I. Mở bài:
- Bằng Việt là một trong số những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam. « Bếp lửa » là một trong số những bài thơ hay nhất của ông.
- Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, cũng như đối với gia đình, quê hương, đất nước.
- Đặc biệt, những khổ thơ đầu đã giúp ta cảm nhận được hình ảnh bếp khơi nguồn cảm xúc, khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ của tác giả sống bên bà và bếp lửa.
(trích thơ)
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành Luật ở Liên Xô. Bài thơ viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây - Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
- Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.
2. Phân tích
a. Khổ thơ đầu tác giả miêu tả hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
- Điệp ngữ “một bếp lửa” lặp đi lặp lại hai lần như điệp khúc mở đầu bài thơ.
- “Bếp lửa” là hình ảnh bình dị, quen thuộc gắn bó với nông thôn Việt Nam. Loại bếp sử dụng rơm, rạ, củi để thổi cơm nấu nước phục vụ cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày.
- Từ láy “chờn vờn” diễn tả sự bập bùng, chập chờn của ngọn lửa.
- Từ “ấp iu” (ấp ủ và nâng niu) gợi lên đôi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn của người nhóm lửa đồng thời gợi tấm lòng chi chút của bà dành cho cháu.
- Từ hình ảnh bếp lửa tác giả đã liên tưởng đến người nhóm lửa một cách rất tự nhiên :
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
- Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” chỉ những gian lao vất vả của cuộc đời bà.
- Cách biểu cảm trực tiếp “cháu thương bà” đã diễn tả tình cảm nhớ thương, lo lắng của người cháu ở phương xa.
=> Ba câu thơ đầu của bài ngắn gọn, hàm súc đã nhấn mạnh ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc nhớ thương, biết ơn bà vô hạn. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí tác giả rất nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi lúc một rõ ràng và trở thành hình ảnh trung tâm trong các khổ thơ tiếp theo.
b. Trong dòng hồi tưởng, cháu nhớ lại những kí ức tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa.
* Trước hết là kỉ niệm về những năm gian khổ, thiếu thốn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy, Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
- Khổ thơ gợi lại cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái đói dai dẳng và mòn mỏi khắp chốn làng quê.
- Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” và cách diễn đạt bằng hình ảnh đầy ấn tượng “khô rạc ngựa gầy” vừa phản ánh chân thực cuộc sống đói khổ bao trùm các gia đình, làng quê VN.
- Nhưng ấn tượng nhất với cháu là mùi khói bếp:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
- “Khói hun nhèm mắt” là khói từ củi ướt cay xè, từ bếp lửa nhà nghèo. Chi tiết chân thực này vừa tái hiện được tuổi thơ nghèo khó vừa diễn tả được những xúc động, da diết của nhà thơ.
- “Còn cay” là còn nguyên nỗi xúc động. Cảm xúc hiện tại và kỉ niệm năm xưa đồng hiện, hoà lẫn vào nhau.
- Thời gian trôi đi nhưng nghĩ về kỉ niệm ấy cảm giác sống mũi vẫn còn cay vẫn tươi mới, vẹn nguyên như thuở nào.
- Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác giả.
* Hiện lên trong cánh đồng kí ức của nhân vật cháu là kỉ niệm tám năm sống cùng bà và âm thanh của tiếng chim tu hú.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
- Cụm từ “Tám năm ròng” đã diễn tả khoảng thời gian dài đằng đẵng.
- Giặc đói chưa qua thì giặc ngoại xâm tràn tới. Cha mẹ đi chiến đấu, chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau, nhóm lửa mỗi sớm, mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu da diết.
- Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Đây là âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành.
- Tiếng chim tu hú gợi ra cả một không gian trống vắng, khơi sâu thêm cái cảm giác quạnh vắng, cô đơn. Trên cái nền hoang tàn vì khói lửa chiến tranh, giữa cái âm thanh khắc khoải bồn chồn của tiếng chim tu hú, hai bà cháu nương tựa vào nhau để duy trì cuộc sống. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
- Hình ảnh bà – cháu sóng đôi được lặp lại nhiều lần cùng với nghệ thuật liệt kê các động từ bảo, dạy, chăm đã diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút của bà dành cho cháu, đồng thời thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà.
- Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù để bảo vệ quê hương Việt Nam.
- Giọng thơ thủ thỉ tâm tình giúp ta cảm nhận được tình yêu thương, sự ân cần mà bà đã dành cho cháu. Bà nuôi cháu lớn khôn, soi sáng trí tuệ và tâm hồn của cháu. Sống trong tình yêu thương, chở che của bà, cháu ơn bà biết bao, nên những dòng thơ cứ bật ra thật tự nhiên mà cảm động: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
- Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất cả tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
- Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu trên mỗi bước đường đời. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà.
- Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú và cũng là trách bản thân mình không chăm sóc bà lúc tuổi già, sức yếu.
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
- Câu hỏi tu từ một lời than thở thật tự nhiên và cảm động thể hiện nỗi nhớ thương bà da diết.
- Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.
* Kỉ niệm về những năm chiến tranh tàn phá
Tuổi thơ của cháu còn lớn lên trong cảnh hoang tàn đau thương, tan tác, trong khói lửa chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
- Động từ “cháy” được lặp lại hai lần, từ ghép “tàn rụi” được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp không gian ký ức.
- Trong từ láy “lầm lụi” hiện lên dáng hình của những con người chịu nhiều đau thương, mất mát. Câu thơ miêu tả cảnh làng quê Việt Nam hoang tàn, đổ nát dưới bom đạn kẻ thù.
- Ngôi nhà của hai bà cháu bị cháy hết, dưới sự giúp đỡ của bà con hàng xóm hai bà cháu dựng lại mái nhà tranh để sống qua ngày. Trong lúc ấy càng sáng lên phẩm chất của người bà:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh : “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
- Tác giả sử dụng dấu ngoặc kép để trích dẫn lời nói trực tiếp của bà.
- Từ láy “đinh ninh” nghĩa là dặn đi dặn lại, bà dặn cháu phải nắm chắc, nhớ kĩ : cháu có viết thư cho bố cứ bảo hai bà cháu ở nhà vẫn bình yên.
- Lời dặn của bà giản dị nhưng chất chứa biết bao tình cảm. Bà cố ý che giấu sự thật để các con không phải lo lắng mà có thể yên tâm công tác. Gian khổ, thiếu thốn và bao nỗi nhớ thương bà đều phải nén vào trong để làm yên lòng người nơi tiền tuyến. Bà lặng lẽ hi sinh cho con, cho cháu và cho đất nước. Có thể nói thắng lợi của cuộc kháng chiến không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Vì thế, hình ảnh bà trở thành biểu tượng của những người phụ nữ Việt Nam kiên cường, bất khuất, thương con, thương cháu, giàu đức hi sinh.
=>Những câu thơ không cầu kì, gọt giũa mà rất giản dị đến chân thành như lời nói của bà. Tấm lòng người bà ấy hiện lên mênh mông như biển cả, lặng sóng thôi nhưng bát ngát tình thương con thương cháu và sâu thẳm với một nghị lực phi thường.
* Chốt:
- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.
- Thành công của tác giả sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm, cảm xúc, phương thức tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm, giọng thơ thay đổi linh hoạt lúc thủ thỉ tâm tình, lúc suy tư trầm lắng. Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm cùng các biện pháp tu từ liệt kê, điệp ngữ…
- Qua những nghệ thuật ấy, nhà thơ đã diễn tả một cách cảm động những hồi tưởng kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà và bếp lửa. Đó là những kỉ niệm về tuổi thơ nghèo khó, cơ cực, vắng cha vắng mẹ gắn liền với sự kiện đau thương của lịch sử dân tộc. Nhưng quan trọng hơn cả là cháu được sưởi ấm bằng tình yêu thương của người bà. Tấm lòng chi chút của bà đã trở thành chỗ dựa vững chắc để cháu khôn lớn, trưởng thành.
III. Kết bài:
- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.
- Ta còn nhớ đến hình ảnh bếp lửa bình dị mà ấm áp, gắn bó với tuổi thơ của nhân vật cháu.
- Ta còn nhớ đến người bà – người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp cần cù, kiên nhẫn, thương con, thương cháu, giàu đức hi sinh.
- Đoạn thơ giúp ta thấm thía một triết lí: Những gì là gần gũi, thân thiết của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ ta trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình cảm gia đình chính là khởi nguồn của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
- Bằng Việt là một trong số những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam. « Bếp lửa » là một trong số những bài thơ hay nhất của ông.
- Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, cũng như đối với gia đình, quê hương, đất nước.
- Đặc biệt, những khổ thơ đầu đã giúp ta cảm nhận được hình ảnh bếp khơi nguồn cảm xúc, khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ của tác giả sống bên bà và bếp lửa.
(trích thơ)
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành Luật ở Liên Xô. Bài thơ viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây - Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
- Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.
2. Phân tích
a. Khổ thơ đầu tác giả miêu tả hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
- Điệp ngữ “một bếp lửa” lặp đi lặp lại hai lần như điệp khúc mở đầu bài thơ.
- “Bếp lửa” là hình ảnh bình dị, quen thuộc gắn bó với nông thôn Việt Nam. Loại bếp sử dụng rơm, rạ, củi để thổi cơm nấu nước phục vụ cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày.
- Từ láy “chờn vờn” diễn tả sự bập bùng, chập chờn của ngọn lửa.
- Từ “ấp iu” (ấp ủ và nâng niu) gợi lên đôi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn của người nhóm lửa đồng thời gợi tấm lòng chi chút của bà dành cho cháu.
- Từ hình ảnh bếp lửa tác giả đã liên tưởng đến người nhóm lửa một cách rất tự nhiên :
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
- Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” chỉ những gian lao vất vả của cuộc đời bà.
- Cách biểu cảm trực tiếp “cháu thương bà” đã diễn tả tình cảm nhớ thương, lo lắng của người cháu ở phương xa.
=> Ba câu thơ đầu của bài ngắn gọn, hàm súc đã nhấn mạnh ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc nhớ thương, biết ơn bà vô hạn. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí tác giả rất nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi lúc một rõ ràng và trở thành hình ảnh trung tâm trong các khổ thơ tiếp theo.
b. Trong dòng hồi tưởng, cháu nhớ lại những kí ức tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa.
* Trước hết là kỉ niệm về những năm gian khổ, thiếu thốn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy, Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
- Khổ thơ gợi lại cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái đói dai dẳng và mòn mỏi khắp chốn làng quê.
- Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” và cách diễn đạt bằng hình ảnh đầy ấn tượng “khô rạc ngựa gầy” vừa phản ánh chân thực cuộc sống đói khổ bao trùm các gia đình, làng quê VN.
- Nhưng ấn tượng nhất với cháu là mùi khói bếp:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
- “Khói hun nhèm mắt” là khói từ củi ướt cay xè, từ bếp lửa nhà nghèo. Chi tiết chân thực này vừa tái hiện được tuổi thơ nghèo khó vừa diễn tả được những xúc động, da diết của nhà thơ.
- “Còn cay” là còn nguyên nỗi xúc động. Cảm xúc hiện tại và kỉ niệm năm xưa đồng hiện, hoà lẫn vào nhau.
- Thời gian trôi đi nhưng nghĩ về kỉ niệm ấy cảm giác sống mũi vẫn còn cay vẫn tươi mới, vẹn nguyên như thuở nào.
- Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác giả.
* Hiện lên trong cánh đồng kí ức của nhân vật cháu là kỉ niệm tám năm sống cùng bà và âm thanh của tiếng chim tu hú.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
- Cụm từ “Tám năm ròng” đã diễn tả khoảng thời gian dài đằng đẵng.
- Giặc đói chưa qua thì giặc ngoại xâm tràn tới. Cha mẹ đi chiến đấu, chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau, nhóm lửa mỗi sớm, mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu da diết.
- Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Đây là âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành.
- Tiếng chim tu hú gợi ra cả một không gian trống vắng, khơi sâu thêm cái cảm giác quạnh vắng, cô đơn. Trên cái nền hoang tàn vì khói lửa chiến tranh, giữa cái âm thanh khắc khoải bồn chồn của tiếng chim tu hú, hai bà cháu nương tựa vào nhau để duy trì cuộc sống. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
- Hình ảnh bà – cháu sóng đôi được lặp lại nhiều lần cùng với nghệ thuật liệt kê các động từ bảo, dạy, chăm đã diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút của bà dành cho cháu, đồng thời thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà.
- Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù để bảo vệ quê hương Việt Nam.
- Giọng thơ thủ thỉ tâm tình giúp ta cảm nhận được tình yêu thương, sự ân cần mà bà đã dành cho cháu. Bà nuôi cháu lớn khôn, soi sáng trí tuệ và tâm hồn của cháu. Sống trong tình yêu thương, chở che của bà, cháu ơn bà biết bao, nên những dòng thơ cứ bật ra thật tự nhiên mà cảm động: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
- Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất cả tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
- Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu trên mỗi bước đường đời. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà.
- Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú và cũng là trách bản thân mình không chăm sóc bà lúc tuổi già, sức yếu.
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
- Câu hỏi tu từ một lời than thở thật tự nhiên và cảm động thể hiện nỗi nhớ thương bà da diết.
- Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.
* Kỉ niệm về những năm chiến tranh tàn phá
Tuổi thơ của cháu còn lớn lên trong cảnh hoang tàn đau thương, tan tác, trong khói lửa chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
- Động từ “cháy” được lặp lại hai lần, từ ghép “tàn rụi” được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp không gian ký ức.
- Trong từ láy “lầm lụi” hiện lên dáng hình của những con người chịu nhiều đau thương, mất mát. Câu thơ miêu tả cảnh làng quê Việt Nam hoang tàn, đổ nát dưới bom đạn kẻ thù.
- Ngôi nhà của hai bà cháu bị cháy hết, dưới sự giúp đỡ của bà con hàng xóm hai bà cháu dựng lại mái nhà tranh để sống qua ngày. Trong lúc ấy càng sáng lên phẩm chất của người bà:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh : “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
- Tác giả sử dụng dấu ngoặc kép để trích dẫn lời nói trực tiếp của bà.
- Từ láy “đinh ninh” nghĩa là dặn đi dặn lại, bà dặn cháu phải nắm chắc, nhớ kĩ : cháu có viết thư cho bố cứ bảo hai bà cháu ở nhà vẫn bình yên.
- Lời dặn của bà giản dị nhưng chất chứa biết bao tình cảm. Bà cố ý che giấu sự thật để các con không phải lo lắng mà có thể yên tâm công tác. Gian khổ, thiếu thốn và bao nỗi nhớ thương bà đều phải nén vào trong để làm yên lòng người nơi tiền tuyến. Bà lặng lẽ hi sinh cho con, cho cháu và cho đất nước. Có thể nói thắng lợi của cuộc kháng chiến không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Vì thế, hình ảnh bà trở thành biểu tượng của những người phụ nữ Việt Nam kiên cường, bất khuất, thương con, thương cháu, giàu đức hi sinh.
=>Những câu thơ không cầu kì, gọt giũa mà rất giản dị đến chân thành như lời nói của bà. Tấm lòng người bà ấy hiện lên mênh mông như biển cả, lặng sóng thôi nhưng bát ngát tình thương con thương cháu và sâu thẳm với một nghị lực phi thường.
* Chốt:
- Đoạn thơ không chỉ hay về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.
- Thành công của tác giả sử dụng thể thơ tự do dễ dàng bộc lộ tình cảm, cảm xúc, phương thức tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm, giọng thơ thay đổi linh hoạt lúc thủ thỉ tâm tình, lúc suy tư trầm lắng. Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh giàu sức gợi hình, biểu cảm cùng các biện pháp tu từ liệt kê, điệp ngữ…
- Qua những nghệ thuật ấy, nhà thơ đã diễn tả một cách cảm động những hồi tưởng kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà và bếp lửa. Đó là những kỉ niệm về tuổi thơ nghèo khó, cơ cực, vắng cha vắng mẹ gắn liền với sự kiện đau thương của lịch sử dân tộc. Nhưng quan trọng hơn cả là cháu được sưởi ấm bằng tình yêu thương của người bà. Tấm lòng chi chút của bà đã trở thành chỗ dựa vững chắc để cháu khôn lớn, trưởng thành.
III. Kết bài:
- Khép lại trang thơ mà dư âm của nó còn vang mãi trong lòng người đọc.
- Ta còn nhớ đến hình ảnh bếp lửa bình dị mà ấm áp, gắn bó với tuổi thơ của nhân vật cháu.
- Ta còn nhớ đến người bà – người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp cần cù, kiên nhẫn, thương con, thương cháu, giàu đức hi sinh.
- Đoạn thơ giúp ta thấm thía một triết lí: Những gì là gần gũi, thân thiết của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ ta trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình cảm gia đình chính là khởi nguồn của tình yêu quê hương, đất nước, con người.