Những sáng tác đặc sắc của Nguyễn Đình Chiểu

Những sáng tác đặc sắc của Nguyễn Đình Chiểu

Bài Văn Hay
Bài Văn Hay
Nguyễn Đình chiểu là một nhà thơ, nhà văn hóa cận đại của Việt Nam. Sự nghiệp thơ văn của ông đóng góp to lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam ở giai đoạn cuối thế XIX nói riêng, nền văn học nói chung. Qua các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu có thể thấy dưới ngòi bút tài ba của ông, các nhân vật từ chính đến phụ, phản diện hay chính diện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, mang những màu sắc rất riêng biệt và đa dạng.

Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu:

  • Lục Vân Tiên sáng tác trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, có tính chất tự truyện.
  • Dương Từ Hà Mậu (chưa xác định thời điểm sáng tác)
  • Ngư Tiều y thuật vấn đáp (chưa xác định thời điểm sáng tác)
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861)
  • Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864)
  • Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868)
  • Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874)
  • Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
  • Hịch đánh chuột (chưa xác định thời điểm sáng tác).


Những sáng tác đặc sắc của Nguyễn Đình Chiểu

1.Truyện Lục Vân Tiên:

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm ông viết trước khi Pháp xâm lược đát nước, nhằm tuyên truyền đạo lí:

“ Trai thì trung hiếu làm đầu,
Gái thì tiết hạnh là câu trau mình.”

Nhưng bằng một cảm hứng mãnh liệt, một năng lực sáng tạo nghệ thuật không nhỏ, qua hình thức kể chuyện bằng văn vần (truyện thơ), đã trở thành khúc ca chiến đấu và chiến thắng của chính nghĩa, của đạo lí nhân dân với nhiều hình tượng nghệ thuật đẹp trong văn chương. Tác phẩm Lục Vân Tiên là bản án kết tội những kẻ bất nhân phi nghĩa: Gia đình Võ Công lật lọng tàn bạo với chàng rể tương lai họ Lục đáng thương; viên Thái sư hiểm ác, chơi trò không ăn được đạp đổ trên thân phạn phận cô gái họ Kiều; Trịnh Hâm đố kị, phản trắc, phạm tội giết người; Bùi Kiệm không nghĩa không tình muốn tranh giành người vợ tương lai của bạn.

Tác phẩm Lục Vân Tiên đã được thử thách qua thời gian. Nó có sức sống lớn trong mọi tầng lớp người Việt Nam xưa và nay, đặc biệt là người dân Nam Bộ. Tác phẩm và nhiều chi tiết, hình tượng của tác phẩm thực tế đã là nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của một số loại hình nghệ thuật khác.

2. Chạy giặc

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?

Tên bài này có nơi chép là Chạy Tây.

Hiện chưa thấy tài liệu nào nói rõ thời điểm ra đời của bài thơ. Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu và nhất là nội dung tác phẩm, có người cho rằng bài thơ này đã được tác giả viết ngay sau khi thành Gia Định bị thực dân Pháp bắt đầu tấn công (ngày 17-2-1859). Đây là một trong những tác phẩm đầu tiên của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

Bài thơ này được sử dụng trong phần đọc thêm SGK Ngữ văn 11 từ 2017.
Nguồn: Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học, 1971

3. Dương Từ – Hà Mậu:

Quyển Dương Từ – Hà Mậu có lẽ được Nguyễn Đình Chiểu viết sau khi ông chạy giặc ở Gia Đinh về Cần Giuộc, vì trong Dương Từ – Hà Mậu, Nguyễn Đình Chiểu có nói đến giặc ngoại xâm, nhất là ông có viết mấy câu sau này:

Dương Từ - Hà Mậu
Bấy lâu giặc dã chưa rồi
Những no sẽ tủ bỏ nơi dọc đường
Hay đau việc học ròng ròng
Con ngoài cung biết luống cung ngỡ ngàng.

Số phận của Dương Từ, Hà Mậu là số phận của những tác phẩm nội dung không lợi cho thực dân, cho nên suốt thời Pháp đô hộ, nó chỉ được ra mắt đồng bào bằng một số đoạn trích trong Nỗi lòng Đồ Chiểu nhưng rồi cũng bị cấm. Mãi đến năm 1964 mới được công bố đầy đủ.

4. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn tế do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác để ngợi ca, thương tiếc và kính phục những nghĩa quân đã anh dũng đứng lên chống Thực dân Pháptại Cần Giuộc vào năm 1861.

Bài văn tế này bằng chữ Nôm, gồm 30 liên, tức 60 vế đối biền ngẫu, làm theo thể phú luật Đường luật, có vần, có đối. Toàn bài mang tính chất trầm hùng, bi thiết, có sức cổ vũ lớn. Cái đặc sắc, kỳ thú ở bài văn là dùng nhiều ngôn ngữ và chi tiết bình thường, quen thuộc trong đời sống hàng ngày mà dựng lên được hình ảnh rất sống của thế hệ những người chống Pháp tiêu biểu buổi ấy…

Nói cách khác, bài văn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực. Ngôn ngữ thì bình dị, mộc mạc, giàu lời ăn tiếng nói thân thuộc của nhân dân, đặc biệt là bản sắc địa phương Nam Bộ.

Có thể nói, đây là tác phẩm xúc động nhất về người anh hùng nông dân Nam Bộ. Đó là những người quanh năm nghèo khó, chưa từng cầm vũ khí, nhưng khi quân Pháp đến thì xông lên chiến đấu quên mình, biểu thị tinh thần dũng mãnh bất khuất, tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự do của dân tộc. Bài văn không chỉ là một thiên anh hùng ca đặc sắc, mà còn là lời bộc bạch gan ruột của những người dân không chịu làm nô lệ, thề đánh quân xâm lược đến cùng, là lời trách móc thâm trầm đối với thái độ đầu hàng… Bởi vậy, khi bài văn tế này lan truyền đến Huế, chính vua Tự Đức đã ra lệnh phổ biến trong nhiều địa phương khác.

5. Ngư tiều vấn đáp y thuật (từ sau 1874):

Ngư tiều vấn đáp y thuật là một tác phẩm ngoài nêu cao lòng yêu nước, căm thù giặc còn là một tác phẩm chuyên môn nhằm phổ biến y học, với tinh thần giúp đời cứu người. Tác phẩm là tác phẩm lớn cuối cùng của cụ. Từ Lục Vân Tiên đến Ngư tiều vấn đáp y thuật có sự phát triển khá rõ rệt về tư tưởng và nghệ thuật. Có nghệ thuật, có căng có chùng, do tình hình đất nước. Nhưng con người sống giữa đời cũng như sống trong thơ chỉ ngày càng có chất. Nhà thơ và anh hùng thế kỷ XV coi “hổ phác, phục linh” như chất kết tinh cái anh hào nhất của một đời mình. Nó cũng “dùng để trợ dân này”. Cuốn sách này của cụ Đồ cũng vậy, Y thuật ấy là sự kết tinh nghề thuốc trong hang trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời và chiều sâu dân tộc mấy nghìn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương bị rơi vào tay giặc: giữ khí tiết, không phục vị quân thù, làm một công việc có ý nghĩa vừa giúp dân vừa giúp nước. Thang thuốc có vị cay của gừng, mà cũng có mùi thơm của trầm. Cái chất của cuốn sách tuổi già là vậy.

6. Đạo trời

Đạo trời

Đạo trời nào phải ở đâu xa,
Gội tấm lòng người có giải ra.
Mến nghĩa bao đành làm phản nước,
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà.
Xưa nay đều chọn đường trung hiếu,
Sách vở còn ghi lẽ chánh tà.
Năm phẩm rừng nhu săn sóc lấy,
Ấy là đạo vị ở mình ta.

Tiêu đề có nơi chép là Đạo người.

Nguồn: Nguyễn Đình Chiểu (thân thế và thơ văn), Nguyễn Bá Thế, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1957

Văn thơ chống Pháp của Đồ Chiểu là tiếng nói nghệ thuật cao cả, cần thiết cho tổ quốc Việt Nam trong cảnh ngộ đau thương. Giá trị của nó không chỉ ở tư tưởng tình cảm mà cũng còn ở độ chín của ngôn ngữ, ở khả năng vận dụng thi pháp nghệ thuật. Nó xứng đáng là lá cờ đầu của nền văn chương chống ngoại xâm thời cận đại .
 
Từ khóa
nguyễn đình chiểu những sáng tác đặc sắc của nguyễn đình chiểu tổ quốc việt nam văn chương chống ngoại xâm văn thơ chống pháp đồ chiểu
310
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Bình luận mới

Top