Bản chất và chức năng của ngôn ngữ

Bản chất của ngôn ngữ là gì? Nó có chức năng như thế nào và khi dạy học về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng chúng ta cần lưu ý và chú trọng điều gì? Cùng xem bài viết dưới đây:

I. Bản chất của ngôn ngữ​

1. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội​

- Ngôn ngữ ra đời c ng với sự phát triển lịch sử loài người. Ngôn ngữ có từ lịch sử xa xưa. Ngôn ngữ gắn bó với đời sống con người và là phương tiện giao tiếp quan trọng. Không có ngôn ngữ không thể có xã hội loài người và ngược lại. Về mặt lịch sử, con người sử dụng ngôn ngữ từ thời cổ xưa. Ngôn ngữ cùng lao động, tư duy là nhân tố tạo nên con người. Cho đến bây giờ, ngôn ngữ luôn gắn bó mật thiết với con người và xã hội loài người.
- Ngôn ngữ là hệ thống các đơn vị ngôn ngữ c ng những quy tắc kết hợp các đơn vị ngôn ngữ ấy. Một cách tiếp cận ngôn ngữ nữa là: bản chất xã hội của ngôn ngữ.

1.1. Ngôn ngữ không phải là hiện tượng tự nhiên​

- Hiện tượng tự nhiên: VD mưa, bão, động đất, sóng thần, cầu vồng, núi lửa… Các hiện tượng tự nhiên tự nảy sinh, tồn tại, phát triển và tiêu hủy như tự nhiên, không phụ thuộc vào con người.
- Ngôn ngữ do con người quy ước, nó không tự nảy sinh, phát triển như hiện tượng tự nhiên, nó phụ thuộc vào ý thức của con người. Do ảnh hưởng của thuyết tiến hóa Đác-uyn, cho rằng: ngôn ngữ tự hình thành và từ tiêu hủy như tiếng Tiên Ly (Trung Quốc), tiếng Phạn (một số từ cũ không dùng và tiêu hủy, từ mới xuất hiện. Đó chưa phải cơ sở khẳng định sự phát triển mang tính tự nhiên của ngôn ngữ). Ngôn ngữ luôn mang tính kế thừa và phát triển, cái cũ vẫn còn in dấu tích trong ngôn ngữ hiện đại.

1.2. Ngôn ngữ cũng không phải là một hiện tượng sinh vật​

a) Ngôn ngữ không mang tính bẩm sinh​

- Con người sinh ra đã có bản năng: đi, ngồi, chạy…đó là chức năng sinh học trong bản thể của con người không phụ thuộc vào môi trường và hoàn cảnh sống.
- Ngôn ngữ không phải bẩm sinh. Tuy nhiên, con người có các cơ quan bẩm sinh liên quan đến phát âm: khoang phát âm như mũi, răng, môi..., cơ quan hô hấp, trung ương thần kinh. Nhưng không thể coi đó là cơ sở để hiểu tính bẩm sinh của ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ là kết quả của sự học hỏi, bắt chước, tiếp xúc xã hội, với mọi người xung quanh.
VD1: Đứa trẻ sinh ra VN, nhưng lớn lên ở Nga, tiếp xúc người Nga sẽ nói tiếng Nga.
VD2: Đức trẻ sinh ra mà sống cách biệt Xã hội loài người thì sữ không biết nói tiếng người (không biết ngôn ngữ)
VD3: Trong tác phẩm “Hòn đảo bí mật” của nhà văn J.Vecnơ (1828- 1903) kể lại câu chuyện chàng Ayrơtôn bị bỏ hoang ngoài đảo vì bị trừng phạt và không nói được, mất khả năng tư duy. Sau trở về xã hội loài người mới dần hồi phục.
VD4: Năm 1920, ở Ấn Độ, người ta tìm được 2 em bé gái ở hang sói trong rừng. Bằng khoa học và xác định được rằng em lớn 8 tuổi, em bé 2 tuổi. Cả 2 đều không biết nói tiếng người. Sau đó, em nhỏ bị chết. Em lớn gần với con người như lại có tập tục giống như của chó sói. Sau 3 năm mới bập bẹ tiếng nói đầu tiên. Năm 16 tuổi mới nói như đứa trẻ lên 4.
VD5: Bằng thực nghiệm: theo nhà sử học Hêđôrôt, hoàng đế Zêlan Utđin Acba đã cho bắt cóc một số trẻ em sơ sinh thuộc nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau, rồi đem nuôi thoát ly XH loài người trong một tháp kín, không ai được đến gần, cho ăn qua một đường dây...12 năm sau, khi mở tháp, những đứa trẻ lớn lên bình thường nhưng chúng không có biểu hiện gì về ngôn ngữ, tôn giáo và tín ngưỡng. Xem xét ngôn ngữ trẻ mới tập nói bập bẹ nhưng âm thanh đầu tiên không coi là hiện tượng bẩm sinh của ngôn ngữ. Các âm trẻ dễ nói phần lớn là phụ âm môi. Các âm giống nhau nhưng ở mỗi ngôn ngữ có nghĩa khác nhau. Ví dụ mama (tiếng Nga là “mẹ”, tiếng Grudia nghĩa là “bố”), tiếng papa (tiếng Nga là “bố”, tiếng Thổ Nhĩ Kì nghĩa là “cô gái”)…

b) Ngôn ngữ không mang tính di truyền `​

Con người sinh ra có đặc điểm về bẩm sinh hay di truyền như: đi, ngồi, màu da, tỉ lệ thân thể (người châu Âu thường cao hơn, da trắng còn người Việt Nam thấp hơn và da vàng, tóc đen).
Ngôn ngữ không mang tính di truyền. Con người sinh ra nếu không có giao tiếp với người khác, với xã hội thì không bao giờ có ngôn ngữ.

c) Ngôn ngữ không đồng nhất với tiếng kêu của động vật​

Động vật d ng tiếng kêu để thông báo theo bầy đàn báo hiệu sự nguy hiểm hay gọi nhau như: tiếng gà mẹ kêu cục cục gọi đàn con, tiếng gáy của gà là đặc trưng của nó, tiếng chó sủa …. Âm thanh ngôn ngữ khác âm thanh (tiếng kêu) của một số động vật. Một số con vật nói được tiếng người (sáo, vẹt, yểng...) đó là kết quả quá trình rèn luyện phản xạ không hoặc có điều kiện của một số loài động vật đó. Ngôn ngữ là sản phẩm của loài người do con người quy ước gắn liền tư duy, suy đoán của con người nên không thể đồng nhất ngôn ngữ với tiếng kêu động vật.

1.3. Ngôn ngữ không mang tính cá nhân​

Ngôn ngữ có tính xã hội là sản phẩm của một dân tộc nên có tính chất chung. Còn lời nói là sản phẩm riêng của mỗi cá nhân, có tính cụ thể được tạo ra trên cơ sở cái cái chung của ngôn ngữ. Vì thế, con người mới có thể giao tiếp với nhau được. Vì thế ngôn ngữ mang tính chất chung, ph biến mà mọi người trong cộng đồng s dụng ngôn ngữ đó phải tuân theo. Ngôn ngữ không của riêng ai. Ngôn ngữ là sản phẩm của cộng đồng, 1 xã hội. Nó là sự quy ước của cộng đồng. Vì thế, ngôn ngữ mang bản sắc và phong cách của từng cộng đồng, từng dân tộc. Cá nhân có thể có phong cách ngôn ngữ riêng, sáng tạo riêng trên cơ sở tuân thủ những quy ước chung của Xã hội. Cá nhân không thể tự mình thay đổi ngôn ngữ của xã hội.
VD phong cách thơ Tố Hữu, phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”...

1.4. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội​

Hiện tượng xã hội: như cưới xin, nhà trường, gia đình... tồn tại, phát triển và tiêu hủy phụ thuộc vào con người. Ngôn ngữ có tính quy ước, là công cụ con người giao tiếp, trao đ i tư tưởng tình cảm với nhau. Có ngôn ngữ thì xã hội con người mới tồn tại. Ngôn ngữ đứng ngoài xã hội, ngôn ngữ không tồn tại. Mác và Ăng ghen cũng khẳng định: ngôn ngữ chỉ nảy sinh do nhu cầu con người giao tiếp với nhau.
VD: Những đứa trẻ, sau khi lọt lòng mẹ phải sống cách biệt với xã hội loài người thì không thể biết đến giao tiếp bằng ngôn ngữ.
* Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội, vì:
+ Ngôn ngữ chỉ nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội loài người và phụ thuộc vào xã hội.
+ Ngôn ngữ phục vụ cho toàn thể xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp.
+ Ngôn ngữ mang bản sắc của từng cộng đồng xã hội (thể hiện ý thức xã hội) + Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong quá trình phát triển, cùng với những biến đổi của xã hội, ngôn ngữ có sự chuyển hóa và biến đổi tiếp thu cái mới như: từ mới, nghĩa mới để hoàn thiện hơn. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội là mối quan hệ qua lại. Xã hội phát triển và tồn tại nhờ ngôn ngữ và ngược lại. Nhờ ngôn ngữ, con người giao lưu với nhau và tự hoàn thiện bản thân. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội: là công cụ điều hành, quản lí, tổ chức, phân phối hàng hóa và mọi mặt của đời sống, ban hành văn bản, phát lệnh nhà nước để mọi người tuân theo. Vậy, ngôn ngữ không thể tồn tại ngoài xã hội. Ngược lại, không có môi trường xã hội thì ngôn ngữ không thể nảy sinh và phát triển.
2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt
- Ngôn ngữ có mối quan hệ với hiện tượng xã hội khác như: kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng theo chủ nghĩa Mác- Lê nin. Cơ sở hạ tầng là: toàn bộ quan hệ sản xuất của một xã hội ở một giai đoạn phát triển nào đó. Kiến trúc thượng tầng: Là những quan điểm về chính trị, phát quyền, tôn giáo, nghệ thuật…của xã hội và các tổ chức xã hội tương ứng với cơ sở hạ tầng.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, vì: Ngôn ngữ không phụ thuộc vào kiến trúc thượng tầng của riêng 1 xã hội nào. Khi cơ sở hạ tầng hay kiến trúc thượng tầng bị phá vỡ thì ngôn ngữ không hề thay đổi. Mỗi kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của một cơ sở hạ tầng. Khi cơ sở hạ tầng bị tiêu hủy thì kiến trúc thượng tầng cũng bị phá vỡ. Thay vào đó là kiến trúc thượng tầng và Cơ sở hạ tầng mới nhưng ngôn ngữ không thể thay đổi. Ngôn ngữ chỉ có thể biến đổi liên tục chứ không tạo ra ngôn ngữ mới. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ Marr đã đồng nhất phát triển ngôn ngữ với phát triển hình thái kinh tế. Điều này không có cơ sở vì ngôn ngữ không thuộc cơ sở hạ tầng.
- Ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Các giai cấp trong xã hội đều dùng chung 1 ngôn ngữ theo lợi ích riêng của họ. Theo “Học thuyết mới về ngôn ngữ” của Marr cho rằng ngôn ngữ có tính giai cấp. Điều này hoàn toàn không đúng. Vì ngôn ngữ ra đời cùng với xã hội loài người. Khi xã hội phân chia giai cấp thì có đấu tranh giai cấp nhưng không phải để phân biệt ngôn ngữ. Các giai cấp vẫn sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Chỉ có các tiếng lóng, biệt ngữ xuất hiện dùng trong giai tầng nhất định trong xã hội. Giai cấp quý tộc, tư sản dùng ngôn ngữ tỏ ra địa vị cao sang đối lập ngôn ngữ nhân dân lao động dùng dân dã, giản dị.

3. Ngôn ngữ có bản chất văn hóa​

3.1. Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc​

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người được s dụng nhiều nhất trong các phương tiện giao tiếp. Ngôn ngữ tiếp xúc văn hóa và ngôn ngữ bản địa hay ngoại lai. Mỗi dân tộc đều có nền văn hóa đặc trưng. Ngôn ngữ chính là phương tiện phản ánh, ghi lại văn hóa của quốc gia. Đặc biệt kho từ vựng là lớp từ biểu hiện đặc trưng nền văn hóa của mỗi dân tộc với phong tục, tập quán riêng.
Ví dụ, Nhật Bản là nước phát triển lúa nước nên có lễ hội cùng với sự xuất hiện cụm từ gọi tên l hội đó: Lễ cầu mùa (Kigasai), lễ cầu lúa mùa thu (Ninamesai), hội làm ruộng (Taasobi), hội cơm mới (Gohanshiki)…và không có các nước phát triển công nghiệp. Việt Nam có các từ thúng, cày, bừa, gặt, giần, sàng, nong, nia…gắn với nhà nông. Đặc biệt, ngôn ngữ là công cụ sáng tác văn học và tiếp thu nền văn hóa dân tộc trong mỗi thời kì lịch sử. Văn học là tấm gương phản chiếu lịch sử. Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Nên ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu văn hóa, văn học mỗi dân tộc.

3.2. Ngôn ngữ phản ánh sự giao thoa giữa các nền văn hóa​

Các ngôn ngữ trong khu vực có sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau mặc dù không cùng nguồn gốc. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khẳng định rằng các ngôn ngữ không cùng ngồn gốc hay loại hình ngôn ngữ nhưng vẫn có một số yếu tố ngôn ngữ gần nhau. Đó là kết quả của quá trình tiếp xúc văn hóa trong khu vực. Ví dụ ngôn ngữ các nước Hi Lạp, Bungari, Rumani… Do tính chất xâm lược và bành trướng nên các nước bị xâm lược ít nhiều chịu ảnh hưởng ngôn ngữ các nước đi xâm lược hoặc bành trướng nên tạo ra giao thoa ngôn ngữ và văn hóa. Ví dụ Việt Nam ngôn ngữ tiếp xúc tiếng Hán (do bị hàng nghìn năm Bắc thuộc), vay mượn tiếng Pháp (thời Pháp thuộc). Tiếng Việt không vì lẽ đó mà bị tiêu hủy. Đó là kết quả của sự giao thoa chọn lọc làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc. Hệ thống từ vựng tiếng Việt phong phú, đa dạng. Cùng chỉ một Sự Vật Hiện Tượng với từ đất nước tiếng Việt có thể dùng các từ khác như: giang sơn, xã tắc, quốc gia, tổ quốc, sơn hà.. Từ trăng có từ Hán Việt: nguyệt
Sự tiếp xúc giao lưu các ngôn ngữ khác nhau theo con đường tự nguyện, hòa bình khi có sự giao lưu giữa các dân tộc về chính trị- kinh tế- văn hóa- Xã Hội. Tiếng Việt có lớp từ vay mượn tiếng Nga (bôn sê vich, Xô Viết) , tiếng Anh (ten nit, mít tinh, căng tin...), tiếng Pháp (moa – toa/ bạn – tôi)
Kết quả:
1. Các ngôn ngữ có sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau về Ngữ Âm-Từ Vựng -Ngữ Pháp - Phong Cách ngôn ngữ...để làm phong phú ngôn ngữ dân tộc hoặc cũng có thể làm cho ngôn ngữ dân tộc bị lai căng, thậm chí tiêu vong.
2. Khi có sự thâm nhập, ngôn ngữ dân tộc có sự biến đ i về Ngữ Âm-Từ Vựng -Ngữ Pháp - Phong Cách phù hợp với dân tộc đó, thích ứng nhu cầu giao tiếp và TD.
3. Hình thức: vay mượn yếu tố ngôn ngữ khác (VD cac bon, ping pông, cà phê, bôn sê vich, vằn thắn, ...); Sao phỏng: cửu trùng - chín l n hồng nhan - má hồng...

3.3. Đặc điểm của ngôn từ tiếng Việt và sự phản ánh văn hóa của người Việt Nam​

Theo Trần Ngọc Thêm (nhà NC ngôn ngữ) cho rằng: có 2 loại hình văn hóa. Văn hóa trọng tĩnh (gốc nông nghiệp, đặc trưng là trồng trọt, thiên nhiên, trọng tình, trọng nghĩa...các nước phương Đông).
Văn hóa trọng động (gốc du mục, đặc trưng là chăn nuôi, du cư, trọng tài, trọng võ... như các nước phương Tây). Việt Nam thuộc văn hóa trọng tĩnh mang nên ngôn ngữ mang đặc trưng cụ thể sau:

a) Hệ thống từ xưng hô rất phong phú.​

So sánh cách xưng hô với ngôn ngữ khác: tiếng Việt d ng đại từ xưng hô có nhiều biến thể có ông, bà, bố, mẹ, anh trai, em trai, chị gái, em gái, cô ấy, cô, gì, chú, bác…Cách xưng hô của người Việt biểu hiện 3 đặc điểm văn hóa của người Việt:
- Có tính thân mật, trọng tình cảm, coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng.
- Có tính xã hội hóa, cộng đồng hóa cao, trong hệ thống từ xưng hô không có cái tôi chung chung. Quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội. Ví dụ các xưng hô chú – con / chú cháu là một t hợp của 2 quan hệ của 2 người.
- Thể hiện tính kĩ lưỡng: xưng khiêm – hô tôn theo tính chất coi trọng, đề cao nhau hoặc tục “phạm húy” tránh khiêng tên riêng. Tiếng Việt trọng về tình cảm nên trong cách cảm ơn hay xin lỗi cũng dùng nhiều từ ngữ tùy theo từng hoàn cảnh giao tiếp hoặc lời chào

b) Đặc trưng văn hóa Việt Nam qua ngôn ngữ​

- Ngôn từ có tính biểu tượng cao bên cạnh tính quy ước và tính võ đoán của ngôn ngữ nên tiếng Việt có tính biểu tượng, biểu cảm cao trong cách diễn đạt.
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê

Ba thu: chỉ 3 m a thu, ba năm. Câu này do câu trong Kinh thi “nhất nhật bất kiến như tam thự hề” (một ngày không thấy nhau xem lâu như 3 năm); ba thu là cách chỉ thời gian ước lệ.
VD: Xuân: mùa xuân, tuổi xuân, sức xuân, nàng xuân (cô gái trẻ), xuân (năm)…
- Lối diễn đạt cân đối, nhịp nhành trong sử dụng ngôn từ, đặc biệt thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam do ảnh hưởng lối tư duy tổng hợp, lối sống kinh tế nông nghiệp cha ông ta để lại trong kho tàng văn học dân gian.
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Nhất bên trọng, nhất bên khinh
- Dậu đổ bìm leo
- Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.

- Sản phẩm của nền văn học trọng tình cảm nên trong cách dùng ngôn từ, tiếng Việt có lớp từ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt, lớp từ khá phong phú đa dạng cho sự lựa chọn s dụng để đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất. Ví dụ như các tính từ chỉ ý nghĩa mức độ tuyệt đối: xanh lè, xanh ngắt, xanh um,…trắng bạch, trắng phau, trắng tinh,…các từ tình thái như ôi, chao ôi, nhỉ, nhé…

II. Chức năng của ngôn ngữ​

1. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người​

1.1. Các phương tiện giao tiếp​

Trong cuộc sống, con người thường có nhu giao tiếp để trao đổi tư tưởng, tình cảm, thông tin... với nhau. Một số phương tiện con người dùng để giao tiếp như: cái vẫy tay, c chỉ, điệu bộ, tiếng trống, tiếng chuông, hệ thống đèn giao thông…sử dụng các kí hiệu giao tiếp như kí hiệu khoa học trong hóa học, những bức tranh nghệ thuật, điêu khắc, âm nhạc, kịch…gửi tới con người những thông điệp nhất định. Trong đó ngôn ngữ được con người sử dụng làm phương tiện giao tiếp thường xuyên và nhiều nhất.
1.2. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
a) Giao tiếp – các chức năng của giao tiếp
Trong cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giao tiếp để trao đổi tư tưởng, tình cảm, thông tin... với nhau. Trong các phương tiện để thực hiện giao tiếp, ngôn ngữ là phương tiện được sử dụng nhiều nhất và thường xuyên nhất. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ diễn ra giữa hai người trở lên và có vai trò quan trọng trong sự tổ chức và phát triển xã hội.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ có 2 dạng: nói – nghe; đọc – viết và có những chức năng cơ bản sau:
- Chức năng thông tin: Là hiện thực được nói đến trong giao tiếp để những người tham gia giao tiếp thông báo với nhau (gọi là chức năng thông báo).
- Chức năng tạo lập các quan hệ: bên cạnh nội dung thông báo, cuộc giao tiếp tạo được mối quan hệ giữa những người tham gia giao tiếp.
- Chức năng giải trí: ngôn ngữ là phương tiện con người trò chuyện với nhau, tạo giây phút nghỉ ngơi, gải trí
- Chức năng tự biểu hiện: Qua giao tiếp bằng ngôn ngữ, con người tự biểu hiện mình: tình cảm, sở thích, khuynh hướng, trạng thái…
+ Chức năng thông tin:
+ Chức năng tạo lập các quan hệ:
+ Chức năng giải trí:
+ Chức năng tự biểu hiện:

b) Các nhân tố giao tiếp​

Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ được thực hiện bao gồm các nhân tố sau: Nhân vật tham gia giao tiếp: người nói (người viết); người nghe (người đọc); mục đích giao tiếp; hoàn cảnh giao tiếp: rộng/ hẹp; thời gian giao tiếp; cách thức giao tiếp: chữ/ lời (ngôn ngữ nói hay viết); nội dung giao tiếp: là hiện thực được nói đến…
b1) Nhân vật giao tiếp: là người tham gia vào hoạt động giao tiếp, gồm 2 tuyến nhân vật tham gia:
+ Người phát: xác định mục đích và lựa chọn nội dung, xác định mối quan hệ, cách thức giao tiếp…
+ Người nhận: hiểu nội dung người phát nói về cái gì? Điều đó có ý nghĩa với bản thân không? Giữa người phát và người nhận thiết lập mối quan hệ theo vị thế, tuổi tác, giới tính, cách xưng hô… (gọi là vai giao tiếp).
Hình thức giao tiếp diễn ra 2 loại: độc thoại (đơn thoại) và đối thoại. Trong đối thoại có sự trao lời và đáp lời. Thái độ những người tham gia giao tiếp tích cực hay tiêu cực phụ thuộc nội dung giao tiếp có cần thiết, hấp dẫn không?
b2) Nội dung giao tiếp: là thực tế khách quan được các nhân vật đưa và hoạt động giao tiếp. Hiện thực khách quan vô cùng phong phú và độc lập bên ngoài các nhân vật giao tiếp. Người phát có hiểu biết, lựa chọn những gì mà mình cho là quan trọng đưa vào nội dung giao tiếp. Người nhận cũng cần có trình độ hiểu biết nhất định để hiểu nội dung của người phát.
b3) Hoàn cảnh giao tiếp: là không gian diễn ra hoạt động giao tiếp. Bao gồm hoàn cảnh rộng (về địa lý, xã hội, lịch sử , kinh tế, chính trị, văn hóa…); hoàn cảnh giao tiếp hẹp (chỉ nơi chốn cụ thể, đặc trưng riêng di n ra hoạt động giao tiếp. Hoàn cảng giao tiếp s gi p người tham gia giao tiếp xác định cách thức giao tiếp.
b4) hương tiện và kênh giao tiếp: Là ngôn ngữ mà các nhân vật tham gia giao tiếp sử dụng. Ngôn ngữ đó được cộng đồng sử dụng theo chuẩn ngôn ngữ đề người đọc và người nghe đều hiểu được. Các yếu tố phi ngôn ngữ được sử dụng và hỗ trợ cho giao tiếp đạt hiệu quả cao nhất. Các kênh giao tiếp khác nhau như kênh âm thanh, kênh thị giác, điện thoại, điện báo… Sản phẩn của hoạt động giao tiếp là ngôn bản dạng nói hay viết, bao gồm:
- Các thành phần của ngôn bản: là các tín hiệu ngôn ngữ kết hợp tạo thành chuỗi lời nói của nhân vật giao tiếp. Ngôn bản gồm 2 phần: hình thức (là các chuỗi yếu tố ngôn ngữ bao gồm cử chỉ, nét mặt, …lời), nội dung (tri thức về tự nhiên, xã hội, tư tưởng, tình cảm,..của người phát. . - Nội dung ngôn bản: Căn cứ quan hệ giữa nhân vật tham gia giao tiếp với nội dung ngôn bản chia thành: Nội dung sự vật: là hiện thực được nói tới, nội dung cá nhân : liên quan đến tư tưởng, tình cảm của người phát thường ở tầng nghĩa hàm ngôn.
b5) Đích và hiệu quả giao tiếp Là ý định, ý đồ mà các nhân vật tham gia giao tiếp đặt ra và hướng tới. Điều này chi phối việc lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, cách thức giao tiếp. Người tham gia giao tiếp luôn đặt câu hỏi: mục đích giao tiếp đạt tới là gì? Mỗi một đích khác nhau, người tham giao giao tiếp lựa chọn cách s dụng từ ngữ cũng khác nhau.
* Tóm lại: Mỗi hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ diễn ra đều xuất phát từ mục đích cụ thể, cuối cùng nhằm đạt hiệu quả giao tiếp như mong muốn. Để tiến hành giao tiếp có nhiều nhân tố tham gia và có MQH ảnh hưởng lẫn nhau;

c) Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, vì:​

Trong cuộc sống, con người thường có nhu giao tiếp, một số phương tiện con người dùng để giao tiếp như: cái vẫy tay, cử chỉ, điệu bộ, tiếng trống, tiếng chuông, hệ thống đèn giao thông…trong đó có ngôn ngữ.
- Con người luôn có nhu cầu giao tiếp để trao đ i tư tưởng, tình cảm, thông tin... với nhau. Giao tiếp bằng ngôn ngữ có 2 dạng cơ bản: nói/nghe; viết/ đọc. Trong đó ngôn ngữ là phương tiện:
  • . Xét về lịch sử : có lịch sử lâu đời ra đời cùng với con người và XH loài người.
  • . Xét về không gian và phạm vi hoạt động: mọi nơi, thuộc các lĩnh vực khác nhau.
  • . Xét về khả năng: trao đổi nội dung thông tin sâu sắc, tế nhị nhất; chỉ có ngôn ngữ mới có khả năng diễn dạt tâm tư, suy nghĩ...của con người mà các phương tiện giao tiếp không biểu đạt hết. Đặc biệt, trong văn chương, nhờ ngôn ngữ, con người thể hiện bức tranh hiện thực cuộc sống, quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan của mình và lưu gữi cho thế hệ mai sau.
  • . Nhờ ngôn ngữ, con người thống nhất những quy ước cho các phương tiện giao tiếp khác. Con người s dụng chữ viết, các tín hiệu công thức trong KH kĩ thuật đã chứng minh điều đó.
  • . Nhờ giao tiếp bằng ngôn ngữ là điều kiện làm cho ngôn ngữ hình thành và phát triển. Xét tính lợi ích của giao tiếp bằng ngôn ngữ bao gồm 3 mặt sau:
- Tính tiện lợi: cao nhất so với các phương tiện giao tiếp khác
- Tính hiệu quả: đem lại hiệu quả cao nhất, nhanh nhất, sâu sắc nhất so với các phương tiện giao tiếp như kí hiệu, âm nhạc, điêu khắc, …Ngôn ngư còn là phương tiện để con người quy ước và hiểu các phương tiện giao tiếp khác.
- Tính phổ thông, phổ cập và đa dụng: Ngôn ngữ không phân biệt địa vị, tuổi tác…mọi người trong cộng đồng cùng sử dụng ngôn ngữ chung được thống nhất trong cộng đồng để giao tiếp với nhau. Mặt khác, chỉ có ngôn ngữ con người mới biểu hiện những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, nhận thức của mình với người khác và có thể nhờ ngôn nghữ mà lưu truyền cho thế hệ mai sau. * Tóm lại: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất vì:
- Về mặt số lượng; nó phục vụ đông đảo mọi thành viên trong cộng đồng xã hội một cách dễ dàng, nhanh chóng và tiện lợi.
- Về mặt chất lượng: nó giúp các thành viên trong cộng đồng có thể bộc lộ tất cả các nhu cầu giao tiếp trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

2. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt tư duy​

2.1. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy​

Nhờ có ngôn ngữ mà con người mới có thể tiến hành suy nghĩ, tư duy. Chức năng của ngôn ngữ với tư duy thể hiện khi con người giao tiếp bằng lời nói và đang tư duy, suy nghĩ mà chưa nói ra thành lời. Nhà ngôn ngữ học Xô Viết Bôrôpxki đã chứng minh sự tồn tại của lời nói bên trong cả khi người ta im lặng và suy nghĩ. Lời nói bên trong còn thể hiện ngay cả khi con người biết nhiều thứ tiếng và biết mình đang suy nghĩ bằng thứ tiếng nào. Con người nhận thức thế giới, d ng ngôn ngữ để gọi tên, phân tích bản chất, thuộc tính của SVHT đó. Hoạt động tư duy của con người được tiến hành nhờ ngôn ngữ; không thể tư duy mà không có ngôn ngữ, ngược lại, không có ngôn ngữ thì không thể tư duy.
* Như vậy, ngôn ngữ là công cụ của tư duy. Trong hoạt động nhận thức và tư duy, ngôn ngữ đóng vai trò tàng trữ, bảo toàn và cố định các kết quả của nhận thức và tư duy của cá nhân và cộng đồng, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

2.2. Ngôn ngữ là công cụ biểu đạt của tư duy​

Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là vỏ vật chất của tư duy. Mọi kết quả của tư duy đều phải dùng ngôn ngữ để biểu đạt ra ngoài hoặc tiềm tàng trong bộ óc mỗi người. Ngôn ngữ là phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. Thế giới khách quan được con người nhận thức trong suy nghĩ, tư duy là cái được biểu đạt còn ngôn ngữ là cái biểu đạt để thể hiện sự nhận thức đó. C.Mác nói: “Hiện thực trực tiếp của tư duy là ngôn ngữ". Đó là MQH qua lại giữa ngôn ngữ và nhận thức & tư duy.

2.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy​

Ngôn ngữ và tư duy là một thể thống nhất nhưng không phải là quan hệ đồng nhất. Ngôn ngữ tồn tại ở dạng vật chất còn tư duy thuộc tinh thần. Ngôn ngữ được con người cảm nhận được bằng giác quan như cao độ, trường độ, sắc thái…còn tư duy là sự nhận thức suy nghĩ bên trong thuộc bộ não của con người theo trật tự lôgic nhất định. Ngôn ngữ mang tính dân tộc (sảm phẩm dân tộc) còn tư duy mang tính nhân loại (mọi dân tộc có chung những sản phẩm của tư duy về vấn đề nào đó: chủ quyền, hòa bình, giáo dục, y tế…) Nguyên lý ngôn ngữ và tư duy không đồng nhất biểu hiện rõ nhất ở mâu thuẫn giữa sự hạn chế của chất liệu ngôn ngữ với yêu cầu biểu đạt của tư duy. Trong thực tế, nhiều SVHT có đặc điểm bản chất…mà phải dùng ngôn ngữ với dung lượng khá dài để biểu đạt.

* Trên đây là 2 chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ. Ngoài ra, ngôn ngữ có chức năng khác như:​

2.4. Làm chất liệu, phương tiện của nghệ thuật văn chương:​

Đó là ngôn ngữ được lựa chọn, trau chuốt đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Ngôn ngữ văn chương là hình thức con người bộc lộ tình cảm sâu sắc nhiều khi kín đáo mà tế nhị, con người tiếp nhận cũng được nâng cao tư tưởng, tình cảm và đạt trình độ hiểu biết nhất định về ngôn ngữ để hiểu và đánh giá.

2.5. Làm phương tiện để nói về chính ngôn ngữ (chức năng siêu ngôn ngữ)​

Đó là chức năng siêu ngôn ngữ để phân biệt các phương tiện giao tiếp khác. Các phương tiện giao tiếp khác ngoài ngôn ngữ như bức tranh, kí hiệu toán học,biển báo giao thông, tiếng trống…do con người quy ước gắn với một nội dung biểu hiện nào đó. Muốn hiểu nội dung biểu hiện ấy con người d ng ngôn ngữ để chỉ dẫn, lí giải. Ngôn ngữ còn được s dụng giao tiếp hàng ngày của con người. Ngôn ngữ được con người s dụng một cách linh hoạt trong những tình huống giao tiếp cụ thể và có ý nghĩa cụ thể. Người đọc và người nghe huy động vốn hiểu biết ngôn ngữ để nhận thức. Đó là chức năng siêu ngôn ngữ, sự tồn tại của ngôn ngữ dạng động và dạng tĩnh ở mỗi người.

III. Ý nghĩa của việc nhận thức bản chất và chức năng của ngôn ngữ với việc dạy Tiếng Việt ở tường tiểu học​

Ngôn ngữ vừa tồn tại trong trạng thái tĩnh như một hệ thống – kết cấu tiềm ẩn trong năng lực ngôn ngữ của mỗi người, đồng thời nó cần phải hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ giao tiếp nên dạy tiếng Việt tiểu học là gắn với bản chất và chức năng của ngôn ngữ.

1. Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là môn học dạy HS công cụ, phương tiện để các em giao tiếp, học tập và tư duy hàng ngày. Tiếng Việt là môn học độc lập chiếm thời lượng nhiều nhất trong chương trình Tiểu học với nhiệm vụ cung cấp tri thức tiếng Việt góp phần phát triển xã hội và phát triển ngôn ngữ. HS tiểu học nắm được hệ thống các đơn vị tiếng Việt và quy tắc của chúng giúp các em tạo ra những sản phẩm giao tiếp đa dạng phong phú góp phần đắc lực trong sự phát triển ngôn ngữ và tư duy ở các em.

2. Dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp là nguyên tắc phổ biến hiện nay ở bậc tiểu học nhằm chỉ rõ chức năng giao tiếp của ngôn ngữ trong xã hội. Theo quan điểm này là dạy học hướng vào việc phân tích quá trình tạo lời nói và lĩnh hội lời nói, phân tích các yếu tố liên quan đến tạo lời nói. Mục đích cuối cùng học sinh sử dụng thuần thục 4 kĩ năng nghe – nói – đọc – viết tiếng Việt.

Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt tiểu học thể hiện trong nội dung và dạy học bộ môn.

a) Về nội dung: Đó là kiến thức về tiếng Việt nói chung bao gồm hệ thống các đơn vị tiếng Việt và quy tắc s dụng tiếng Việt, ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, các nhân tố trong hoạt động giao tiếp. Đặc biệt, quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt còn ch trọng đến cách s dụng từ, câu trong giao tiếp. Các kĩ năng này thuộc về 2 quá trình của hoạt động giao tiếp là: Một là kĩ năng sản sinh ngôn bản dạng nói (phát âm, ngữ điệu, s dụng từ ngữ, nghi thức lời nói…) và dạng viết (dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết văn bản…). Hai là kĩ năng tiếp nhận và lĩnh hội văn bản chính là rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản, nghe và hiểu nội dung câu nói/ bài nói
b) Về hương pháp dạy – học:
Khi dạy – học cần đặt ngôn ngữ và các yếu tố của nó trong hoạt động giao tiếp. Trong dạy tiếng Việt vừa ch ý kiến thức về tiếng Việt vừa ch ý đến sử dụng kiến thức đó trong hoạt động giao tiếp và chỉ ra giá trị, hiệu quả của nó trong hoạt động giao tiếp. Quán triệt quan điểm giao tiếp, sau khi dạy lí thuyết về tiếng Việt (từ ngữ, ngữ pháp) cần củng cố, mở rộng bằng các bài tập thực hành phong ph , đa dạng, đưa kiến thức vừa học vào tình huống giao tiếp mới nhằm củng cố khắc sâu kiến thức cho các em, đồng thời r n luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt hướng học sinh vào các hoạt động sản sinh ngôn bản hay tiếp nhận ngôn bản. Tăng cường hoạt động luyện tập – thực hành tiếng việt là yếu tố vận dụng có hiệu quả quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt. “

3. Dạy tiếng Việt ở trường tiểu học cần ch ý nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy. Dạy tiếng Việt chú trọng rèn luyện các thao tác của tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh…phát triển HS tư duy lô gic và các phẩm chất của tư duy (cụ thể, trừu tượng, ghi nhớ, suy luận, phán đoán…). Dạy tiếng Việt cho học sinh là phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ, dạy nghĩa từ, dạy cách sử dụng từ không tách rời việc rèn luyện tư duy ở các em.
 
Từ khóa Từ khóa
bản chất của ngôn ngữ các nhân tố giao tiếp chức năng của ngôn ngữ ngôn ngữ có bản chất văn hóa ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt tư duy đặc trưng văn hóa việt nam qua ngôn ngữ đặc điểm của ngôn từ tiếng việt
  • Like
Reactions: Vanhoctre
991
1
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.