Nhà phê bình Chu Văn Sơn cho rằng: "Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người." Muốn viết được những câu thơ tuyệt bích ấy, anh phải bật tung cửa phòng để nhìn ngắm thế giới như một vị hoạ sĩ đang ước lệ vẽ đẹp của cuộc sống. Anh phải nhắm mắt, nghiêng tai lắng nghe những chuyển động tế vi của đất trời như một nhà soạn nhạc tài ba đang góp nhặt thanh âm của trần thế. Và Hữu Thỉnh đã thực thi trọn vẹn những công đoạn ấy. Để một "Sang Thu" ra đời, nhẹ nhàng mà tha thiết, cô đọng trong sáu mươi chữ mà cứ mãi vấn vương trong lòng người đọc. Thi phẩm là sự hòa hợp giữa cảm nhận tinh tế của tác giả trước những tín hiệu mùa thu và dòng suy ngẫm của ông về nhân sinh cuộc đời.
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông đến với thi giới và in "vân chữ" của mình trên vùng đất ấy bằng phong cách thơ "đằm thắm, hồn hậu, nghiêng về phía rợp mát, cái trầm lắng yêu thương lấn át cái ồn ào sôi sục"( Lưu Khách Thơ ). Trong tiết trời hanh hao cuối hạ đầu thu với nắng vàng và gió nhẹ, dường như mọi chuyển động của thiên nhiên khi ấy đã gõ cửa trái tim Hữu Thỉnh, khiến nhà thơ không thể kìm lòng mà cầm bút lên và viết "Sang Thu". Thi phẩm được sáng tác năm 1977, in trọng tập thơ "Từ chiến hào đến thành phố". Bài thơ là dòng chia sẻ chân thành của một tâm hồn tinh nhạy trước phút giao mùa, cũng là nơi gửi gắm những suy ngẫm, chiêm nghiệm kín đáo của ông.
Một trong những khâu quan trọng trước khi đưa tác phẩm của mình dấn thân vào thi đàn văn học là việc trăn trở tìm kiếm cho nó một danh xưng. Tên thi phẩm chính là một nốt lắng, một "nhãn tự" ẩn chứa những ý vị sâu xa. Nếu nhan đề "Mùa xuân nho nhỏ" gợi đến khát vọng cống hiến cùng lẽ sống khiêm nhường của Thanh Hải thì "Sang Thu" đã truyền tải thành công dụng ý của nhà thơ Hữu Thỉnh. Không phải là "Thu sang" mà là "Sang thu", nghĩa là vạn vật không dặm chân, ngóng cổ đợi chờ mùa thu ghé thăm mà thiên nhiên, đất trời đã chuyển mình một cách chủ động và sinh động như một đứa trẻ tinh nghịch muốn sà vào vòng tay của nàng thu. Thiên nhiên sang thu và lòng người cũng sang thu. Tâm hồn con người dường như đã đồng thanh đồng điệu với những biến chuyển của tạo vật. Trái tim con người dường như đã hòa chung nhịp đập với trái tim của đất mẹ nghĩa tình, của vòm trời cao rộng.
Khoảnh khắc chớm thu, mọi tín hiệu khe khẽ, nhẹ nhàng như một bản ballad ngân vang giữa bốn bề không gian. Nhịp điệu vận động của ngoại cảnh tuy mơ hồ, nhạt nhòa nhưng vẫn hữu hình trong tâm cảnh của Hữu Thỉnh, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một cách rất riêng, chẳng như "lá thu rơi rụng đầu ghềnh" của Tản Đà, không phải là "ao thu lạnh lẽ nước trong veo" như Tam Nguyên Yên Đổ, lại càng khác với "ngô đồng lác đác” trong trang thơ Tuệ Nga khi trời hiu hắt thu sang. Tác giả đã ngõ ngàng, "bỗng nhận ra" hơi thở đầu tiên của mùa thu hoà quyện trong hương ổi thơm lừng, chân quê và mộc mạc. Mùi hương ấy góp mặt vào những tháng năm tuổi thơ được cùng bè bạn trèo cây hái ổi. Mùi hương của thứ "quà quê" cứ quyến luyến, vấn vương trong lòng những đứa con xa xứ. Mùi hương của xóm làng dân dã, của tiếng nô đùa, của yên bình và hạnh phúc. Thứ hương kia không "bay", không “quyện” mà “phả”, là xộc thẳng vào khứu giác. Thi sĩ đã sử dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ gợi liên tưởng đến một mùi hương như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc, nồng nàn du ngoạn trong miền gió, được làn gió chở đến gõ cửa những ngôi nhà tranh, mang đi khắp ngõ ngách của làng quê. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc liên tưởng đến màu vàng ươm, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Phải chăng hương ổi đã lan tỏa, chiếm lĩnh gió se. Để giờ đây cơn gió heo mây lành lạnh kia nương náu vào hương ổi, nhờ vào hương ổi mà trở nên độc đáo hơn. Gió se hanh hao, nồng nàn hương ổi khác với làn gió xuân ấm áp, không trùng lặp với thứ gió mang màu nắng của mùa hạ hay từng đợt gió lạnh buốt của trời đông. Hương ổi và gió se đã trở thành sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ta chẳng cẩn thận để tâm thì sẽ không thể nhận ra được. Và nếu ta đã tinh ý nhận ra thì những sự vật ấy sẽ neo đậu lại trong tâm trí ta một ấn tượng khó phai.
Trong cái không gian cuối hạ lởn vởn mùi thu, thấp thoáng nơi ngõ nhỏ bóng dáng "sương chùng chình" lướt nhẹ như một nàng thơ e thẹn, thướt tha đi qua từng triền đê, thôn làng, ngõ đường. Làn sương bảng lảng giăng trắng lối được tác giả nhân hóa qua từ láy “chùng chình”. Sương hóa thành một người lữ hành đi qua cửa ngõ của thời gian, rồi được thời gian kéo tay níu lại. Sương chập chững, cố ý bước đi chậm chạm qua những ngõ đường lộng gió, vườn ổi chín mọng và đồng nội xanh rì. Để rồi người lữ khách ấy đã lưu luyến sinh cảnh, đã chẳng có ham muốn tan vào không gian vô định. Sương bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao mùa như chính sự ngỡ ngàng của con người trước những dao động nhỏ nhặt của đất trời phương Bắc. Dù nhiều giác quan đã mách bảo rằng "thu đã về" nhưng nhà thơ vẫn thấy mơ hồ, vẫn còn chưa dám tin, chưa dám chắc chắn. Thành phần tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán nửa tin nửa ngờ, nửa khẳng định, nửa kia lại hoài nghi. Cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên ấy cũng xuất hiện trong hồn thơ của Từ Dạ Thảo:
"Hình như bên kia là mùa thu
Ngàn lá rụng mang theo lời tiễn biệt..."
Có lẽ những tín hiệu chớm thu quá đổi mờ nhạt, chưa đủ làm nên mùa thu trọn vẹn. Và có lẽ chính tâm hồn thi sĩ cũng chưa kịp sẳn sàng để chào đón một diện mạo mới của tạo vật.
Tiếp nối sự giao thoa của đất trời, sang đến khổ thơ thứ hai những dấu hiệu của mùa thu dần hữu hình với những đường nét rõ ràng, chân thật hơn:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Bằng việc vận dụng tài tình biện pháp nhân hóa, cảnh vật trong thơ Hữu Thỉnh trở nên sống động, như một con người có linh hồn và hơi thở. Dòng sông lúc sang thu không còn chảy xiết, cuộn từng xoáy tròn hình trôn ốc như ngày hạ chí mà bỗng trở nên "dềnh dàng", thông thả, lững lờ trôi. Nó gợi ra trong ta bóng dáng những con người sống chậm, sống nhẹ nhàng giữa lòng thị thành tấp nập ngược xuôi, như "người khách bộ hành phiêu lãng" ( Tế Hanh ) khoan thải và thư thái ngắm nhìn vẻ đẹp của thế gian. Đối lập với hình ảnh dòng sông là những cánh chim "vội vã" tìm về "bức tranh thủy mặc" phương Nam để tránh rét, vội vã như những đứa con thấy cảnh vật đổi thay liền nhớ chốn xưa người cũ, gấp rút bắt chuyến xe cuối cùng trở về cố hương. Hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về tổ ấm thân thương trước khi hoàng hôn tắt nắng, nhường lại bầu trời cho màn đêm tĩnh mịch. Tác giả đã vận dụng khéo léo các từ ngữ "được lúc" và "bắt đầu" để đặc tả những chuyển động chỉ xảy ra vào khoảnh khắc trời chạng vạng chớm thu, những thay đổi rất "thu" của đất trời phương Bắc.
Trong "Dagestan của tôi", Rasul Gamzatoz đã đề cập đến đặc trưng của thơ ca, rằng mỗi thi phẩm đều có “những câu thơ hay nhất trong bài thơ”. Không nằm ngoài quy luật ấy, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Câu thơ ngân lên với một sự liên tưởng độc đáo. Nếu mây chùng lại vắt ngang sườn núi thì ta còn có thể nhìn, có thể cảm nhưng đám mây trong "Sang Thu" tựa như một dải lụa đào trải rộng, trôi lững lờ trên nền trời trong trẻo. Thứ lụa ấy chia làm hai nửa thuộc về hai mùa. Nửa bên được nhuộm bằng dáng hình mùa hạ, "nửa mình" bên kia "vắt" sang gam màu của mùa thu. Hạ và thu, làm sao định hình được là vuông hay tròn. Ấy vậy mà nhà thơ đã hoạ nên một ranh giới mỏng manh, hư ảo phân cách giữa hai mùa. Trong “chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết:
"Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ”
Cố nhiên, đám mây kia là thực, nhưng ranh giới của mùa là ảo. Nếu trong Triết học, Jules Lagneau cho rằng không gian và thời gian không thể tách rời nhau được thì đến với văn học, ta bắt gặp một Hữu Thỉnh đã tinh tế dùng hình ảnh của không gian để diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Bầu trời vẫn đang chuyển đổi nhẹ nhàng sang sắc thu để rồi đến một lúc nào đó "Trời thu càng rộng càng cao" ( Tố Hữu ), nhẹ nhàng và xanh ngắt hơn.
Hai câu thơ trên còn chất chứa cả những suy tư, trăn trở của chính tác giả, những bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây trọn vẹn một màu thu. Thế nhưng, khi cảm xúc bật trào thành câu chữ, có một thứ gì đó đã quyến luyến, níu giữ ngòi bút thi nhân theo chiều hướng “một nửa”. Có lẽ mây mùa hạ giống như một bức tranh muôn màu muôn sắc. Đó là màu rạo rực của những hoài bão, những ước mơ của tuổi trẻ bứt phá ngông cuồng. Đó là màu của sức sống mãnh liệt, của nhiệt huyết dâng trào. Có một mùa hạ như thế đấy, một mùa hạ vô ưu vô lo, một mùa hạ lãng mạn và rạng ngời, mùa hạ của những giấc mơ. Vậy mà giữa mơ và thực luôn tồn tại một lằn ranh đỏ vô hình nào đó khiến chúng khó mà hoà làm một, khó mà trọn vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện thực mà ta dù muốn hay không cũng phải học cách chấp nhận. Có chăng vì vậy, đám mây chỉ có thể "vắt nửa mình sang thu". Những đồng đội, những người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã nằm lại ở ngưỡng tuổi sung mãn nhất của đời người, "Có tuổi hai mươi thành sóng nước" ( Lê Bá Dương). "Sóng nước" bỏ lại tuổi trẻ, bỏ lại tương lai và những hoài bão kia sẽ vĩnh viễn vùi chôn nơi chiến trường. Một kiếp lính kết thúc, những hoài bão cũng theo đó chẳng bao giờ trở về, tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả đã ngủ say trong hai tiếng "hồi ức"…
Thiên nhiên, đất trời chính thức "sang thu" và hồn người cũng vào thu, mùa thu trong những ngẫm suy, trăn trở của tác giả về nhân sinh cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Vậy là mùa thu đã đong đầy rót vào lòng phố hạ. Mùa thu đã về, và hạ chí ngậm ngùi phai dấu. "Nắng”, “mưa”, “sấm" là những hiện tượng đặc trưng của tiết trời mùa hạ. Nhà thơ đã tinh tế kết hợp những hình ảnh ấy với các từ chỉ mức độ "vẫn còn", "bao nhiêu", "vơi dần" để gợi tả tần suất thưa thớt, lắng lại, chừng mực và ổn định hơn. Nắng vẫn nơi sân đình, nhưng chẳng còn vang ươm rạo rực, chang chang đổ lửa. Mưa vẫn nơi hiên nhà, nhưng chẳng còn ào ạt trắng xóa, rào rào dồn dập. Sấm vẫn nơi trời cao, nhưng chẳng còn ì ầm vang động, dữ dội bất ngờ. Tất cả những gì đặc sắc nhất của mùa hạ dường như đều mờ phai, nhạt dần và nhẹ nhàng hơn. Hình ảnh nhân hóa "hàng cây đứng tuổi" hiểu theo nghĩa tả thực chính là những cái cây trăm tuổi đã trải qua bao mùa thay lá, đã sống lâu năm, sống bền bỉ với đời.
Song, bằng việc vận dụng phép ẩn dụ đầy nghệ thuật, đằng sau đôi dòng thơ cuối bài là một tầng nghĩa với bao trầm ngâm, chiêm nghiệm. Tiếng sấm là những vang động, biến thiên bất thường, những vệt sáng của gian truân, của khó khăn luôn hiện hữu trong cuộc đời mỗi con người. Còn "hàng cây đứng tuổi" ngụ ý chỉ những người đã bước vào cái ngưỡng trưởng thành, trải nghiệm và dấn thân nhiều hơn, họ kinh qua những cảm xúc từ mất mát tang thương đến vỡ òa hạnh phúc. Bởi vậy, những người từng trải trở nên dày dặn kinh nghiệm, điềm tĩnh và vững vàng hơn. Chuyển biến của thời cuộc, phong ba bão táp của ngoại cảnh đã chẳng còn tác động quá lớn đến họ. Họ biết dung hòa cảm tính và lí tính, bình tâm và suy nghĩ thấu đáo hơn, không còn nóng nảy, bồng bột như xưa. Đời một người đã gần tám mươi, biết bao sóng gió, thăng trầm, khi làm dân, lúc làm lính, làm cán bộ, hết chiến tranh đến hòa bình, Hữu Thỉnh đã "đưa thơ về phía chiều sâu của tạo vật, của lòng người", của niềm trầm tư sâu lắng.
"Sang thu" về không gian nghệ thuật là chiến tranh và hòa bình thể hiện qua "chìa khóa" được đề ở cuối bài: "Thu 1977". Đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của người lính vừa bước ra khỏi trận chiến đổ máu và đổ lửa. Thu 1977 - trên đầu không còn tiếng máy bay, tiếng động cơ phản lực, bên tai chẳng phải nghe âm vang tiếng súng nổ, tiếng bơm rơi. Thu 1977 - đất nước hòa bình được hai năm, người lính được trở về với hương thơm, trái ngọt, lá vàng mơ mộng của quê hương. Thu 1977 - mùa thu quý giá của những người bộ đội thời chiến.
Hình thức nghệ thuật đã góp phần chạm khắc cho "Sang Thu" những góc cạnh tinh tế để bài thơ trở thành "viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời’” (Sóng Hồng). Thi phẩm ngân lên với giọng điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, du dương và dạt dào yêu thương. Kết cấu mỗi khổ thơ trong "Sang Thu" đều có bốn câu với ba hình ảnh đặc sắc mang đến ba thông tin. Nghĩa là mỗi khổ đều có một cặp hai câu cùng diễn đạt một ý tứ. Và chính những câu thơ vắt dòng này đã mang lại cho thi phẩm vẻ duyên dáng, uyển chuyển, tạo liên tưởng bất ngờ và thú vị. Tác giả đã vận dụng thành công một số biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ… Chỉ với vài hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi song hành cùng ngôn ngữ sáng tạo, chọn lọc, thi sĩ đã bắt trọn được cái hồn của cảnh vật qua ngòi bút nghệ thuật thanh, nhẹ và tài hoa.
"Sang Thu" là một bức hoạ hữu tình, thơ mộng, tả ít mà gợi nhiều. Mỗi câu thơ như một nét vẽ tinh vi và sống động. Hình ảnh hiện lên giàu sức gợi với biết bao cảm mến nồng hậu. Hữu Thỉnh khi tự bạch về nghề viết chỉ nói rất gọn gàng rằng: "Thơ là kinh nghiệm sống”. Từ chiến hào đến đến thành phố, từ chiến tranh đến hòa bình, chính những "kinh nghiệm sống" đã giúp Hữu Thỉnh chưng cất nên một "Sang Thu" - khúc giao mùa nhẹ nhàng, bâng khuâng và khép lại trong thầm thì triết lý nhân sinh. "Sang Thu" chẳng còn hạn hẹp trong thơ tạo vật mà đã vươn lên thành thơ cuộc đời. Tìm đến hồn thơ ấy, ta có dịp trầm mình trong hơi thở của đất trời để cảm nhận những chuyển động khe khẽ của thiên nhiên, để lòng mình được lắng lại mà ngẫm suy về ý vị sâu xa đằng sau một tiếng thơ bịn rịn qua những nẻo đường thời gian.
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông đến với thi giới và in "vân chữ" của mình trên vùng đất ấy bằng phong cách thơ "đằm thắm, hồn hậu, nghiêng về phía rợp mát, cái trầm lắng yêu thương lấn át cái ồn ào sôi sục"( Lưu Khách Thơ ). Trong tiết trời hanh hao cuối hạ đầu thu với nắng vàng và gió nhẹ, dường như mọi chuyển động của thiên nhiên khi ấy đã gõ cửa trái tim Hữu Thỉnh, khiến nhà thơ không thể kìm lòng mà cầm bút lên và viết "Sang Thu". Thi phẩm được sáng tác năm 1977, in trọng tập thơ "Từ chiến hào đến thành phố". Bài thơ là dòng chia sẻ chân thành của một tâm hồn tinh nhạy trước phút giao mùa, cũng là nơi gửi gắm những suy ngẫm, chiêm nghiệm kín đáo của ông.
Một trong những khâu quan trọng trước khi đưa tác phẩm của mình dấn thân vào thi đàn văn học là việc trăn trở tìm kiếm cho nó một danh xưng. Tên thi phẩm chính là một nốt lắng, một "nhãn tự" ẩn chứa những ý vị sâu xa. Nếu nhan đề "Mùa xuân nho nhỏ" gợi đến khát vọng cống hiến cùng lẽ sống khiêm nhường của Thanh Hải thì "Sang Thu" đã truyền tải thành công dụng ý của nhà thơ Hữu Thỉnh. Không phải là "Thu sang" mà là "Sang thu", nghĩa là vạn vật không dặm chân, ngóng cổ đợi chờ mùa thu ghé thăm mà thiên nhiên, đất trời đã chuyển mình một cách chủ động và sinh động như một đứa trẻ tinh nghịch muốn sà vào vòng tay của nàng thu. Thiên nhiên sang thu và lòng người cũng sang thu. Tâm hồn con người dường như đã đồng thanh đồng điệu với những biến chuyển của tạo vật. Trái tim con người dường như đã hòa chung nhịp đập với trái tim của đất mẹ nghĩa tình, của vòm trời cao rộng.
Khoảnh khắc chớm thu, mọi tín hiệu khe khẽ, nhẹ nhàng như một bản ballad ngân vang giữa bốn bề không gian. Nhịp điệu vận động của ngoại cảnh tuy mơ hồ, nhạt nhòa nhưng vẫn hữu hình trong tâm cảnh của Hữu Thỉnh, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một cách rất riêng, chẳng như "lá thu rơi rụng đầu ghềnh" của Tản Đà, không phải là "ao thu lạnh lẽ nước trong veo" như Tam Nguyên Yên Đổ, lại càng khác với "ngô đồng lác đác” trong trang thơ Tuệ Nga khi trời hiu hắt thu sang. Tác giả đã ngõ ngàng, "bỗng nhận ra" hơi thở đầu tiên của mùa thu hoà quyện trong hương ổi thơm lừng, chân quê và mộc mạc. Mùi hương ấy góp mặt vào những tháng năm tuổi thơ được cùng bè bạn trèo cây hái ổi. Mùi hương của thứ "quà quê" cứ quyến luyến, vấn vương trong lòng những đứa con xa xứ. Mùi hương của xóm làng dân dã, của tiếng nô đùa, của yên bình và hạnh phúc. Thứ hương kia không "bay", không “quyện” mà “phả”, là xộc thẳng vào khứu giác. Thi sĩ đã sử dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ gợi liên tưởng đến một mùi hương như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc, nồng nàn du ngoạn trong miền gió, được làn gió chở đến gõ cửa những ngôi nhà tranh, mang đi khắp ngõ ngách của làng quê. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc liên tưởng đến màu vàng ươm, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Phải chăng hương ổi đã lan tỏa, chiếm lĩnh gió se. Để giờ đây cơn gió heo mây lành lạnh kia nương náu vào hương ổi, nhờ vào hương ổi mà trở nên độc đáo hơn. Gió se hanh hao, nồng nàn hương ổi khác với làn gió xuân ấm áp, không trùng lặp với thứ gió mang màu nắng của mùa hạ hay từng đợt gió lạnh buốt của trời đông. Hương ổi và gió se đã trở thành sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ta chẳng cẩn thận để tâm thì sẽ không thể nhận ra được. Và nếu ta đã tinh ý nhận ra thì những sự vật ấy sẽ neo đậu lại trong tâm trí ta một ấn tượng khó phai.
Trong cái không gian cuối hạ lởn vởn mùi thu, thấp thoáng nơi ngõ nhỏ bóng dáng "sương chùng chình" lướt nhẹ như một nàng thơ e thẹn, thướt tha đi qua từng triền đê, thôn làng, ngõ đường. Làn sương bảng lảng giăng trắng lối được tác giả nhân hóa qua từ láy “chùng chình”. Sương hóa thành một người lữ hành đi qua cửa ngõ của thời gian, rồi được thời gian kéo tay níu lại. Sương chập chững, cố ý bước đi chậm chạm qua những ngõ đường lộng gió, vườn ổi chín mọng và đồng nội xanh rì. Để rồi người lữ khách ấy đã lưu luyến sinh cảnh, đã chẳng có ham muốn tan vào không gian vô định. Sương bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao mùa như chính sự ngỡ ngàng của con người trước những dao động nhỏ nhặt của đất trời phương Bắc. Dù nhiều giác quan đã mách bảo rằng "thu đã về" nhưng nhà thơ vẫn thấy mơ hồ, vẫn còn chưa dám tin, chưa dám chắc chắn. Thành phần tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán nửa tin nửa ngờ, nửa khẳng định, nửa kia lại hoài nghi. Cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên ấy cũng xuất hiện trong hồn thơ của Từ Dạ Thảo:
"Hình như bên kia là mùa thu
Ngàn lá rụng mang theo lời tiễn biệt..."
Có lẽ những tín hiệu chớm thu quá đổi mờ nhạt, chưa đủ làm nên mùa thu trọn vẹn. Và có lẽ chính tâm hồn thi sĩ cũng chưa kịp sẳn sàng để chào đón một diện mạo mới của tạo vật.
Tiếp nối sự giao thoa của đất trời, sang đến khổ thơ thứ hai những dấu hiệu của mùa thu dần hữu hình với những đường nét rõ ràng, chân thật hơn:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Bằng việc vận dụng tài tình biện pháp nhân hóa, cảnh vật trong thơ Hữu Thỉnh trở nên sống động, như một con người có linh hồn và hơi thở. Dòng sông lúc sang thu không còn chảy xiết, cuộn từng xoáy tròn hình trôn ốc như ngày hạ chí mà bỗng trở nên "dềnh dàng", thông thả, lững lờ trôi. Nó gợi ra trong ta bóng dáng những con người sống chậm, sống nhẹ nhàng giữa lòng thị thành tấp nập ngược xuôi, như "người khách bộ hành phiêu lãng" ( Tế Hanh ) khoan thải và thư thái ngắm nhìn vẻ đẹp của thế gian. Đối lập với hình ảnh dòng sông là những cánh chim "vội vã" tìm về "bức tranh thủy mặc" phương Nam để tránh rét, vội vã như những đứa con thấy cảnh vật đổi thay liền nhớ chốn xưa người cũ, gấp rút bắt chuyến xe cuối cùng trở về cố hương. Hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về tổ ấm thân thương trước khi hoàng hôn tắt nắng, nhường lại bầu trời cho màn đêm tĩnh mịch. Tác giả đã vận dụng khéo léo các từ ngữ "được lúc" và "bắt đầu" để đặc tả những chuyển động chỉ xảy ra vào khoảnh khắc trời chạng vạng chớm thu, những thay đổi rất "thu" của đất trời phương Bắc.
Trong "Dagestan của tôi", Rasul Gamzatoz đã đề cập đến đặc trưng của thơ ca, rằng mỗi thi phẩm đều có “những câu thơ hay nhất trong bài thơ”. Không nằm ngoài quy luật ấy, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Câu thơ ngân lên với một sự liên tưởng độc đáo. Nếu mây chùng lại vắt ngang sườn núi thì ta còn có thể nhìn, có thể cảm nhưng đám mây trong "Sang Thu" tựa như một dải lụa đào trải rộng, trôi lững lờ trên nền trời trong trẻo. Thứ lụa ấy chia làm hai nửa thuộc về hai mùa. Nửa bên được nhuộm bằng dáng hình mùa hạ, "nửa mình" bên kia "vắt" sang gam màu của mùa thu. Hạ và thu, làm sao định hình được là vuông hay tròn. Ấy vậy mà nhà thơ đã hoạ nên một ranh giới mỏng manh, hư ảo phân cách giữa hai mùa. Trong “chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết:
"Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ”
Cố nhiên, đám mây kia là thực, nhưng ranh giới của mùa là ảo. Nếu trong Triết học, Jules Lagneau cho rằng không gian và thời gian không thể tách rời nhau được thì đến với văn học, ta bắt gặp một Hữu Thỉnh đã tinh tế dùng hình ảnh của không gian để diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Bầu trời vẫn đang chuyển đổi nhẹ nhàng sang sắc thu để rồi đến một lúc nào đó "Trời thu càng rộng càng cao" ( Tố Hữu ), nhẹ nhàng và xanh ngắt hơn.
Hai câu thơ trên còn chất chứa cả những suy tư, trăn trở của chính tác giả, những bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây trọn vẹn một màu thu. Thế nhưng, khi cảm xúc bật trào thành câu chữ, có một thứ gì đó đã quyến luyến, níu giữ ngòi bút thi nhân theo chiều hướng “một nửa”. Có lẽ mây mùa hạ giống như một bức tranh muôn màu muôn sắc. Đó là màu rạo rực của những hoài bão, những ước mơ của tuổi trẻ bứt phá ngông cuồng. Đó là màu của sức sống mãnh liệt, của nhiệt huyết dâng trào. Có một mùa hạ như thế đấy, một mùa hạ vô ưu vô lo, một mùa hạ lãng mạn và rạng ngời, mùa hạ của những giấc mơ. Vậy mà giữa mơ và thực luôn tồn tại một lằn ranh đỏ vô hình nào đó khiến chúng khó mà hoà làm một, khó mà trọn vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện thực mà ta dù muốn hay không cũng phải học cách chấp nhận. Có chăng vì vậy, đám mây chỉ có thể "vắt nửa mình sang thu". Những đồng đội, những người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã nằm lại ở ngưỡng tuổi sung mãn nhất của đời người, "Có tuổi hai mươi thành sóng nước" ( Lê Bá Dương). "Sóng nước" bỏ lại tuổi trẻ, bỏ lại tương lai và những hoài bão kia sẽ vĩnh viễn vùi chôn nơi chiến trường. Một kiếp lính kết thúc, những hoài bão cũng theo đó chẳng bao giờ trở về, tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả đã ngủ say trong hai tiếng "hồi ức"…
Thiên nhiên, đất trời chính thức "sang thu" và hồn người cũng vào thu, mùa thu trong những ngẫm suy, trăn trở của tác giả về nhân sinh cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Vậy là mùa thu đã đong đầy rót vào lòng phố hạ. Mùa thu đã về, và hạ chí ngậm ngùi phai dấu. "Nắng”, “mưa”, “sấm" là những hiện tượng đặc trưng của tiết trời mùa hạ. Nhà thơ đã tinh tế kết hợp những hình ảnh ấy với các từ chỉ mức độ "vẫn còn", "bao nhiêu", "vơi dần" để gợi tả tần suất thưa thớt, lắng lại, chừng mực và ổn định hơn. Nắng vẫn nơi sân đình, nhưng chẳng còn vang ươm rạo rực, chang chang đổ lửa. Mưa vẫn nơi hiên nhà, nhưng chẳng còn ào ạt trắng xóa, rào rào dồn dập. Sấm vẫn nơi trời cao, nhưng chẳng còn ì ầm vang động, dữ dội bất ngờ. Tất cả những gì đặc sắc nhất của mùa hạ dường như đều mờ phai, nhạt dần và nhẹ nhàng hơn. Hình ảnh nhân hóa "hàng cây đứng tuổi" hiểu theo nghĩa tả thực chính là những cái cây trăm tuổi đã trải qua bao mùa thay lá, đã sống lâu năm, sống bền bỉ với đời.
Song, bằng việc vận dụng phép ẩn dụ đầy nghệ thuật, đằng sau đôi dòng thơ cuối bài là một tầng nghĩa với bao trầm ngâm, chiêm nghiệm. Tiếng sấm là những vang động, biến thiên bất thường, những vệt sáng của gian truân, của khó khăn luôn hiện hữu trong cuộc đời mỗi con người. Còn "hàng cây đứng tuổi" ngụ ý chỉ những người đã bước vào cái ngưỡng trưởng thành, trải nghiệm và dấn thân nhiều hơn, họ kinh qua những cảm xúc từ mất mát tang thương đến vỡ òa hạnh phúc. Bởi vậy, những người từng trải trở nên dày dặn kinh nghiệm, điềm tĩnh và vững vàng hơn. Chuyển biến của thời cuộc, phong ba bão táp của ngoại cảnh đã chẳng còn tác động quá lớn đến họ. Họ biết dung hòa cảm tính và lí tính, bình tâm và suy nghĩ thấu đáo hơn, không còn nóng nảy, bồng bột như xưa. Đời một người đã gần tám mươi, biết bao sóng gió, thăng trầm, khi làm dân, lúc làm lính, làm cán bộ, hết chiến tranh đến hòa bình, Hữu Thỉnh đã "đưa thơ về phía chiều sâu của tạo vật, của lòng người", của niềm trầm tư sâu lắng.
"Sang thu" về không gian nghệ thuật là chiến tranh và hòa bình thể hiện qua "chìa khóa" được đề ở cuối bài: "Thu 1977". Đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của người lính vừa bước ra khỏi trận chiến đổ máu và đổ lửa. Thu 1977 - trên đầu không còn tiếng máy bay, tiếng động cơ phản lực, bên tai chẳng phải nghe âm vang tiếng súng nổ, tiếng bơm rơi. Thu 1977 - đất nước hòa bình được hai năm, người lính được trở về với hương thơm, trái ngọt, lá vàng mơ mộng của quê hương. Thu 1977 - mùa thu quý giá của những người bộ đội thời chiến.
Hình thức nghệ thuật đã góp phần chạm khắc cho "Sang Thu" những góc cạnh tinh tế để bài thơ trở thành "viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời’” (Sóng Hồng). Thi phẩm ngân lên với giọng điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, du dương và dạt dào yêu thương. Kết cấu mỗi khổ thơ trong "Sang Thu" đều có bốn câu với ba hình ảnh đặc sắc mang đến ba thông tin. Nghĩa là mỗi khổ đều có một cặp hai câu cùng diễn đạt một ý tứ. Và chính những câu thơ vắt dòng này đã mang lại cho thi phẩm vẻ duyên dáng, uyển chuyển, tạo liên tưởng bất ngờ và thú vị. Tác giả đã vận dụng thành công một số biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ… Chỉ với vài hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi song hành cùng ngôn ngữ sáng tạo, chọn lọc, thi sĩ đã bắt trọn được cái hồn của cảnh vật qua ngòi bút nghệ thuật thanh, nhẹ và tài hoa.
"Sang Thu" là một bức hoạ hữu tình, thơ mộng, tả ít mà gợi nhiều. Mỗi câu thơ như một nét vẽ tinh vi và sống động. Hình ảnh hiện lên giàu sức gợi với biết bao cảm mến nồng hậu. Hữu Thỉnh khi tự bạch về nghề viết chỉ nói rất gọn gàng rằng: "Thơ là kinh nghiệm sống”. Từ chiến hào đến đến thành phố, từ chiến tranh đến hòa bình, chính những "kinh nghiệm sống" đã giúp Hữu Thỉnh chưng cất nên một "Sang Thu" - khúc giao mùa nhẹ nhàng, bâng khuâng và khép lại trong thầm thì triết lý nhân sinh. "Sang Thu" chẳng còn hạn hẹp trong thơ tạo vật mà đã vươn lên thành thơ cuộc đời. Tìm đến hồn thơ ấy, ta có dịp trầm mình trong hơi thở của đất trời để cảm nhận những chuyển động khe khẽ của thiên nhiên, để lòng mình được lắng lại mà ngẫm suy về ý vị sâu xa đằng sau một tiếng thơ bịn rịn qua những nẻo đường thời gian.
- Từ khóa
- cam nhan hữu thỉnh ngữ văn lớp 9 sang thu