Mạng xã hội Văn học trẻ

Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
14K
5
9
Viết trả lời...
Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
14K
5
9
Viết trả lời...
Tác phẩm được trích trong tập Sống vốn đơn thuần của Phong Tử Khải, là chương 5 của cuốn sách, có tiêu đề là Sống mà học nghệ thuật.

I. Tác giả

- Phong Tử Khải (1898-1975) là họa sĩ, tác giả tản văn, dịch giả và nhà lý luận giáo dục âm nhạc nghệ thuật nổi tiếng của Trung Quốc
- Ông đã có hơn 160 tác phẩm ở thể loại trên

II. Tác phẩm văn bản Yêu và đồng cảm

1. Thể loại: Tản văn

2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Tác phẩm được trích trong tập Sống vốn đơn thuần của Phong Tử Khải, là chương 5 của cuốn sách, có tiêu đề là Sống mà học nghệ thuật.
- Sống vốn đơn thuần là tập văn - họa khá đặc trưng cho phong cách viết, vẽ của tác giả

3. Phương thức biểu đạt: Nghị luận

4. Tóm tắt văn bản Yêu và đồng cảm

Tác phẩm mở đầu bằng lời kể của tác giả về một chú bé xếp đồ giúp mình, về lòng đồng cảm của chú bé với tất cả đồ vật có trong phòng. Đoạn trích nói về tấm lòng đồng cảm không chỉ của đứa bé hay người họa sĩ mà còn cả sự đồng cảm của mọi nghề nghiệp nhưng lòng đồng cảm và cách nhìn mọi vật của họ không giống nhau. Người nghệ sĩ cũng giống như một đứa trẻ , luôn đồng cảm với mọi sự vật, kể cả những đồ vật từ cái bàn, cái ghế đến bông hoa, cây cỏ,... Từ đó cho thấy quan niệm của tác giả về lòng đồng cảm của người nghệ sĩ và tôn trọng, ngợi ca tấm lòng đồng cảm của trẻ em.

5. Bố cục văn bản Yêu và đồng cảm

- Phần 1: 2 đoạn đầu : những cảm nhận ban đầu và cách lý giải của tác giả về sự đồng cảm

- Phần 2: đoạn tiếp theo : cách thể hiện và ý nghĩa của lòng đồng cảm

- Phần 3: 2 đoạn tiếp: đối tượng của lòng đồng cảm và điểm tương đồng trong sự đồng cảm giữa trẻ em và người nghệ sĩ

- Phần 4: Còn lại : thông điệp gửi gắm của tác giả mong muốn mọi người hãy có lòng đồng cảm với vạn vật trong cuộc sống thường ngày

6. Giá trị nội dung văn bản Yêu và đồng cảm

Quan niệm của tác giả về lòng đồng cảm của người nghệ sĩ và tôn trọng, ngợi ca tấm lòng đồng cảm của trẻ em.

7. Giá trị nghệ thuật văn bản Yêu và đồng cảm

- Ngôn từ mộc mạc, gần gũi
- Đưa ra các ý và luận điểm trong văn bản rõ ràng, logic
- Văn phong tự nhiên
Thêm
851
0
2
Tóm tắt tác phẩm Yêu và đồng cảm của Phong Tử Khải:

– Tóm tắt:

Yêu và đồng cảm là đoạn trích thuộc tác phẩm Sống vốn đơn thuần của tác giả Phong Tử Khải. Đoạn trích mở đầu bằng câu chuyện của tác giả về một cậu bé giúp ông làm việc và về tấm lòng của cậu bé đối với mọi đồ vật trong phòng. Đoạn văn nói về sự đồng cảm không chỉ của đứa trẻ hay người nghệ sĩ mà còn là sự đồng cảm của mọi ngành nghề, nhưng sự đồng cảm và cách nhìn sự việc của họ không giống nhau. Người nghệ sĩ giống như những đứa trẻ, luôn đồng cảm với vạn vật, từ đồ vật từ bàn ghế đến hoa cỏ, cây cỏ,… Đoạn văn khẳng định quan niệm đồng cảm của tác giả. tình cảm của người nghệ sĩ và trân trọng, trân trọng sự đồng cảm của trẻ em.


– Nội dung chính:

Tìm được sự đồng cảm luôn hiện hữu trong cuộc sống con người và tác động tới mọi thứ xung quanh.

Khẳng định giá trị, ý nghĩa của sự đồng cảm với người khác, giúp cuộc sống trở nên giàu cảm xúc hơn, con người gần gũi, gắn kết với nhau hơn.

Sự đồng cảm không chỉ giữa con người với nhau mà còn giữa con người với thiên nhiên và vạn vật.

Càng tự nhiên và trong sáng thì càng có sự đồng cảm với người khác, chẳng hạn như những nhà thơ, nghệ sĩ trẻ, những người dễ đồng cảm với mọi việc.

Có sức mạnh tiếp thêm sức mạnh cho người đọc, mang đến cho mỗi cá nhân tình yêu thương và sự đồng cảm với người khác.
 
Viết trả lời...
Yêu và Đồng cảm” được trích từ chương 5 của cuốn sách “Sống vốn đơn thuần”, có tiêu đề là “Sống mà học nghệ thuật.” Đó là những trải nghiệm của Phong Tử Khải sau khi tìm hiểu về văn hóa phương Đông và phương Tây. Nhờ kinh nghiệm và rèn luyện từ nền văn hóa mở, anh có những ý tưởng kiến trúc mới, mang tính nghệ thuật nhưng vô cùng thực tế. Sử dụng những góc nhìn linh hoạt, Phong Tử Khải sáng tác tác phẩm của mình như thể đó là một bài văn mạch lạc.

Kiến thức cơ bản cần thể hiện

*Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm Yêu và đồng cảm của Phong Tử Khải.

*Thân bài:

– Sự vật dưới con mắt của trẻ thơ

Hành động:

→ Tác giả phục em bé không chỉ vì sự chăm chỉ mà còn cảm phục tấm lòng đồng cảm của chú bé. Cậu bé đó chăm chỉ xếp đồ vì cậu tìm được sự đồng cảm với chúng, đắm mình vào suy nghĩ, cảm xúc của đồ vật và đặt chúng vào đúng vị trí của chúng.

– Góc nhìn riêng về sự vật được thể hiện ở những người có nghề nghiệp khác nhau

Những ngành nghề khác nhau nhìn một đối tượng ở những góc độ khác nhau, cụ thể với một gốc cây

Thế giới nghệ sĩ có sự hòa hợp, đồng cảm, sẻ chia giữa mọi chủ thể. Tấm lòng người nghệ sĩ đối với mọi việc trong cuộc sống đều đồng cảm và nhiệt tình. Tầm quan trọng của sự đồng cảm trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật

Sự đồng cảm là một phẩm chất không thể thiếu của người nghệ sĩ

Những người sáng tạo nghệ thuật học ở trẻ sự hồn nhiên, chân thành, cảm thông với mọi việc. Bản chất trẻ em là nghệ thuật, chúng thường gợi ý những công việc mà người lớn không để ý và khám phá được nhiều điều thú vị.

*Kết bài

Khẳng định được cái nhìn của Phong Tử Khải và cảm nhận của bản thân.
Thêm
983
0
1
Bài làm tham khảo
---

Văn học là nơi con người bộc lộ những cảm xúc của chính mình, đồng thời cũng là nơi con người tìm thấy những cảm xúc mới. Và, điều tạo nên giá trị cảm xúc cho người đọc chính là cảm xúc của tác giả. Vì vậy, để chứng minh quan điểm này, Phong Tử Khải – một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc – đã cho ra đời một tác phẩm, cũng là lời nhận xét kết luận: Yêu và đồng cảm.

Yêu và Đồng cảm” được trích từ chương 5 của cuốn sách “Sống vốn đơn thuần”, có tiêu đề là “Sống mà học nghệ thuật.” Đó là những trải nghiệm của Phong Tử Khải sau khi tìm hiểu về văn hóa phương Đông và phương Tây. Nhờ kinh nghiệm và rèn luyện từ nền văn hóa mở, anh có những ý tưởng kiến trúc mới, mang tính nghệ thuật nhưng vô cùng thực tế. Sử dụng những góc nhìn linh hoạt, Phong Tử Khải sáng tác tác phẩm của mình như thể đó là một bài văn mạch lạc.

Đồng cảm là một cảm xúc của con người trong cuộc sống bình thường. Nó có thể hiện diện qua những hành động trong cuộc sống, dù từ những hành động nhỏ nhất. Văn học là thứ tốt nhất để nói, thể hiện tâm hồn và phản ánh chính xác nhất xã hội, văn hóa, con người mỗi vùng miền. Sự đồng cảm khác với tình yêu nhưng chúng đều là những phạm trù cần thiết trong cuộc sống con người.

Trong đoạn mở đầu, tác giả dùng hình ảnh đứa trẻ để giải thích sự đồng cảm. Bởi, trẻ em là lứa tuổi hồn nhiên và dễ tiếp thu nhất. Tác giả sử dụng hình ảnh trẻ nhỏ để làm nổi bật thêm sự đồng cảm, như muốn nói với người đọc: “Ngay cả một cậu bé cũng hiểu được, dù có thể bạn không thể?”

Dù là ai, dù bao nhiêu tuổi, làm nghề gì, họ đều cần sự đồng cảm. Bởi trong cuộc sống con người nếu không học được sự đồng cảm thì xã hội sẽ trở nên vô nghĩa và lạnh lùng. Phong Tử Khải còn đề cao sự đồng cảm trong cuộc sống con người. Nhờ tình yêu thương và sự đồng cảm, con người xích lại gần nhau hơn. Đó cũng là ý nghĩa của văn học. Hình ảnh người nghệ sĩ cũng được đưa vào để cho thấy sự đồng cảm quan trọng như thế nào, bởi trẻ em và người nghệ sĩ đều rất tinh tế, dễ tìm và dễ bị ảnh hưởng bởi cảm xúc trong cuộc sống.

Tác giả cho rằng, ai cũng cần có sự đồng cảm và yêu thương. Anh có một khát khao mãnh liệt được trở về tuổi thơ, khoảng thời gian gần gũi và trong sáng nhất trong cuộc đời mỗi người. Phong Tử Khải tin rằng ai sinh ra cũng “trơ” cảm xúc. Tuy nhiên, con người đang dần bị xói mòn trong quá trình tạo ra gạo, quần áo, nồi niêu, tiền bạc. Trong văn học, Phong Tử Khải viết: “Chỉ việc chúng ta đặt tình cảm của mình vào tác phẩm nghệ thuật của mình hoặc thiên nhiên đẹp đẽ, đồng cảm với chúng, bấy giờ sẽ thể nghiệm được tư vị của cái đẹp”. Cảm xúc là động lực làm phong phú tác phẩm, tạo nên hồn cho tác phẩm. Nếu không có cảm xúc và sự đồng cảm, không chỉ văn học mà cả cuộc sống con người cũng trở nên xám xịt. Vì vậy, con người phải hiểu và có những tình huống yêu thương, đồng cảm.


Tình thương, sự đồng cảm không đơn giản là một sản phẩm mà nó còn là cuốn sách “kinh nghiệm” được tích lũy sau quá trình trải nghiệm của một tác giả tài năng. Tác phẩm có giá trị và được sử dụng trong văn học, trở thành tài liệu tham khảo của nhiều người. Từ đây, người đọc cũng có thể thấy được định nghĩa “nhà văn chân chính”, đồng thời cũng thấy được công việc của những người có sự đồng cảm trong cuộc sống quan trọng như thế nào.

Suu tam
 
Viết trả lời...
Yêu và Đồng cảm” được trích từ chương 5 của cuốn sách “Sống vốn đơn thuần”, có tiêu đề là “Sống mà học nghệ thuật.” Đó là những trải nghiệm của Phong Tử Khải sau khi tìm hiểu về văn hóa phương Đông và phương Tây. Nhờ kinh nghiệm và rèn luyện từ nền văn hóa mở, anh có những ý tưởng kiến trúc mới, mang tính nghệ thuật nhưng vô cùng thực tế. Sử dụng những góc nhìn linh hoạt, Phong Tử Khải sáng tác tác phẩm của mình như thể đó là một bài văn mạch lạc.

Kiến thức cơ bản cần thể hiện

*Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm Yêu và đồng cảm của Phong Tử Khải.

*Thân bài:

– Sự vật dưới con mắt của trẻ thơ

Hành động:

→ Tác giả phục em bé không chỉ vì sự chăm chỉ mà còn cảm phục tấm lòng đồng cảm của chú bé. Cậu bé đó chăm chỉ xếp đồ vì cậu tìm được sự đồng cảm với chúng, đắm mình vào suy nghĩ, cảm xúc của đồ vật và đặt chúng vào đúng vị trí của chúng.

– Góc nhìn riêng về sự vật được thể hiện ở những người có nghề nghiệp khác nhau

Những ngành nghề khác nhau nhìn một đối tượng ở những góc độ khác nhau, cụ thể với một gốc cây

Thế giới nghệ sĩ có sự hòa hợp, đồng cảm, sẻ chia giữa mọi chủ thể. Tấm lòng người nghệ sĩ đối với mọi việc trong cuộc sống đều đồng cảm và nhiệt tình. Tầm quan trọng của sự đồng cảm trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật

Sự đồng cảm là một phẩm chất không thể thiếu của người nghệ sĩ

Những người sáng tạo nghệ thuật học ở trẻ sự hồn nhiên, chân thành, cảm thông với mọi việc. Bản chất trẻ em là nghệ thuật, chúng thường gợi ý những công việc mà người lớn không để ý và khám phá được nhiều điều thú vị.

*Kết bài

Khẳng định được cái nhìn của Phong Tử Khải và cảm nhận của bản thân.
Thêm
983
0
1
Bài làm tham khảo
---

Văn học là nơi con người bộc lộ những cảm xúc của chính mình, đồng thời cũng là nơi con người tìm thấy những cảm xúc mới. Và, điều tạo nên giá trị cảm xúc cho người đọc chính là cảm xúc của tác giả. Vì vậy, để chứng minh quan điểm này, Phong Tử Khải – một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc – đã cho ra đời một tác phẩm, cũng là lời nhận xét kết luận: Yêu và đồng cảm.

Yêu và Đồng cảm” được trích từ chương 5 của cuốn sách “Sống vốn đơn thuần”, có tiêu đề là “Sống mà học nghệ thuật.” Đó là những trải nghiệm của Phong Tử Khải sau khi tìm hiểu về văn hóa phương Đông và phương Tây. Nhờ kinh nghiệm và rèn luyện từ nền văn hóa mở, anh có những ý tưởng kiến trúc mới, mang tính nghệ thuật nhưng vô cùng thực tế. Sử dụng những góc nhìn linh hoạt, Phong Tử Khải sáng tác tác phẩm của mình như thể đó là một bài văn mạch lạc.

Đồng cảm là một cảm xúc của con người trong cuộc sống bình thường. Nó có thể hiện diện qua những hành động trong cuộc sống, dù từ những hành động nhỏ nhất. Văn học là thứ tốt nhất để nói, thể hiện tâm hồn và phản ánh chính xác nhất xã hội, văn hóa, con người mỗi vùng miền. Sự đồng cảm khác với tình yêu nhưng chúng đều là những phạm trù cần thiết trong cuộc sống con người.

Trong đoạn mở đầu, tác giả dùng hình ảnh đứa trẻ để giải thích sự đồng cảm. Bởi, trẻ em là lứa tuổi hồn nhiên và dễ tiếp thu nhất. Tác giả sử dụng hình ảnh trẻ nhỏ để làm nổi bật thêm sự đồng cảm, như muốn nói với người đọc: “Ngay cả một cậu bé cũng hiểu được, dù có thể bạn không thể?”

Dù là ai, dù bao nhiêu tuổi, làm nghề gì, họ đều cần sự đồng cảm. Bởi trong cuộc sống con người nếu không học được sự đồng cảm thì xã hội sẽ trở nên vô nghĩa và lạnh lùng. Phong Tử Khải còn đề cao sự đồng cảm trong cuộc sống con người. Nhờ tình yêu thương và sự đồng cảm, con người xích lại gần nhau hơn. Đó cũng là ý nghĩa của văn học. Hình ảnh người nghệ sĩ cũng được đưa vào để cho thấy sự đồng cảm quan trọng như thế nào, bởi trẻ em và người nghệ sĩ đều rất tinh tế, dễ tìm và dễ bị ảnh hưởng bởi cảm xúc trong cuộc sống.

Tác giả cho rằng, ai cũng cần có sự đồng cảm và yêu thương. Anh có một khát khao mãnh liệt được trở về tuổi thơ, khoảng thời gian gần gũi và trong sáng nhất trong cuộc đời mỗi người. Phong Tử Khải tin rằng ai sinh ra cũng “trơ” cảm xúc. Tuy nhiên, con người đang dần bị xói mòn trong quá trình tạo ra gạo, quần áo, nồi niêu, tiền bạc. Trong văn học, Phong Tử Khải viết: “Chỉ việc chúng ta đặt tình cảm của mình vào tác phẩm nghệ thuật của mình hoặc thiên nhiên đẹp đẽ, đồng cảm với chúng, bấy giờ sẽ thể nghiệm được tư vị của cái đẹp”. Cảm xúc là động lực làm phong phú tác phẩm, tạo nên hồn cho tác phẩm. Nếu không có cảm xúc và sự đồng cảm, không chỉ văn học mà cả cuộc sống con người cũng trở nên xám xịt. Vì vậy, con người phải hiểu và có những tình huống yêu thương, đồng cảm.


Tình thương, sự đồng cảm không đơn giản là một sản phẩm mà nó còn là cuốn sách “kinh nghiệm” được tích lũy sau quá trình trải nghiệm của một tác giả tài năng. Tác phẩm có giá trị và được sử dụng trong văn học, trở thành tài liệu tham khảo của nhiều người. Từ đây, người đọc cũng có thể thấy được định nghĩa “nhà văn chân chính”, đồng thời cũng thấy được công việc của những người có sự đồng cảm trong cuộc sống quan trọng như thế nào.

Suu tam
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Cách làm bài văn nghị luận về một yếu tố xã hội rút ra trong tác phẩm văn học:

Mở bài: Giải thích, tóm tắt lại vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm, đặt ra vấn đề và hướng giải quyết của nó.

Thân bài:

Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm, nêu lại yếu tố xã hội rút ra trong tác phẩm

Vấn đề đó là gì như thế nào?

Khẳng định ý nghĩa của vấn đề rút ra trong việc tạo nên những giá trị cho tác phẩm

Những bài học kinh nghiệm rút ra từ từ vấn đề


Kết bài: Đánh giá về vấn đề xã hội vừa rút ra .
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề hiện tượng kỳ lạ đời sống:

Nêu lên hiện tượng trong cuộc sống. Hiện tượng này có phổ biến hay không.

Phân tích hiện tượng trong đời sống thực tế. Chỉ ra nguyên nhân và hậu quả.

Lấy ví dụ cụ thể để chứng minh.

Liên hệ với bản thân bạn.

Rút ra bài học cho bản thân và mọi người. Phê phán và đưa ra lời khuyên.


-------------
Dàn ý mẫu tham khảo về một hiện tượng đời sống:


Mở bài: Nêu hiện tượng trong đời sống cần nghị luận


Thân bài:

Mô tả lại hiện tượng,đó là hiện tượng tốt hay xấu tại sao?

Nêu thực trạng của hiện tượng

Giải thích về hiện tượng

Lý giải nguyên nhân khách quan, chủ quan

Khẳng định lại hiện tượng đó là đúng hay sai và nêu ra những dẫn chứng ví dụ cho vấn đề đó

Nêu ra các giải pháp và những biện pháp khắc phục


Kết bài: Nêu ra những ý kiến của bản thân về hiện tượng xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân thông qua vấn đề
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Nghị luận về tư tưởng đạo lí xấu:


Mở bài: nêu lên tư tưởng đạo lí xấu và phản bác lại vấn đề

Thân bài: nêu lại vấn đề

Phân tích những mặt xấu những mặt ảnh hưởng của tư tưởng

Nêu ra những dẫn chứng để chứng minh tư tưởng là sai

Lên án phê phán những người ủng hộ tư tưởng này

Kết bài: Khẳng định lại sự sai trái của vấn đề, nêu ra những ý kiến đánh giá.
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Nghị luận về tư tưởng đạo lí tốt:


Mở bài: nêu lên tư tưởng đạo lí tốt và khẳng định lại tính đúng của vấn đề

Thân bài: nêu lại vấn đề và giải thích

Chứng minh tính đúng đắn của vấn đề: nêu ra các luận chứng, luận cứ để chứng minh cho tính đúng đó.

Đưa ra những dẫn chứng , ví dụ cụ thể để làm rõ dẫn chứng đó.

Phê phán nêu ra những ý kiến trái lại với những tư tưởng trên, sau đó đưa ra những lời khuyên

Kết bài: khẳng định lại tính đúng của vấn đề, đánh giá nêu ra bài học.
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Cách làm bài nghị luận về một yếu tố tư tưởng đạo lý:


Trước hết hãy cắt nghĩa các từ khóa, từ then chốt theo ý hiểu của bạn. Giải thích ý nghĩa của câu nói đó.

Khẳng định câu nói đó là đúng, sai hay chưa hoàn toàn đúng. Phân tích câu nói, thường dùng lời lẽ và lật lại vấn đề.

Lấy ví dụ, phân tích ví dụ để chứng minh ý nghĩa của câu nói (ví dụ về một ai đó nổi tiếng, có những đóng góp lớn).

Liên hệ với bản thân bạn.

Rút ra bài học cho bản thân và mọi người. Phê phán những người đi ngược lại với chân lý của tư tưởng đạo đức đó.
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Cách lập dàn ý làm bài văn nghị luận xã hội, văn học:

Các công thức cần nhớ khi làm bài văn nghị luận bắt nguồn từ những luận điểm, luận cứ cơ bản trong bài văn nghị luận. Từ những công thức dễ nhớ này mà người viết có thể tìm ý, xây dựng khung ý tưởng dồi dào cho bài viết.

Cách lập dàn ý làm bài văn nghị luận xã hội: mở bài, thân bài và kết bài. Sau đây là các công thức để học sinh có thể viết tốt ba phần cơ bản này.

3.1. Mở bài văn nghị luận:

Phần mở bài là chìa khóa cho toàn bộ bài văn. Phần mở bài gây ấn tượng đầu tiên cho người đọc về phong cách nghị luận, phong cách ngôn ngữ riêng của người viết. Phần mở bài gồm có 3 phần, theo 3 công thức: gợi – đưa – báo, trong đó:

Gợi ý ra vấn đề cần làm.

Đưa ra vấn đề.

Thể hiện cho người viết biết mình sẽ làm gì.

Trong đó, khó nhất là phần gợi ý dẫn dắt vấn đề, có 3 cặp/6 lối để giải quyết như sau:

Cặp 1: Tương đồng/tương phản – đưa ra một vấn đề tương tự/hoặc trái ngược để liên tưởng đến vấn đề cần giải quyết, sau đó mới tạo móc nối để ĐƯA vấn đề ra, cách này thường dùng khi cần chứng minh, giải thích, bình luận về câu nói, tục ngữ, suy nghĩ.

Cặp 2: Xuất xứ/đại ý – dựa vào thông tin xuất xứ/ đại ý để dưa vấn đề ra, cách này thường dùng cho tác phẩm/tác giả nổi tiếng.

Cặp 3: Diễn dịch/ quy nạp – cách này thì cũng khá rõ về ý nghĩa rồi.

3.2. Thân bài văn nghị luận:

Thân bài thực chất là một tập hợp các đoạn văn nhỏ nhằm giải quyết một vấn đề chung. Để tìm ý cho phần thân bài thì phải có dẫn chứng phù hợp trong cách làm bài văn nghị luận xã hội, có thể dùng các công thức sau đây để đặt câu hỏi nhằm tìm ý càng nhiều và dồi dào càng tốt, sau đó có thể sử dụng toàn bộ hoặc một phần ý tưởng để hình thành khung ý cho bài văn:

* Đối với Giải thích:

Là sự giải thích các từ ngữ, khái niệm, câu từ, nghĩa đen, nghĩa bóng,..nhằm giúp người khác hiểu rõ lại vấn đề một cách đắn đúng nhất.

Cách giải thích: dùng những từ ngữ đơn giản dễ hiểu và những lý lẽ để cắt nghĩa lại những khái niệm, tư tưởng đạo lý phức tạp.


* Đối với Chứng minh:

- các mặt của vấn đề?
- không gian xảy ra vấn đề (thành thị, nông thôn, việt nam hay nước ngoài…).
- giai đoạn (vd giai đoạn trước 1945, sau 1945..).
- thời gian – nghĩa hẹp hơn so với giai đoạn (có thể là, mùa thu mùa đông, mùa mưa mùa nắng, buổi sáng buổi chiều..).
- lứa tuổi (thiếu niên hay người già, thanh niên hay thiếu nữ…).

Đưa ra những bằng chứng, những thông tin có căn cứ để chứng minh cho vấn đề đang nghị luận

Cách chứng minh: nêu ra các bằng chứng có căn cứ thông tin xác thực, các dẫn chứng phải phù hợp và có tư duy logic.

* Đối với phân tích:

Thao tác phân tích là một thao tác chủ yếu trong một bài văn nghị luận, giúp làm sáng tỏ đào sâu các vấn đề từ nhiều mặt, nhiều khía cạnh nhỏ và sâu sắc nhất.Từ đó đưa ra những nhận định tổng quan về vấn đề.

Cách phân tích: chia vấn đề cần bàn luận ra nhiều phần nhỏ với nhiều khía cạnh khác nhau , sau đó phân tích và làm rõ từng phần đó.

* Đối với bình luận:

Đưa ra những ý kiến của bản thân để đánh giá và thảo luận về vấn đề

Cách bình luận: nêu ra những ý kiến để bàn luận, đánh giá vấn đề trên nhiều phương diện.

* Đối với so sánh:

Làm sáng tỏ vấn đề bằng cách đặt vào sự vật sự việc khác tương đồng nhưng dễ hiểu hơn, để nhằm làm sáng tỏ được vấn đề

Cách so sánh: so sánh vấn đề đang bàn luận với một vấn đề khác đã được làm sáng tỏ trước đó ,hoặc với các sự vật sự việc hiển nhiên, để từ đó giúp nêu rõ hơn quan điểm của người viết.

* Đối với bác bỏ:

Là cách tranh luận, phản bác một ý kiến được cho là sai

Cách bác bỏ: nêu ra ý kiến sai sau đó tranh luận đưa ra những ý kiến lập luận đúng . Cần nêu ra cụ thể sai ở đâu và sai ở điểm nào

Những ý sai nhỏ phải được đúc kết từ những ý lớn, khi thống nhất lại phải đưa ra được những đánh giá logic với nhau.

3.3. Kết bài văn nghị luận:

Khi kết bài phải có bài học nhận thức và hành động cần có trong văn nghị luận xã hội.

- tóm tắt vấn đề

- rút ra kết luận gì

- hướng phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân.
 
Viết trả lời...
Nắm được các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học đúng chuẩn cấu trúc sẽ giúp thí sinh giành được trọn vẹn số điểm của phần này. Đồng thời giúp các thí sinh rút ngắn, tiết kiệm được thời gian làm bài cho chính bài văn nghị luận xã hội cũng như các câu hỏi khác trong đề thi. Bài viết dưới đây sẽ nêu hướng dẫn cách viết đoạn nghị luận xã hội hoàn chỉnh nhất.

Văn nghị luận là gì?

Nghị luận là một dạng văn bản mà người viết sử dụng những lập luận, lý lẽ của bản thân để bàn luận về một vấn đề, một sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, hay là bàn luận đánh giá về một tác phẩm văn học, tư tưởng suy nghĩ của một ai đó. Nhằm làm rõ vấn đề cần phải nghị luận. Bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục cao, các lập luận trong bài cần có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể cho vấn đề đang bàn luận.

Đặc điểm của văn nghị luận:

Vấn đề quan trọng trong một bài văn nghị luận là cần phải có tính thuyết phục và sự mạch lạc thống nhất trong các luận điểm, luận cứ.

Các luận điểm, luận cứ nêu ra trong bài cần phải có những dẫn chứng, những ví dụ cụ thể rõ ràng, càng nhiều dẫn chứng ví dụ thì bài luận sẽ càng hay và sẽ làm sáng tỏ được vấn đề cần phải nghị luận.

Các bước và cách làm văn nghị luận xã hội, văn học:

Bước 1 – Viết câu mở đoạn: Giới thiệu chủ đề bài nghị luận xã hội

Tùy theo dung lượng của đoạn văn nghị luận xã hội mà em có thể chọn viết phần mở bài dài hay ngắn. Tuy nhiên hiện nay độ dài cho đoạn văn nghị luận xã hội chỉ là 200 chữ. Do đó cách viết văn nghị luận xã hội cho câu mở đoạn của các em cần hết sức ngắn gọn. Chỉ nên từ 1 đến 2 câu văn và giới thiệu trực tiếp về chủ đề bài viết

Bước 2 – Giải thích những từ ngữ trọng tâm

Bao gồm các khái niệm, các từ ngữ đặc biệt, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có) của chúng. Từ đó, giải thích ý nghĩa khái quát của câu nói, lời nhận định, mẩu truyện ngụ ngôn… được trích dẫn trong bài đọc (với các đề tích hợp đọc hiểu). Đây còn là bước dẫn giúp em chuyển sang phần thân đoạn.

Bước 3: Nêu luận điểm và dẫn chứng để phân tích luận điểm

Đây là bước đầu tiên của phần nghị luận trong thân đoạn. Do đó em phải nêu được luận điểm chính số 1 của bài. Sau đó đưa ra dẫn chứng và tiến hành phân tích dẫn chứng để phân tích luận điểm.

Chú ý với cách viết văn nghị luận xã hội khi đưa ra hệ thống dẫn chứng, cần đưa từ phạm vi rộng đến phạm vi hẹp (hoặc ngược lại) để dẫn chứng có được tính thống nhất. Ví dụ: lấy dẫn chứng từ bản thân -> gia đình -> xã hội hoặc từ xã hội -> gia đình -> bản thân. Tránh sắp xếp dẫn chứng lộn xộn: bản thân -> xã hội -> gia đình sẽ làm đoạn văn nghị luận trở nên thiếu thuyết phục

Bước 4: Phân tích nguyên nhân của vấn đề

Khi phân tích nguyên nhân, người viết cần nêu được cả 2 khía cạnh. Bao gồm nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan của vấn đề. Chú ý với mỗi khía cạnh nêu tối đa 2 nguyên nhân chính. Để tránh đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bị lan man, dài dòng. Khi đưa ra hệ thống các nguyên nhân cũng cần sắp xếp theo thứ tự nhất định.

Bước 5: Phân tích những ảnh hưởng của vấn đề

Tương tự như khi phân tích nguyên nhân, khi nêu lên những ảnh hưởng của sự việc, em hãy cố gắng nêu cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực của hành động đó tới xã hội cũng như với mỗi cá nhân. Không nên chỉ đưa ra tác động một chiều, tránh bài nghị luận xã hội 200 chữ bị thiên kiến.


Bước 6: Mở rộng vấn đề cần nghị luận

Để có được cách viết văn nghị luận xã hội một cách đa chiều hơn, sâu sắc hơn em có thể sử dụng một số kỹ thuật mở rộng vấn đề nghị luận như sau

Giải thích: Không chỉ đưa ra biểu hiện của thực trạng mà em có thể tiến hành lý giải thực trạng đó bằng thực tế

Liên hệ với những chủ đề có điểm tương đồng: Ví dụ khi nói về vấn đề tai nạn giao thông, em có thể đưa thêm dẫn chứng về tỷ lệ tử vong của các căn bệnh khác. Để so sánh và làm nổi bật tỷ lệ tử vong lớn của tai nạn giao thông

Lật ngược vấn đề: Đặt ra giả thiết trái ngược và tiến hành phân tích, bác bỏ, đưa ra kết luận

Bước 7: Nhấn mạnh quan điểm cá nhân về vấn đề

Vì là một bài văn nghị luận xã hội nên người viết phải khẳng định được quan điểm của mình (đồng ý/ không đồng ý, tán thành/ bác bỏ). Cũng có thể sử dụng cách viết văn nghị luận xã hội đưa ra ý kiến trung lập. Nhưng phải nêu đầy đủ được các mặt lợi ích cũng như hạn chế của vấn đề và phân tích sâu sắc.

Bước 8: Rút ra bài học cho bản thân và cho xã hội

Từ thực trạng, lợi ích cũng như tác hại, người viết nên khái quát lại bài học dành cho bản thân. Phần nêu bài học chỉ nên nêu ngắn gọn, tránh lan man.
----------

Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.

Tổng hợp
Thêm
1K
0
7
Một số lưu ý để viết được một bài văn chuẩn cấu trúc bài văn nghị luận xã hội:

Phân bố thời gian làm bài hợp lý. Đoạn văn nghị luận xã hội chỉ gồm 200 chữ cho đến 250 chữ, các em không nên dành quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Song cũng không nên mải mê làm các câu khác và viết đoạn văn nghị luận một cách qua loa, cẩu thả

Viết câu ngắn gọn, không rườm rà, tiết chế các yếu tố biểu cảm làm mất đi tính rõ ràng, xác thực mà một bài văn nghị luận xã hội cần có

Dẫn chứng đưa ra phải hợp lí, không được quá ít hoặc quá nhiều; dẫn chứng chung chung hoặc không khách quan, mang tính cảm tính, thiếu sự thực tế, logic.

Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu: Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao.
 
Viết trả lời...
*GIỚI TRẺ NGÀY NAY*
Có 1 điều tôi không thích mấy ở giới trẻ này nay, lý do như sau:
1/ngang ngược,hổ báo.
2/mùng 2/9 hay 30/4 thì chả biết đó là ngày gì trong khi nói đến lửa chùa phi phai là nói rành mạch thoăn thoắt
3/quay cóp đề thi
4/trẩu
5/bị chửi có tí thì mặt xịu xuống
6/trước nỗi đau của người khác thì họ lại lấy nó ra để làm trò hề
7/lúc nào chửi nhau cũng lôi bố mẹ của nhau ra để chửi
8/các anh hùng, nhân vật lịch sử bị lôi ra để phỉ báng, giễu cợt
9/thường xuyên bắt nạt kẻ yếu hơn mình
10/đc người khác khuyên còn vênh cái mặt ra làm vẻ mặt kinh, cười đểu
Thêm
587
0
1
hi, chủ đề này nhiều nội dung quá. Nhưng tiêu đề đặt chưa sát, với lại bạn đăng sai chuyên mục rồi.

10 khía cạnh đặt vấn đề trên thì thuộc số ít thôi. Những cá nhân đó nói riêng, và lứa tuổi được gọi "giới trẻ" đang "phá bĩnh" để tìm tòi nhân cách. Sau một thời gian va đập xã hội sẽ định hình được "mình là ai", "mình thuộc về đâu"... ^^
 
Viết trả lời...
Trong thể loại văn xuôi viết về người dân Việt Nam trước năm 1945 có rất nhiều tác phẩm để đời. Với cuộc sống cùng cực dưới ách thống trị của bọn chúa đất ở miền núi, chúng ta có "Vợ chồng A Phủ", hay chủ nghĩa anh hùng đậm chất sử thi – "Rừng Xà nu"… Nhưng sau đó, năm 1986, xã hội có sự thay đổi, nước ta xóa bỏ bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường vì thế văn học cũng có bước chuyển mình. Đề tài thế sự và đạo đức được các nhà văn xoáy sâu vào khai thác. Và "Chiếc thuyền ngoài xa" là một tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ ấy.

PHÂN TÍCH, BÌNH GIẢNG TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (NGUYỄN MINH CHÂU)

(In trong Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12 Nâng cao, Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 2010, trang 155)

4963

Phân tích, bình giảng truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm niệm: “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn” thì có thể khẳng định rằng những gì ông để lại cho đời đã đảm bảo chắc chắn ông là một tài năng và một nhân cách lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông có một vị trí quan trọng trong quá trình vận động và phát triển của nền văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới sau năm 1975 và ông rất xứng đáng với lời đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc: "Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng của văn học ta hiện nay.”

Mẫn cảm với nghề, Nguyễn Minh Châu ý thức rất sớm về xu thế tất yếu phải đổi mới văn học, mà trước nhất là đổi mới quan niệm về văn chương, về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn. Từ năm 1945 đến 1975, văn học Việt Nam có sứ mệnh phục vụ chiến đấu, nó phải trở thành một vũ khí, một “mặt trận” tư tưởng. Yêu cầu đó quy định cách văn học tiếp cận cuộc sống chủ yếu từ góc độ lịch sử-sự kiện. Những vấn đề của cộng đồng được ưu tiên và được coi như tiêu chí hàng đầu để định giá tác phẩm. Tự nguyện làm một nhà văn-chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã góp vào nền văn học kháng chiến những tác phẩm xuất sắc: Cửa sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng. Chính trong thời kì hào hùng và cam go ấy, nhà văn ghi vào nhật kí: “Hôm nay chúng ta đang chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn. Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài.” Hoá ra con người là mối bận tâm thường xuyên của ông. Nhận xét văn học viết trong chiến tranh của chúng ta thường có hạn chế lớn: “sự kiện lấn át con người”, ông cả quyết rằng sẽ đến lúc văn học “phải viết về con người”, “trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống”.

Khi đất nước hoà bình, Nguyễn Minh Châu có điều kiện để hiện thực hoá những suy tư đầy sáng suốt đó. Ông coi “văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”, còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng “mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người”. Tình yêu ấy thôi thúc ông làm một cuộc tự đổi mới âm thầm mà quyết liệt. Trong những sáng tác từ sau năm 1975, ngòi bút ông ngày càng nghiêng hẳn về đề tài thế sự, nơi ông có thể đi sâu vào những vấn đề cá nhân trong mối quan hệ đời thường đa đoan, phức tạp. Rồi từ đó ông đề xuất quan niệm mới mang nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc về con người.

Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985), đánh dấu bước chuyển vững vàng của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (viết xong tháng 8-1983) in trong tập Bến quê.

Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này về cơ bản tập trung ở cách tiếp cận đời sống và quan niệm về con người. Chọn số phận cá nhân trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến làm đối tượng khám phá, nhà văn đã kiên quyết khước từ cái nhìn lí tưởng hoá con người, để hiện thực hiện lên với tất cả cái xù xì, góc cạnh của nó. Truyện dường như không có bóng dáng bất cứ một sự kiện chính trị-xã hội nào, chỉ là cuộc sống bế tắc quẩn quanh, thường nhật của một gia đình dân chài vùng đầm phá miền Trung, cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số. Điều tác giả muốn nhấn mạnh là: tính chất phức tạp, bí ẩn của đời sống không thể nhìn bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi. Ông đã sáng tạo một tình huống thật độc đáo và hấp dẫn nhằm chuyển tải tư tưởng riêng, những phát hiện riêng về cuộc đời và về văn chương.

Vai trò của tình huống luôn được người viết truyện ngắn đề cao. Với Nguyễn Minh Châu, “Đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay và thế là coi như xong một nửa”. Tình huống chính là “thứ nước rửa ảnh” làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng của nhà văn”.

Chiếc thuyền ngoài xa được triển khai trên hai tình huống chính. Tình huống nhận thức là tình huống lớn, bao trùm toàn bộ câu chuyện: Nhân vật Phùng được cử tới vùng biển xa xôi kia để chụp ảnh bổ sung cho bộ ảnh lịch chuyên đề mười hai tháng về biển. Trưởng phòng khi giao nhiệm vụ nói với Phùng: “không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật.” Nhờ đó mà Phùng có cơ hội chứng kiến một tình huống khác hết sức bất ngờ và khó tin: một người phụ nữ làng chài thường xuyên bị chồng đánh đập dã man, vẫn cắn răng cam chịu, từ chối lời khuyên đầy thiện chí của vị thẩm phán toà án huyện, kiên quyết không rời bỏ người chồng vũ phu. Cách xử sự lạ lùng của người đàn bà gây thắc mắc cho cả Phùng (phóng viên ảnh) lẫn Đẩu (thẩm phán). Kết cục là họ “vỡ ra” được nhân thức mới, đúng hơn, một nhận thức làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của họ (kiểu tình huống này cũng xuất hiện ở nhiều truyện khác của Nguyễn Minh Châu như Bức tranh, Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…)

Do tình huống đặt ra là tình huống tự nhận thức nên cốt truyện được xây dựng trên nguyên tắc luận đề: sự kiện, sự việc chỉ là phông nền cho quá trình vận động tâm lí dẫn đến bước ngoặt tư tưởng.

Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng, người kể chuyện xưng tôi (một hoá thân của Nguyễn Minh Châu?). Phùng có phẩm chất đáng quý của một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Cảnh thiên nhiên vùng đầm phá buổi sáng, “phẳng lặng và tươi mát”; cảnh đẩy thuyền ra khơi sôi nổi, náo nhiệt và khoẻ khoắn, cảnh thuyền cá trở về lúc bình minh rực rỡ; cảnh biển đêm huyền bí, sâu thẳm…đã đem lại những rung động “tuyệt đỉnh”, khiến anh vui sướng, hạnh phúc đến mức “tưởng như chinh mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đằng sau những câu văn khá du dương, hào phóng mĩ từ trong đoạn này, ngầm ẩn một nụ cười hài hước, chế giễu nhẹ nhàng lối tư duy lãng mạn của nhiều nghệ sĩ (đó cũng có thể là nụ cười tự trào đầy thâm thuý của Nguyễn Minh Châu). Tự tin và tự mãn, Phùng đã vội thu vào ống kính “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Anh ngỡ rằng mình sáng suốt hơn người trưởng phòng, biết gắn cái đẹp thiên nhiên với hình ảnh con người, biết tìm ra sự hài hoà giữa chất thơ của trời biển với vẻ “náo nhiệt” tưng bừng của lao động. Nhưng anh đã lầm. Bước ngoặt trong nhận thức người nghệ sĩ được tác giả khắc hoạ thật sắc sảo qua sự đối lập gay gắt giữa “cái-thấy-phút-trước” với “cái-thấy-phút-sau”. Mấy cụm từ giản dị mà đầy sức nén của chân lí: “tôi chắc mẩm” (niềm tin có sẵn”, “ngay lúc ấy” (đột biến), “bất giác tôi nghe” (hoang mang trước sự thật).

Phùng đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn trên bờ biển (lần thứ hai, thậm chí anh còn nhảy vào can thiệp và bị thương) rồi lại chứng kiến cách chị ta ứng xử tại toà án của chánh án Đẩu. Trong suy nghĩ của Phùng và Đẩu, người đàn bà khốn khổ đáng thương không nên cam chịu bị hành hạ, chắc bà ta sẽ vui vẻ chấp thuận bỏ chồng để được giải thoát khỏi đòn roi. Ngờ đâu cả thiện chí lẫn luật pháp đều bất lực: người đàn bà khi mới nghe vị thẩm phán thuyết phục li dị chồng đã “chắp tay lại vái lia lịa: “-Con lạy quý toà…”. Trước cảnh này, Phùng kinh ngạc cao độ và cảm thấy bức bối: “gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá” vì “không thể nào hiểu được” thái độ cam chịu lạ lùng ấy. Ở đây diễn ra một sự va chạm gay gắt giữa những điều đã mặc định về con người với thực tế sống động của hiện thực. Phùng và Đẩu đều tin rằng mình đúng: họ đã bảo vệ bà ta bằng cả thiện chí lẫn luật pháp. Họ đinh ninh chồng bà ta là kẻ xấu xa, bỏ lão là giải pháp tốt nhất. Chỉ có điều người đàn bà lam lũ ấy giống như một bí mật mà họ chưa bao giờ biết. Sự thay đổi hoàn toàn tư thế và lối xưng hố, những câu nói chất phác mà “thấu tình đạt lí” của bà làm cả Phùng lẫn Đẩu bối rối “những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi…” Một lần nữa cách nhìn đầy định kiến và đơn giản “va” phải cái trí khôn của đời sống. Người đàn bà thất học lại có tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về những nghịch lí mà con người phải chấp nhận khi nó bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo cùng cực. Hoá ra cuộc sống vốn đầy nghịch lí mà cái nhìn chủ quan duy ý chí không bao giờ thấy hết. Pháp luật công bằng, lòng tốt vô tư đều chưa đủ hoá giải những nghịch lí ấy. Nguyễn Minh Châu thật sâu sắc khi phát hiện sự cam chịu của người đàn bà là một phẩm chất, là cái đẹp đáng giá nhất, vì nó cần thiết nhất cho những dân hàng chài cơ cực kia khi xã hội chưa có một giải pháp thật sự hiệu quả đế thay đổi số phận họ.

Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Thái độ nhẫn nhịn là kết quả của bao tình cảm vị tha, thánh thiện: “Đàn bà ở thuyến chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được!...”. Vậy là người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để đảm bảo cho sự tồn tại của cái gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước vốn đầy dẫy bất trắc. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ ở câu chuyện này phát lộ dưới hình thức bất ngờ nhất và cũng cảm động nhất. Nó cho bà ta can đảm để chịu đựng những trận đòn tàn bạo của chồng (khi bị chồng đánh bà không hề kêu khóc hay chống cự), nhưng lại khiến bà “đau đớn”, “xấu hổ”, “nhục nhã” khi biết mình vô tình làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại (bà “mếu máo” gọi tên Phác, “ôm chầm lấy nó”, “chắp tay vái lấy vái để” đứa con, bà cũng đã khóc ở toà án khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác.

Nguyễn Minh Châu đã di chuyển điểm nhìn từ Phùng sang Đẩu rồi bất ngờ “trao” cho người đàn bà và chính cái người mẹ hàng chài thô kệch, mặt rỗ xấu xí, đầy vẻ lam lũ, cam chịu ấy lại là người sắc sảo, hiểu đời hơn hẳn hai vị trí thức. Chánh án Đẩu và phóng viên nhiếp ảnh Phùng đã từng kinh qua chiến tranh, đi nhiều, thấy nhiều mà hoá ra vẫn nông cạn, hời hợt trước hiện thực khắc nghiệt của gia đình bà và những người dân chài khác. Cuộc sống được Đẩu nhìn bằng sự rành rẽ, công bằng của luật pháp, Phùng nhìn bằng con mắt nghệ sĩ. Cả hai đều có sẵn lòng tốt và thiện chí với cuộc đời. Chỉ có điều các anh quen tư duy một chiều về cuộc đời (chẳng hạn, câu hỏi “như lạc đề” của Phùng: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” hay cái thắc mắc rất ngây thơ của Đẩu: “Vậy sao không lên bờ mà ở?”) nên chỉ thấy được những gì là tất yếu, hợp lí. Người đàn bà trái lại, từ số phận mình đã buộc các anh phải đặt đời sống vào cái nhìn nhiều chiều để nhận ra vô vàn nghịch lí: bãi xe tăng bị bốc cháy (chứng tích về chiến công anh hùng trong chiến đấu) là nơi người đàn bà thường xuyên bị đánh đập, còn những đứa trẻ thì đói khát và thất học (bi kịch đói nghèo chưa cách gì chấm dứt), thiếu nữ mảnh dẻ duyên dáng “như nàng tiên cá” lại “được tách ra từ da thịt một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ”, người mẹ yêu con, cố che giấu sự thật để tránh cho con khỏi đau lòng, không ngờ lại làm nó tức giận đến mù quáng…Chính những lời giãi bày chất phác, dè dặt của người đàn bà đã dần dần “mở mắt” cho Phùng và Đẩu. Tất nhiên việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc không dễ dàng gi. Làm sao hai vị cựu chiến binh của một thời đánh giặc lừng lẫy có thể thấm thía được ngay bao nhiêu nông nỗi yêu thương, xa xót, đắng cay, hờn tủi, bao nhiêu thấu hiểu độ lượng trong giọng nói đứt quãng của bà ta: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu […]. Giá mà lão uống rượu […] thì tôi còn đỡ khổ […]”. Phùng và Đẩu đã “cùng một lúc thốt lên”: “Không thề nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Có lẽ họ chỉ thực sự “tâm phục khẩu phục” khi phát hiện cái sức mạnh nội tâm kì lạ nâng đỡ người đàn bà: “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười-vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ […]. Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no […]”.

Nguyễn Minh Châu đã thật “cao tay” khi làm cuộc hoán đổi vị thế giữa Phùng, Đẩu với người đàn bà-cuộc hoán đổi để xác lập quan niệm dân chủ về con người. Tính cách đầy mâu thuẩn của người phụ nữ hàng chài thể hiện tư tưởng nhân bản sâu sắc của nhà văn, hiện thực hoá ý định của ông khi sáng tác truyện ngắn này: “Con người sống trong xã hội, sống giữa cộng đồng đã từng tồn tại từ lâu và còn tồn tại mãi nhưng họ phải chịu biết bao đau đớn để cho người và người được bên nhau, gắn bó với nhau trong cái quần thể xã hội đầy mâu thuẫn trên chiếc thuyền nọ…Không phải lúc nào con người cũng đấu tranh với nhau mà nhiều khi phải chịu đựng lẫn nhau. Những con người lao động và lương thiện hết đời này sang đời khác đã chịu biết bao nhiêu điều đau khổ bất công để sống nuôi nấng con cái, làm cho đời sống bất diệt”. Tình yêu thương con người ở Nguyễn Minh Châu lúc nào cũng nặng trĩu những suy tư se xót nên tình cảm nhân đạo của ông thường nghiêng về phía những thân phận bé nhỏ, nhiều đau khổ và ông đặc biệt nhạy cảm với những vẻ đẹp thầm lặng mà vững bền-những vẻ đẹp mang gương mặt phụ nữ (như Liên trong Bến quê, Thai trong Cỏ lau …).

Nguyễn Minh Châu có những câu văn giản dị như lời nói thường, không một chút “làm văn” mà đầy dư ba. Câu văn sau đây là một ví dụ- đấy là câu Phùng hỏi người đàn bà: “cả đời chị có một lúc nào thật vui không?”. Vâng! Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn như thế mà nói đến niềm vui liệu có xa xỉ quá không? Nhưng mấy ai đã hiểu sự tận tuỵ hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với họ. Nghe người đàn bà hàng chài nói về niềm vui, Đẩu như “bừng ngộ”: “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.” Đến đây người kể chuyện (Phùng) đã nhập hẳn vào dòng tâm tư của Đẩu, sự giác ngộ của Đẩu cũng chính là sự giác ngộ của anh. Hành trình tự nhận thức của cả hai luôn có sự song trùng. Nhưng qua Phùng-người phóng viên nhiếp ảnh, Nguyễn Minh Châu còn thực hiện một cuộc “tự vấn” của văn chương: giữa cuộc sống cơm áo nhiều hệ luỵ, văn chương chọn cách ứng xử nào? “Chiếc thuyền ngoài xa” rất khác với nó khi đã cập bờ. Nghệ thuật tiếp cận hiện thực thế nào để không bỏ quên số phận con người? Nhan đề truyện rõ ràng là một ẩn dụ sâu sắc (nó gợi nhớ các nhan đề Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Bức tranh, Cỏ lau,…), một câu hỏi bỏ ngỏ cho những ai muốn chọn văn chương nghệ thuật để bày tỏ tình yêu con người. Câu hỏi này ám ảnh tới mức dù bức ảnh lịch năm đó của Phùng chỉ có hai màu đen trắng mà sau này mỗi lần ngắm nó Phùng cứ thấy hiện về cái màn sương màu hồng (lãng mạn) như đối lập với dáng đi chậm rãi, vững chắc của người đàn bà trên cát (hiện thực). Một lời nhắc nhở hay một niềm tin sâu xa vào sứ mệnh cao quý của người nghệ sĩ? Chắc chắn rằng với Nguyễn Minh Châu, với truyện ngắn này, nghệ sĩ không có quyền nhìn sự vật một cách giản đơn, dễ dãi mà phải đào xới vào những tầng sâu đời sống để làm lộ ra những gì có khả năng đánh thức tình yêu thương con người.

Tình huống truyện độc đáo, kết hợp với nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách - số phận đã giúp nhà văn giãi bày nỗi băn khoăn, trăn trở về tính phức tạp đa chiều của cuộc sống, về bao nhọc nhằn còn đè nặng lên số phận con người, về mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và hiện thực. Khát vọng đổi mới văn chương bằng việc đi tìm một quan niệm chân thật hơn, hợp lí hơn về con người dựa trên nền tảng triết học nhân bản quan giọng văn thấm thía chiêm nghiệm, qua cái nhìn dân chủ hoá của người trần thuật đã trở thành nhu cầu tự vấn mạnh mẽ, trung thực, đủ sức khẳng định tư cách “người mở đường” cho cộng cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Minh Châu.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
2K
1
1
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
2K
0
3
Vở chèo ‘Quan Âm Thị Kính’ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo ở Việt Nam cổ đại. Cùng với nhân vật Thị kính (đào thương), Thị mầu được xếp vào loại đào trong các vở chèo do tính chất phù phiếm, phóng khoáng. Tính cách này được thể hiện rõ nét trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’. Vở chèo đã khắc họa Thị Mầu bắt gặp say đắm và tìm cách tán tỉnh Kính Tâm trên đường đi chùa.

Nói đến xuất thân, Thị mầu là con gái của một phú ông giàu có. Nàng tự coi mình là một đứa con hiếu thảo vì luôn kính trọng cha mẹ. ‘thầy mẹ tôi tôn kính một lòng’. Khi ngày rằm đến gần, Thị Mầu “chuẩn bị tiền và gạo để mang lên chùa cúng tế”. Thay vì đi chùa vào ngày 15 như mọi người, Mầu đã đi chùa sớm hơn hai ngày.

‘Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.’

Qua lời nói của Thị mầu, người đọc có thể hiểu được những nghịch lý, mâu thuẫn. Cô nói: ‘tôi muốn cho một tháng đôi rắm/trước vào lễ Phật, ssau thăm vãi già’. Rõ ràng ý định của Mầu là vào chùa trước, và nghi thức tiếp theo là đi thăm vãi già. Tuy nhiên, Mầu chỉ tập trung vào việc gặp gỡ nhà sư. Con số 13 được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh ngày Thị mầu đi chùa cúng tiến. Các con số ‘13’, ‘14’ và ‘15’ tương ứng với hành động hàng ngày của Thị mầu là đến chùa để gặp ai đó. Vì vậy, Mầu mong rằng sẽ có nhiều cơ hội được “thăm” thầy sư vào dịp “rằm”. Như vậy, chúng ta có thể phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật thông qua lời mời và sự thừa nhận của Mầu.

Được viết bởi một tác giả dân gian với tính cách nổi loạn và phóng khoáng, Thị mầu đã cho độc giả thấy sự táo bạo của mình bằng cách chọc ghẹo các sư trẻ trong chùa. Mọi điều Mầu nói và làm đều nhằm mục đích ve vãn Kính tâm. Thị mầu nhìn thấy nhà sư trẻ và ngay lập tức yêu anh ta. Khi Kính tâm hỏi tên, Thị mầu trả lời ngay:

‘Tên em ấy à?
Là Thị Mầu con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!’

Thị Mầu luôn nhấn mạnh mình là phụ nữ chưa chồng ở độ tuổi 20. Mục đích của câu nói này là thể hiện sự khao khát tình yêu và kết đôi. Ngoài ra, Mầu còn dành nhiều lời khen cho vị sư trẻ này: “Người ở đâu mà đẹp như sao băng vậy?” và “Có ai đến chùa này/ Với chiếc cổ cao ba ngấn và lông mày ngang?” Một giọng ngạc nhiên hỏi: “Ai lại khen một chú tiểu như vậy, Mầu ơi!” Thị mầu không chút do dự trả lời: ‘Đẹp thì người ta khen chứ sao’

Mầu biết nhà mình mất bò nhưng phớt lờ, nói: ‘nhà còn ối trâu’. Mầu dường như không quan tâm đến điều gì khác mà chỉ tập trung tán tỉnh thầy sư trẻ tuổi. Theo thời gian, mức độ tán tỉnh của Thị Mầu càng tăng hơn.

‘Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua’

Đây là sự so sánh độc đáo bộc lộ khát vọng tình yêu cháy bỏng của Thị Mầu. Khi mùa xuân trôi qua, táo trong vườn chín rồi rụng. Do không được chăm sóc và để già nên táo thường có vị chua, chát. Gái rở là những bà bầu thích ăn đồ chua, lạ. Vì thế mới có câu:’gái rở thèm của chua’. Thị Mầu so sánh mình với một cô gái rở và thầy sư với một quả táo rơi trước chùa, nhấn mạnh những ham muốn vi phạm đạo lý thường tình.

Tác giả đã phê phán Thị Mầu, nên nói thêm: “Mầu, nhà có bao nhiêu chị em?/Có ai như mày không” Nhưng trước lời nói đó, Mầu vẫn nói: “Nhà có chín chị em, nhưng tao là người chín chắn’

Tuy nhiên, Mầu đã nói nhiều lời giỗ ngọt nhưng vẫn không thể khiến vị hòa thượng trẻ đáp lại. Mầu đã chọn lời bài hát trêu ghẹo.

‘”Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
[…] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!’

Những bài hát trêu chọc của Mầu mô tả khái niệm tình yêu tự do và thoải mái, vượt qua những rào cản và định kiến xã hội. Câu ‘Ấy mấy thầy tiểu ơi’ được lặp đi lặp lại, nhấn mạnh đến đối tượng mà Mầu hướng tới và cũng là câu mở đầu cho tâm sự và mong muốn của cô. Khái niệm hạnh phúc của Thị mầu rất đơn giản. Đối với Mầu, ý kiến của người thân không quan trọng bằng cảm xúc của chính mình. Mầu không quan tâm đến bất cứ điều gì, số phận sẽ đến. Trong lời hát, Thị mầu đã dùng các từ ‘Đôi ta’, ‘Quyết đợi chờ lấy nhau’ và ‘Có thiếp có chàng’ để bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính tâm. Mầu sẽ không xinh đẹp nếu không có ai sánh đôi với. ‘em xinh em đứng một mình chẳng xinh’. Đây chính là mong muốn cháy bỏng của một người phụ nữ phóng khoáng, tự do.

Thời gian trôi qua, Thị mầu đã vượt qua giới hạn của mình và trở nên thô lỗ và thiếu tôn trọng, nói:’bỏ mô phật đi’. Bên trong ngôi chùa trang nghiêm, Mầu đã phớt lờ sự trang nghiêm và thốt ra những lời lẽ “phỉ báng” Phật giáo. Lúc này, Thị mầu không hề để ý đến lễ cúng mà chỉ tập trung tán tỉnh nhà sư.

‘Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!’

Hay:

‘Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài rau dệu tám thành bờ tre’

Chú tiểu không hiểu được tình cảm của Thị Mầu nên "để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng".

Không chỉ lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Mầu hát, trò chuyện và bày tỏ tình cảm của mình với Kính tâm. Đặc biệt, Mầu đã có một hành động rất dũng cảm. Nàng nhảy ra ngoài, cầm tay thay Kính tâm dọn dẹp tòa tháp. Trong thời phong kiến, hành động của Thị mầu là không thể chấp nhận được vì ‘nam nữ thụ thụ bất thân’. Hơn nữa, Kính tâm còn là một người sùng đạo, vượt xa những chuẩn mực, quy tắc.

Bằng cách này, tính cách, đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua lời nói và hành động. Nhân vật Thị Mầu có thể miêu tả là một người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại những giá trị đạo đức phong kiến. Với nhân vật này, các nhà văn dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn trinh tiết, chuẩn mực.

Trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’, Thị mầu là hiện thân của người phụ nữ phóng khoáng, mâu thuẫn với những tư tưởng, chuẩn mực đang thịnh hành của xã hội phong kiến. Ngoài nhân vật Thị kính, Thị mầu cũng là nhân tố góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Nguồn st
 
  • Like
Reactions: Văn Học
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
2K
0
3
Tham khảo
----

Vở chèo “Quan Âm Thị Kính” được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền chèo cổ truyền Việt Nam. Trong vở chèo này, nhân vật Thị Mầu nổi bật như một biểu tượng của sự lẳng lơ và phóng khoáng, đánh dấu sự khác biệt so với nhân vật Thị Kính, người có phẩm hạnh truyền thống và đạo đức nghiêm túc. Tính cách của Thị Mầu được thể hiện rõ qua đoạn trích “Thị Mầu lên chùa”.

Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông giàu có. Mặc dù có lẽ cô có tất cả những điều trên đời, nhưng sự khát khao của cô không dừng lại ở việc thể hiện lòng hiếu thảo đối với bố mẹ. Thị Mầu chuẩn bị tham gia lễ cúng tiến ở chùa vào ngày rằm, tuy nhiên, cô quyết định đến chùa sớm hơn hai ngày so với người khác. Lí do của cô là muốn thường xuyên gặp gỡ một người đặc biệt – Kính Tâm.

Trong lời nói của Thị Mầu, chúng ta có thể nhận thấy sự nghịch lý và mâu thuẫn trong tư duy của cô. Cô mong muốn một tháng có hai rằm để có nhiều cơ hội “thăm” Kính Tâm. Sự lặp lại của con số “mười ba”, “mười bốn”, “mười lăm” tương ứng với từng ngày lên chùa để thấy Kính Tâm thể hiện sự phóng khoáng và bản lĩnh của cô.

Thị Mầu cũng tỏ ra rất táo bạo trong việc ve vãn Kính Tâm, sử dụng lời nói và cử chỉ để tạo dấu ấn trong tâm hồn của chú tiểu. Cô liên tục nhấn mạnh về tình trạng độc thân của mình và không ngần ngại tỏ ra thích thú trước vẻ đẹp của Kính Tâm. Thậm chí, cô còn đánh giá cao nhan sắc của Kính Tâm và tự tin tỏ ra thán phục trước sự đẹp trai của chú tiểu. Thị Mầu không ngần ngại tỏ ra mê mệt và táo bạo, tạo nên một sự đối lập hoàn toàn so với những đặc điểm và đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến.

Thị Mầu, trong đoạn trích này, thể hiện sự quyết tâm và khát khao yêu đương bằng cách không quan tâm đến sự mất mát tài sản của gia đình, cho rằng “nhà tao còn ối trâu”. Điều này cho thấy rằng Mầu không để ý đến bất kỳ thứ gì ngoại trừ việc tán tỉnh sư thầy. Cô ngày càng trở nên táo bạo hơn trong việc tán tỉnh Kính Tâm.

Một trong những phép so sánh độc đáo trong đoạn trích này là “Thầy như táo rụng sân đình, em như gái rở, đi rình của chua”. Thành ngữ “gái rở thèm của chua” thường ám chỉ người phụ nữ mang thai thích ăn đồ chua và lạ. Thị Mầu dùng điều này để tạo ra sự khác biệt giữa mình và những người phụ nữ truyền thống, đồng thời thể hiện khao khát của cô về một tình yêu đặc biệt, bất chấp các quy tắc xã hội.

Tác giả dân gian đã sử dụng các lời phê phán từ những người xung quanh Thị Mầu, như “Mầu ơi, nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?” để tạo ra một sự đối lập với quan điểm và hành động của Thị Mầu. Tuy nhiên, Thị Mầu tự tin và không để ý đến những lời nói này, quả quyết rằng “Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!”

Mặc dù sử dụng nhiều lời ngọt ngào, nhưng Thị Mầu vẫn không thể khiến cho Kính Tâm đáp lại tình cảm của cô. Cô quyết định sử dụng lời hát để tán tỉnh chú tiểu, như “Ấy mấy thầy tiểu ơi! Song đứng trước cửa chùa, tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn […]” để tạo ra một không gian tình yêu thoải mái và tự do.

Thị Mầu trở nên ngày càng sỗ sàng, dùng ngôn ngữ không thích hợp trong môi trường trang nghiêm của chùa. Cô không quan tâm đến việc cúng tiến mà tập trung vào việc tán tỉnh Kính Tâm. Những bài hát tán tỉnh của cô đều tập trung vào việc thu hút sự chú ý của chú tiểu. Thị Mầu tỏ ra khao khát yêu đương mãnh liệt và đôi khi không kiểm soát được cảm xúc của mình, “Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!”.

Không chỉ bằng lời nói mà Thị Mầu còn thể hiện tính cách và đặc điểm riêng của mình thông qua hành động. Trong đoạn trích, chúng ta thấy rằng Thị Mầu không ngừng hát và nói để thể hiện tình cảm của mình đối với Kính Tâm. Tuy nhiên, điều đặc biệt và táo bạo hơn cả là hành động của Thị Mầu khi cô xông ra và nắm tay Kính Tâm, sau đó nhận việc quét chùa thay thế Tiểu Kính.

Hành động này của Thị Mầu không thể chấp nhận trong xã hội phong kiến nơi mà quy định “nam nữ thụ thụ bất thân”. Đặc biệt, Kính Tâm là người tu theo đạo Phật, điều này khiến hành động của Thị Mầu trở nên vi phạm chuẩn mực và khuôn phép.

Như vậy, tính cách và đặc điểm riêng của nhân vật Thị Mầu được thể hiện rõ qua cách cô ứng xử, bày tỏ tình cảm, và đặc biệt là thông qua hành động của mình. Thị Mầu là một biểu tượng của sự nổi loạn và phóng khoáng, đối diện với quan niệm đạo đức và chuẩn mực phong kiến. Tác giả dân gian sử dụng nhân vật này để phê phán và lên án những phụ nữ không tuân thủ các giới hạn và chuẩn mực về tiết hạnh và đạo đức trong xã hội. Thông qua Thị Mầu, đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” góp phần xây dựng nên một bức tranh phong cách và đầy màu sắc về những nhân vật trong vở chèo.

Nguồn: st
 
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
2K
0
3
Bài làm văn tham khảo
-----

Vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa” thực sự là một tác phẩm nghệ thuật nổi bật trong văn hóa dân gian Việt Nam. Đoạn trích này không chỉ thể hiện sự hài hước và biểu cảm xuất sắc mà còn mang trong mình nhiều ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống và giới tính.

Thị Mầu là một nhân vật đầy sức sống và cá tính. Cô dám đối mặt với những giới hạn và quy định xã hội của thời kỳ phong kiến để thể hiện bản thân mình. Hành động của Thị Mầu trong chùa thể hiện sự táo bạo và dám đối diện với trái tim mình, dù đó là một hành động mạo hiểm trong xã hội kín đáo và kỳ thị tình yêu.

Thị Mầu cũng là biểu tượng cho nỗi khát khao tình yêu và tự do trong cuộc sống của phụ nữ. Cô đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải đối diện với những giới hạn và quy định ngăn cản họ tìm kiếm hạnh phúc cá nhân và tình yêu chân thành. Thị Mầu hiện thực hóa sự khao khát yêu đương và tự do khỏi những bức tường của chuẩn mực đạo đức xã hội.

Tuy những hành động của Thị Mầu trong chùa có thể là điều không nên làm, nhưng chúng thể hiện sự mạo hiểm và quyết tâm trong việc theo đuổi tình yêu và tự do. Nhân vật Thị Mầu thể hiện một cách tinh tế sự đấu tranh của phụ nữ để thoát khỏi những quy định cản trở họ trong cuộc sống và tình yêu của riêng mình.

Nhân vật Thị Mầu trong vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa” thực sự là một tâm hồn đáng thương và đáng trách, mang trong mình nhiều yếu tố xót xa và đầy thông cảm. Thị Mầu là một con gái có xuất thân trong gia đình phú ông, một tầng lớp xã hội gia đình có tài sản và địa vị. Tuy nhiên, cuộc sống và số phận của cô lại đầy khó khăn và bế tắc, tương tự như nhiều người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến.

Trong đoạn trích, chúng ta thấy một Thị Mầu vô cùng cá tính và dũng cảm. Thị Mầu không sợ đối mặt với những quy định và giới hạn mà xã hội phong kiến đặt ra cho phụ nữ. Cô không ngần ngại trái với chuẩn mực và quy tắc đạo đức truyền thống để thể hiện bản thân và tìm kiếm hạnh phúc.

Thị Mầu là một biểu tượng của sự tự do và khát khao yêu đương của phụ nữ. Cô mở đầu cho một cuộc đấu tranh của phụ nữ để thoát khỏi những giới hạn và ràng buộc của xã hội phong kiến. Cô không bao giờ quan tâm đến tiếng nói trái chiều của người khác và luôn theo đuổi mục tiêu riêng của mình, đó là tình yêu và hạnh phúc.

Tuy nhiên, số phận và tình yêu của Thị Mầu lại bắt đầu vướng phải một rắc rối lớn khi người cô thương lại là một người đã xuất gia. Sự xuất hiện của Thị Mầu đã mang đến một phiên bản mới lạ cho cuộc sống và quan niệm về phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cô không chấp nhận tiếng nói của xã hội, và dám bước ra khỏi những giới hạn mà họ áp đặt. Điều này khiến cho Thị Mầu trở thành biểu tượng của sự độc lập và sáng tạo của phụ nữ, đồng thời thể hiện sự đấu tranh của họ trong việc tìm kiếm hạnh phúc và tự do trong tình yêu và cuộc sống.

Nguồn st
 
Viết trả lời...
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Mầu trong Thị Mầu lên chùa:

Phân tích nhân vật Thị Mầu:

Trong vở chèo hấp dẫn “Thị Mầu Lên Chùa,” có một nhân vật đặc biệt thu hút sự chú ý của khán giả, đó chính là Thị Mầu – một người phụ nữ đầy sức sống và phóng khoáng. Đoạn trích sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về nhân vật này và những tương tác thú vị xảy ra xung quanh cô.

– Xuất thân: Thị Mầu có một xuất thân đặc biệt, là con gái của một phú ông. Điều này cho thấy cô có một địa vị xã hội tương đối cao trong xã cộng đồng.
– Sự kiện: Câu chuyện diễn ra vào ngày rằm, một dịp quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Thị Mầu đã quyết định lên chùa cúng tiến như một phần của lễ kỷ niệm.
– Tính cách: Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ lẳng lơ, phóng khoáng và thích khám phá. Điều này thể hiện rõ qua những cử chỉ và hành động của cô.

+ Lời nói:

Thị Mầu thường sử dụng lời nói để tán tỉnh và ghẹo chú tiểu trong chùa. Cô đòi hỏi sự chú ý và tạo ra một không gian thoải mái để tán tỉnh.

Thị Mầu còn trêu ghẹo chú tiểu và thể hiện sự sỗ sàng qua cách nói chuyện của mình.

+ Hành động:

Thị Mầu không chỉ sử dụng lời nói mà còn thể hiện qua hành động. Cô hát và nói để tán tỉnh chú tiểu.

Đặc biệt, cô xông ra và nắm tay chú tiểu, bày tỏ tình cảm một cách rõ ràng với Kính Tâm.

Đánh giá nhân vật:

Nhân vật Thị Mầu không phải là một phụ nữ tuân theo quy tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phong kiến. Thay vào đó, cô là một người phụ nữ nổi loạn, thể hiện sự độc lập và phóng khoáng. Thông qua nhân vật này, tác giả dân gian muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh và chuẩn mực đạo đức.

Tính cách và đặc điểm của nhân vật Thị Mầu được khắc họa thông qua lời nói và hành động của cô. Thị Mầu không ngại thể hiện sự sỗ sàng và tạo ra những tình huống gây cười trong vở chèo.

Nhân vật Thị Mầu đóng góp vào sự hấp dẫn và sôi động của vở chèo “Thị Mầu Lên Chùa.” Cô thể hiện một tình cảm phóng khoáng và không ràng buộc bởi các quy tắc xã hội. Tuy có thể gây tiếng cười cho khán giả, nhưng Thị Mầu cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về sự độc lập và sự tự do trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Mầu là một phần quan trọng của vở chèo này, đem lại màu sắc và tính cách riêng biệt. Cô là một minh chứng cho sự đa dạng và phong phú của nhân văn trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, đồng thời thể hiện một góc nhìn đáng suy ngẫm về đạo đức và xã hội thời đó.
Thêm
2K
0
3
Vở chèo ‘Quan Âm Thị Kính’ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo ở Việt Nam cổ đại. Cùng với nhân vật Thị kính (đào thương), Thị mầu được xếp vào loại đào trong các vở chèo do tính chất phù phiếm, phóng khoáng. Tính cách này được thể hiện rõ nét trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’. Vở chèo đã khắc họa Thị Mầu bắt gặp say đắm và tìm cách tán tỉnh Kính Tâm trên đường đi chùa.

Nói đến xuất thân, Thị mầu là con gái của một phú ông giàu có. Nàng tự coi mình là một đứa con hiếu thảo vì luôn kính trọng cha mẹ. ‘thầy mẹ tôi tôn kính một lòng’. Khi ngày rằm đến gần, Thị Mầu “chuẩn bị tiền và gạo để mang lên chùa cúng tế”. Thay vì đi chùa vào ngày 15 như mọi người, Mầu đã đi chùa sớm hơn hai ngày.

‘Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.’

Qua lời nói của Thị mầu, người đọc có thể hiểu được những nghịch lý, mâu thuẫn. Cô nói: ‘tôi muốn cho một tháng đôi rắm/trước vào lễ Phật, ssau thăm vãi già’. Rõ ràng ý định của Mầu là vào chùa trước, và nghi thức tiếp theo là đi thăm vãi già. Tuy nhiên, Mầu chỉ tập trung vào việc gặp gỡ nhà sư. Con số 13 được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh ngày Thị mầu đi chùa cúng tiến. Các con số ‘13’, ‘14’ và ‘15’ tương ứng với hành động hàng ngày của Thị mầu là đến chùa để gặp ai đó. Vì vậy, Mầu mong rằng sẽ có nhiều cơ hội được “thăm” thầy sư vào dịp “rằm”. Như vậy, chúng ta có thể phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật thông qua lời mời và sự thừa nhận của Mầu.

Được viết bởi một tác giả dân gian với tính cách nổi loạn và phóng khoáng, Thị mầu đã cho độc giả thấy sự táo bạo của mình bằng cách chọc ghẹo các sư trẻ trong chùa. Mọi điều Mầu nói và làm đều nhằm mục đích ve vãn Kính tâm. Thị mầu nhìn thấy nhà sư trẻ và ngay lập tức yêu anh ta. Khi Kính tâm hỏi tên, Thị mầu trả lời ngay:

‘Tên em ấy à?
Là Thị Mầu con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!’

Thị Mầu luôn nhấn mạnh mình là phụ nữ chưa chồng ở độ tuổi 20. Mục đích của câu nói này là thể hiện sự khao khát tình yêu và kết đôi. Ngoài ra, Mầu còn dành nhiều lời khen cho vị sư trẻ này: “Người ở đâu mà đẹp như sao băng vậy?” và “Có ai đến chùa này/ Với chiếc cổ cao ba ngấn và lông mày ngang?” Một giọng ngạc nhiên hỏi: “Ai lại khen một chú tiểu như vậy, Mầu ơi!” Thị mầu không chút do dự trả lời: ‘Đẹp thì người ta khen chứ sao’

Mầu biết nhà mình mất bò nhưng phớt lờ, nói: ‘nhà còn ối trâu’. Mầu dường như không quan tâm đến điều gì khác mà chỉ tập trung tán tỉnh thầy sư trẻ tuổi. Theo thời gian, mức độ tán tỉnh của Thị Mầu càng tăng hơn.

‘Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua’

Đây là sự so sánh độc đáo bộc lộ khát vọng tình yêu cháy bỏng của Thị Mầu. Khi mùa xuân trôi qua, táo trong vườn chín rồi rụng. Do không được chăm sóc và để già nên táo thường có vị chua, chát. Gái rở là những bà bầu thích ăn đồ chua, lạ. Vì thế mới có câu:’gái rở thèm của chua’. Thị Mầu so sánh mình với một cô gái rở và thầy sư với một quả táo rơi trước chùa, nhấn mạnh những ham muốn vi phạm đạo lý thường tình.

Tác giả đã phê phán Thị Mầu, nên nói thêm: “Mầu, nhà có bao nhiêu chị em?/Có ai như mày không” Nhưng trước lời nói đó, Mầu vẫn nói: “Nhà có chín chị em, nhưng tao là người chín chắn’

Tuy nhiên, Mầu đã nói nhiều lời giỗ ngọt nhưng vẫn không thể khiến vị hòa thượng trẻ đáp lại. Mầu đã chọn lời bài hát trêu ghẹo.

‘”Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
[…] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!’

Những bài hát trêu chọc của Mầu mô tả khái niệm tình yêu tự do và thoải mái, vượt qua những rào cản và định kiến xã hội. Câu ‘Ấy mấy thầy tiểu ơi’ được lặp đi lặp lại, nhấn mạnh đến đối tượng mà Mầu hướng tới và cũng là câu mở đầu cho tâm sự và mong muốn của cô. Khái niệm hạnh phúc của Thị mầu rất đơn giản. Đối với Mầu, ý kiến của người thân không quan trọng bằng cảm xúc của chính mình. Mầu không quan tâm đến bất cứ điều gì, số phận sẽ đến. Trong lời hát, Thị mầu đã dùng các từ ‘Đôi ta’, ‘Quyết đợi chờ lấy nhau’ và ‘Có thiếp có chàng’ để bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính tâm. Mầu sẽ không xinh đẹp nếu không có ai sánh đôi với. ‘em xinh em đứng một mình chẳng xinh’. Đây chính là mong muốn cháy bỏng của một người phụ nữ phóng khoáng, tự do.

Thời gian trôi qua, Thị mầu đã vượt qua giới hạn của mình và trở nên thô lỗ và thiếu tôn trọng, nói:’bỏ mô phật đi’. Bên trong ngôi chùa trang nghiêm, Mầu đã phớt lờ sự trang nghiêm và thốt ra những lời lẽ “phỉ báng” Phật giáo. Lúc này, Thị mầu không hề để ý đến lễ cúng mà chỉ tập trung tán tỉnh nhà sư.

‘Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!’

Hay:

‘Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài rau dệu tám thành bờ tre’

Chú tiểu không hiểu được tình cảm của Thị Mầu nên "để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng".

Không chỉ lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Mầu hát, trò chuyện và bày tỏ tình cảm của mình với Kính tâm. Đặc biệt, Mầu đã có một hành động rất dũng cảm. Nàng nhảy ra ngoài, cầm tay thay Kính tâm dọn dẹp tòa tháp. Trong thời phong kiến, hành động của Thị mầu là không thể chấp nhận được vì ‘nam nữ thụ thụ bất thân’. Hơn nữa, Kính tâm còn là một người sùng đạo, vượt xa những chuẩn mực, quy tắc.

Bằng cách này, tính cách, đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua lời nói và hành động. Nhân vật Thị Mầu có thể miêu tả là một người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại những giá trị đạo đức phong kiến. Với nhân vật này, các nhà văn dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn trinh tiết, chuẩn mực.

Trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’, Thị mầu là hiện thân của người phụ nữ phóng khoáng, mâu thuẫn với những tư tưởng, chuẩn mực đang thịnh hành của xã hội phong kiến. Ngoài nhân vật Thị kính, Thị mầu cũng là nhân tố góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Nguồn st
 
  • Like
Reactions: Văn Học
Viết trả lời...
Ước mơ chính là những điều tốt đẹp mà chúng ta hằng mong ước nhưng lại chưa có được, là một động lực để ta nhận ra cần phải cố gắng và nỗ lực hết mình để chạm đến ước mơ. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ có ước mơ khác nhau và không một ai có thể định nghĩa chính xác và cụ thể được ước mơ của mình là gì. Vậy liệu bạn có hiểu rõ vai trò của ước mơ với tuổi trẻ?

ước mơ đối với tuổi trẻ.jpg

Vai trò của ước mơ đối với tuổi trẻ. Ảnh Pinterest.
Đề: : Viết đoạn văn 200 chữ bàn về vai trò của ước mơ với tuổi trẻ

Bài làm:

Một vĩ nhân từng nói: “Làm một tâm hồn mất mong ước chẳng khác nào trái đất mất đi bầu khí quyển” như một cách để khẳng định vai trò của ước mơ nhất là với tuổi trẻ. Mỗi người sẽ có ước mơ khác nhau nhưng đó chắc chắn là những khát khao tươi đẹp, là một tương lai tươi sáng mà con người mong muốn hướng đến. Cuộc đời còn nhiều những khó khăn, cạm bẫy dễ khiến chúng ta trở nên hoang mang, vô định. Khi ấy ước mơ là kim chỉ nam dẫn lối để con người tìm đến những điều đúng đắn và thực hiện khát vọng. Khi trong tâm trí ta luôn ấp ủ một ước mơ tức là ta đang thực sự sống, đang có mục đích của đời mình. Trước mắt ta không còn là khoảng trời mịt mù sương trắng mà là một đỉnh núi cao vời vợi Có ước mơ con người dường như được trẻ hóa, có thêm sức mạnh và động lực để đạt được những thành tựu và mong ước cho bản thân. Ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản ngại những trông gai, nghiệt ngã trên con đường của mình. Doanh nhân Tony Gask từng nói: “Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây ước mơ của họ”, quả thật người thành công luôn có những ước mơ cho riêng mình. Đó là ông chủ Walt Disney với khát khao xây dựng một hãng phim điện ảnh và đã làm được điều đó trong tương lai. Đó còn là ông chủ chuỗi cà phê Trung Nguyên ở nước ta ấp ủ ước mơ làm giàu từ hoàn cảnh nghèo khó. Hãy nhớ rằng “ước mơ không có ngày hết hạn”, tuy nhiên nó không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng hay chỉ biết mơ mộng mà không dám làm. Ai trên đời này cũng có ước mơ và hoài bão, điều ta cần làm là sống với những khát khao và hành động để hiện thực hóa những mong ước ấy. Nếu đã “không ai đánh thuế ước mơ” thì còn chần chờ gì mà ta không gieo cho tâm hồn một hạt giống mơ ước?
Thêm
14K
5
9
Hai đề tương ứng nhau

 
Viết trả lời...