Tổng hợp bài viết hay nhất bài viết số 2: Văn tự sự

Tổng hợp bài viết hay nhất bài viết số 2: Văn tự sự

nauyeee
nauyeee
  • Thành Viên 20
Để viết được một bài văn tự sự hay, người viết cần những kĩ năng nhất định, nắm vững được cốt truyện và các nhân vật trong truyện. Bài văn viết phải mạch lạc, rõ ràng và thu hút người đọc bởi lối dẫn chuyện của mình. Bài viết phải sắp xếp sự việc hợp lí và không rối, ngoài ra phải làm bật lên được tư tưởng mà mình muốn truyền tải qua truyện. Để làm cho bài viết thêm đặc sắc, cần kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố phụ như miêu tả, biểu cảm. Như vậy, bài văn về cơ bản đáp ứng những yêu cầu của độc giả.

Đề 1:

Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam, khi chia gia tài liền chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn cha mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho mảnh vườn và cây khế.

Năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra quả rất sai. Từng chùm quả chín vàng như nặng lúc lỉu trên cành. Người em nhìn cây khế mà vui mừng, tính đem bán để lấy tiền mua gạo.

Một hôm, có con chim lạ từ đâu bay đến ăn khế. Thấy cây khế bị chim ăn xơ xác người em ôm mặt khóc. Chim bỗng cất lời: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”

Người em nghe chim nói tiếng người lấy làm kinh ngạc, bèn về kể cho vợ nghe. Hai vợ chồng may một chiếc túi vừa đúng ba gang, chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, bảo người em ngồi lên lòng mình. Chim bay rất xa, đến một hòn đảo đầy vàng bạc giữa biển khơi bao la.
Người em lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi lại theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.

Người anh nghe thấy em giàu liền sang chơi và lân la hỏi chuyện. Em không giấu giếm kể lại cho anh tường tận mọi điều. Người anh nằng nặc đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy mảnh vườn và cây khế, người em dù không muốn nhưng thấy anh cương quyết quá cũng đành đổi cho anh.

Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu những quả vàng chín mọng, người anh khấp khởi mừng thầm, ngày ngày ngóng chờ con chim lạ tới. Thế rồi một hôm, chim tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc, chim cũng nói: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người anh nghe vậy, mừng như mở cờ trong bụng, vội vã cùng vợ may một chiếc túi to thật là to. Hôm sau chim tới đưa người anh đi lấy vàng ở hòn đảo xa lạ nọ. Nhìn thấy vàng bạc châu báu trên đảo, người anh vội vàng nhét đầy túi to, lại còn giắt khắp người. Khi người anh leo lên lưng chim, chim phải vỗ cánh mấy lần mới bay lên được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Chim bảo người anh vứt bớt vàng bạc đi nhưng anh ta không chịu. Chim nặng quá, nghiêng cánh, thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi xuống biển sâu, không bao giờ trở về được nữa.

Đề 2:

Tôi là đứa trẻ bất hạnh vì không có bố. Tuy lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ nhưng tôi vẫn thấy thiếu thốn tình cảm của một người bố. Điều mà tôi sợ nhất là ngày ngày đến trường, lũ trẻ nghịch ngợm cứ quây quanh tôi mà la toáng lên: “Ê, ê! Thằng con hoang không có bố!”.

Hồi ấy tôi khoảng bảy hoặc tám tuổi, người xanh xao, gầy gò và tính cách thì nhút nhát. Điệu bộ của tôi vụng về ngượng nghịu đến phát tội. Tan trường về nhà, tai tôi nghe đầy lời đám trẻ xầm xì không ngừng. Chúng ranh mãnh theo dõi từng bước của tôi. Bằng trò trêu ghẹo độc ác vô tội vạ của con nít, chúng chặn trước chặn sau, bao vây dồn tôi vào giữa. Tôi chỉ biết đứng chịu trận, vừa ngạc nhiên, vừa hoang mang sợ hãi chẳng biết chúng muốn gì. Mặc dù mẹ dặn là tránh xa chúng nó ra nhưng đã vài lần, tôi không thể kìm được cơn giận dữ, lao vào đánh đấm chúng túi bụi. Đương nhiên là tôi bị chúng tẩn cho ra trò. Tôi về mách mẹ. Mẹ ôm tôi vào lòng vuốt ve và an ủi nhưng rốt cuộc thì cuối cùng cả hai mẹ con chỉ biết cùng khóc.

Một hôm, tình trạng ấy lại tái diễn. Tôi nổi giận, vừa túm tóc tên nhóc vừa giơ chân đá. Tôi còn nhào đến, dữ tợn cắn vào má tên nhóc một phát, mở màn trận đấm đá tay đôi ác liệt, giữa đám giặc con đứng vòng ngoài vỗ tay reo hò. Tàn cuộc, tôi u đầu sứt trán, tay chân quần áo đầy đất cát. Một thằng lõi còn quát tôi:

- Về mách với bố mày đi!

Tim tôi đau nhói. Chúng nó đông hơn, chỉ lấy thịt đè người cũng đủ chết và tôi chẳng thể mở mồm biện minh được gì. Thật sự tôi chẳng có bố. Tôi nghẹn ngào, nhưng vì niềm kiêu hãnh, tôi cắn răng không khóc trước mặt lũ ranh. Tôi cố nén dòng nước mắt đang trào lên, nhưng niềm tức tưởi òa thành tiếng nấc không ngừng. Lũ ranh vỡ trận cười thỏa thích. Chúng tay nắm tay nhau, reo hò nhảy múa quanh tôi bằng điệp khúc:

“Thằng không bố! Ê, thằng không bố”. Tôi buồn bã bỏ học, lang thang ra bờ sông vắng. Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, bỗng dưng tôi muốn chết... Tôi muốn dìm mình xuống sông vì không có bố. Tôi tuyệt vọng, chạm chân vào nước, đăm chiêu nhìn dòng sông lững lờ trôi. Vài con cá nhảy lên mặt nước xanh để đớp ruồi. Tôi nín khóc, thích thú nhìn cảnh ngộ nghĩnh đang diễn trước mắt. Tuy nhiên, giữa lúc giông bão trong lòng tôi tạm lắng, như ngọn gió thình lình táp mạnh vào thân cây rồi ào đi, nó lại nghe niềm đau cào cấu. “Tôi muốn buông mình cho chết vì làm con không bố”. Tôi định nhảy ùm xuống, mặc cho dòng nước cuốn trôi đến đâu thì đến, chết lại càng hay! Lũ trẻ sẽ chẳng còn trêu chọc tôi được nữa và nỗi khổ tâm của tôi sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tôi chìm ngập trong cảm xúc đau thương. Gối đầu lên đôi bàn tay, tôi nằm ngửa nhìn trời. Trên cao là bầu trời xanh cao vời vợi. Những đám mây đủ mọi hình thù lãng đãng trôi. Ô kìa! Rõ ràng ba đám mây trắng ở sát bên nhau trông giống bố mẹ cùng dắt tay đứa con thơ. Tôi chợt bật khóc nức nở và gọi thật to: “Bố ơi! Bố ở đâu? Sao bố không về với con?”. Không một lời đáp lại. Chỉ có tiếng gió thổi xào xạc trong đám sậy ven sông. Tôi úp mặt xuống cỏ ướt, dần dần tỉnh lại. Rồi tôi nghĩ đến mẹ, Mẹ Blăng-sốt yêu quý của tôi! Nếu tôi không về nhà đúng giờ, mẹ sẽ lo lắng, sốt ruột biết chừng nào! Nếu tôi chết, chắc mẹ sẽ khóc hết nước mắt, có khi mẹ cũng sẽ chết theo tôi.

Trời thật ấm, ánh hồng trải mình trên cỏ, và dòng nước trong như gương. Tôi tận hưởng giây phút êm ả, đoạn mệt nhoài buông mình mơ màng trên thảm cỏ. Có con nhái xanh từ đâu nhảy dưới chân tôi. Tôi chồm người chụp lấy, nhưng con nhái vụt mất. Tôi rượt theo đến lần thứ tư mới bắt được. Nhìn con nhái cố sức ngọ nguậy trên tay để trốn thoát, tôi bật cười. Con nhái dồn sức xuống đôi chân sau, cố bật mạnh lên như chàng lực sĩ đang cử tạ. Tròng mở to như muôn lọt khỏi vòng mắt màu vàng viền bên ngoài và hai chân trước chòi đạp như thể hai tay đang quơ ra cầu cứu. Hình ảnh ấy khiến tôi nhớ món đồ chơi của mình. Món đồ chơi được ghép bằng những mảnh gỗ nhỏ đóng từng đoạn chồng lên nhau. Trên ấy là hàng lính tí hon, thao tác tùy theo mảnh gỗ chuyển động. Nghĩ đến đây, tôi nhớ nhà, nhớ mẹ và tủi thân bật khóc. Tay chân tôi run rẩy, tôi buông người quỳ xuống và cầu nguyện như hằng đêm trước khi đi ngủ. Chưa cầu nguyện xong, điều đau khổ lại trào dâng trong lòng khiến tôi òa khóc lớn. Bất ngờ, có bàn tay ai nặng trịch đặt lên vai nó. Theo đó là giọng nói trầm trầm:

- Bé con ơi, việc gì khiến con buồn đến thế…

Tôi quay lại. Một người thợ với hàm râu đen và mái tóc dợn từng sợi, đang chăm chú nhìn tôi. Tôi tức tưởi:

- Tụi nó đánh con, vì con không có bố.

Người thợ mỉm cười:

- Sao kỳ cục vậy?... Ai cũng có bố mà con.

Tôi đau thắt người, trả lời.

- Nhưng con không có.

Nghe câu nói, người thợ bối rối và bảo tôi:

- Nín khóc đi con. Chú sẽ dắt con về với mẹ. Mẹ con sẽ chỉ cho biết bố ở đâu.

Về đến trước căn nhà nhỏ xinh xắn. Tôi gọi to:

- Mẹ ơi, mẹ!

- Thưa cô, tôi gặp cháu đi lạc ngoài bến sông...

Tôi nhào ôm cổ mẹ, mếu máo.

- Không phải mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông. Tại tụi nó đánh con... Tụi nó đánh con vì con không có bố.

Mặt mẹ tôi ửng đỏ, ôm vội con vào lòng mà nước mắt tuôn trên má. Tôi chạy đến chân chân người thợ nói:

- Chú làm bố con được không...?

Ngột ngạt bao trùm, không ai nói một lời. Tôi liền tuyên bố:

- Nếu chú không chịu làm bố của con, con sẽ nhảy xuống sông.

- Được chứ sao không, nhóc con.

Tôi làm quen:

- Chú tên gì để có ai hỏi thì con nói?

- Phi-líp!

Tôi ghi nhớ và quả quyết nói với chú:

- Bây giờ chú là bố của con!

Còn gì hay hơn thế nữa? Tôi sung sướng ôm ghì lấy cổ chú Phi-líp, dụi mặt vào bé ngực vạm vỡ của chó.

Ngày hôm sau đi học, lũ bạn lại xúm vào trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận dữ, tôi kiêu hãnh đáp: “Bố tớ là thợ rèn Phi-líp!”. Lũ bạn nhao nhao: “Không đúng! Không đúng! Mày phải có một ông bố đàng hoàng như chúng tao cơ!”. Tôi không hiểu thế nào là một ông bố đàng hoàng nên đành nín nhịn, chờ tan buổi học. Lúc đi ngang qua lò rèn, tôi rẽ vào gặp bố Phi-líp của tôi, kể mọi chuyện cho bé nghe. Tôi thấy vẻ mặt bố trầm ngâm hẳn. Bố lẩm bẩm: “Thôi được! Thôi được! Con hãy về nhà đi! Con sẽ có bố, ông bố thực sự, ông bố đàng hoàng của con!”.

Sau đó, một điều tuyệt vời xảy ra: Bố Phi-líp đến gặp mẹ tôi, ngỏ lời cầu hôn với mẹ Blăng-sốt của tôi. Bố bảo tôi cần có bố thật sự, cần người bảo vệ. Bố Phi-líp đã đem lại cơ hội cho mẹ tôi được làm vợ một người đàn ông tử tế. Khỏi phải nói tôi vui mừng đến chừng nào! Thế là từ nay, đố đứa nào dám ức hiếp tôi nữa. Bố Phi-líp mạnh mẽ và tốt bụng sẽ là chỗ dựa chắc chắn cho cuộc đời tôi. Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, cứ hết nhìn tôi lại nhìn Phi-líp. Rồi mẹ lấy chiếc khăn choàng trên vai, lau nước mắt.

Hôm sau đến trường, khi cả lớp chuẩn bị đọc bài thì tôi đứng lên. Mặt tái xanh và môi run run, nhưng tôi nói rõ ràng từng chữ:

- Bố tao... bố tao là Phi-líp, làm thợ rèn. Đứa nào láng cháng, bố tao sẽ kéo đứt tai.

Không một ai trong đám trẻ dám mở miệng cười. Người thợ rèn Phi-líp nổi tiếng chúng đều biết, và đứa nào cũng đều hãnh diện có người cha oai phong như thế. Bố Phi-líp đã đến ở hẳn với hai mẹ con tôi. Tôi rất thích đi dạo dọc bờ sông mỗi chiều để tôi âu yếm nói: “Bố Phi-líp của con! Con yêu bố lắm!”

Đề 3:

Sau khi biết được người vợ thân yêu của mình đã phải chết bi thảm. Trọng Thủy vô cùng đâu khổ, dằn vặt và hối hận vì mình đã gây ra cái chết của Mị Châu. Suốt ngày, chàng thẫn thờ, ngẩn ngơ như người mất hồn. Rồi một hôm, chàng như thấy bóng dáng Mị Châu thấp thoáng trong làn nước giếng Loa Thành nên đã lao đầu xuống giếng mà chết.

Giếng Loa Thành nổi tiếng là sâu nên Trọng Thủy rơi mãi mà không chạm đáy. Khi rơi xuống, Trọng Thủy đã bị va đầu vào đá, chảy nhiều máu và bất tỉnh, không còn biết gì nữa. Khi Trọng Thủy tỉnh dậy, chàng thấy mình đang ở một nơi rất lạ. Chàng con đang ngồi băn khoăn không hiểu chuyện gì xảy ra thì thấy có một con cá chép vàng to đi thẳng bằng đuôi, hai vây của nó cầm giáo trông rất kì lạ. Con cá tiến lại gần và cất tiếng nói:

- Thưa! Long Vương chúng tôi thấy xác ngài trôi dạt đến tận ngoài biển Đông này, đã thương tình vẩy nước thần cho ngài sống lại. Nay ngài khỏe lại, Long Vương có lời mời ngài đến gặp mặt.

Trọng Thủy đáp ngay:

- Ồ! Ra là vậy! Ta đang băn khoăn không biết mình đang ở đâu. Được rồi, ngươi hãy dẫn ta đến diện kiến Long Vương.

Thế là cá chép vàng dẫn chàng đi đến chỗ Long Vương. Trước mặt chàng là một thế giới rộng lớn, xung quanh là nước với những loại tảo biển, san hô và các loại sinh vật tuyệt đẹp nơi biển cả, mà chàng chưa bao giờ được thấy. Có những đàn cá nối đuôi nhau, vui đùa nhảy múa…Đến diện kiến Long Vương, Trọng Thủy cám ơn Long Vương về ơn cứu mạng. Chàng cũng bày tỏ nỗi lòng mình và thỉnh cầu được gặp Mị Châu. Thấu hiểu được nổi lòng của Trọng Thủy, Long Vương khéo léo sắp xếp cho chàng gặp Mị Châu. Vậy là họ đã được gặp nhau. Trọng Thủy chạy lại nắm tay Mị Châu. Nàng rất dỗi bất ngờ khi thấy Trọng Thủy đến tìm gặp mình. Tim nàng thổn thức. Đứng trước mặt Trọng Thủy , Mị Châu rất muốn được ôm lấy chàng. Nhưng rồi, nàng cố nén lòng, bình thản gạt tay Trọng Thủy ra:

- Người kia! Người đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ giúp Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc, sao không ở trên đó hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý mà lại xuống tìm gặp ta làm gì?

Từng câu, từng chữ trong lời nói đanh thép của Mị Châu như từng vết dao cứa vào lòng Trọng Thủy khiến trái tim chàng đau nhói. Đau khổ, chàng cất tiếng:

- Ôi Mị Châu yêu dấu! Sao nàng lại có thể phủ phàng đến thế. Ta biết ta sai, ta rất hối hận và dằn vặt bản thân mình. Nhưng xin nàng hãy hiểu cho tình cảm của ta đối với nàng, xin nàng hãy tha thứ cho ta.

Mị Châu đang rất khổ tâm, con tim nàng như bị giằng xé. Nàng rất muốn tha thứ cho Trọng Thủy, nhưng nàng lại nhớ đến tội bất trung với nước, bất hiếu với cha mà mình đã gây ra, Mị Châu cất tiếng hỏi:

- Cớ sao chàng lại nhẫn tâm lừa dối ta khiến ta đau khổ? Ta thật ngây dại, vì tình yêu mà nghe theo mọi sự sắp đặt của chàng.

Trọng Thủy đau khổ, xót xa, ân hận:

Nàng ơi, mong nàng hiểu cho ta, ta không thể nào làm khác được. Ta không dám chống lại mệnh lệnh của vua cha. Quả thật, lúc đầu ta rắp tâm lừa dối cha con nàng, nhưng sau một thời gian chung sống với nhau, ta đã thật sự yêu nàng – một cô gái hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng. Làm sao ta có thể quên được nàng, vợ chồng một ngày nên tình, nên nghĩa. Lúc ta nhận ra sự tàn bạo , nghiệt ngã của chiến tranh phi nghĩa, thì đã quá muộn rồi. vì mù quán tuân theo lệnh của vua cha mà ta đã trở thành tội đồ, kẻ phản bội đáng bị người đời lên án, ta còn phải trả giá bằng chính hạnh phúc của mình. Mị Châu ơi! Lần nữa ta cầu xin sự rộng lòng tha thứ của nàng.

Mọi vật xung quanh tĩnh lặng như đang đồng cảm thương xót cho số phận đôi vợ chồng trẻ này. Nước mắt Mị Châu vẫn lã chã tuôn rơi. Nàng vừa giận, vừa thương. Trọng Thủy – một nạn nhân khốn khổ của cuộc chiền tranh phi nghĩa tàn ác. Nhưng lí trí đang mách bảo nàng quyết không để “trái tim lầm chỗ để trên đầu” lần nữa, nàng dịu giọng:

- Thôi, chàng đừng nói nữa, dù sao cũng cám ơn tình cảm chân thành của chàng dành cho ta. Nhưng ra không thể tha thứ cho chàng – kể tội đồ của nước Âu Lạc. Ta không thể! Từ nay chàng đừng đến tìm gặp ta nước, ta không muốn !

Trái tim Trọng Thủy như đang ta vỡ thành nhiều mảnh. Chàng đau khổ muốn chết. Chàng khuẩn khoản cầu xin Mị Châu lần nữa:

- Mị Châu ơi! Xin nàng hãy tha thứ cho ta. Ta đã biết tội của mình rồi, đã ân hận lắm rồi. Dù ta phải chịu nhiều hình phạt, cực hình, đau khổ đến nhường nào nữa, cũng mong nàng tha thứ và mong được gặp nàng

Mị Châu nhất quyết cự tuyệt Trọng Thủy. Rồi cả Mị Châu và cung điện tự nhiên biến mất. Trọng Thủy còn lại trơ trọi một mình . Buồn rầu, khổ não, Trọng Thủy mong ước nước biển ngàn năm sẽ xóa sạch lỗi lầm của mình.

- Mị Châu, ta ao ước biết bao đến một lúc nào đó, ta và nàng sẽ gặp lại nhau, một nơi rất xa. Khi ấy không còn những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc. Ta và nàng sẽ không còn kẻ Bắc người Nam nữa, và rồi tình yêu sẽ trở lại giữa hai ta.

Vừa dứt lời, Trọng Thủy hóa thành một bức tượng đá, vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương.

Đề 4:

Mẹ tôi!

Ba mẹ tôi chia tay từ sớm, mẹ đưa tôi rời bỏ quê hương đến một vùng đất mới để sinh sống. Khi ấy tôi còn nhỏ tôi chưa biết thế nào là cực khổ, vất vả, tôi chỉ biết gia đình tôi nghèo hơn những gia đình khác. Nếu mâm cơm bình thường mọi nhà mỗi người sẽ có một quả trứng, thì nhà tôi chỉ có duy nhất một quả cho hai mẹ con. Nếu nhà mọi người được làm bằng gỗ, láng si măng thì nhà tôi được quây lại bằng những phên nứa ọp ẹp mà chỉ cần một cơn mưa to là có thể đổ ập. Nhưng mẹ tôi là một người phụ nữ kiên cường. Những năm đói khổ ấy mẹ vẫn vững vàng trước mọi giông tố nuôi tôi khôn lớn.

Mẹ tôi nhỏ người, thấp và gầy. Khuôn mặt mẹ tròn và những đường nét trên mặt rất đẹp. Dù phải chịu nhiều vất vả, khổ cực nhưng cũng không làm phai mờ nét đẹp đó của mẹ. Đôi lông mày đen dài dài, uốn cong cong, ôm trọn lấy đôi mắt trong, sáng và có hồn. Đôi mắt mẹ, tôi ít thấy tươi vui, trong mắt ngập đầy nỗi buồn và ưu tư. Nhưng cũng có đôi khi tôi thấy đôi mắt ấy cười, nhất là những ngày mẹ đi làm được nhiều tiền hơn, hôm ấy bữa ăn đủ đầy và nhìn thấy tôi ăn ngon miệng, hết bát này đến bát khác. Niềm vui của mẹ thật bình dị. Da mẹ trước đây rất trắng, hồng hào, tôi đã từng xem một bức ảnh của mẹ, nhưng từ ngày dời quê hương, phải vất vả kiếm sống da mẹ đã sạm dần, những vết nhăn cũng xuất hiện trên mặt. Tôi thích giọng mẹ nói, giọng mẹ hát ru. Những trưa hè nghe tiếng mẹ ru ngọt ngào: “Đôi làn môi con ….” Dù có nóng nực cũng khiến tôi chìm sâu vào giấc ngủ.

Những năm đầu sống ở đây cuộc sống của hai mẹ con rất chật vật, vất vả. Mẹ tôi làm đủ nghề, đi chợ huyện, bán hàng,… để trang trải cuộc sống. Mẹ hay cáu gắt và khe khắt với tôi. Bất cứ lỗi nào, dù nhỏ mẹ cũng mắng và tệ hơn là đánh. Đôi khi tôi rất ghét mẹ, vì mẹ đã đối xử tệ bạc với tôi. Nhưng tôi đâu thấu hiểu nỗi lòng của một bà mẹ phải tự mình nuôi con. Sợ tôi được nuông chiều đâm hư hỏng, nên mẹ khắt khe với tôi hơn những người mẹ khác.

Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi chính là ngày hôm ấy. Trước khi mẹ được nhận làm giáo viên ở trường mầm non và cuộc sống hai mẹ con bớt chật vật, sáng nào mẹ cũng dậy từ 3 giờ, đi chợ huyện để bán hàng. Hôm ấy như mọi ngày mẹ đi chợ vào sáng sớm và để tôi ở nhà tự lo liệu mọi việc. Nhưng hôm ấy thay vì như mọi lần tôi ở nhà ngoan ngoãn, đợi mẹ về thì tôi lại cùng chúng bạn vào rừng lấy củi từ sớm. Tôi muốn tạo cho mẹ một bất ngờ, tôi muốn cho mẹ thấy tôi đã trưởng thành và có thể giúp đỡ của mẹ. Mọi chuyện vẫn êm đẹp nếu tôi không nổi hứng cùng chúng bạn nhảy xuống sông nghịch nước. Ban đầu tôi men ở gần bờ, rồi sau đi ra ngày một xa mà không hề biết. Tôi bất ngờ trượt chân vào vùng nước sâu, tôi chới với, khua chân, đập tay cầu cứu. Rồi tôi lả dần, lịm đi và không còn biết gì nữa.

Có lẽ sau đó ai đấy nhìn thấy nên đã ra cứu tôi, mang tôi về nhà, có lẽ lúc ấy tôi đã như một con cá mắc cạn, người lả đi, môi tím tái. Tôi không biết gì cả cho đến sáng hôm sau, lờ mờ mở mắt ra thì thấy mẹ ngủ gục bên cạnh. Trên mặt mẹ vẫn còn ướt đẫm nước mắt, những giọt nước mặt vẫn còn vương trên mi, tay mẹ nắm chặt lấy tay tôi. Tôi thấy người mỏi và nóng nên khẽ cựa mình. Thấy tôi cử động, mẹ choàng tỉnh, cuống cuồng hỏi han và ôm lấy tôi. Mẹ ghì chặt tôi vào lòng, có cảm giác tôi không thể thở được nữa. Có lẽ mẹ sợ mất tôi. Người thân duy nhất còn lại bên mẹ. Mẹ để tôi nằm xuống không mắng mỏ, không quát tháo, chỉ nhìn, nhìn thấu tôi,… đôi mắt vừa sầu bi, buồn thảm vừa vui mừng,… tôi không biết diễn tả sao cho hết ánh mắt ấy. Chỉ biết đến tận bây giờ tôi vẫn ám ảnh.

Một đêm thức chăm tôi mẹ gầy rộc đi, có lẽ vì lo cho tôi mà mẹ gầy nhanh đến vậy, mẹ bỏ bê cả buôn bán, chợ búa – việc mà mẹ yêu nhất trên đời, mẹ chưa bỏ buổi chợ nào kể cả những ngày mưa bão hãy gió lạnh. Mẹ ở nhà quanh quẩn bên tôi, tôi cần gì mẹ sẽ đem đến tận nơi. Lần đầu tiên tôi thấy mẹ mình như vậy. Nhà tôi vốn nghèo nên chẳng có gì tẩm bổ, nên những bữa cơm hôm đó mẹ nhường cả quả trứng bé tí hon cho tôi ăn. Mẹ chỉ ăn rau và luôn nói, có rau là đủ chất rồi. Còn tôi, tôi lại nghĩ rằng đó là mẹ nói thật, tôi ăn hết cả quả trứng mà chẳng hề suy tư, chẳng hề biết rằng đó là lời mẹ nói dối. Mãi sau này khi lớn lên, khi đã hiểu chuyện hơn tôi mới thấu hiểu những lời mẹ mắng, những lần mẹ đánh và cả những lời mẹ nói dối khi xưa.

Giờ cuộc sống của hai mẹ con đã dần ổn hơn, mẹ đã không còn vất vả như xưa nữa. Nhưng mỗi lần nghĩ về mẹ, nghĩ về những năm tháng nhọc nhằn nuôi tôi khôn lớn tôi lại thầm cảm ơn mẹ. Nếu không có mẹ có lẽ sẽ không có tôi mạnh mẽ, trưởng thành và khôn lớn như ngày hôm nay. Cảm ơn mẹ của con.

Tổng hợp
 
Từ khóa
tổng hợp bài viết hay nhất bài viết số 2
383
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top