имени тебе моем?
Оно умрет, как шум печальный
Волны, плеснувшей в берег дальний,
Как звук ночной в лесу глухом.

Оно на памятном листке
Оставит мертвый след, подобный
Узору надписи надгробной
На непонятном языке.

Что в нем? Забытое давно
В волненьях новых и мятежных,
Твоей душе не даст оно
Воспоминаний чистых, нежных.

Но в день печали, в тишине,
Произнеси его тоскуя;
Скажи: есть память обо мне,
Есть в мире сердце, где живу я...

Còn lại gì cho em

Còn lại gì cho em trong tên gọi
Sẽ chết đi như tiếng dội buồn thương
Của ngọn sóng vỗ bờ xa mòn mỏi
Như rừng sâu tiếng vọng giữa đêm trường.

Cái tên gọi trong những dòng lưu bút
Để lại cho em dấu chết, tựa như
Lời ai điếu giữa những viền hoạ tiết
Mà lời văn nghe u ẩn, mịt mù.

Cái tên gọi đã từ lâu quên lãng
Trong những cơn xúc động mới cuồng điên
Chẳng hề gợi trong hồn em một thoáng
Hoài niệm xưa bao tha thiết êm đềm.

Nhưng nếu gặp ngày âm thầm đau đớn
Phút u buồn xin em hãy gọi tên
Và hãy nói: vẫn còn đây kỷ niệm
Em vẫn còn sống giữa một trái tim.


Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng
 
Mon portrait

Vous me demandez mon portrait,
Mais peint d’après nature;
Mon cher, il sera bientôt fait,
Quoique en miniature.

Je suis un jeune polisson,
Encore dans les classes;
Point sot, je le dis sans façon
Et sans fades grimaces.

Onc il ne fut de babillard,
Ni docteur en Sorbonne —
Plus ennuyeux et plus braillard.
Que moi-même en personne.

Ma taille à celles des plus longs
Ne peut être égalée;
J’ai le teint frais, les cheveux blonds
Et le tête bouclée.

J’aime et le monde et son fracas,
Je hais la solitude;
J’abhorre et noises, et débats,
Et tant soit peu l'étude.

Spectacles, bals me plaisent fort
Et d’après ma pensée,
Je dirais ce que j’aime encor…
Si n'étais au Lycée.

Après cela, mon cher ami,
L’on peut me reconnaître:
Oui! tel que le bon dieu me fit,
Je veux toujours paraître.

Vrai démon pour l’espièglerie,
Vrai singe par sa mine,
Beaucoup et trop d'étourderie.
Ma foi, voila Pouchkine.


Chân dung của tôi

Bạn yêu cầu bức chân dung của tôi
Mà cần vẽ chính xác như vốn có
Nó sẽ được vẽ nhanh thôi, bạn ạ
Mặc dù đây là tiểu phẩm mà thôi.

Tôi vốn kẻ chơi bời, xin nói thật
Từ những khi còn trên ghế nhà trường
Và tôi cũng xin nói rất thật lòng
Tôi cũng là kẻ không hề dại dột.

Và cũng chẳng hề ba hoa mách lẻo
Rằng ta đây là tiến sĩ Xoóc-bon
Nhưng chẳng có ai người chán ngấy hơn
Là bản chất của tôi như vốn có.

Về chiều cao, so với kẻ cao ngồng
Thì có lẽ chắc gì tôi sánh nổi
Gương mặt tôi nét trẻ trung tươi rói
Mái tóc xoăn và tóc có màu hung.

Tôi vốn yêu cuộc đời, thích đám đông
Sự cô đơn – tôi vô cùng căm ghét
Ghét tranh luận, cãi lộn, và nói thật
Tôi cũng không thích gì chuyện học hành.

Nhảy nhót, diễn kịch – tôi mê vô cùng
Và nếu phải nói một cách chân thật
Thì tôi sẽ nói rằng tôi thích nhất
Là giá như đã không học ở trường.

Theo những điều như thế, bạn mến thương
Bạn có thể biết về tôi cặn kẽ
Tôi được tạo bằng bàn tay của Chúa
Nên tôi muốn là như thế thường xuyên.

Điệu bộ có phần giống quỉ, ngông nghênh
Và gương mặt có phần nào giống khỉ
Thêm vào đó một chút cuồng thi sĩ
Thế là chân dung cho bạn – Pushkin.



Bản dịch của Hồ Thượng Tuy
 
Я памятник себе воздвиг нерукотворный...


Exegi monumentum.


Я памятник себе воздвиг нерукотворный,
К нему не зарастет народная тропа,
Вознесся выше он главою непокорной
Александрийского столпа.

Нет, весь я не умру — душа в заветной лире
Мой прах переживет и тленья убежит —
И славен буду я, доколь в подлунном мире
Жив будет хоть один пиит.

Слух обо мне пройдет по всей Руси великой,
И назовет меня всяк сущий в ней язык,
И гордый внук славян, и финн, и ныне дикой
Тунгус, и друг степей калмык.

И долго буду тем любезен я народу,
Что чувства добрые я лирой пробуждал,
Что в мой жестокий век восславил я свободу
И милость к падшим призывал.

Веленью божию, о муза, будь послушна,
Обиды не страшась, не требуя венца;
Хвалу и клевету приемли равнодушно,
И не оспоривай глупца.


Tôi dựng tượng cho mình


Exegi monumentum[11]


Tôi sẽ dựng cho mình một bức tượng tự nhiên
Mà sẽ không cần đến những đoàn dân chúng
Bức tượng này bằng cái đầu kiêu hãnh
Cao hơn cả cột đá Aleksandr.[12]

Không, tôi không chết – hồn trong thơ kín thầm
Tro của tôi sẽ sống qua và phù vân chạy trốn
Và tôi sẽ vinh quang cho đến một khi còn sống
Dù chỉ một nhà thơ ở cõi trần gian.

Tin về tôi sẽ bay khắp nước Nga rộng mênh mông
Người ta sẽ gọi tên tôi bằng biết bao ngôn ngữ
Người Slavơ, người Phần Lan và dù còn hoang dã
Người Tungus, người Kalmyk – bạn của thảo nguyên.

Sẽ mãi còn đây lòng yêu mến của nhân dân
Bằng thơ ca tôi đã từng thức dậy điều tốt đẹp
Đã ca ngợi tự do trong thế kỷ đầy khắc nghiệt
Và đã gọi ban ơn cho những kẻ khốn cùng.

Nàng thơ hãy biết nghe theo lời của Chúa răn
Đừng sợ chi giận hờn, đừng đòi chi vương miện
Hờ hững trước lời khen hoặc trước điều vu khống
Chớ đôi co với những kẻ ngu đần.


Bản dịch của Phan Cẩm Thịnh
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.