Tổng ôn văn học dân gian Việt Nam

Tổng ôn văn học dân gian Việt Nam

nauyeee
nauyeee
  • Thành Viên 20
Những câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng đi vào những trang tuổi thơ của mỗi người. Qua lời kể của mẹ, bà hay một người nào đó. Những câu chuyện ấy là văn học dân gian, rất gần gũi đối với mỗi người. Văn học dân gian có nhiều thể loại khác, đa dạng. Văn học dân gian thể hiện ước mơ, khát vọng và tình cảm của con người. Qua năm tháng, được lưu truyền và không mất đi. Có giá trị lâu dài với con người và sự bền bỉ với thời gian.

I. Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Việt Nam

1. Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng

– Truyền miệng: là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng lời nói hoặc bằng trình diễn cho người khác nghe, xem.

– Văn học dân gian ra đời từ rất sớm, từ khi chưa có chữ viết nên được lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Mặt khác, phương thức truyền miệng cũng xuất phát từ chính nhu cầu sáng tác và thưởng thức văn học một cách trực tiếp của người dân lao động xưa. Đây cũng chính là điểm khác biệt rất cơ bản giữa văn học dân gian và văn học viết.

– Quá trình truyền miệng được thực hiện thông qua hình thức diễn xướng dân gian (trình bày tác phẩm một cách tổng hợp thông qua các hình thức nói, kể, hát, diễn). 2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể (tính tập thể)

– Tập thể: một nhóm người, một cộng đồng người.

– Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể vì:

+ Trong quá trình sáng tác, lúc đầu, tác phẩm có thể do một cá nhân khởi xướng.
+ Khi tác phẩm được hình thành, nó sẽ được tập thể đón nhận và tiếp tục lưu truyền qua nhiều địa phương, nhiều thế hệ khác nhau.
+ Trong quá trình lưu truyền, tác phẩm văn học dân gian tiếp tục được các thế hệ người dân bổ sung, biến đổi nhằm giúp cho tác phẩm hoàn thiện hơn về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.
+ Dần dần, qua lưu truyền, người ta không nhớ được và cũng không cần nhớ ai đã từng là tác giả, tác phẩm văn học dân gian trở thành của chung.

=> Tính truyền miệng và tính tập thể là hai đặc trưng cơ bản, chi phối, xuyên suốt quá trình sáng tạo và lưu truyền tác phẩm dân gian. Hai đặc trưng này có quan hệ mật thiết, thể hiện sự gắn bó của văn học dân gian với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

II. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam

– Văn học dân gian Việt Nam bao gồm 12 thể loại chính: thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo.

– Thần thoại:

+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Thường kể về các vị thần nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của con người thời cổ đại.

– Sử thi:

+ Tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn.
+ Sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng.
+ Kể về một hoặc nhiều biến cố diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân cổ đại.

– Truyền thuyết:

+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Kể về các sự kiện hoặc các nhân vật lịch sử có thật theo hướng lí tưởng hóa.
+ Thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân.

– Truyện cổ tích:

+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định.
+ Kể về số phận người dân lao động trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và tinh thần lạc quan của người lao động.

– Truyện ngụ ngôn:

+ Tác phẩm tự sự dân gian ngắn.
+ Kết cấu chặt chẽ.
+ Thông qua các ẩn dụ để kể về những sự việc liên quan đến con người.
+ Nêu lên các bài học kinh nghiệm về cuộc sống hoặc triết lí nhân sinh.

– Truyện cười:

+ Tác phẩm tự sự dân gian ngắn.
+ Kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ.
+ Kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên để gây cười nhằm mục đích giải trí, phê phán.

– Tục ngữ:

+ Câu nói ngắn gọn, hàm súc.
+ Có hình ảnh, vần, nhịp.
+ Đúc kết kinh nghiệm thực tiễn.

– Câu đố:

+ Bài văn vần hoặc câu nói có vần.
+ Mô tả đồ vật bằng cách ám chỉ để người nghe lí giải, nhằm rèn luyện tư duy, khả năng liên tưởng, suy đoán.

– Ca dao, dân ca:

+ Tác phẩm trữ tình dân gian.
+ Thường kết hợp giữa lời thơ và điệu nhạc.
+ Thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người.

– Vè:

+ Tác phẩm tự sự dân gian bằng vần.
+ Kể lại hoặc bình luận những sự kiện có tính thời sự hoặc những sự kiện lịch sử đương thời.

– Truyện thơ:

+ Tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ.
+ Giàu chất trữ tình.
+ Phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng bị tước đoạt.

– Chèo:

+ Tác phẩm sân khấu dân gian.
+ Kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội.

III. Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam

1. Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc

– Tri thức trong văn học dân gian thuộc đủ mọi lĩnh vực của đời sống: tự nhiên, xã hội, con người. Đó là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân lao động được đúc kết từ thực tiễn.

– Văn học dân gian có thể cung cấp cho chúng ta những hiểu biết rất phong phú và đa dạng về đất nước, lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam.

2. Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người

– Văn học dân gian góp phần bồi dưỡng cho chúng ta những phẩm chất tốt đẹp, mang lại cho ta những bài học về đạo lí, về lẽ sống, về cách ứng xử, làm người; hướng ta đến những tình cảm cao đẹp.

3. Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc

– Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, các tác phẩm văn học dân gian đã được mài giũa, chắt lọc, trở thành những viên ngọc sáng, có giá trị thẩm mĩ to lớn.

– Từ lâu, văn học dân gian đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận cho văn học viết, là mảnh đất màu mỡ cho văn học viết hình thành và phát triển.

Tổng hợp
 
Từ khóa Từ khóa
tổng ôn văn học dân gian việt nam
500
0
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.