Baivanhay Cảm nhận cảnh cho chữ

Baivanhay  Cảm nhận cảnh cho chữ

nauyeee
nauyeee
  • Thành Viên 20
Ta lắng nghe tiếng chim hót trong bụi mận gai mà tưởng như ruột gan xô đẩy vào nhau mà cồn cào. Ta mê mẩn trước sự nở rộ sinh khí của một bông hoa giữa bùn lầy tanh hôi. Trên đời, cái đẹp luôn được tạo ra và “nằm ngoài định luật băng hoại của thời gian”. Nó khoác lên mình chiếc áo của người xa phương đang đi tìm lí tưởng thẩm mĩ. Trên con đường đó, Nguyễn Tuân đang lang thang đi tìm nguồn cảm hứng để khơi gợi nên tác phẩm của mình. Và ông đã gặp nó, không kìm được lòng mà “cất lên trang”. Như một thế giới được soi rọi bởi cái đẹp, mà độc giả tha hồ tắm mình trong đó với sự bung tỏa của tất cả các giác quan.

Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, ý thức rất cao về tài năng của bản thân, với ông viết văn là lao động nghệ thuật nghiêm túc, công phu, đòi hỏi người cầm bút phải có lương tâm, trách nhiệm. Ông am hiểu rất nhiều về các lĩnh vực văn hóa, lịch sử, địa lí nên tác phẩm của ông để lại nhiều kiến thức bổ ích. Chẳng hạn trong tác phẩm “ Những chiếc ấm đất”, “ Chén trà trong sương sớm”, mà thấy cái thú vui thưởng thức và vốn am hiểu về trà của ông. “Vang bóng một thời” được đánh giá là tệp truyện tiêu biểu và trong đó “ Chữ người tử tù” là kiệt tác minh chứng cho hồn văn của Nguyễn Tuân. Cảnh tượng cho chữ làm thức tỉnh triệu trái tim còn đang ngủ yên hay chìm trong bong tối của hàng triệu con người.

Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân “ Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật”. Chính quan niệm này đã chi phối đến mọi tác phẩm của ông. Trước hương sắc, mật ngọt của cuộc đời đã thôi thúc ông hòa vào nhịp sống vồn vã mà đi tìm đối tương nghệ thuật. Thật khó để tìm kiếm vì không chỉ đẹp thôi đâu mà nó phải đạt tới đỉnh cao, không một thứ gì có thể sánh bằng. Trong hàng vạn con người, may mắn lắm mới có đến vài người trên đầu ngón tay lọt vào tầm nhìn, lăng kính của ông. Chính vì sự chọn lọc “khắt khe” này mà khi tiếp xúc với nhân vật Huấn Cao, ta lại ngây ngất trước sự tỏa sáng về thiên lương lẫn khí phách, một vẻ đẹp có một không hai, nó làm cho “chữ người tử tù” tìm cho mình một vị trí đứng trên văn đàn. Trước sự quan sát tỉ mỉ với tư cách là một người cầm bút, ông đã phác họa rõ nét cái tài họa của mình trên khuôn khổ của ô lề giấy. Còn đâu là một nhà văn? Tựa hồn của các họa sĩ phảng phất trên cõi lơ lửng nhập vào chính Nguyễn Tuân. Huấn Cao được xây dựng trên nguyên mẫu của Cao Bá Quát – một con người tài hoa. Ông Huấn vang bóng với nghệ thuật viết thư pháp “chữ rất nhanh và rất đẹp”, “ đẹp lắm, vuông lắm”. Chữ ông thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người, thiên phú trời cho. Ý thức về tài năng của mình, ông nhất sinh không vì tiền bạc hay danh phận mà viết chữ cho ai bao giờ vì thế mà được chữ của ông rất quý. Huấn Cao còn nổi danh là người chọc trời với nước, dám đứng lên chống lại triều đình thối nát mà ông căm ghét, vì thế mà ông phải chịu án tù.Ông đã được Nguyễn Tuân phác họa rất công phu, tựa như một bức tượng điêu khắc sừng sững giữa đời phong ba bão táp. Vẻ đẹp của ông làm ta đem lòng so sánh với hình ảnh của những vị anh hùng với phép thần thông giải cứu nhân dân trong văn học trung đại. Chất mỹ học trong Nguyễn Tuân đã gặp gỡ với chất mỹ học của Kanto “ Cái đẹp không ở má hồng của người thiếu nữ mà trong con mắt của kẻ si tình”. Hình tượng Huấn Cao đã len lỏi vào tâm hồn đa tình của Nguyễn Tuân tạo một cuộc “hẹn hò” giữa những cái đẹp.

Huấn Cao trở nên rõ nét hơn với cách đưa bút tài hoa của Nguyễn Tuân khi xuất hiện nhân vật viên quản ngục. Trên bình diện xã hội, thì ông quản với ông Huấn đối lập nhau, giữa một người coi tù và một tử tù. Ngạc nhiên thay, trên bình diện nghệ thuật, ta lại dành tặng họ hai từ “tri kỉ”. Viên quản ngục cũng yêu cái đẹp, và đắm say trước những nét chữ vuông, có hồn, có thần của Huấn Cao. Nếu được Huấn Cao cho chữ thì ông coi như là có một báu vật trên đời. Ban đầu thì Huấn Cao không hiểu được tấm lòng của quản ngục hàng ngày mang rượu thịt đến biệt đãi. Và cuối cùng, nhờ thầy thơ lại làm cầu nối mà Huấn Cao đã hiểu ra, cảm kích trước một tấm lòng liên tài. Cảnh cho chữ chưa nay xưa từng có đã diễn ra vô cùng độc đáo. Trước hôm đi vào kinh thụ án chém mà Huấn Cao đã ban cái đẹp cho đời. Nó xảy ra trong ngục tù lạnh lẽo “ buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đối lập với tối tăm của chốn tù lao có sự xuất hiện ngọn lửa như muốn thiêu đốt đi cái màn che phủ của bóng tối đó là ánh sáng của những bó đuốc tẩm dầu. Bình thường, người ta chỉ biết đến nhà tù với những tiếng thét chói tai của bọn cai tù, những tiếng roi quần quật của họ như cứa vào tâm can con người. Nó giam cầm kìm hãm, bao lấy thể xác lẫn tâm hồn, giữ chân lấy những linh hồn muốn tự do bay nhảy. Nhưng hôm ấy, cái đẹp đã nảy sinh và ra đời. Ông Huấn Cao mặc dù “ cổ đeo gông, chân vướng xiềng” bị giam cầm về thể xác, trái lại tâm hồn ông lại tự do để “ dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Còn viên quản ngục và thầy thơ lại, người thì “ khúm núm”, người thì “run run” . Những con người này đang có sự tráo đổi về vị thế, thay vào đó là một vĩ nhân ban tặng cái đẹp và một người đưa tấm lòng thơm thảo ra để nhận lấy cái đẹp. Chốn tù lao đã trở nên trong hơn khi có sự tỏa sáng của cái đẹp, nó che lấp, bao phủ hết khiến người ta tựa như đó là chốn thư phòng trang nhã. Những thanh sắt của khe cửa sổ, hàng rào như muốn bứt tung ra bởi sự phóng thích của cái đẹp, của những “ đứa con” bất diệt. Độc giả như được nhấc bổng lên không trung với trời đất, không trọng lượng cứ thế mà bay lên. Thoát khỏi cõi trần gian nguyên sơ để đến hòa với cái đẹp, say sưa đến mức không thể dứt ra khỏi. Tất cả như được Nguyễn Tuân tạo dựng một thức phim và giờ đây độc giả bật lại cho chậm từ từ, để cùng chiêm ngưỡng. Lòng người từ đó mà trở nên thao thức, rạo rực tựa “đứa con” ấy đang nằm trong bụng và sự trực trào bột phát khi ta có nhu cầu. Qua đó đã thể hiện của quan niệm của Nguyễn Tuân “ Cái đẹp luôn chiến thắng cái xấu xa, tàn ác”. Người ta cho rằng, trước cách mạng, Nguyễn Tuân chỉ theo quan niệm “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, nó là thiếu chính xác, vì ta còn thấy trong tác phẩm này có sự tỏa sáng của thiên lương. Vậy là, văn chương luôn hướng tới chân-thiện-mỹ là ở đây. Ông Huấn đã khuyên quản ngục “ Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời người”. Bản thân viên quản ngục luôn tôn sùng và đi tìm cái đẹp, nhưng do bóng tối của chốn ngục tù đã gạt cái nét đẹp đáng quý này sang bên lề. Và hôm ấy, “nét chữ” kia đã vô tình kéo nó trở về phần đường của mình. Ngấm những đạo lí ông Huấn truyền thì viên quản ngục có lẽ sẽ lại đưa ra những quyết định đúng đắn cho cuộc đời của mình. Biết đâu, sau dấu chấm cuối truyện thì ông quản sẽ từ bỏ chốn ngục tù để về với quê nhà, tận hưởng cái thú chơi chữ, để ngắm nhìn nó mỗi ngày. Những dòng chữ vuông tương tắn ấy, chính là cầu nối bắc ngang giữa hai tâm hồn đồng điệu hướng tới cái đẹp. Nó đã phá tan trong suy tưởng của ông quản sự tối tăm vây bủa, tỏa ra thứ ánh sáng đầy sinh khí cho cuộc đời của một con người lầm bước. Huấn Cao sau đêm hôm đó, sẽ phải chịu án chém thế nhưng trong mắt của mọi người thì ông mãi còn trên cõi đời này. Bởi ông là hiện thân cho cái đẹp, sản sinh ra nó trên đời. Với bàn tay viết thư pháp, mà ông đã kéo được một con người bị tha hóa trở với với cuộc sống thực ý nghĩa, là những “thanh âm trong trẻo”. Ông đã gieo rắc những hạt giống yêu thương đến mọi mảnh đời để làm trong hơn cái vốn dĩ trong hoặc cái đang bị vấy đục. Tựa như một người nghệ sĩ chân chính, Huấn Cao đã dẫn dắt mọi người đến với cái đích của nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ.

Cảnh tượng cho chữ trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân là một bản hòa ca với những nốt cao ngân vang trong lòng bạn đọc về cái đẹp, sự tỏa sáng mãnh liệt của thiên lương. Bằng ngôn ngữ giàu tính tạo hình, truyền cảm, cùng với thủ pháp đối lập tương phản tạo dựng nên một không khí cổ kính, trang nhã. Kết hợp cùng với cách tạo dựng tình huống truyện độc đáo và nghệ thuật dựng cảnh khắc họa tính cách nhân vật. Tất cả đã tạo nên một thiên truyện độc đáo và đặc sắc “Chữ người tử tù”.

Cảnh cho chữ là một cảnh tượng độc đáo trong tác phẩm "Chữ người tử tù". Chính cảnh ấy đã nói lên được cái thiện, cái tốt luôn chiến thắng cái xấu, cái ác. Có thể nói rằng, đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, một không hai. " Cảnh cho chữ" đã góp phần tạo cho toàn tác phẩm một sức lôi cuốn mạnh mẽ và chứa đựng nhiều tư tưởng mà ông Nguyễn muốn gửi gắm tới độc giả.

“Chữ người tử tù” sẽ còn để lại những dư âm sâu lắng trong lòng bạn đọc. Và sau khi gấp trang sách lại, tâm hồn tựa như được tưới mát bởi một thứ nước suối thần kì mà trở lên trong hơn. Tôi đang lắng nghe “những thanh âm trong trẻo” trong một bản nhạc mà mê đắm. Tôi lặng lẽ nhìn những bông hoa nhỏ đang nở rộ mà thất thần…

Tác giả: Nguyễn Kim Ngân
Bản quyền bài viết thuộc về Văn học trẻ
 
Từ khóa Từ khóa
cam nhan cảnh cho chữ chu nguoi tu tu nhan vat
2K
0
1
Trả lời

Cảm nhận về cảnh cho chữ hay nhất​

Trong tác phẩm “Theo giòng”, nhà văn Thạch Lam có viết: “Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Cái đẹp trong văn chương thường được khắc họa từ cái đẹp của đời sống, cái đẹp của sự vật hiện hữu trực tiếp. Nhưng không chỉ có vậy, đối với văn chương chân chính, người nghệ sĩ chân chính còn cần phát hiện cái đẹp kín đáo, những cái đẹp ẩn sâu sau những nơi tưởng chừng xấu xa, dơ bẩn và không có gì đẹp đẽ. Có lẽ, nhà văn Nguyễn Tuân – người dành cả đời mình với sứ mệnh đi tìm cái đẹp đã hoàn thành sứ mệnh “phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới” một cách toàn vẹn. Với tác phẩm “Chữ người tử tù” và phân đoạn miêu tả cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã dẫn dắt người đọc thấy được vẻ đẹp và sự chiến thắng của cái thiện ở nơi ngục tù tăm tối nhất, cho người đọc thấy được một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.

Tác giả Nguyễn Tuân là một người theo chủ nghĩa “xê dịch” và là người suốt đời đi tìm cái đẹp. Các sáng tác trước cách mạng của nhà văn thường chú tâm đi tìm vẻ đẹp vang bóng. Nguyễn Tuân thường nhìn các sự vật dưới góc độ thẩm mỹ, văn hóa; đồng thời nhìn con người dưới góc độ người nghệ sĩ. Ông là người am hiểu nhiều về các phương diện như văn hóa, nghệ thuật sân khấu, ẩm thực,… và rất biết cách vận dụng chúng để làm nổi bật các đối tượng mà ông xây dựng. Các so sánh và liên tưởng của Nguyễn Tuân phóng túng nhưng kì thực lại thích hợp, bất ngờ, chính xác. Tất cả đặc điểm sáng tác nghệ thuật của ông ta có thể dễ dàng bắt gặp trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.



“Chữ người tử tù” được xem là vầng sáng lung linh, chói lọi nhất trong “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân. Một cuộc hội ngộ giữa người tạo ra cái đẹp (Huấn Cao) và người say mê cái đẹp (viên quản ngục) được nhà văn mang đến cho độc giả. Câu chuyện xoay quanh về những ngày cuối cùng trong đời của Huấn Cao tại trại giam tỉnh Sơn và thời khắc ông Huấn để lại bức thư pháp – hạt giống nghệ thuật ở đời cho “người tri kỉ muộn màng” tiếp tục sứ mệnh cao cả của cái đẹp. Tác phẩm đã thành công xây dựng những nhân vật điển hình như Huấn Cao với tài viết chữ và thiên lương cao cả, với viên quản ngục là người “biệt nhỡn liên tài”, biết giữ thiên lương trong sáng. Cảnh cho chữ ở phần cuối tác phẩm là một lời khẳng định: dẫu ở đâu, dẫu là một nơi dơ bẩn và tù tội, cái đẹp vẫn sẽ hiện hữu và chiến thắng cái ác, cứu rỗi con người khởi những xấu xa, đê hèn. Đây cũng là tình tiết đặc sắc nhất trong “Chữ người tử tù”, góp phần phát triển mạch truyện và bộc lộ vẻ đẹp của các nhân vật.

Được xem như cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” bởi lẽ cảnh cho chữ diễn ra trong một không gian đặc biệt: “buồng tối chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián”. “Trong không khí khói tỏa ra như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ. Khói bốc tỏa ra cay mắt làm họ dụi mắt lia lịa”. Nghệ thuật cho chữ là một môn nghệ thuật cao quý, đáng lẽ việc cho chữ phải diễn ra ở một nơi trang trọng và tao nhã như thư phòng hay thư sảnh. Thế mà, ở đây, viên thơ lại, viên quản ngục lại tập trung ở một nơi ngục tù đầy rẫy tội ác mà xin chữ của ông Huấn Cao. Công việc cho chữ đáng lẽ nên diễn ra ở nơi “thanh thiên bạch nhật”, diễn ra một cách đường hoàng nhưng trong “Chữ người tử tù” lại xảy ra vào lúc “đêm khuya trong trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng lại tiếng mõ trên vọng canh”. Một thời điểm u tối, tịch mịch, đêm khuya bao trùm và đặc biệt hơn đây còn là đêm cuối cùng của Huấn Cao trước khi bị áp giải về kinh. Khi cho chữ, cả người cho và người đi xin chữ đều nên ở một trạng thái an nhiên, bình tĩnh nhất nhưng đối với Huấn Cao, viên quản ngục và viên thơ lại đây lại như giờ phút “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong thời khắc lâm chung của cuộc đời, đáng lẽ Huấn Cao nên để lại di nguyện của mình; vậy mà, ông lại dùng đêm cuối ngày để đáp lại một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, để khỏi “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.



Tại nơi trại giam tỉnh Sơn ngay phút giây này là sự hội ngộ “xưa nay chưa từng có”. Đó là cuộc gặp gỡ của những con người trên hai bờ chiến chuyến, một là quan lại triều đình, một là tử tù sắp về kinh thụ án. Dù trên phương diện xã hội, họ là kẻ thù, nhưng trong nghệ thuật, họ lại là tri kỉ, là kẻ “đồng bệnh tương liên”. Ba con người, với niềm say mê và kính trọng cái đẹp, hội ngộ trong không khí “khói tỏa ra như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu” rọi lên họ. Dường như, ánh sáng của bó đuốc chính là thứ ánh sáng đại diện cho cái đẹp, cái thiện, soi sáng, chỉ dẫn cho con người thoát khỏi nơi tối tăm và tù tội. Bó đuốc sáng rực giữ ngục thất như cái đẹp chân chính soi rọi, lấn át cái đen tối của tội ác đê hèn. Cả ba người đang chăm chú lên “tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”, ông Huấn thì tập trung viết chữ, dồn hết sức lực đem hạt giống cuối cùng của nghệ thuật để lại chốn trần gian. Hai người viên quản ngục và thầy thơ lại vì trông đợi giây phút mà cái đẹp, cái tài được xuất hiện trên mặt lụa trắng. “Tấm lụa trắng” có thể nói là biểu hiện của tấm lòng cao cả, thiên lương trong sáng của ba tâm hồn. “Ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau” – ánh nhìn của những người tri âm tri kỉ. Khoảng cách xã hội được xóa nhòa đi, giữa họ bây giờ chỉ còn lại niềm đam mê nghệ thuật, sự đồng điệu trong tâm hồn. Tất cả mọi xiềng xích đều bị tháo dở, nhường chỗ cho cuộc hội ngộ của những con người tri kỉ với nhau.

Nguyễn Tuân tái hiện cảnh cho chữ với sự đảo lộn tư thế của các nhân vật. Viên quản ngục vốn là người cai quản tù nhân – công cụ đàn áp của thế lực phong kiến giờ đây lại “khúm núm” trước một người tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”. Tù nhân thường vái lạy và van xin cai ngục nhưng lại hiện lên với tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, “đang đậm tô nét trên chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Cái đẹp về tài hoa và nhân cách con người xuất hiện khiến cục diện bị đảo lộn, kẻ thường tỏ vẹ thị uy phải khiếp sợ, người đáng lẽ phải khúm núm thì hiên ngang. Vị thế của Huấn Cao và viên quản ngục cũng được Nguyễn Tuân đảo lộn khiến người đọc bất ngờ. Huấn Cao đã ở vào vị trí cao hơn của người cho chữ, còn viên quản ngục vào vị trí thấp hơn – người nhận chữ. Sau khi trao đi cái đẹp, Huấn Cao còn ân cần nhắc nhở: “Ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy Quản hãy thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người.” “Tôi bảo thực thầy Quản nên tìm về quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc cả cái đời lương thiện đi.” Đến những giờ phút cuối cùng, con người với thiên lương cao cả ấy vẫn không quên nghĩ đến người khác. Còn ngục quan sau khi nghe xong thời dạy thì “cảm động, chấp tay vái người tù một vái, nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái cúi đầu bái lạy của ngục quan như cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai. “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – một đời chỉ bái lạy trước những điều cao quý, trước cái đẹp. Cái cúi đầu tỉnh ngộ không làm tư thế của con người hèn mọn đi mà càng tôn lên tầm vóc của họ - tầm vóc của những người cao cả, biết giữ thiên lương, giữ lấy cái tâm trong sạch.

Như đã nói, tài năng, phong cách của Nguyễn Tuân được bộc lộ rõ ràng thông qua phân đoạn miêu tả cảnh cho chữ. Nhưng không chỉ có vậy, cảnh cho chữ chính bản thân nó cũng mang lấy cho mình ý nghĩa riêng, ý nghĩa đối với toàn bộ tác phẩm và đối với từng nhân vật. Cảnh cho chữ tạo ra những tình huống đảo ngược lạ lùng và chính những kì lạ đó lại tạo nên sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Nhà tù tăm tối, đầy rẫy những cái bất công nay lại được soi sáng bởi cái thiện, cái trong sáng. Nhà thù thực dân – nơi chôn vùi xác người, nơi kết thúc sự sống của ai dám chống lại cường quyền phong kiến lại trở thành nơi ươm mầm cho cái đẹp sinh sôi, nảy nở. Có thể Huấn Cao không còn nữa, nhưng cái đẹp được gieo trồng ở nơi đây sẽ bất diệt. Ngục thất ảm đạm và đen tối được thiên lương, cái thiện soi sáng; không hẳn trở thành thiên đàng nhưng đã không còn lạnh lùng, tàn nhẫn. Cái đẹp đã lên ngôi, soán quyền cái ác, trở thành người làm chủ. Biểu tượng chữ xuất hiện trong cảnh cho chữ đối với Huấn Cao như một di nguyện cuối để lại cho đời. Chữ là kết tinh cái tài, tâm hồn cao cả của ông và nó được tiếp nối bởi viên quản ngục. Với viên quản ngục, chữ là biểu tượng cho sự say mê cái tài, đại diện cho tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của ông. Chính chữ cũng là liều thuốc tinh thần khiến ông thức tỉnh khỏi giấc mộng dài, đưa ông về với thiện lương. Biểu tượng chữ chính là sự thăng hoa của cái đẹp, thiện thân cho cái thiện và sức mạnh cảm hóa của cái thiện. Người cho chữ không chỉ cho tài hoa và còn cho tấm lòng, người nhận không chỉ nhận một tờ giấy ghi chữ vô tri vô giác mà nhận cả một sứ mệnh bảo toàn cái đẹp. Trong cảnh cho chữ, các phẩm chất của nhân vật cũng được khắc họa rõ nét và toàn vẹn nhất: Huấn Cao là vẻ đẹp anh hùng khí phách “chọc trời khuấy nước”, đại diện cho cái đẹp, hội tụ của tài hoa và những gì cao quý nhất trong cuộc đời. Ông đã để lại bức thi pháp một như di nguyện thiêng liêng của mình. Còn ở viên quan ngục, ta nhìn thấy rằng cảnh cho chữ đã mở ra con đường mới cho ông, mở ra hướng giải quyết cho bi kịch “xanh vỏ đỏ lòng” đau khổ. Với lời khuyên của Huấn Cao, ta có quyền tin rằng trong tương lai không xa, viên quản ngục có thể sẽ rời bỏ công việc quản ngục, trở về quê sống quãng đời còn lại với thiên lương chân chính. Nhà văn Nguyễn Tuân thông qua cảnh cho chữ, ông đã bày tỏ quan điểm về cái đẹp của mình. Cái đẹp không bao giờ bị cái ác lấn át, không bao giờ bị cái xấu làm nhiễm bùn nhơ. Chính trong cái chết, cái thiện sẽ tái sinh; cái thiện tồn tại song song với cái ác nhưng tất nhiên không thể ở chung một chỗ với cái ác. Con người chỉ xứng đáng có được cái đẹp khi con người ấy biết giữ gìn cái tâm lương thiện. Tác giả thể hiện một tinh thần dân tộc sâu sắc, bộc lộ một lòng yêu nước kín đáo và tinh tế gửi gắm nơi thú chơi chữ tao nhã, truyền thống, đầy vẻ mỹ học; gửi gắm trong lòng bất mãn với chế độ đương thời và lòng kính trọng, mến mộ những người sống khí phách, mạnh mẽ, tài hoa và thiên lương.

Tất cả các yếu tố trong cảnh cho chữ được kết hợp nhuần nhuyễn giữa các thủ pháp nghệ thuật độc đáo như tương phản, đảo ngược, đặc tả; khả năng dựng cảnh và dựng, truyện tả người sinh động và nghệ thuật điêu khắc, điện ảnh. Ở phân cảnh này, có biết bao sự dồn nén cảm xúc đã được hóa giải, những xung đột, mâu thuẫn cuối cùng đã có lời giải đáp. Dẫu sau này Huấn Cao không còn trên đời nhưng ông đã để lại cho đời những hạt giống của cái đẹp, nghệ thuật chân chính cũng như tìm được người kế thừa, phát huy những giá trị bền vững đó.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc phát hiện “vẻ đẹp kín đáo” (Thạch Lam) tại nơi ngục thất tưởng chừng đã mất hết tình người, mất hết sự lương thiện, đồng thời cho người đọc “một bài học trông nhìn và thưởng thức” về sức mạnh của cái đẹp, cái thiện. Cảnh cho chữ trong tác phẩm “Chữ người tử tù” đã chứng minh được tài năng của ông. Phân cảnh đúng như lời nhận xét là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”!


CHÂU NGUYỄN ÁI MY
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.